MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Tuesday, February 19, 2013

Founding Father of the Quants Was Revolutionary Marxist Ông tổ của các CFA là một nhà cách mạng Marxist





One of the founders of quantitative finance had a curious early influence. Source: Library of Congress Prints and Photographs Division

Một trong những ông tổ của tài chính định lượng có sự ảnh hưởng ban đầu kì lạ. Nguồn: Thư viện Quốc hội (Mỹ), Phòng In ấn và Nhiếp ảnh.

Founding Father of the Quants Was Revolutionary Marxist

Ông tổ của các CFA là một nhà cách mạng Marxist
By Colin Read
Bloomberg
Jan 16, 2013

Colin Read
Bloomberg
Jan 16/1/2013

One of the more interesting ironies of history is that the man who laid the foundation for modern quantitative finance began his career as a Marxist revolutionary.

Một trong những nghịch lí thú vị của lịch sử là người đặt nền móng cho tài chính định lượng hiện đại bắt đầu sự nghiệp của mình như là một nhà cách mạng Marxist.

Jacob Marschak may not be a household name today, but he inspired a number of financial practitioners and thinkers, from Milton Friedman to Harry Markowitz, and his insights are now the backbone of trading strategies and computer algorithms worldwide.


Jacob Marschak có thể không là cái tên của mọi nhà ngày nay, nhưng ông đã truyền cảm hứng cho một số người hành nghề tài chính và các nhà tư tưởng, từ Milton Friedman đến Harry Markowitz, và những suy nghĩ sâu sắc của ông giờ đây là xương sống của các chiến lược kinh doanh và thuật toán máy tính trên toàn thế giới.

Marschak was born to a Jewish family in Kiev, Ukraine, in 1898. He played a part in the Russian Revolution as a teenager, working as a Menshevik activist. The liberation of Ukraine from the czar’s Russian Empire vaunted Marschak into the position of labor minister of the short-lived independent state of Terek.

Marschak được sinh ra trong một gia đình Do Thái ở Kiev, Ukraine năm 1898. Ông tham gia Cách mạng Nga khi còn là trẻ vị thành niên, làm việc như là một nhà hoạt động Menshevik. Khi Ukraine được giải phóng khỏi Đế chế Sa hoàng Nga, Marschak nắm chức Bộ trưởng Lao động của Nhà nước độc lập ngắn ngủi Terek.

Within months, the state was absorbed by another region and then subsumed into the Soviet Union. A disillusioned Marschak fled to Germany, where he received training in the Austrian School of free-market economics. He hoped to make a permanent home in Germany, but when the Nazis came to power, the Jewish- radical-turned-Marxist-turned-Austrian-School-economist wisely left the country, moving first to England and then to the U.S., where he joined the New School in New York as part of an anti- fascist University in Exile.

Trong vòng vài tháng, Nhà nước này bị sáp nhập bởi một vùng đất khác và sau đó bị gộp vào Liên bang Xô viết. Marschak bị vỡ mộng bỏ chạy tới Đức, ở đó, ông được đào tạo kinh tế học thị trường tự do trường phái Áo. Ông hi vọng có nhà thường trú ở Đức, nhưng sau đó Đức Quốc xã lên nắm quyền, người Do Thái cấp tiến chuyển thành nhà Marxist rồi chuyển thành nhà kinh tế trường phái Áo này đã khôn ngoan rời đất nước, di cư đến Anh sau đó đến Mỹ, nơi ông gia nhập New School ở New York như là một phần Trường đại học lưu vong chống phát xít.

The Quants

Marschak was but one of a tide of theoretical financiers and economists who flowed into the U.S. as the Nazis came to power in Germany. Some of them gravitated toward the University of Chicago, including Marschak, who became director of the Cowles Commission, an innovative research institute founded by Alfred Cowles III. While there, Marschak inspired a generation of financial theorists who would become known as the “quants.”

Những nhà phân tích định lượng

Marschak là một trong những người thuộc làn sóng các nhà tài chính và kinh tế học lý thuyết đến Mỹ khi Đức quốc xã lên nắm quyền ở Đức. Một vài trong số họ, đổ về Đại học Chicago, bao gồm cả Marschak, người trở thành Giám đốc Ủy ban Cowles, một viện nghiên cứu sáng tạo được thành lập bởi Alfred Cowles III. Ở đó, Marschak truyền cảm hứng cho một thế hệ những nhà lý thuyết tài chính, những người sau này được biết đến như là những nhà phân tích định lượng.

Before the rise of the quantitative approach, finance was more an art than a science. Practitioners relied on instinct and experience, and theoreticians used rudimentary tools based on expected discounted net income to price securities. Yet there was a recognition that these approaches didn’t properly price uncertainty. And there was an appreciation that one shouldn’t put all eggs in a single basket.

Trước sự nổi lên của phương pháp định lượng, tài chính trở thành một nghệ thuật hơn là khoa học. Những người hành nghề dựa trên bản năng và kinh nghiệm, và các nhà lý luận sử dụng những công cụ thô sơ dựa trên thu nhập thuần chiết khấu kỳ vọng để định giá chứng khoán. Tuy nhiên, có một sự thừa nhận rằng các phương pháp này đã không định giá chính xác sự bất định. Và có sự đánh giá rằng một người không nên đặt tất cả trứng vào một giỏ.

In 1935, the British economist John Hicks (subsequently a Nobel Prize winner) noted that a prudent investor ought to place some assets in risky enterprises and the remainder in safer investments. Doing so could calibrate a portfolio to better match the investor’s tolerance of risk.

Năm 1935, nhà kinh tế học người Anh, John Hicks (sau này được giải Nobel) lưu ý rằng một nhà đầu tư thận trọng nên đặt một số tài sản vào những doanh nghiệp rủi ro và phần còn lại vào các khoản đầu tư an toàn. Làm như vậy có thể xác định một danh mục đầu tư thích hợp tốt hơn đối với mức độ chịu rủi ro của nhà đầu tư.

This observation was intuitively helpful, but it lacked theoretical guidance. Before an investor can hedge risk, a measure of risk must be created.


Sự quan sát này có ích một cách trực giác, nhưng thiếu hướng dẫn lý thuyết. Trước khi một nhà đầu tư có thể tự bảo hiểm rủi ro, một đo lường rủi ro phải được tính toán.

Marschak proposed a way to do so in his 1938 paper “Money and the Theory of Assets.” He observed that investors, by their nature, anticipate future production and prices. Yet while they try to assess the expected mean of future prices, they must also assess the probability of a range of possible future values and how they may be interrelated.

Marschak đề xuất một phương pháp để làm được điều này trong nghiên cứu năm 1938 'Tiền tệ và Lý thuyết Tài sản' . Ông quan sát thấy các nhà đầu tư, về bản chất, dự đoán sản xuất và giá cả tương lai. Tuy nhiên, khi họ cố gắng định giá trung bình kỳ vọng giá cả tương lai, họ cũng phải tính toán xác suất một khoảng giá trị tương lai có thể có và chúng có thể liên quan đến nhau như thế nào.

Marschak proposed that such expectations could be defined by two parameters: the mean and the coefficient of variation. He deemed the latter to be a measure of risk, which we continue to use today.

Marschak đề xuất rằng những kỳ vọng như vậy có thể được xác định bởi hai thông số (parameter): trung bình và hệ số biến đổi (coefficient of variation). Ông coi thông số sau là đo lường rủi ro, mà chúng ta vẫn còn dùng cho tới ngày nay.

Physicists had for a century used this same methodology to describe means and probabilities. They had developed a way to calculate a mean (or expected) value based on the probabilities of the various possible future outcomes. This was called the first-moment calculation. They also developed a measure of variability by weighting the probability of the square of various outcomes compared with the mean. This second moment is our now-familiar calculation of variance.

Từ một thế kỷ trước, các nhà vật lý đã sử dụng phương pháp luận tương tự để mô tả trung bình và xác suất. Họ đã phát triển một cách để tính toán giá trị trung bình (hay kỳ vọng) dựa trên các xác suất của kết quả tương lai có thể khác nhau. Phương pháp này gọi là tính toán moment đầu tiên (first-moment). Họ cũng phát triển cách đo lường sự biến thiên bằng cách gia quyền (weighting) xác suất bình phương của các độ lệch khác nhau so với giá trị trung bình. Tính toán moment thứ hai này là cách tính phương sai (variance) phổ biến ngày nay.

An Insight

Marschak reasoned that this same mean-variance technique could be applied to asset prices. But he took this natural extension still further: He recognized that there may be a statistical relationship between how one asset varies relative to another. This covariance would eventually act as the basis for the insight of one of Marschak’s best-known students, Harry Markowitz.

Sự hiểu biết thấu đáo

Marschak lý luận rằng chính kỹ thuật trung bình - phương sai này có thể áp dụng cho giá cả tài sản. Nhưng ông đã phát triển ứng dụng tự nhiên này hơn nữa: Ông thừa nhận rằng có mối liên hệ thống kê giữa tài sản này biến đổi so với tài sản khác. Tính hiệp biến này cuối cùng là một yếu tố cơ bản trong sự hiểu biết thấu đáo (insight) của Harry Markowitz, một trong những sinh viên nổi tiếng nhất của Marschak.

Markowitz had been intrigued with the Great Depression-era research of John Burr Williams, who developed the first systematic theory of discounted corporate cash flows. Under Marschak’s guidance, Markowitz realized that although the mean present value of future cash flows is important, so are their variances.


Markowitz từ lâu đã bị hấp dẫn bởi nghiên cứu thời Đại khủng hoảng của John Burr Williams, người đầu tiên phát triển lý thuyết dòng tiền chiết khấu của doanh nghiệp một cách có hệ thống. Dưới sự hướng dẫn của Marschak, Markowitz nhận ra rằng mặc dù giá trị hiện tại trung bình của dòng tiền tương lai là quan trọng, các phương sai của chúng cũng vậy.

This mentor-mentee collaboration soon resulted in Markowitz’s thesis and seminal 1952 paper on modern portfolio theory in the Journal of Finance, titled “Portfolio Selection.” From that point, modern finance theory was born.

Sự hợp tác giữa hai người nhanh chóng cho ra kết quả là luận văn và nghiên cứu năm 1952 của Markowitz về lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại trong Tạp chí Tài chính (Journal of Finance) với tiêu đề 'Lựa chọn danh mục đầu tư' (Portfolio Selection). Kể từ thời điểm đó, lý thuyết tài chính hiện đại đã được ra đời.

Marschak’s paper on money and the theory of assets -- and his other work on market rationality published while he was inspiring the thesis for a young Markowitz -- isn’t well-read among financial theorists or professionals today. However, a reader would easily recognize his analyses. The two-parameter mean-variance approach is now baked into every financial calculator, and into formulas ranging from Markowitz’s market- security line to William Sharpe’s capital-asset pricing model to the Black-Scholes-Merton option-pricing formula. Each of these fundamental formulas in finance assumes that the reward-risk trade-off can be described by only two parameters, just as Marschak proposed in 1938. Marschak’s academic descendants were later awarded Nobel Prizes for work that would have been impossible without him.

Nghiên cứu về tiền tệ và lý thuyết tài sản của Marschak - và các công trình nghiên cứu khác của ông về sự hợp lý của thị trường (market rationality) khi ông truyền cảm hứng cho luận văn của chàng sinh viên trẻ tuổi Markowitz - ngày nay không được đọc nhiều bởi các nhà lý thuyết tài chính hay các chuyên gia. Tuy nhiên, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra các phân tích của ông. Phương pháp trung bình - phương sai hai thông số ngày nay được gắn (baked into) sẵn vào tất cả các máy tính tài chính, và trong các công thức từ đường chứng khoán - thị trường (market- security line) Markowitz đến mô hình định giá tài sản - vốn (capital-asset pricing model) của William Sharpe tới công thức định giá giá trị hợp đồng quyền chọn (option-pricing formula) Black-Scholes-Merton. Mỗi một công thức cơ bản này trong tài chính giả định sự đánh đổi giữa rủi ro - tiền thưởng (reward-risk trade-off) có thể được mô tả chỉ bởi hai thông số, như Marschak đã đề xuất vào năm 1938. Các hậu duệ học thuật của Marschak sau đó được giải Nobel cho những công trình nghiên cứu mà đã có thể không hoàn thành được nếu không có ông.

Marschak, the onetime radical, did indeed end up launching a revolution -- just not the one that Karl Marx had in mind.

Marschak, nhà cấp tiến một thời, cuối cùng đã dấy lên một cuộc cách mạng - nhưng không phải là cuộc cách mạng theo như Karl Marx nghĩ.

(Colin Read is chairman of the finance department at the State University of New York, Plattsburgh. He is the author of the “Great Minds in Finance” series and other finance titles published by Palgrave MacMillan. The opinions expressed are his own.)
(Colin Read là Trưởng khoa tài chính của Trường đại học bang New York, Plattsburgh. Ông là tác giả cuốn sách 'Những bộ óc vĩ đại trong ngành tài chính' - "Great Minds in Finance" và các bài về tài chính khác được xuất bản bởi Palgrave MacMillan.)


Translated by Sơn Phạm



http://www.bloomberg.com/news/2013-01-16/founding-father-of-the-quants-was-revolutionary-marxist-echoes.html

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn