ШУТОЧКА
Антон Чехов
|
Một chuyện đùa nho
nhỏ
Anton Chekhov
|
A Little Joke
By Anton Chekhov
|
Ясный, зимний полдень... Мороз крепок, трещит, и у
Наденьки, которая держит меня под руку, покрываются серебристым инеем кудри
на висках и пушок над верхней губой. Мы стоим на высокой горе. От наших ног
до самой земли тянется покатая плоскость, в которую солнце глядится, как в
зеркало. Возле нас маленькие санки, обитые ярко-красным сукном.
|
Một buổi trưa mùa đông trong sáng… Trời giá lạnh, rét
cóng. Nađia khoác tay tôi. Những hạt bụi tuyết nhỏ trắng xóa bám lên mấy món
tóc xoắn vòng rủ hai bên thái dương nàng, lên hàng lông tơ mịn phía bên trên
môi. Nàng và tôi đứng trên một ngọn đồi cao. Từ chỗ chúng tôi đứng, sườn đồi
đổ dài thoai thoải xuống lấp loáng dưới ánh nắng, như một tấm gương. Bên cạnh
chúng tôi là một chiếc xe trượt tuyết nhỏ bọc một lớp dạ màu đỏ tươi.
|
IT was noon of a bright winter's day. The air was crisp
with frost, and Nadia, who was walking beside me, found her curls and the
delicate down on her upper lip silvered with her own breath. We stood at the
summit of a high hill. The ground fell away at our feet in a steep incline
which reflected the sun s rays like a mirror. Near us lay a little sled
brightly upholstered with red.
|
— Съедемте вниз, Надежда Петровна! — умоляю я. — Один
только раз! Уверяю вас, мы останемся целы и невредимы.
|
– Chúng ta cùng trượt xuống dưới đi, Nađia! – tôi van nài
nàng. – Một lần thôi! Tôi cam đoan với cô là chúng ta sẽ chẳng hề gì đâu.
|
"Let us coast down, Nadia!" I begged. "Just
once! I promise you nothing will happen."
|
Но Наденька боится. Всё пространство от ее маленьких калош
до конца ледяной горы кажется ей страшной, неизмеримо глубокой пропастью. У
нее замирает дух и прерывается дыхание, когда она глядит вниз, когда я только
предлагаю сесть в санки, но что же будет, если она рискнет полететь в
пропасть! Она умрет, сойдет с ума.
|
Nhưng Nađia sợ. Cả khoảng không gian từ đôi giày cao su
nhỏ nhắn của nàng đến chân quả đồi phủ băng này đối với nàng thật ghê sợ,
tưởng như là một vực sâu vô tận. Đứng đây, nàng chỉ mới đưa mắt nhìn xuống
dưới, hay tôi chỉ mới gợi ý bảo nàng ngồi vào xe trượt tuyết là nàng đã sợ
hết hồn, không thở được nữa, huống hồ nếu nàng liều mạng lao xuống cái vực
sâu kia thì không biết rồi ra sao? Nàng sẽ chết mất, sẽ phát điên mất.
|
But Nadia was timid. The long slope, from where her little
overshoes were planted to the foot of the ice-clad hill, looked to her like
the wall of a terrible, yawning chasm. Her heart stopped beating, and she
held her breath as she gazed into that abyss while I urged her to take her
seat on the sled. What might not happen were she to risk a flight over that
precipice! She would die, she would go mad!
|
— Умоляю вас! — говорю я. — Не надо бояться! Поймите же,
это малодушие, трусость!
|
– Ta trượt đi cô! – Tôi cố nài. – Việc gì mà sợ! Cô phải
biết sợ thế là nhát gan, xoàng lắm cô ạ!
|
"Come, I implore you!" I urged her again.
"Don't be afraid! It is cowardly to fear, to be timid."
|
Наденька наконец уступает, и я по лицу вижу, что она
уступает с опасностью для жизни. Я сажаю ее, бледную, дрожащую, в санки,
обхватываю рукой и вместе с нею низвергаюсь в бездну.
|
Cuối cùng, Nađia cũng ưng thuận, nhưng qua nét mặt nàng,
tôi biết rằng nàng liều mạng mà nghe lời tôi. Tôi đỡ nàng ngồi vào xe trượt;
nàng run rẩy, gương mặt nàng tái nhợt. Tôi vòng tay qua giữ lấy Nađia và cùng
nhau lao xuống.
|
At last Nadia consented to go, but I could see from her
face that she did so, she thought, at the peril of her life. I seated her,
all pale and trembling, in the little sled, put my arm around her, and
together we plunged into the abyss.
|
Санки летят как пуля. Рассекаемый воздух бьет в лицо,
ревет, свистит в ушах, рвет, больно щиплет от злости, хочет сорвать с плеч
голову. От напора ветра нет сил дышать. Кажется, сам дьявол обхватил нас
лапами и с ревом тащит в ад. Окружающие предметы сливаются в одну длинную,
стремительно бегущую полосу... Вот-вот еще мгновение, и кажется — мы погибнем!
|
Chiếc xe lao đi vun vút như một viên đạn. Làn không khí bị
xé ra quật vào mặt, gào rít bên tai dữ tợn đâm vào da buốt nhói, gió như muốn
giật phăng đầu ra khỏi vai. Gió ép mạnh, đến nghẹt thở. Tưởng chừng như có
một con quỷ nào đang giơ tay nắm lấy chúng tôi và vừa rú lên vừa kéo xuống
địa ngục. Mọi vật chung quanh nhập lại thành một vệt dài vun vút lao về phía
sau… Chỉ một giây lát nữa thôi có lẽ chúng tôi sẽ không còn!
|
The sled flew like a shot out of a gun. The riven wind
lashed our faces; it howled and whistled in our ears, and plucked furiously
at us, trying to wrench our heads from our shoulders; its pressure stifled
us; we felt as if the devil himself had seized us in his talons, and were
snatching us with a shriek down into the infernal regions. The objects on
either hand melted into a long and madly flying streak. Another second, and
it seemed we must be lost!
|
— Я люблю вас, Надя! — говорю я вполголоса.
|
– Nađia, anh yêu em!
– tôi thì thào nói.
|
"I love you,
Nadia!" I whispered.
|
Санки начинают бежать всё тише и тише, рев ветра и
жужжанье полозьев не так уже страшны, дыхание перестает замирать, и мы
наконец внизу. Наденька ни жива ни мертва. Она бледна, едва дышит... Я
помогаю ей подняться.
|
Chiếc xe trượt dần dần chạy chậm lại, tiếng gió gào và
tiếng càng trượt xe rít lúc này đã không còn đáng ghê sợ, ngực đã thấy dễ
thở, và thế là chúng tôi đã xuống đến chân đồi. Nađia sợ tưởng chết đi được,
gương mặt tái nhợt, nàng thở không ra hơi… Tôi đỡ nàng đứng dậy.
|
And now the sled began to slacken its pace, the howling of
the wind and the swish of the runners sounded less terrible, we breathed
again, and found ourselves at the foot of the mountain at last. Nadia, more
dead than alive, was breathless and pale. I helped her to her feet.
|
— Ни за что в другой раз не поеду, — говорит она, глядя на
меня широкими, полными ужаса глазами. — Ни за что на свете! Я едва не умерла!
|
– Các vàng tôi cũng không trượt lần nữa đâu! – nàng nói và
đưa đôi mắt mở to đầy sợ hãi, nhìn tôi. – Các vàng tôi cũng chịu! Chỉ thiếu
chút nữa là tôi chết!
|
"Not for anything in the world would I do that
again!" she said, gazing at me with wide, terror-stricken eyes.
"Not for anything on earth. I nearly died!"
|
Немного погодя она приходит в себя и уже вопросительно
заглядывает мне в глаза: я ли сказал те четыре слова, или же они только
послышались ей в шуме вихря? А я стою возле нее, курю и внимательно рассматриваю
свою перчатку.
|
Một lát sau, nàng dần dần hết sợ và đã bắt đầu nhìn vào
mắt tôi với vẻ dò xét: có phải tôi đã nói bốn tiếng ấy, hay chỉ là trong
tiếng gió gào rít nàng nghe thấy như vậy? Còn tôi, tôi đứng bên cạnh nàng,
lấy thuốc lá ra hút và chăm chú nhìn chiếc găng tay của mình.
|
In a few minutes, however, she was herself again, and
already her inquiring eyes were asking the question of mine:
"Had I really uttered those four words, or had she
only fancied she heard them in the tumult of the wind?"
I stood beside her smoking a cigarette and looking
attentively at my glove.
|
Она берет меня под руку, и мы долго гуляем около горы.
Загадка, видимо, не дает ей покою. Были сказаны те слова или нет? Да или нет?
Да или нет? Это вопрос самолюбия, чести, жизни, счастья, вопрос очень важный,
самый важный на свете. Наденька нетерпеливо, грустно, проникающим взором
заглядывает мне в лицо, отвечает невпопад, ждет, не заговорю ли я. О, какая
игра на этом милом лице, какая игра! Я вижу, она борется с собой, ей нужно
что-то сказать, о чем-то спросить, но она не находит слов, ей неловко,
страшно, мешает радость...
— Знаете что? — говорит она, не глядя на меня.
— Что? — спрашиваю я.
— Давайте еще раз... прокатим.
|
Nàng khoác tay tôi và chúng tôi cùng nhau dạo chơi hồi lâu
bên đồi tuyết. Hình như điều bí ẩn làm nàng thấy trong lòng băn khoăn. Có
phải anh nói ra những lời đó không? Có những lời đó hay không? Có hay không?
Đó là một câu hỏi của lòng tự trọng, của danh dự, của cuộc đời và niềm hạnh
phúc – một câu hỏi rất hệ trọng, hệ trọng nhất trên đời này. Nađia đăm đăm
nhìn tôi bằng cặp mắt buồn rầu nôn nóng bồn chồn. Nàng chậm rãi do dự trả lời
những câu hỏi của tôi như chờ mong tôi sẽ tự nói ra cái điều bí ẩn ấy. Ôi,
khuôn mặt nàng lúc ấy đáng yêu biết bao, ý nhị biết bao! Tôi thấy rõ nàng
đang tự day dứt với mình, nàng cần nói một điều gì, cần hỏi một điều gì,
nhưng nàng không tìm được lời, nàng cảm thấy rụt rè kinh sợ, một niềm vui nào
đang ngăn trở nàng nói…
– Này anh… – Nàng nói, mắt không nhìn tôi.
– Gì vậy? – tôi hỏi.
– Chúng ta cùng nhau… lao dốc lần nữa đi.
|
She took my arm and we strolled about for a long time at
the foot of the hill. It was obvious that the riddle gave her no peace. Had I
spoken those words or not? It was for her a question of pride, of honour, of
happiness, of life itself, a very important question, the most important one
in the whole world. Nadia looked at me now impatiently, now sorrowfully, now
searchingly; she answered my questions at random and waited for me to speak.
Oh, what a pretty play of expression flitted across her sweet face! I saw
that she was struggling with herself; she longed to say something, to ask
some question, but the words would not come; she was terrified and
embarrassed and happy.
"Let me tell you something," she said, without
looking at me.
"What?" I asked.
"Let us--let us slide down the hill again!"
|
Мы взбираемся по лестнице на гору. Опять я сажаю бледную,
дрожащую Наденьку в санки, опять мы летим в страшную пропасть, опять ревет
ветер и жужжат полозья, и опять при самом сильном и шумном разлете санок я
говорю вполголоса.
— Я люблю вас,
Наденька!
|
Chúng tôi lần theo những bậc thang trở lên đồi. Tôi lại đỡ
Nađia lên xe, mặt nàng tái nhợt, và toàn thân run run. Chúng tôi lại lao xe
về phía vực thẳm khủng khiếp và, gió lại gào, tiếng xe lại rít lên. Và cũng
đúng vào lúc chiếc xe lao nhanh nhất, tiếng gió gào rít ghê gớm nhất, tôi lại
nói:
– Nađia, anh yêu em!
|
We mounted the steps that led to the top of the hill. Once
more I seated Nadia, pale and trembling, in the little sled, once more we
plunged into that terrible abyss; once more the wind howled, and the runners
hissed, and once more, at the wildest and most tumultuous moment of our
descent, I whispered:
"I love you,
Nadia!"
|
Когда санки останавливаются, Наденька окидывает взглядом
гору, по которой мы только что катили, потом долго всматривается в мое лицо,
вслушивается в мой голос, равнодушный и бесстрастный, и вся, вся, даже муфта
и башлык ее, вся ее фигурка выражают крайнее недоумение. И на лице у нее
написано:
|
Khi xe trượt dừng lại, Nađia vội đưa mắt nhìn
quanh quả đồi mà chúng tôi vừa trượt xuống, rồi nhìn đăm đăm vào mặt tôi,
lắng nghe giọng nói thờ ơ lãnh đạm của tôi và toàn thân nàng, từ mũ, từ
găng tay và cả từ
dáng người nàng nữa,
đều toát lên một cái gì đấy hồ nghi khó hiểu. Trên gương mặt nàng như hiện
lên các câu hỏi:
|
When the sleigh had come to a standstill, Nadia threw a
backward look at the hill down which we had just sped, and then gazed for a
long time into my face, listening to the calm, even tones of my voice. Every
inch of her, even her muff and her hood, every line of her little frame
expressed the utmost uncertainty. On her face was written the question:
|
«В чем же дело? Кто произнес те слова? Он, или мне только
послышалось?»
Эта неизвестность беспокоит ее, выводит из терпения.
Бедная девочка не отвечает на вопросы, хмурится, готова заплакать.
— Не пойти ли нам домой? — спрашиваю я.
— А мне... мне нравится это катанье, — говорит она,
краснея. — Не проехаться ли нам еще раз?
|
“Điều gì đã xảy ra? Ai nói những lời ấy? Anh ấy hay là chỉ
do ta nghe thấy thế thôi?”
Điều bí ẩn ấy làm nàng không yên lòng chút nào, nàng không
chịu được nữa. Cô bé đáng thương ấy không trả lời nổi những câu hỏi, nét mặt
rầu rĩ như muốn khóc.
– Chúng ta về nhà thôi nhé? – tôi hỏi.
– Không, không… em thích… trượt xe thế này, – nàng
nói, mặt ửng đỏ lên. – Hay là chúng ta cùng nhau trượt lần nữa đi?
|
“What can it have been? Who spoke
those words? Was it he, or was it only my fancy?"
The uncertainty of it was troubling her, and her patience
was becoming exhausted. The poor girl had stopped answering my questions, she
was pouting and ready to cry.
"Had we not better go home?" I asked.
"I--I love coasting!" she answered with a blush.
"Shall we not slide down once more?"
|
Ей «нравится» это катанье, а между тем, садясь в санки,
она, как и в те разы, бледна, еле дышит от страха, дрожит.
Мы спускаемся в третий раз, и я вижу, как она смотрит мне
в лицо, следит за моими губами. Но я прикладываю к губам платок, кашляю и,
когда достигаем середины горы, успеваю вымолвить:
— Я люблю вас,
Надя!
|
Nađia nói rằng nàng “thích” cái trò trượt này, thế mà khi
ngồi lên xe, nàng vẫn run, gương mặt nàng vẫn tái nhợt, hơi thở vẫn ngắt
quãng vì sợ hãi như những lần trước.
Lần thứ ba chúng tôi trượt xuống. Tôi thấy nàng nhìn
thẳng lên mặt tôi,
theo dõi đôi môi tôi. Nhưng tôi lấy chiếc khăn tay che miệng đi rồi khẽ đằng
hắng lên mấy tiếng, và khi xe lao xuống lưng chừng đồi, tôi còn kịp nói:
– Nađia, anh yêu
em!
|
She "loved" coasting, and yet, as she took her
seat on the sled, she was as trembling and pale as before and scarcely could
breathe for terror!
We coasted down for the third time and I saw her watching
my face and following the movements of my lips with her eyes. But I put my
handkerchief to my mouth and coughed, and when we were half-way down I
managed to say:
"I love you,
Nadia!"
|
И загадка остается загадкой! Наденька молчит, о чем-то
думает... Я провожаю ее с катка домой, она старается идти тише, замедляет
шаги и всё ждет, не скажу ли я ей тех слов. И я вижу, как страдает ее душа,
как она делает усилия над собой, чтобы не сказать:
— Не может же быть, чтоб их говорил ветер! И я не хочу,
чтобы это говорил ветер!
|
Điều bí ẩn vẫn là bí ẩn! Nađia im lặng, nàng đang nghĩ
ngợi điều gì… Tôi tiễn nàng từ sân trượt về nhà. Nàng cố đi chậm lại, chờ xem
tôi có nói với nàng những lời ấy không. Tôi cảm thấy tâm hồn nàng đang đau
khổ, nàng đang cố dằn lòng để khỏi phải thốt lên:
– Không, gió không thể nói được những lời ấy! Mà em cũng không muốn tin rằng gió đã
nói những lời ấy!
|
So the riddle remained unsolved! Nadia was left pensive
and silent. I escorted her home, and as she walked she shortened her steps
and tried to go slowly, waiting for me to say those words. I was aware of the
struggle going on in her breast, and of how she was forcing herself not to
exclaim:
"The wind could not have said those words! I don't
want to think that it said them!"
|
На другой день утром я получаю записочку: «Если пойдете
сегодня на каток, то заходите за мной. Н.» И с этого дня я с Наденькой
начинаю каждый день ходить на каток и, слетая вниз на санках, я всякий раз
произношу вполголоса одни и те же слова:
— Я люблю вас,
Надя!
|
Sáng hôm sau, tôi nhận được một mảnh giấy của nàng: “Nếu
hôm nay anh có đi trượt tuyết, đến rủ em cùng đi nhé! Nađia”. Từ hôm đó,
ngày nào tôi và Nađia cũng lên đồi và mỗi lần lao xe từ trên đồi xuống, tôi
lại thì thào nhắc lại những lời đó:
– Nađia, anh yêu
em!
|
Next day I received the following note: "If you are going coasting,
to-day, call for me. N." Thenceforth Nadia and I went coasting every
day, and each time that we sped down the hill on our little sled I whispered
the words:
"I love you,
Nadia!"
|
Скоро Наденька привыкает к этой фразе, как к вину или
морфию. Она жить без нее не может. Правда, лететь с горы по-прежнему страшно,
но теперь уже страх и опасность придают особое очарование словам о любви,
словам, которые по-прежнему составляют загадку и томят душу. Подозреваются
всё те же двое: я и ветер... Кто из двух признается ей в любви, она не знает,
но ей, по-видимому, уже всё равно; из какого сосуда ни пить — всё равно, лишь
бы быть пьяным.
|
Chẳng bao lâu sau, Nađia quen nghe những lời ấy như quen men
rượu, hay nghiện
moócphin. Nàng không
thể sống thiếu những lời đó nữa. Thực ra, lao xe từ trên đồi xuống vẫn đáng
sợ như xưa, nhưng giờ đây chính cái nguy hiểm, cái kinh sợ đó lại đem đến một
cái gì đặc biệt đắm say cho những lời yêu đương ấy, những lời vẫn bí ẩn và
dằn vặt lòng người như trước… Kẻ bị nghi ngờ vẫn là gió và tôi… Ai, gió hay
là tôi, đã thổ lộ với nàng những lời yêu đương ấy, nàng không biết được;
nhưng hình như nàng không để ý đến điều đó nữa bởi vì tục ngữ nói uống rượu
từ bình nào, có gì đáng bận tâm đâu, chỉ cốt sao say được thôi.
|
Nadia soon grew to crave this phrase as some people crave
morphine or wine. She could no longer live without hearing it! Though to fly
down the hill was as terrible to her as ever, danger and fear lent a strange
fascination to those words of love, words which remained a riddle to torture
her heart. Both the wind and I were suspected; which of us two was confessing
our love for her now seemed not to matter; let the draught but be hers, and
she cared not for the goblet that held it!
|
Как-то в полдень я отправился на каток один; смешавшись с
толпой, я вижу, как к горе подходит Наденька, как ищет глазами меня... Затем
она робко идет вверх по лесенке... Страшно ехать одной, о, как страшно! Она
бледна, как снег, дрожит, она идет точно на казнь, но идет, идет без оглядки,
решительно. Она, очевидно, решила, наконец, попробовать: будут ли слышны те
изумительные сладкие слова, когда меня нет? Я вижу, как она, бледная, с
раскрытым от ужаса ртом, садится в санки, закрывает глаза и, простившись
навеки с землей, трогается с места... «Жжжж...» — жужжат полозья. Слышит ли
Наденька те слова, я не знаю... Я вижу только, как она поднимается из саней
изнеможенная, слабая. И видно по ее лицу, она и сама не знает, слышала она
что-нибудь или нет. Страх, пока она катила вниз, отнял у нее способность
слышать, различать звуки, понимать...
|
Có lần vào một buổi trưa, tôi đến sân trượt một mình; đi
lẫn trong đám đông, tôi bỗng nhìn thấy Nađia đang đi về phía đồi và đưa mắt
tìm tôi… Rồi nàng chậm chạp bước theo bậc thang trở lên đỉnh đồi… Trượt xe
một mình thật đáng ghê sợ biết bao, ôi, thật đáng ghê sợ! Mặt nàng tái nhợt,
trắng như tuyết, toàn thân run rẩy, nàng bước đi hệt như đến nơi chịu án tử
hình, nhưng nàng vẫn xăm xăm đi, đầu không ngoái lại. Chắc là cuối cùng nàng
quyết định thử xem: nàng có còn nghe thấy những lời ngọt ngào say đắm ấy nữa
không, khi không có tôi bên cạnh? Tôi nhìn thấy nàng tái nhợt, miệng há ra vì
sợ hãi; ngồi lên xe, nhắm mắt lại và, sau khi vĩnh biệt trái đất, bắt đầu lao
xuống chân đồi… Tiếng càng trượt xe rít lên… Nađia có nghe thấy những lời đó
nữa không, tôi không biết… Tôi chỉ thấy nàng bước ra khỏi xe một cách mệt
nhọc, gần như kiệt sức. Qua nét mặt nàng có thể thấy rằng chính nàng cũng
không biết nàng có nghe được những lời đó hay không. Nỗi sợ hãi khi xe lao
xuống đồi đã làm nàng không còn khả năng nghe được, phân biệt được các âm
thanh, không còn khả năng hiểu nữa…
|
One day, at noon, I went to our hill alone. There I
perceived Nadia. She approached the hill, seeking me with her eyes, and at
last I saw her timidly mounting the steps that led to the summit. Oh, how
fearful, how terrifying she found it to make that journey alone! Her face was
as white as the snow, and she shook as if she were going to her doom, but up
she climbed, firmly, without one backward look. Clearly she had determined to
discover once for all whether those wondrously sweet words would reach her
ears if I were not there. I saw her seat herself on the sled with a pale face
and lips parted with horror, saw her shut her eyes and push off, bidding
farewell for ever to this world. "zzzzzzz!" hissed the runners.
What did she hear? I know not--I only saw her rise tired and trembling from
the sled, and it was clear from her expression that she could not herself
have said what she had heard; on her downward rush terror had robbed her of
the power of distinguishing the sounds that came to her ears.
|
Но вот наступает весенний месяц март... Солнце становится
ласковее. Наша ледяная гора темнеет, теряет свой блеск и тает наконец. Мы
перестаем кататься. Бедной Наденьке больше уж негде слышать тех слов, да и
некому произносить их, так как ветра не слышно, а я собираюсь в Петербург —
надолго, должно быть, навсегда.
|
Thế rồi những ngày xuân tháng Ba đã tới… Mặt trời như trở
nên dịu dàng hơn. Quả đồi tuyết của chúng tôi bắt đầu sẫm lại, dần dần mất
cái vẻ óng ánh của nó, và cuối cùng thì tan đi. Chúng tôi thôi không trượt xe
nữa. Nađia đáng thương cũng không còn nơi nào để nghe những lời đó nữa, và
cũng không có ai nói những lời ấy nữa, bởi vì gió thì không còn thổi nữa, mà
tôi thì sửa soạn đi Petersburg – đi rất lâu, có lẽ là suốt đời.
|
And now, with March, came the spring. The sun's rays grew
warmer and brighter. Our snowy hillside grew darker and duller, and the ice
crust finally melted away. Our coasting came to an end.
Nowhere could poor Nadia now hear the beautiful words, for
there was no one to say them; the wind was silent and I was preparing to go
to St. Petersburg for a long time, perhaps for ever.
|
Как-то перед отъездом, дня за два, в сумерки сижу я в
садике, а от двора, в котором живет Наденька, садик этот отделен высоким
забором с гвоздями... Еще достаточно холодно, под навозом еще снег, деревья
мертвы, но уже пахнет весной и, укладываясь на ночлег, шумно кричат грачи. Я
подхожу к забору и долго смотрю в щель. Я вижу, как Наденька выходит на
крылечко и устремляет печальный, тоскующий взор на небо... Весенний ветер
дует ей прямо в бледное, унылое лицо... Он напоминает ей о том ветре, который
ревел нам тогда на горе, когда она слышала те четыре слова, и лицо у нее
становится грустным, грустным, по щеке ползет слеза... И бедная девочка
протягивает обе руки, как бы прося этот ветер принести ей еще раз те слова. И
я, дождавшись ветра, говорю вполголоса:
— Я люблю вас,
Надя!
|
Có lần khoảng hai ngày trước khi đi Petersburg vào một buổi chiều tà, tôi
ngồi trong khu vườn nhỏ. Một hàng rào cao có đinh nhọn ngăn cách khu vườn ấy
với sân nhà Nađia… Trời hãy còn lạnh, tuyết hãy còn đọng lại dưới đống phân chuồng, cây cối vẫn trơ trụi, nhưng
hương vị mùa xuân đã đến, từng đàn quạ bay về tổ, trú đêm kêu quàng quạc. Tôi đến bên hàng rào và trộm nhìn qua khe hở. Tôi thấy Nađia
bước ra thềm và đưa mắt nhìn lên trời buồn bã… Làn gió xuân nhẹ thổi qua
khuôn mặt nhợt nhạt rầu rĩ của nàng… Làn gió xuân gợi lại cho nàng cái tiếng
gió rít trên đồi tuyết, khi nàng nghe thấy những tiếng ấy, và gương mặt nàng trở
nên buồn bã lạ thường, nước mắt lặng lẽ chảy xuống má… Cô gái đáng thương đưa hai tay mình về
phía trước như muốn cầu xin làn gió đem đến cho nàng những lời yêu đương đó
một lần nữa. Và tôi, chờ khi có làn gió đến, thì thào nói:
– Nađia, anh yêu
em!
|
One evening, two days before my departure, I sat in the
twilight in a little garden separated from the garden where Nadia lived by a
high fence surmounted by iron spikes. It was cold and the snow was still on
the ground, the trees were lifeless, but the scent of spring was in the air,
and the rooks were cawing noisily as they settled themselves for the night. I
approached the fence, and for a long time peered through a chink in the
boards. I saw Nadia come out of the house and stand on the door-step, gazing
with anguish and longing at the sky. The spring wind was blowing directly
into her pale, sorrowful face. It reminded her of the wind that had howled
for us on the hillside when she had heard those four words, and with that
recollection her face grew very sad indeed, and the tears rolled down her
cheeks. The poor child held out her arms as if to implore the wind to bring
those words to her ears once more. And I, waiting for a gust to carry them to
her, said softly:
"I love you,
Nadia!"
|
Боже мой, что делается с Наденькой! Она вскрикивает,
улыбается во всё лицо и протягивает навстречу ветру руки, радостная,
счастливая, такая красивая.
|
Trời, điều gì đã xảy ra với nàng lúc ấy! Nađia khẽ kêu lên
và khuôn mặt nàng bỗng chan hòa một nụ cười rạng rỡ. Nađia đưa hai tay lên
đón lấy gió, trông nàng lúc ấy thật rạng rỡ, xinh đẹp và hạnh phúc.
|
Heavens, what an effect my words had on Nadia! She cried
out and stretched forth her arms to the wind, blissful, radiant, beautiful, .
. .
|
А я иду укладываться...
Это было уже давно. Теперь Наденька уже замужем; ее
выдали, или она сама вышла — это всё равно, за секретаря дворянской опеки, и
теперь у нее уже трое детей. То, как мы вместе когда-то ходили на каток и как
ветер доносил до нее слова «Я вас люблю, Наденька», не забыто; для нее теперь
это самое счастливое, самое трогательное и прекрасное воспоминание в жизни...
|
Còn tôi, tôi trở vào nhà và đi thu xếp đồ đạc…
Chuyện ấy đã qua lâu rồi. Bây giờ Nađia đã có chồng, gia
đình nàng gả chồng cho nàng hay nàng tự nguyện lấy? – điều ấy cũng chẳng có
gì đáng bận tâm. Chồng nàng là thư ký hội đồng giám hộ trẻ con quý tộc. Nađia
đã có ba con. Nhưng chút kỷ niệm cùng nhau trượt băng và gió lúc ấy đem đến
cho nàng mấy tiếng: “Nađia, anh yêu em!” thì nàng không quên được; đối với nàng,
điều ấy đã trở thành kỷ niệm hạnh phúc nhất, xúc động nhất, đẹp đẽ nhất trong
đời nàng…
|
And I went to pack up my things. All this happened a long
time ago. Nadia married, whether for love or not matters little. Her husband
is an official of the nobility, and she now has three children. But she has
not forgotten how we coasted together and how the wind whispered to her:
"I love you, Nadia!"
That memory is for her the happiest, the most touching,
the most beautiful one of her life.
|
А мне теперь, когда я стал старше, уже непонятно, зачем я
говорил те слова, для чего шутил...
А я иду укладываться...
|
Còn tôi, bây giờ tôi đã đứng tuổi, tôi không hiểu nổi vì
lẽ gì tôi đã nói những lời đó, làm sao tôi đã đùa như thế…
|
But as for me, now that I have grown older, I can no
longer understand why I said those words and why I jested with Nadia.
|
Translated
by Lại Nguyên Ân
|
Translated
by Marian Fell
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Wednesday, May 27, 2020
ШУТОЧКА Антон Чехов Một chuyện đùa nho nhỏ Anton Chekhov A Little Joke
Labels:
SHORT STORY
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn