|
SARTRE ON THE NOBLE
PRIZE
|
SARTRE TỪ CHỐI GIẢI NOBEL VĂN CHƯƠNG
|
JEAN-PAUL SARTRE (1905-1980)
|
JEAN-PAUL SARTRE (1905-1980)
|
Jean-Paul Sartre
explained his refusal to accept the Nobel Prize for Literature in a statement
made to the Swedish Press on October 22, which appeared in Le Monde in a
French translation approved by Sartre. The following translation into English
was made by Richard Howard.
|
Jean-Paul Sartre
giải thích việc ông từ chối chấp nhận giải Nobel Văn học trong một tuyên bố gửi cho
báo chí Thụy
Điển vào ngày 22 tháng 10, đăng trên tờ Le Monde trong một bản dịch tiếng
Pháp được Sartre chấp thuận. Bản dịch tiếng Anh sau đây do Richard Howard
thực hiện.
|
I deeply regret the fact that the incident has become
something of a scandal: a prize was awarded, and I refused it. It happened
entirely because I was not informed soon enough of what was under way. When I
read in the October 15 Figaro littéraire, in the Swedish correspondent’s
column, that the choice of the Swedish Academy was tending toward me, but
that it had not yet been determined, I supposed that by writing a letter to
the Academy, which I sent off the following day, I could make matters clear
and that there would be no further discussion.
|
Tôi rất lấy làm tiếc khi mọi chuyện đã đi quá xa, đến mức
xì xầm vậy: giải thưởng đã được trao, và tôi thì từ chối. Chuyện ra nông nỗi
thế, là bởi tôi đã không được báo sớm hơn, về những gì diễn ra lúc ấy. Khi tôi
đọc trên tờ văn nghệ Figaro số giữa tháng 10, trong mục trao đổi của thông
tín viên từ Thụy Điển, rằng lựa chọn của Viện hàn lâm Thụy Điển đang nghiêng
về tôi, nhưng quyết định cuối cùng vẫn chưa được đưa ra, tôi đã nghĩ, rằng
viết một lá thư gửi tới Viện hàn lâm, và thực là tôi đã gửi nó ngay ngày hôm
sau, tôi có thể làm mọi việc tường minh hơn, và sẽ không còn phải cân lên đặt
xuống thêm gì nữa.
|
I was not aware at the time that the Nobel Prize is awarded
without consulting the opinion of the recipient, and I believed there was
time to prevent this from happening. But I now understand that when the
Swedish Academy has made a decision it cannot subsequently revoke it.
|
Tôi đã không hay rằng, khi trao giải Nobel, người ta sẽ
không tham vấn ý kiến của người nhận, và tôi cũng đã tưởng rằng, mình sẽ có
đủ thời gian để lay chuyển quyết định ấy. Nhưng giờ thì, tôi hiểu, khi Viện
hàn lâm Thụy Điển trao giải, quyết định sau cùng sẽ không thể thay đổi được.
|
My reasons for refusing the prize concern neither the
Swedish Academy nor the Nobel Prize in itself, as I explained in my letter to
the Academy. In it, I alluded to two kinds of reasons: personal and
objective.
|
Lí do tôi từ chối giải Nobel lần này, không xuất phát từ
phía Viện hàn lâm Thụy Điển, cũng như bản thân giải Nobel, như tôi đã giải
thích trong lá thư gửi tới viện. Trong thư ấy, tôi có ý viện dẫn tới hai lí
do: cá nhân và khách quan.
|
The personal reasons are these: my refusal is not an
impulsive gesture, I have always declined official honors. In 1945, after the
war, when I was offered the Legion of Honor, I refused it, although I was
sympathetic to the government. Similarly, I have never sought to enter the
Collège de France, as several of my friends suggested.
|
Lý do cá nhân, ấy là: việc từ chối của tôi không phải là
một cái phẩy tay bốc đồng, tôi lâu nay vẫn luôn khước từ trước các giải
thưởng chính thống. Năm 1945, ngay sau khi chiến tranh kết thúc, khi ấy tôi
được đề nghị trao tặng giải Bắc đẩu bội tinh, tôi đã từ chối, mặc dù tôi cùng
một chiến tuyến với chính phủ. Cũng vậy, tôi chưa bao giờ cố mà kiếm một chân
ở trường Collège de France, như các bạn tôi khuyên.
|
This attitude is based on my conception of the writer’s
enterprise. A writer who adopts political, social, or literary positions must
act only with the means that are his own—that is, the written word. All the
honors he may receive expose his readers to a pressure I do not consider
desirable. If I sign myself Jean-Paul Sartre it is not the same thing as if I
sign myself Jean-Paul Sartre, Nobel Prizewinner.
|
Cái lối riêng này của tôi, là bởi, tôi dựa vào cái ý niệm
mà tôi đinh ninh về công việc bếp núc của một nhà văn. Một nhà văn, anh có
thể theo đuổi con đường chính trị, hay các vị trí xã hội, nhưng anh chỉ có
thể sống theo cách duy nhất, cùng với công cụ mà anh nắm trong tay - ấy là,
chữ nghĩa. Tất cả những vinh hạnh anh có thể nhận được, sẽ đặt độc giả của
anh trước một áp lực mà tôi thì không lấy gì làm hào hứng. Nếu tôi kí tên
mình Jean-Paul Sartre, nó chẳng giống như cách tôi ký, giả dụ như Jean-Paul
Sartre, một nhà văn đoạt giải Nobel.
|
The writer who accepts an honor of this kind involves as
well as himself the association or institution which has honored him. My
sympathies for the Venezuelan revolutionists commit only myself, while if
Jean-Paul Sartre the Nobel laureate champions the Venezuelan resistance, he
also commits the entire Nobel Prize as an institution.
|
Nhà văn, khi chấp nhận một vinh quang như ấy , sẽ gắn tên
tuổi mình với nó, cũng như với tổ chức, thiết chế đã vinh danh mình. Những
mối cảm tình của tôi với các nhà cách mạng giải phóng người Venezuela chỉ
liên đới mình tôi, trong khi, nếu là một Jean-Paul Sartre đã từng nhận giải
Nobel mà cổ võ cho lực lượng nổi dậy người Venezeala, thì Jean-Paul Sartre ấy
cũng sẽ liên đới tới giải Nobel, như một thiết chế.
|
The writer must therefore refuse to let himself be
transformed into an institution, even if this occurs under the most honorable
circumstances, as in the present case.
|
Một nhà văn, vì thế, phải khước từ, để bản thân mình khỏi
mang lấy danh của một thiết chế nào đấy, ngay cả khi việc này xảy ra trong
những cảnh huống vinh hạnh nhất, như trường hợp của tôi.
|
This attitude is of course entirely my own, and contains
no criticism of those who have already been awarded the prize. I have a great
deal of respect and admiration for several of the laureates whom I have the
honor to know.
|
Cách ứng xử này, dĩ nhiên, là do tôi lựa chọn, và nó không
mang bất kì một ý niệm phê phán gì, tới những người đã từng nhận giải. Tôi có
một sự ngưỡng mộ và tôn kính lớn lao tới rất nhiều người đã được nhận giải
ấy, những người mà tôi vinh hạnh biết tới.
|
My objective reasons are as follows: The only battle
possible today on the cultural front is the battle for the peaceful
coexistence of the two cultures, that of the East and that of the West. I do
not mean that they must embrace each other—I know that the confrontation of
these two cultures must necessarily take the form of a conflict—but this
confrontation must occur between men and between cultures, without the
intervention of institutions.
|
Về lí do từ chối do yếu tố khách quan: Ngày nay, trận
chiến duy nhất trên mặt trận văn hóa là trận chiến cho sự cộng sinh trong yên
bình giữa hai nền văn hóa, một Đông, một Tây. Tôi không có ý, rằng chúng phải
dung hợp lẫn nhau - tôi biết, khihai nền văn hóa đối mặt, rồi đây sẽ phải có
những kiểu xung đột nhất định - nhưng cuộc chạm trán ấy phải là cuộc chạm
trán giữa những người đàn ông và các nền văn hóa, chứ không thể có sự can
thiệp của các thiết chế.
|
I myself am deeply affected by the contradiction between
the two cultures: I am made up of such contradictions. My sympathies
undeniably go to socialism and to what is called the Eastern bloc, but I was
born and brought up in a bourgeois family and a bourgeois culture. This
permits me to collaborate with all those who seek to bring the two cultures
closer together. I nonetheless hope, of course, that “the best man wins.”
That is, socialism.
|
Bản thân tôi chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi sự mâu thuẫn giữa
hai nền văn hóa: tôi được hình thành từ chính mối mâu thuẫn ấy. Mối tương cảm
của tôi, tất nhiên, là dành cho chủ nghĩa xã hội và cho, cái mà chúng ta vẫn
gọi là khối phương Đông, nhưng tôi được sinh ra và nuôi dưỡng trong một gia
đình trung lưu và nền văn hóa tư sản. Điều này cho phép tôi có thể
cộng tác với những người nỗ lực bắc cầu cho hai nền văn hóa ấy sát lại gần
nhau hơn. Tôi, tuy thế, hi vọng rằng, dĩ nhiên "lựa chọn tốt nhất sẽ
thắng". Ấy là, chủ nghĩa xã hội.
|
This is why I cannot accept an honor awarded by cultural
authorities, those of the West any more than those of the East, even if I am
sympathetic to their existence. Although all my sympathies are on the socialist
side. I should thus be quite as unable to accept, for example, the Lenin
Prize, if someone wanted to give it to me, which is not the case.
|
Đó là lí do vì sao tôi không thể đón nhận giải thưởng đầy
vinh hạnh này, từ tay của các giới chức văn hóa, vốn thuộc về phương Tây thay
vì phương Đông, ngay cả khi tôi tương cảm với sự hiện hữu của họ. Mặc dù tất
cả mọi tương cảm của tôi là dành cho phía những người theo chủ nghĩa xã hội,
tôi tuy thế, sẽ không thể vì vậy mà chấp nhận, chẳng hạn, giải thưởng Lê-nin,
nếu như có ai đó muốn trao cho tôi, tất nhiên là không ai
trao cả.
|
I know that the Nobel Prize in itself is not a literary
prize of the Western bloc, but it is what is made of it, and events may occur
which are outside the province of the members of the Swedish Academy. This is
why, in the present situation, the Nobel Prize stands objectively as a
distinction reserved for the writers of the West or the rebels of the East.
It has not been awarded, for example, to Neruda, who is one of the greatest
South American poets. There has never been serious question of giving it to
Louis Aragon, though he certainly deserves it. It is regrettable that the
prize was given to Pasternak and not to Sholokhov, and that the only Soviet
work thus honored should be one published abroad and banned in its own
country. A balance might have been established by a similar gesture in the
other direction. During the war in Algeria, when we had signed the “declaration
of the 121,” I should have gratefully accepted the prize, because it would
have honored not only me, but also the freedom for which we were fighting.
But matters did not turn out that way, and it is only after the battle is
over that the prize has been awarded me.
|
Tôi biết rằng giải Nobel, bản thân nó không phải là một
giải thưởng văn chương của khối phương Tây, nhưng nó là thế khi quan sát bàn
tay người trao, và những gì có thể diễn ra, là nằm ngoài tầm kiểm soát của
các thành viên của Viện hàn lâm Thụy Điển. Đó là tại sao, ở vị trí hiện tại,
giải Nobel vẫn đứng ra, một cách khách quan, như một sự phân biệt, dành sẵn
cho các nhà văn phương Tây, hoặc cho những người nổi loạn ở phương Đông. Nó
đã không được trao thưởng, chẳng hạn, cho Neruda, một trong số những nhà thơ
xuất sắc nhất Nam Mỹ. Người ta chưa bao giờ đặt những câu hỏi nghiêm cẩn, về
việc trao giải cho Louis Aragon, mặc dù ông ấy rõ ràng xứng đáng nhận. Thật
là đáng tiếc, khi giải thưởng đã được trao cho Pasternak, thay vì cho
Sholokhov, và chỉ có một tác phẩm của Soviet được vinh hạnh nhận thưởng, ấy
là nó được xuất bản ở nước ngoài và bị cấm lưu hành trong nước. Một sự cân
bằng có thể đã được thiết lập nhờ vào một cách ứng xử tương tự, theo một
hướng khác. Trong thời chiến ở Algeria, khi chúng tôi kí "tuyên bố của
121 [trí thức]", có lẽ tôi nên vinh hạnh chấp nhận giải thưởng, vì nó sẽ
vinh danh không chỉ tôi, mà cả nền tự do mà chúng tôi đã vì nó cùng nhau
chiến đấu. Nhưng vấn đề là chuyện nó không như vậy, và chuyện chỉ được để tâm
sau khi cuộc chiến kết thúc và giải thưởng được trao cho tôi.
|
In discussing the motives of the Swedish Academy, mention
has been made of freedom, a word that suggests many interpretations. In the
West, only a general freedom is meant: personally, I mean a more concrete
freedom which consists of the right to have more than one pair of shoes and
to eat one’s fill. It seems to me less dangerous to decline the prize than to
accept it. If I accept it, I offer myself to what I shall call “an objective
rehabilitation.” According to the Figaro littéraire article, “a controversial
political past would not be held against me.” I know that this article does
not express the opinion of the Academy, but it clearly shows how my
acceptance would be interpreted by certain rightist circles. I consider this
“controversial political past” as still valid, even if I am quite prepared to
acknowledge to my comrades certain past errors.
|
Khi bàn về lí do cho quyết định của Viện hàn lâm Thụy
Điển, một ý được nhắc tới là tự do, một từ có rất nhiều cách diễn giải. Ở
phương Tây, chỉ có tự do chung chung là có nghĩa: cá nhân tôi cho rằng, một
nền tự do phải cụ thể hơn, trong đó, người ta có quyền có hơn một đôi giày,
và ăn no đến chán. Với tôi, hình như, sẽ ít nguy hiểm hơn khi từ chối giải
thưởng thay vì chấp nhận nó. Nếu tôi chấp nhận, tôi sẽ hiến mình cho những gì
mà tôi gọi là "một sự cải hồi khách quan". Theo như bài báo đăng
trên tờ văn nghệ Figaro, "một quá khứ chính trị rắc rối sẽ không bị coi
là rào cản với tôi". Tôi biết bài áo ấy không thể hiện quan điểm của
Viện hàn lâm, nhưng rõ ràng nó cho thấy việc tôi chấp nhận giải thưởng, sẽ bị
diễn giải theo hướng nào từ phía những người cánh tả. Tôi coi cái "quá
khứ chính trị rắc rối" ấy vẫn là điểm để lưu tâm, dù rằng tôi đã phần
nào chuẩn bị cho việc thừa nhận với những người đồng chí của mình về những
lỗi lầm quá khứ nào đó.
|
I do not thereby mean that the Nobel Prize is a “bourgeois”
prize, but such is the bourgeois interpretation which would inevitably be
given by certain circles with which I am very familiar.
|
Tôi không vì thế cho rằng, Nobel là một giải thưởng
"tư sản", nhưng giải thưởng ấy sẽ bị người ta hiểu là một giải
thưởng tư sản bởi những nhóm phái nhất định mà tôi chẳng lạ gì.
|
Lastly, I come to the question of the money: it is a very
heavy burden that the Academy imposes upon the laureate by accompanying its
homage with an enormous sum, and this problem has tortured me. Either one
accepts the prize and with the prize money can support organizations or
movements one considers important—my own thoughts went to the Apartheid
committee in London. Or else one declines the prize on generous principles,
and thereby deprives such a movement of badly needed support. But I believe
this to be a false problem. I obviously renounce the 250,000 crowns because I
do not wish to be institutionalized in either East or West. But one cannot be
asked on the other hand to renounce, for 250,000 crowns, principles which are
not only one’s own, but are shared by all one’s comrades.
|
Cuối cùng, tôi xin được nói đôi chút về vấn đề tiền bạc:
nó là một gánh trĩu nặng mà Viện đặt lên vai người nhận thưởng, khi cùng với
sự tôn vinh, còn là một món tiền rất lớn. Điều ấy đã cật vấn đầu óc tôi. Hay
là chấp nhận giải thưởng và món tiền kèm theo để hỗ trợ các tổ chức hoặc
phong trào, một điểm quan trọng để cân nhắc - tôi lại chỉ nghĩ về ủy ban
Apartheid ở London. Hay là từ chối giải thưởng dựa trên các nguyên tắc rộng
rãi, và do đó, cướp đi một cơ hội để hỗ trợ phong trào vốn đang cần kíp.
Nhưng tôi tin rằng, nó là một vấn đề bị hiểu sai. Rõ ràng là tôi từ chối
250,000 crowns, vì không muốn bị gán cho là thuộc về phía Đông hoặc Tây.
Nhưng mặt khác, người ta không thể bị yêu cầu từ chối, cho số tiền 250,000
crown, nguyên tắc không chỉ thuộc về một cá nhân, mà được chia sẻ bởi tất cả
các đồng chí của người ấy.
|
That is what has made so painful for me both the awarding
of the prize and the refusal of it I am obliged to make.
|
Đó là những gì đã khiến tôi đớn đau, kể cả nhận thưởng, và
cả từ chối, việc mà với tất cả sự trọng thị tôi đã làm.
|
I wish to end this declaration with a message of
fellow-feeling for the Swedish public.
|
Tôi mong được kết thúc lá thư công bố này với một thông
điệp về một tình cảm nồng hậu dành cho công chúng Thụy Điển.
|
|
|
|
Translated
from English by Vượng
Nguyễn
|
|
|
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn