|
Madame Hermet
|
Bà Ec-mê
|
Guy de Maupassant
|
Guy de Maupassant
|
Crazy people attract me. They live in a mysterious land of
weird dreams, in that impenetrable cloud of dementia where all that they have
witnessed in their previous life, all they have loved, is reproduced for them
in an imaginary existence, outside of all laws that govern the things of this
life and control human thought.
|
Những người điên thường hấp dẫn tôi. Những kẻ do sống
trong thế giới bí ẩn của những giấc mơ kỳ quặc, trong áng mây mù dày đặc của
sự rồi dại, tại nơi đây, mọi thứ họ đã thấy trên đời, mọi cái họ đã yêu quý,
mọi người họ đã làm tái diễn trong một cuộc sống tưởng tượng, vượt ra ngoài
mọi quy luật điều khiển sự vật và chi phối tư duy con người.
|
For them there is no such thing as the impossible, nothing
is improbable; fairyland is a constant quantity and the supernatural quite
familiar. The old rampart, logic; the old wall, reason; the old main stay of
thought, good sense, break down, fall and crumble before their imagination,
set free and escaped into the limitless realm of fancy, and advancing with
fabulous bounds, and nothing can check it. For them everything happens, and
anything may happen. They make no effort to conquer events, to overcome
resistance, to overturn obstacles. By a sudden caprice of their flighty
imagination they become princes, emperors, or gods, are possessed of all the
wealth of the world, all the delightful things of life, enjoy all pleasures,
are always strong, always beautiful, always young, always beloved! They,
alone, can be happy in this world; for, as far as they are concerned, reality
does not exist. I love to look into their wandering intelligence as one leans
over an abyss at the bottom of which seethes a foaming torrent whose source
and destination are both unknown.
|
Đối với họ, cái không thể có không tồn tại nữa, cái huyền
hoặc khó tin biến mất, cái thần tiên huyền ảo trở thành thường xuyên và cái
dị thường thành thân thuộc. Logic, tấm rào chắn cũ kỹ, lý trí, bức tường
lương tri, hàng lan can cũ kỹ của tư tưởng đều tan tành, ngã gục, đổ sụp dưới
trí tưởng tượng được buông thả phóng khoáng, thoát vào xứ sở vô cùng tận của
sự tùy hứng, nhảy nhót những bước kỳ ảo chẳng có gì ngăn trở. Đối với họ, tất
cả mọi điều đều xảy ra và có thể xảy ra. Họ chẳng hề gắng gỏi để chiến thắng
các biến cố, để chế ngự những sự kháng cự, để san bằng các trở ngại. Chỉ cần
một thích thú bất thường của ý chí gây ảo giác, là họ thành vua chúa hoặc
thánh thần, là họ có mọi của cải trên thế gian, có mọi điều ngon ngọt trên
đời, là họ được hưởng mọi thú vui, là họ mãi mãi khỏe, đẹp, trẻ, mãi mãi được
yêu dấu! Chỉ riêng họ mới hạnh phúc được trên trái đất, vì đối với họ hiện
thực không tồn tại nữa. Tôi ưa nghiêng mình xuống tâm trí lang thang vớ vẩn
của họ, như người ta nghiêng mình xuống một vực thẳm, tận đáy vực sục sôi một
dòng thác lạ, ở đâu đều không ai biết và chảy đi đâu không ai hay.
|
But it is in vain that we lean over these abysses, for we
shall never discover the source nor the destination of this water. After all,
it is only water, just like what is flowing in the sunlight, and we shall
learn nothing by looking at it.
|
Nhưng nghiêng mình xuống những khe sâu ấy nào có ích gì,
vì chẳng bao giờ ta biết được nước ấy ở đâu đến, nước ấy chảy đi đâu. Cho đến
cùng, đó cũng chỉ là nước giống như nước chảy giữa thanh thiên bạch nhật, và
nhìn nó cũng chẳng giúp cho ta hiểu thêm được mấy điều.
|
It is likewise of no use to ponder over the intelligence
of crazy people, for their most weird notions are, in fact, only ideas that
are already known, which appear strange simply because they are no longer
under the restraint of reason. Their whimsical source surprises us because we
do not see it bubbling up. Doubtless the dropping of a little stone into the
current was sufficient to cause these ebullitions. Nevertheless crazy people
attract me and I always return to them, drawn in spite of myself by this
trivial mystery of dementia.
|
Nghiêng mình xuống tâm trí người điên cũng chẳng ích gì,
vì những ý nghĩ kỳ quặc nhất của họ chẳng qua cũng là những ý nghĩ bình
thường, chỉ lạ lùng bởi chúng không bị ràng buộc bởi lý trí. Cái ngọn nguồn
khó hiểu bất thường của chúng khiến ta sững sờ kinh ngạc, bởi ta không nhìn
thấy nó phun ra. Có lẽ chỉ cần một hòn đá nhỏ rơi vào dòng nước đang chảy của
nó là đủ gây nên những xúc động sôi sục. Tuy nhiên, những người điên vẫn luôn
hấp dẫn tôi, và tôi luôn quay về với họ, bị thu hút ngoài ý muốn của mình vì
sự bí ẩn tầm thường của chứng rồ dại.
|
One day as I was visiting one of the asylums the physician
who was my guide said:
“Come, I will show you an
interesting case."
|
Vậy, một hôm, khi tôi đến thăm một bệnh xá của người điên,
viên thầy thuốc hướng dẫn tôi, bảo rằng:
-À, tôi sẽ đưa ông đi xem một trường hợp lý thú.
|
And he opened the door of a cell where a woman of about
forty, still handsome, was seated in a large armchair, looking persistently
at her face in a little hand mirror.
As soon as she saw us she rose to her feet, ran to the
other end of the room, picked up a veil that lay on a chair, wrapped it
carefully round her face, then came back, nodding her head in reply to our
greeting.
|
Và ông ta mở một ngăn, trong đó một người đàn bà trạc bốn
mươi tuổi, hãy còn đẹp, ngồi trên ghế bành, cứ soi mãi mặt vào một tấm gương
nhỏ cầm tay. Vừa nhìn thấy chúng tôi, bà đứng phắt dậy, chạy đến cuối phòng,
tìm một tấm mạng vắt trên ghế, bịt mặt hết sức cẩn thận, rồi trở lại, gật đầu
đáp lễ chúng tôi. Bác sĩ nói:
-Thế nào, sáng nay bà thấy trong người ra sao?
Bà ta thở dài não ruột:
|
"Well," said the doctor, "how are you this
morning?"
She gave a deep sigh.
"Oh, ill, monsieur, very ill. The marks are
increasing every day."
He replied in a tone of conviction:
"Oh, no; oh, no; I assure you that you are
mistaken."
She drew near to him and murmured:
"No. I am certain of it. I counted ten pittings more
this morning, three on the right cheek, four on the left cheek, and three on
the forehead. It is frightful, frightful! I shall never dare to let any one
see me, not even my son; no, not even him! I am lost, I am disfigured
forever."
She fell back in her armchair and began to sob.
The doctor took a chair, sat down beside her, and said
soothingly in a gentle tone:
"Come, let me see; I assure you it is nothing. With a
slight cauterization I will make it all disappear."
|
-Ôi, khó chịu, khó chịu lắm, thưa ông, ngày nào các vết
sẹo cũng tăng lên.
Bác sĩ trả lời một cách tin tưởng:
-Không, không! Tôi cam đoan với bà là bà lầm đấy.
Bà ta xích lại gần ông, thì thào:
-Không, tôi chắc chắn như vậy. Tôi đã đếm thêm được chín
vết, ba vết ở má bên phải, bốn vết ở má bên trái và ba vét ở trên trán. Thật
gớm ghiếc! Gớm ghiếc! Tôi không dám để ai nhìn thấy nữa, cả cho đến con tôi,
không, cả đến con tôi nữa! Tôi bị nguy mất rồi, mặt mày tôi bị xấu xí suốt
đời rồi!
Bà ta lại để mình rơi xuống ghế và khóc nức nở. Người thầy
thuốc kéo ghế, ngồi cạnh bà ta, và bằng một giọng dịu dàng, an ủi:
-Nào, bà cho tôi xem nào, tôi cam đoan với bà là chẳng sao
đâu. Chỉ xoa cứu chút ít là tôi làm biến đi tất cả.
|
She shook her head in denial, without speaking. He tried
to touch her veil, but she seized it with both hands so violently that her
fingers went through it.
He continued to reason with her and reassure her.
"Come, you know very well that I remove those horrid
pits every time and that there is no trace of them after I have treated them.
If you do not let me see them I cannot cure you."
"I do not mind your seeing them," she murmured,
"but I do not know that gentleman who is with you."
"He is a doctor also, who can give you better care
than I can."
She then allowed her face to be uncovered, but her dread,
her emotion, her shame at being seen brought a rosy flush to her face and her
neck, down to the collar of her dress. She cast down her eyes, turned her
face aside, first to the right; then to the left, to avoid our gaze and
stammered out:
"Oh, it is torture to me to let myself be seen like
this! It is horrible, is it not? Is it not horrible?"
|
Bà ta lắc đầu, không nói một lời. Người thầy thuốc muốn sờ
vào tấm mạng, những bà ta tay nắm lấy nó chặt đến mức ngón tay xuyên cả vào
trong mạng. Ông lại khuyến khích và dỗ dành cho bà yên lòng:
-Bà biết rõ là lần nào tôi cũng làm cho những vết sẹo xấu
xí ấy biến đi mất hộ bà, và khi tôi điều trị chúng xong thì người ta không hề
nhìn thấy chúng nữa. Nếu bà không cho tôi xem, thì tôi không thể chữa cho bà
khỏi được.
Bà ta thì thào:
-Với ông thì còn được, nhưng tôi không quen ông khách đi
cùng ông.
-Đây cũng là một thầy thuốc, ông ấy sẽ điều trị cho bà còn
tốt hơn tôi nhiều.
Bấy giờ bà ta mới cho hở mặt ra, nhưng sự hoảng sợ, nỗi
xúc động, niềm hổ thẹn vì bị mọi người nhìn thấy khiến cả da thịt ở cổ bà ta,
nơi lút sâu trong áo, cũng đỏ ửng lên. Bà nhìn xuống, quay mặt đi, lúc sang
phải, lúc sang trái, để tránh những cái nhìn của chúng tôi và ấp úng:
-Ôi! Để thấy mặt mình như thế này là tôi đau đớn ghê gớm.
Kinh khủng lắm, phải không các ông? Kinh khủng lắm phải không?
|
I looked at her in much surprise, for there was nothing on
her face, not a mark, not a spot, not a sign of one, nor a scar.
She turned towards me, her eyes still lowered, and said:
"It was while taking care of my son that I caught
this fearful disease, monsieur. I saved him, but I am disfigured. I sacrificed
my beauty to him, to my poor child. However, I did my duty, my conscience is
at rest. If I suffer it is known only to God."
The doctor had drawn from his coat pocket a fine
water-color paint brush.
"Let me attend to it," he said, "I will put
it all right."
She held out her right cheek, and he began by touching it
lightly with the brush here and there, as though he were putting little
points of paint on it. He did the same with the left cheek, then with the
chin, and the forehead, and then exclaimed:
"See, there is nothing there now, nothing at
all!"
She took up the mirror, gazed at her reflection with
profound, eager attention, with a strong mental effort to discover something,
then she sighed:
"No. It hardly shows at all. I am infinitely obliged
to you."
|
Tôi hết sức kinh ngạc ngắm nhìn bà ta, bởi vì bà chẳng có
cái gì trên mặt hết, không có một vết, không có một điểm, không có một dấu,
cũng không có một cái sẹo nào. Bà ta quay sang tôi, mắt vẫn nhìn xuống và bảo
tôi:
-Thưa ông, đó là do chăm nom con mà tôi bị lây cái bệnh
ghê gớm này. Tôi đã cứu được cháu, nhưng mặt mày tôi bị xấu xí. Tôi đã cho
cháu nhan sắc của tôi, cho đứa con tội nghiệp của tôi. Rốt cuộc, tôi đã làm
phận sự của tôi, lương tâm tôi được yên ổn. Nếu tôi đau khổ, chỉ có Chúa
biết.
Bác sĩ đã rút trong túi ra một cây bút vẽ nhỏ. Ông nói:
-Bà để tôi làm, tôi sẽ sửa cho bà tất cả những cái đó.
Bà ta chìa má bên phải ra, và ông bắt đầu lướt nhẹ vào má,
như thể ông điểm những chấm màu nho nhỏ trên đó. Ông cũng làm như vậ bên má
trái, rồi trên trán, rồi ông reo:
-Bà nhìn xem, không còn gì, không còn gì nữa nhé!
Bà ta cầm gương, ngắm bóng mình rất lâu, hết sức chăm chú,
một sự chăm chú gay go căng thẳng, gắng gỏi cực kỳ toàn tâm trí để tìm ra một
vết gì, rồi bà thở dài:
-Không, không nhìn thấy rõ lẵm nữa. Đa tạ ông vô cùng.
|
The doctor had risen. He bowed to her, ushered me out and
followed me, and, as soon as he had locked the door, said:
"Here is the history of this unhappy woman."
Her name is Mme. Hermet. She was once very beautiful, a
great coquette, very much beloved and very much in-love with life.
|
Người thầy thuốc đứng dậy. Ông chào bà ta, dẫn tôi ra rồi
đi theo tôi, và, khi cánh cửa vừa đóng lại, ông nói:
-Đây là câu chuyện khốc liệt của người đàn bà bất hạnh ấy.
Bà ta tên là Ec-mê. Bà rất đẹp, rất làm dáng, rất được yêu
chiều và lấy làm sung sướng được sống.
|
She was one of those women who have nothing but their
beauty and their love of admiration to sustain, guide or comfort them in this
life. The constant anxiety to retain her freshness, the care of her
complexion, of her hands, her teeth, of every portion of body that was
visible, occupied all her time and all her attention.
|
Đó là một trong những người đàn bà mà trên đời chỉ có nhan
sắc và niềm ham muốn làm duyên cho người ưa là nguồn nâng đỡ, chi phối hoặc
an ủi trong cuộc sống. Mối quan tâm thường xuyên đến vẻ tươi tắn của mình, sự
chăm sóc cho bột mặt, cho bàn tay, cho hàm răng, cho hết thảy các bộ phận nhỏ
của cơ thể mà bà có thể phô bày ra thu hút toàn bộ thì giờ và toàn bộ sự chú ý
của bà.
|
She became a widow, with one son. The boy was brought up
as are all children of society beauties. She was, however, very fond of him.
He grew up, and she grew older.
|
Bà góa chồng, có một con trai. Thằng bé
được nuôi dạy như bao đứa bé của những người đẹp trong xã hội thượng lưu. Tuy
vậy, bà rất thích con trai. Thằng bé lớn khôn và bà cũng lớn
tuổi dần.
|
Whether she saw the fatal crisis approaching, I cannot
say. Did she, like so many others, gaze for hours and hours at her skin, once
so fine, so transparent and free from blemish, now beginning to shrivel
slightly, to be crossed with a thousand little lines, as yet imperceptible,
that will grow deeper day by day, month by month? Did she also see slowly,
but surely, increasing traces of those long wrinkles on the forehead, those
slender serpents that nothing can check? Did she suffer the torture, the
abominable torture of the mirror, the little mirror with the silver handle
which one cannot make up one's mind to lay down on the table, but then throws
down in disgust only to take it up again in order to look more closely, and
still more closely at the hateful and insidious approaches of old age? Did
she shut herself up ten times, twenty times a day, leaving her friends
chatting in the drawing-room, and go up to her room where, under the
protection of bolts and bars, she would again contemplate the work of time on
her ripe beauty, now beginning to wither, and recognize with despair the
gradual progress of the process which no one else had as yet seemed to
perceive, but of which she, herself, was well aware. She knows where to seek
the most serious, the gravest traces of age. And the mirror, the little round
hand-glass in its carved silver frame, tells her horrible things; for it
speaks, it seems to laugh, it jeers and tells her all that is going to occur,
all the physical discomforts and the atrocious mental anguish she will suffer
until the day of her death, which will be the day of her deliverance.
|
Bà ta có nhìn thấy trước khủng hoảng định mệnh đang đến
hay chăng, tôi không hề biết. Chẳng hiểu bà có như bao người đàn bà khác, mỗi
sáng lại nhìn ngắm hàng giờ làn da xưa kia hết sức mịn màng, trong suốt và
tươi sáng, giờ đây hơi nheo lại dưới đuôi mắt, hơi nhăn đi vì hàng ngàn vết
hãy còn lờ mờ khó thấy, nhưng cứ sâu dần xuống, từng ngày, từng tháng? Chẳng
hiểu bà có thấy lớn lên không ngừng, một cách chậm rãi và chắc chắn, những
vết nhăn dài trên trán, những con rắn mỏng mảnh không gì ngăn lại được? Chẳng
hiểu bà có bị giày vò day dứt, nỗi giày vò day dứt ác hại của tấm gương, tấm
gương nhỏ có tay cầm bằng bạc mà người ta không thể quyết tâm đặt lên bàn,
rồi người ta giận dữ hẩy đi và người ta lại cầm ngay lấy, để nhìn lại, thật
gần hơn nữa, cái sự tàn phá khả ố và bình thản của tuổi già đang xích lại?
Chẳng hiểu bà có náu mình ngày mươi, hai mươi lần, vô duyên cớ rời phòng
khách nơi bạn bè đang trò chuyện, để lên phòng riêng và nhờ cửa đóng then cài
che chở, lại ngắm nhìn công trình phá hoại của da thịt hết xuân đang tàn úa,
để kiểm chứng một cách tuyệt vọng bước tiến triển nhẹ nhàng của căn bệnh
dường như chưa ai nhìn thấy, nhưng bà thì hiểu rất rõ? Bà biết, đâu là chỗ
bệnh tấn công mạnh nhất, đâu là những vết cắn xé sâu nhất của tuổi tác. Và
tấm gương tròn nhỏ xoay trong cái khung bạc chạm, bảo với bà những điều tệ
hại, bởi vì nó nói, nó như cười cợt, nó nhạo báng và báo cho bà tất cả những
gì sắp đến, tất cả những nỗi khốn khổ của cơ thể, và cực hình tàn khốc của tư
tưởng cho đến ngày bà chết đi, đó là ngày bà được giải thoát. Chẳng hiểu bà
có bàng hoàng, khóc lóc, quỳ gối, đập đầu xuống đất, và cầu nguyện, cầu
nguyện, cầu nguyện.
|
Did she weep, distractedly, on her knees, her forehead to
the ground, and pray, pray, pray to Him who thus slays his creatures and
gives them youth only that he may render old age more unendurable, and lends
them beauty only that he may withdraw it almost immediately? Did she pray to
Him, imploring Him to do for her what He has never yet done for any one, to
let her retain until her last day her charm, her freshness and her
gracefulness? Then, finding that she was imploring in vain an inflexible
Unknown who drives on the years, one after another, did she roll on the
carpet in her room, knocking her head against the furniture and stifling in
her throat shrieks of despair?
Doubtless she suffered these tortures, for this is what
occurred:
|
Đấng đã giết người ta như vậy và chỉ cho người ta sự trẻ
trung để làm cho tuổi già thêm cay cực, và chỉ cho người ta mượn sắc đẹp để
rồi lấy lại ngay tức khắc, bà có cầu xin, van nài Người hãy làm cho bà ta
điều mà Người không bao giờ làm cho ai hết, hãy để lại cho bà, đến mãi ngày
tận số, vẻ hấp dẫn, sự tươi thắm và duyên sắc mỹ lệ? Rồi hiểu là mình đã khẩn
cầu vô hiệu Đấng vô danh khắc nghiệt cứ đẩy năm tháng qua, năm này kế tiếp
năm khác, chẳng hiểu bà có vặn tay, lăn mình trên thảm trải phòng, có đập đầu
vào đồ đạc và ghìm trong họng những tiếng la thét tuyệt vọng khủng khiếp?
Chắc hẳn bà đã chịu đựng những sự giày vò hành hạ ấy. Bởi
vì đây là chuyện đã xảy ra.
|
One day (she was then thirty-five) her son aged fifteen,
fell ill.
He took to his bed without any one being able to determine
the cause or nature of his illness.
His tutor, a priest, watched beside him and hardly ever left
him, while Mme. Hermet came morning and evening to inquire how he was.
She would come into the room in the morning in her night
wrapper, smiling, all powdered and perfumed, and would ask as she entered the
door:
"Well, George, are you better?"
The big boy, his face red, swollen and showing the ravages
of fever, would reply:
"Yes, little mother, a little better."
She would stay in the room a few seconds, look at the
bottles of medicine, and purse her lips as if she were saying
"phew," and then would suddenly exclaim: "Oh, I forgot
something very important," and would run out of the room leaving behind
her a fragrance of choice toilet perfumes.
|
Một hôm, bấy giờ bà ta ba mươi nhăm tuổi, cậu con trai
mười lăm tuổi của bà bị ốm. Em nằm trên giường bệnh mà chưa xác định được em
đau chứng gì. Một linh mục là gia sư của em, trông nom em và không mấy khi
rời em, trong khi bà Ec-mê sớm, tối đến hỏi thăm tin tức.
Buổi sáng, bà vào, mặc áo choàng đen, tươi cười, người đã
thơm phưng phức, và vừa đến cửa đã hỏi ngay:
-Thế nào, Giooc-giơ, có đỡ không con?
Đứa trẻ đã lớn, mặt đỏ, sưng mọng và hao mòn vì sốt, trả
lời:
-Có, thưa mẹ, hơi đỡ.
Bà ở lại trong phòng chốc lát, nhìn các chai thuốc, chúm
môi kêu khẽ: “Khiếp!”, rồi đột nhiên kêu lên: “À! Quên mất một việc rất cần”
và bà chạy ra ngoài, để lại sau mùi phấn hương trang điểm thơm tho.
|
In the evening she would appear in a decollete dress, in a
still greater hurry, for she was always late, and she had just time to
inquire:
"Well, what does the doctor say?"
The priest would reply:
"He has not yet given an opinion, madame."
But one evening the abbe replied: "Madame, your son
has got the small-pox."
She uttered a scream of terror and fled from the room.
When her maid came to her room the following morning she
noticed at once a strong odor of burnt sugar, and she found her mistress,
with wide-open eyes, her face pale from lack of sleep, and shivering with
terror in her bed.
As soon as the shutters were opened Mme. Herrnet asked:
"How is George?"
"Oh, not at all well to-day, madame."
|
Buổi tối, bà xuất hiện, mặc áo dài hở cổ hở ngực, còn vỗi
vã hơn nữa, vì bao giờ bà cũng bị
muộn, và bà chỉ vừa kịp đủ thì giờ để hỏi:
-Thế nào, thấy thuốc bảo sao?
Linh mục trả lời:
-Thưa bà, ông ấy còn chưa chắc là bệnh gì.
Thế rồi, một buổi tối, linh mục trả lời: “Thưa bà, cậu nhà
mắc bệnh đậu mùa”.
Bà hét lên hoảng sợ và bỏ chạy. Sáng hôm sau, khi cô hầu
phòng vào buồng bà, thoạt tiên cô ngửi thấy mùi đường cháy khét lẹt, và cô
thấy bà chủ nằm trong giường, mắt mở, mặt xanh xao vì mất ngủ và run lẩy bẩy
vì lo âu hoảng hốt. Khi các cánh cửa đã mở, bà Ec-mê hỏi:
-Giooc-giơ ra sao?
-Ồ, thưa bà, hôm nay sức khỏe cậu không khá tí nào.
|
She did not rise until noon, when she ate two eggs with a
cup of tea, as if she herself had been ill, and then she went out to a
druggist's to inquire about prophylactic measures against the contagion of
small-pox.
She did not come home until dinner time, laden with
medicine bottles, and shut herself up at once in her room, where she
saturated herself with disinfectants.
The priest was waiting for her in the dining-room. As soon
as she saw him she exclaimed in a voice full of emotion:
"Well?"
"No improvement. The doctor is very anxious:"
She began to cry and could eat nothing, she was so worried.
The next day, as soon as it was light, she sent to inquire
for her son, but there was no improvement and she spent the whole day in her
room, where little braziers were giving out pungent odors. Her maid said also
that you could hear her sighing all the evening.
She spent a whole week in this manner, only going out for
an hour or two during the afternoon to breathe the air.
She now sent to make inquiries every hour, and would sob
when the reports were unfavorable.
|
Mãi tới trưa bà mới dậy, ăn hai quả trứng, uống một cốc
nước chè, như thể chính bà bị ốm, rồi bà ra đi, đến một dược sĩ hỏi các biện
pháp phòng lây bệnh đậu mùa. Mãi đến giờ ăn chiều bà mới về, mang theo nào
chai nào lọ, và đóng cửa ở luôn trong phòng, tẩm đầy người các chất sát trùng
tẩy uế.
Linh mục đợi bà ở phòng ăn. Vừa thấy ông, bà ta kêu lên,
giọng rất xúc động:
“Thế nào?”.
“Không khá
được. Bác sỹ rất lo lắng.”
Bà khóc, và không ăn uống được gì hết, vì băn khoăn dằn
vặt.
Ngày hôm sau, trời vừa rạng, bà đã cho hỏi tin tức, những
tin tức này không hay gì hơn, và suốt ngày bà ở trong phòng riêng nghi ngút
những lò than nhỏ tỏa mùi khét. Ngoài ra, cô gái ở còn quả quyết là nghe thấy
bà rền rĩ suốt buổi tối.
Cả một tuần trôi qua như vậy, bà không làm việc gì khác
ngoài việc đi dạo một hoặc hai tiếng đồng hồ cho thoáng khí, vào khoảng giữa
buổi chiều.
Bây giờ thì bà cho hỏi tin tức từng giờ một, và khóc nức
nở khi tin xấu đi.
|
On the morning of the eleventh day the priest, having been
announced, entered her room, his face grave and pale, and said, without
taking the chair she offered him:
"Madame, your son is very ill and wishes to see
you."
She fell on her knees, exclaiming:
"Oh, my God! Oh, my God! I would never dare! My God!
My God! Help me!"
The priest continued:
"The doctor holds out little hope, madame, and George
is expecting you!"
And he left the room.
Two hours later as the young lad, feeling himself dying,
again asked for his mother, the abbe went to her again and found her still on
her knees, still weeping and repeating:
"I will not.... I will not.... I am too much
afraid.... I will not...."
He tried to persuade her, to strengthen her, to lead her.
He only succeeded in bringing on an attack of "nerves" that lasted
some time and caused her to shriek.
|
Buổi sáng ngày thứ mười một, linh mục xin gặp, vào phòng
bà, mặt nghiêm trang và xanh tái, ông nói mà không ngồi xuống chiếc ghế bà
đưa mời:
-Thưa bà, cậu nhà mệt nặng, và cậu muốn gặp bà.
Bà ta quỳ sụp xuống mà kêu:
-Ôi! Lạy Chúa! Ôi! Lạy Chúa! Tôi không bao giờ dám đâu!
Lạy Chúa! Hãy cứu vớt lấy con!
Ông linh mục nhắc lại:
-Thưa bà, bác sĩ còn í thy vọng. Giooc-giơ đang đợi bà.
Và ông bước ra. Hai giờ đồng hồ sau, cậu thiếu niên cảm
thấy mình sắp chết, lại hỏi mẹ, linh mục bèn trở vào phòng bà ta và thấy bà
vẫn quỳ, vẫn khóc và lặp đi lặp lại:
-Tôi không muốn…tôi không muốn…tôi sợ quá lắm…tôi không
muốn…
Linh mục cố khuyên bà quyết định, động viên bà, lôi kéo
bà. Ông chỉ làm cho bà lên một cơn thần kinh kéo dài và khiến bà la hét.
|
The doctor when he came in the evening was told of this
cowardice and declared that he would bring her in himself, of her own
volition, or by force. But after trying all manner of argument and just as he
seized her round the waist to carry her into her son's room, she caught hold
of the door and clung to it so firmly that they could not drag her away. Then
when they let go of her she fell at the feet of the doctor, begging his
forgiveness and acknowledging that she was a wretched creature. And then she
exclaimed: "Oh, he is not going to die; tell me that he is not going to
die, I beg of you; tell him that I love him, that I worship him..."
|
Buổi chiều, viên thầy thuốc trở lại, được biết sự hèn nhát
đó, và tuyên bố rằng ông sẽ dẫn bà tới, hoặc tự ý, hoặc cưỡng ép. Nhưng sau
khi đã dùng thử mọi lập luận, ông bèn nhấc bà ta lên để đem đến gần con, thì
bà nắm lấy cánh cửa và bám chắc đến mức không sao lôi ra được. Rồi khi người
ta buông bà ra, bà sụp xuống chân ông thầy thuốc mà xin lỗi, mà tự buộc tội
mình là kẻ khốn nạn. Và bà kêu lên: “Ôi! Cháu không chết đâu, ông hãy bảo với
cháu là tôi yêu cháu, tôi quý cháu…”
|
The young lad was dying. Feeling that he had only a few
moments more to live, he entreated that his mother be persuaded to come and
bid him a last farewell. With that sort of presentiment that the dying
sometimes have, he had understood, had guessed all, and he said: "If she
is afraid to come into the room, beg her just to come on the balcony as far
as my window so that I may see her, at least, so that I may take a farewell
look at her, as I cannot kiss her."
|
Cậu thiếu niên hấp hối. Biết mình sắp đến lúc lâm chùng,
cậu khẩn khoản xin mọi người khuyên mẹ quyết định đến vĩnh biệt mình. Với thứ
linh tính đôi khi có ở những người sắp qua đời, cậu đã hiểu, đoán được hết,
và cậu nói: “Nếu mẹ tôi không dám vào, hãy xin mẹ tôi chỉ đi ngoài bao lơn
đến cửa sổ phòng tôi để ít ra tôi được trông thấy mẹ, để tôi nhìn và vĩnh
biệt mẹ vì không được ôm hôn mẹ”.
|
The doctor and the abbe, once more, went together to this
woman and assured her: "You will run no risk, for there will be a pane
of glass between you and him." She consented, covered up her head, and
took with her a bottle of smelling salts. She took three steps on the
balcony; then, all at once, hiding her face in her hands, she moaned:
"No... no... I would never dare to look at him... never.... I am too
much ashamed... too much afraid.... No... I cannot."
|
Thầy thuốc và linh mục lại trở vào
gặp người đàn bà đó lần nữa. Họ cả quyết: “Bà không cần ngại điều gì cả vì có
một tấm kính giữa bà và cậu ấy”. Bà ta nhận lời, choàng kín đầu, cầm một lọ
thuốc ngửi, bước ba bước trên bao lơn, rồi đột nhiên ôm mặt, rền rĩ:
“Không…không…tôi hổ thẹn quá…tôi sợ quá lắm…không…tôi không thể…”.
|
They endeavored to drag her along, but she held on with
both hands to the railings and uttered such plaints that the passers-by in
the street raised their heads. And the dying boy waited, his eyes turned
towards that window, waited to die until he could see for the last time the
sweet, beloved face, the worshiped face of his mother.
|
Người ta muốn kéo bà đi, nhưng bà túm chặt lấy lan can và
than vãn rên la đến nỗi khách đi đường bên dưới phải ngẩng lên xem. Và người
sắp chết vẫn chờ đợi, mắt hướng về khung cửa sổ ấy, chờ đợi, để chết đi còn
được trông thấy lần cuối cùng khuôn mặt dịu hiền yêu dấu, khuôn mặt thiêng
liêng của mẹ.
|
He waited long, and night came on. Then he turned over
with his face to the wall and was silent.
When day broke he was dead. The day following she was
crazy.
|
Cậu chờ đợi rất lâu, và đêm xuống. Cậu bèn quay mặt vào
tường và không nói một lời nào nữa.
Khi trời sáng, cậu đã chết. Ngày hôm sau, bà ta phát điên.
|
|
|
|
Translated by
Lê Hồng Sâm
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn