Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
Harvard President Drew Faust delivers her speech, "Aftermath: War, Memory and History." Bài thuyết trình "Cuộc chiến đã qua đi: Hồi ức và bài học lịch sử" của Giáo sư D.G.Faust - Hiệu trưởng ĐH Harvard
Harvard President
Drew Faust delivers her speech, "Aftermath: War, Memory and
History," at Ho Chi Minh City University of Social Sciences and
Humanities in Vietnam.
Bài thuyết trình
"Cuộc chiến đã qua đi: Hồi ức và bài học lịch sử" của Giáo sư
D.G.Faust - Hiệu trưởng ĐH Harvardtại
trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn (ĐHQG-HCM)
Harvard President
Drew Faust
At Ho Chi Minh CityUniversity of Social
Sciences and Humanities, Vietnam
March 23, 2017
Hiệu trưởng ĐH
Harvard
tại trường ĐH Khoa học Xã hội &
Nhân văn (ĐHQG-HCM)
March 23/3/2017
President Dat, Rector Sen, students, faculty,
distinguished guests — thank you for your very warm welcome and your generous
hospitality.
Thưa Giám đốc Ðạt, Hiệu trưởng Sen, các sinh viên, giảng viên, các
vị khách quý - cảm ơn
vì sự đón tiếp nồng hậu và lòng hiếu khách hào phóng của quý
vị.
For more than three decades before I became president of
Harvard, I worked as a scholar and teacher of history. For that reason it
gives me special pleasure to be here at the University of Social Sciences and
Humanities, one of Vietnam’s pre-eminent centers for historical study. It
also means a great deal to me to be here in your country, for important parts
of our national histories have been intertwined in ways that have affected
all of us. What you know as the War of National Salvation Against the
Americans — what we call “Vietnam” — indelibly shaped those of us coming of
age in the United States in the 1960s and 1970s. Even though I never came
within 8,000 miles of your country during those years, its names and places
have reverberated in my mind for decades: names like Khe Sanh, Pleiku, Ap
Bac, Dien Bien Phu, Gulf of Tonkin, Da Nang, Hue, Saigon, Hanoi. I have long
wanted to make at least some of those names more than words. You have a
slogan directed at tourists: “Vietnam: A Country, Not a War.” Like so many
other Americans who have travelled here, I have wanted to make Vietnam into a
place in my mind — not the name of a conflict that overtook my generation of
young Americans, but a society and nation with all its complexity, its
beauty, its history, its vibrancy, and its promise.
Trước khi trở thành Hiệu trưởng Đại học Harvard, tôi là
một học giả và giảng viên lịch sử trong suốt hơn ba mươi năm. Vì vậy, tôi đặc
biệt vui mừng được có mặt tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, một
trung tâm nghiên cứu lịch sử hàng đầu của Việt Nam. Việc có mặt tại đây, ở
đất nước các bạn, đối với tôi mang rất nhiều ý nghĩa, bởi vì nhiều giai đoạn
lịch sử quan trọng của hai quốc gia đã quyện chặt vào nhau và ảnh hưởng tới
tất cả chúng ta. Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước theo cách nói của các bạn
–và “Chiến tranh Việt Nam” theo cách gọi của chúng tôi – đã mãi mãi định hình
thế hệ chúng tôi, những người trưởng thành trong thập niên 1960-1970. Dù rằng
suốt những năm tháng đó, tôi chưa từng vượt 8000 dặm để đặt chân đến nơi này,
nhưng những địa danh như Khe Sanh, Pleiku, Ấp Bắc, Điện Biên Phủ, Vịnh Bắc
Bộ, Đà Nẵng, Huế, Sài Gòn, Hà Nội luôn không ngừng vang vọng trong tâm trí
tôi trong suốt mấy thập kỷ qua. Tôi đã hằng mong ít nhất một vài địa danh
trong số này không chỉ dừng ở con chữ. Các bạn có một khẩu hiệu nhắn gửi
khách du lịch rằng “Việt Nam là một đất nước chứ không phải một cuộc chiến
tranh.” Giống như rất nhiều người Mỹ khác từng đến đây, tôi vẫn hằng mong đến
một ngày nào đó, Việt Nam trong tâm trí tôi không phải tên gọi của một cuộc
xung đột bất ngờ ập đến với thế hệ chúng tôi, mà là một quốc gia và xã hội
với tất cả sự phức hợp, vẻ đẹp, lịch sử, sự sống động và triển vọng của nó.
And somehow seeing your country has come to seem for me
necessary to understanding my own. American men of my generation confronted
the military draft, which cast many into a struggle of conscience about
whether they would comply with laws that required them to serve in a war they
believed unwise and unjust. For young women, like me, the dilemma was less
immediately personal, but it propelled us to ask unsettling questions about
our nation, our democracy, and our very humanity. Michael Herr, a journalist
from the United States who covered the war, once wrote that Vietnam was, and
I quote him, “what we had instead of happy childhoods.”
Và không hiểu sao, dường như đối với tôi, tìm hiểu đất
nước của các bạn trở thành điều cần thiết để hiểu chính đất nước của tôi.Thanh niên trai tráng trong thế hệ
chúng tôi đã phải đối diện với giấy gọi nghĩa vụ quân sự, khiến nhiều người
phải đấu tranh nội tâm xem họ có nên tuân thủ pháp luật, phụng sự cuộc chiến
mà họ cho rằng vừa không khôn ngoan vừa bất chính. Đối với lớp phụ nữ trẻ như
tôi thời bấy giờ, tình thế tiến thoái lưỡng nan đỡ mang tính trực diện cá
nhân hơn, nhưng nó thôi thúc chúng tôi đặt câu hỏi nghi ngờ về quốc gia của
mình, về nên dân chủ và về tính nhân văn của chúng tôi. Michael Herr, một nhà
báo Mỹ chuyên viết về cuộc chiến này đã từng viết rằng Việt Nam là những gì
tất cả chúng tôi đã có thay vì một tuổi thơ hạnh phúc.
Each May at Harvard, hundreds of former students return to
campus to mark the 50th anniversary of their graduation. This is an important
annual ritual, and this spring, a special event will take place within the
customary set of observances. Members of the class of 1967 — both men and
women — will devote a segment of their time together to remembering the way
the war defined their College years and to discussing how what they call
“Vietnam” has affected them for over half a century. As one class member who
served in the Marines writes, “Many in my ... generation made choices about
Vietnam that ... have haunted us, in dreams and awake, for the rest of our
lives.”
Ở Harvard, hằng năm cứ đến tháng 5 là hàng trăm cựu sinh
viên sẽ về lại trường để kỷ niệm 50 năm ngày ra trường của họ. Đây là một
nghi lễ quan trọng,và vào mùa xuân này, một sự kiện đặc biệt sẽ diễn ra trong
khuôn khổ các buổi lễ. Các thành viên của khóa 1967 – cả nam và nữ – sẽ dành
một phần thời gian để cùng nhau tưởng nhớ lại cách thức Cuộc chiến đã định hình
những tháng năm đại học của họ, và thảo luận xem “Chiến tranh Việt Nam” đã
ảnh hưởng đến họ hơn nửa thế kỷ ra sao.Một thành viên khóa nàytừng là lính
thủy đánh bộ đã viết “rất nhiều người thế hệ tôi… đã phải có những lựa chọn
về Việt Nam khiến chúng tôi bị ám ảnh suốt quãng đời còn lại của mình, cả lúc
tỉnh cũng như khi mơ”.
The war was not fought on American soil; 3 million tons of
bombs and 11 million gallons of defoliant were not dropped on my country;
58,220 American soldiers died, compared to more than an estimated 3 million
Vietnamese military and civilian deaths during the Second Indochina War. But
both our societies live with ghosts, with memories, and with legacies. With
the aftermath.
Cuộc chiến ở ngoài nước Mỹ, 3 triệu tấn bom và 11 triệu gallon
thuốc diệt cỏ đã không rơi trên đất nước chúng tôi; 58.220 lính Mỹ hy sinh,
so với con số ước tính khoảng hơn 3 triệu quân và dân Việt Nam thiệt mạng
trong“Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai”. Nhưng cả hai xã hội của chúng ta
đều sống với những bóng ma, với ký ức và với những di sản. Với hậu quả chiến
tranh.
I was not a member of the Harvard class that will have its
reunion this spring, but I am close to their age, and like them, I was shaped
by the war in ways I still am not sure I fully understand. But one influence
I can clearly identify has been upon my work as a historian. Coming of age in
the 1960s produced in me an enduring fascination with war, with the way its
terrible demands can define individuals and societies, with war’s inevitable
refraction of ideas and ideals, with the extremity of its pressures. War
often proves to be a quintessential “moment of truth,” both for individuals
and their societies.
Tôi không phải là thành viên của khóa sinh viên Harvard sẽ
hội ngộ vào mùa xuân này, nhưng tôi cùng trang lứa với họ, và cũng như họ,
tôi đã bị định hình bởi chiến tranh Việt Nam theo những cách mà đến tận bây
giờ tôi vẫn chưa hoàn toàn thấu hiểu. Nhưng một ảnh hưởng mà tôi có thể xác
định rõ ràng là về công việc của tôi với tư cách một sử gia. Việc trưởng
thành trong thập niên 1960 đã tạo ra trong tôi sự cuốn hút dai dẳng với chiến
tranh, với cách mà những đòi hỏi khủng khiếp của nó có thể nhào nặn các cá nhân
và xã hội, với sự khúc xạ không tránh khỏi của quan điểm và lý tưởng chiến
tranh, với những áp lực tột cùng của nó. Chiến tranh có thể ví như “lửa thử
vàng”thuần chất, đối với mỗi cá nhân cũng như cho toàn xã hội.
Within the history of the American experience of war, the
conflict that rests at the core of national identity is the American Civil
War, fought between 1861 and 1865. Both because of its ferocity and because
the very meaning and survival of the nation were at stake, the Civil War
continues to loom large in our national consciousness, and it has been the
focus of my historical research and writing. Many of the war’s critical
debates — about justice, equality, citizenship, democracy, and about the
locus of national power — these debates continue to shape our politics a
century and a half after the war’s end. And we continue to struggle over the
war’s meaning for the nation’s abiding racial divisions. Americans still
battle over the use of the Confederate flag, the emblem of the would-be white
southern nation that fought to preserve black slavery, a symbol that today is
seen by most Americans as an affront and an obstacle to racial justice.
Trong lịch sử chiến tranh Hoa Kỳ, cuộc Nội chiến kéo dài
từ năm 1861 đến năm 1865 giữ vị trí cốt lõi trong căn tính quốc gia. Sự tàn
bạo và ý nghĩa sống còn của cuộc Nội chiến khiến nó, cho đến tận ngày hôm
nay, vẫn choán một mảng lớn trong tâm thức dân tộc, và nó cũng là trọng tâm
nghiên cứu và viết sử của tôi.Rất nhiều tranh luận quan trọng về cuộc chiến – về
công lý, bình đẳng, dân quyền, dân chủ và trung tâm quyền lực quốc gia – tiếp
tục định hình các chính sách của nước Mỹ cả một thế kỷ rưỡi sau khi chiến
tranh kết thúc. Và chúng tôi vẫn tiếp tục tự vấn một cách nhọc nhằn về ý
nghĩa của cuộc chiến đối với tình trạng phân biệt chủng tộc vẫn tồn tại cho
đến tận bây giờ. Người Mỹ vẫn vật lộn với việc sử dụng lá cờ liên minh miền
Nam (Confederate flag), biểu tượng của phần lãnh thổ sẽ là quốc gia da trắng
phương Nam, đấu tranh để giữ chế độ nô lệ da đen, một biểu tượng ngày nay
được đa số người Mỹ nhìn nhận như là một sự sỉ nhục và rào cản của bình đẳng
sắc tộc.
Customarily, war’s victor writes its history. But by the
end of the 19th century, the triumphant North had come to embrace a version
of the war that sought to reconcile sectional divisions in a narrative of
common sacrifice, common suffering shared by white Americans North and South.
As the price of reunion, the nation abandoned the Union’s emancipationist
commitment to a “new birth of freedom” and all but deserted the 4 million
former slaves who with their descendants were consigned to segregation and
discrimination for more than a century to come. The legal foundations of
slavery were ended, but the vision of true freedom for African-Americans was
set aside in order to enable North and South to reunite in their common sense
of mourning and loss.
Thông thường, bên thắng cuộc viết nên lịch sử cuộc chiến.
Nhưng vào cuối thế kỷ 19, Liên bang miền Bắc - người chiến thắng - đã chọn
“phiên bản chiến tranh” như là sự mất mát chung của cả hai phía, sự đau đớn
mà cả người Mỹ da trắng phương Bắc và phương Nam cùng chia sẻ, qua đó cố gắng
hòa giải sự chia rẽ dân tộc. Cái giá cho sự hòa hợp này là nước Mỹ đã từ bỏ
cam kết của Liên bang miền Bắc về giải phóng nô lệ, về “một nền tự do mới”,
bỏ rơi 4 triệu nô lệ cũ cùng với con cháu của họ, đẩy họ vào cảnh bị kỳ thị
và phân biệt đối xử trong hơn một thế kỷ tiếp theo. Các nền tảng pháp lý của
chế độ nô lệ đã chấm dứt, nhưng tầm nhìn về tự do thực sự cho người Mỹ gốc
Phi đã bị gạt sang một bên để cho Bắc và Nam hòa giải trong một tâm trạng
chungvề mất mát và tang tóc.
The Civil War had indeed demanded great sacrifice. An
estimated 750,000 had died — more than in every other American war combined
up through the war in Vietnam. Losses claimed 2½ percent of the population. A
similar rate of death in the United States today would mean nearly 7 million
fatalities.
Quả thực, cuộc Nội chiến đòi hỏi sự hy sinh to lớn.Khoảng
750.000 người đã chết – nhiều hơn thương vong của tất cả các cuộc chiến tranh
từ trước gộp lại cho tới Chiến tranh Việt Nam. Mất mát này chiếm tới 2,5% dân
số. Nếu tính cho dân số Hoa Kỳ ngày nay, tỷ lệ tử vong tương tự sẽ ứng với
gần 7 triệu nhân mạng.
This was a war for which Americans were ill-prepared. Both
sides thought it would likely end after a single battle if indeed any blood
would be shed at all. With some few exceptions, it was a war of organized
encounters, not guerrillas or irregulars. But the scale of the conflict —
nearly 3 million men served in the course of the war — that scale far
exceeded anything the military had previously experienced and as a result, it
challenged the logistical imagination and capacities of both armies.
Người Mỹ đã không được chuẩn bị cho cuộc Nội chiến này.Cả hai bên đều nghĩ rằng, nếu có
phải đổ máu đi chăng nữa thì cũng chỉ cần một trận đánhđể kết thúc chiến tranh.Trừ một vài ngoại lệ, đây là cuộc
chiến có tổ chức chứ không phải chiến tranh du kích hay chiến tranh bất
thường. Nhưng quy mô của cuộc xung đột - gần 3 triệu đàn ông tham gia - vượt
xa những gì quân đội từng chứng kiến, thách thức trí tưởng tượng cũng như
năng lực hậu cần của cả hai phía.
The war’s unexpected scale had many implications, but one
that has particularly captured my attention was the meaning and impact of
mass death. Death — its threat, its proximity, its actuality — became the
most widely shared of the war’s experiences. How did the nation cope with
this loss? I have sought to ask that question on every level, from the
logistical — what did they do with the bodies? — to the psychological, the
political, and the spiritual.
Quy mô vượt quá kỳ vọng của cuộc chiến đem đến nhiều hệ
lụy, nhưng một điều đặc biệt thu hút sự chú ý của tôi là ý nghĩa và tác động
của những cái chết hàng loạt. Chết chóc, mối đe dọa đi cùng với nó, cận kề nó
và hiện thực của nó trở thành những kinh nghiệm chiến tranh được chia sẻ rộng
rãi nhất.Làm thế nào
để quốc gia đương đầu với những tổn thất này?Tôi đã cố gắng đặt câu hỏi đó ở
mọi cấp độ, từ hậu cần – họ đã làm gì với những xác chết – cho tới tâm lý,
chính trị và tinh thần.
Neither northern nor southern armies had regular burial
details, graves registration units, identity badges like dog tags, or
official next-of-kin notification. Burial was an act of improvisation. After
a battle, the victor who held the ground became responsible for the bodies left
upon it. This often resulted in anonymous mass trench burials, especially of
enemy dead. Coffins were rare, except for officers.
Cả quân đội miền Bắc lẫn miền Nam đều không có thông tin
chi tiết về an táng liệt sỹ, không có các đơn vị chuyên ghi chép mộ chí,
không cóphù hiệu như
thẻ bài quân nhân, và cũng không có thông báo chính thức cho thân nhân liệt
sỹ. Việc chôn cất chỉ có tính tình thế.Sau mỗi trận đánh, bên thắng cuộc chiếm giữ trận
địa phải chịu trách nhiệm giải quyết các thi thể để lại trên chiến trường.
Điều này thường dẫn đến những hầm chôn tập thể vô danh, đặc biệt đối với thi
thể của phía bên kia. Hiếm khi có quan tài, ngoại trừ cho các sĩ quan.
Soldiers and civilians alike were shocked by the
inhumanity represented by such treatment of the dead. Nineteenth-century
Americans shared deeply felt attitudes about what constituted a “good death”
and how that could determine one’s fate into eternity. Emerging battlefield
practices seemed to upend almost every hope and expectation for proper
treatment of the slain. Men were being interred, one soldier observed, as if
they were nothing better than “dead chickens.” In the face of circumstances
that undermined fundamental assumptions of human dignity and identity,
civilians and soldiers alike worked to sustain some semblance of the beliefs
and customs that had defined them. Soldiers struggled to identify comrades,
dig and mark individual graves, or bury the unknown with some sort of a
marker — perhaps a name on a piece of paper inside a bottle — that might
later be found. Voluntary societies were formed to undertake the work
governments did not — mapping locations of graves and recording the names of
the slain. Comrades offered makeshift funeral ceremonies, seeking to maintain
some semblance of reverence and meaning even under trying and dramatically
changed new conditions. It was my great privilege yesterday to visit a
military cemetery at Ap Bac. Created a century after our American Civil War
and half a world away, this graveyard represents the same human urgency to
honor the dead and their sacrifice.
Cả quân nhân và dân thường đều bị sốc bởi cách thức đối xử
vô nhân đạo với người chết. Người Mỹ thế kỷ 19 chia sẻ một cách sâu sắc quan
điểm về cái gì tạo thành một “cái chết đẹp”, có thể quyết định số phận của
mỗi người ở cõi bên kia ra sao. Giờ đây, các hành xử trên chiến trường dường
như tung hê hầu hết mọi hy vọng và trông đợi đối xử đúng mực với người chết.
Một người lính quan sát rằng đàn ông được chôn cất như thể họ chỉ là con “gà
toi” không hơn không kém. Đối diện với hoàn cảnh mọi giả định cơ bản về nhân
phẩm và nhân dạng bị xói mòn, cả dân thường và binh lính về mặt hình thức đều
cố giữ một vài đức tin và tập quán của họ. Binh lính cố gắng xác định danh
tính đồng đội, đào và dánh dấu mồ mả từng người hoặc chôn những người không
quen biết với một số chỉ dấu – có thể là tên và giấy tờ để trong chai lọ – để
sau này có thể tìm lại được. Nhiều tổ chức thiện nguyện được hình thành để
đảm nhận công việc mà chính quyền không làm – lập bản đồ vị trí các ngôi mộ
và ghi lại tên của những người bị giết. Đồng đội tổ chức tang lễ tạm thời,
tìm cách giữ gìn vẻ tôn kính và ý nghĩa ngay cả trong điều kiện đầy bi thảm.
[Hôm qua tôi có vinh dự to lớn được thăm nghĩa trang quân đội tại Ấp Bắc.
Được hình thành một thập kỷ sau cuộc Nội chiến của chúng tôi, ở nơi cách xa
nửa vòng trái đất, nghĩa trang này cũng thể hiện cùng một nhu cầu nhân văn
cấp bách vinh danh người chết và sự hy sinh của họ].
Despite such efforts, in the American Civil War, hundreds
of thousands of men — more than 40 percent of deceased Yankees and a far
greater proportion of Confederates — perished without names, identified only
as “Unknown.” To modern Americans this seems unimaginable. To your country it
is all too real, for the actual number of missing and unidentified in our
Civil War — an estimated 300,000 — is probably quite close to the total
number of Vietnamese unaccounted for in the Second Indochina War. Today the
United States expends more than $100 million annually in the effort to find
and identify individuals still missing from World War II, Korea, and Vietnam.
I am certain you in this country are well acquainted with the vehemence of
the American MIA movement after 1975. But the assumption that the American
nation is obliged to account for and return — either dead or alive — every
soldier in its service is of recent origin. Only with the Korean War did the
United States establish a policy of identifying and repatriating every dead
soldier. Only with World War I did combatants begin to wear official badges
of identity — what we call dog tags. But this revolution in both
consciousness and practice began with the Civil War. That war’s last days saw
the origins of grave registration systems in the military, and, by the end of
the conflict, the United States government had begun to establish a national
cemetery system, a powerful acknowledgement of the obligation of the state to
those who have died in its defense.
Mặc dù có những nỗ lực như vậy, trong cuộc nội chiến Mỹ,
hàng trăm ngàn người - hơn 40% người Yankee và một tỷ lệ lớn hơn rất nhiều
những người lính Liên minh miền Nam - đã bỏ mạng mà không có tên tuổi
gì, bị nhận dạng là “vô danh”. Với người Mỹ hiện đại, điều này dường như
không thể tưởng tượng nổi. Đối với đất nước các bạn, điều này chẳng xa lạ gì
bởi con số những người mất tích và không xác định được danh tính trong cuộc
nội chiến của chúng tôi – ước chừng 300 ngàn người – có thể là khá gần với số
mất tích của người Việt trong chiến tranh Đông Dương 2. Ngày nay, hàng năm
Hoa kỳ chi hơn 100 triệu đô-la cho nỗ lực tìm kiếm và nhận dạng những người
mất tích trong Chiến tranh thế giới thứ II, Chiến tranh Hàn Quốc và Chiến
tranh Việt Nam. Tôi tin rằng các bạn đều rất quen thuộc với hoạt động tích
cực của MIA sau năm 1975. Nhưng sự thừa nhận rằng nước Mỹ có trách nhiệm phải
giải trình và hồi hương – dù đã chết hay còn sống – mọi binh sĩ đang thực
hiện nhiệm vụ chỉ mới bắt đầu gần đây.Chỉ từ chiến tranh Hàn Quốc, Hoa Kỳ mới thiết lập
chính sách nhận dạng và hồi hương mọi liệt sỹ. Phải đến Thế chiến thứ nhất
binh sĩ mới bắt đầu đeo phù hiệu nhận dạng chính thức – cái mà ngày nay chúng
ta gọi là thẻ bài quân nhân.Nhưng cuộc cách mạng cả về tâm thức và thực hành này thực
tế đã bắt đầu từ Nội chiến. Hệ thống ghi sổ mồ mả trong quân đội bắt đầu xuất
hiện vào cuối cuộc chiến, và khi chiến tranh kết thúc, chính phủ Hoa kỳ đã
bắt đầu thiết lập hệ thống nghĩa trang quốc gia, một nghĩa vụ trọng đại của
nhà nước để ghi nhận công lao của những người đã ngã xuống bảo vệ đất nước.
In the years between 1866 and 1871, after the end of
military hostilities, Union soldiers were detailed to scour the war-torn
countryside in search of their dead comrades. Ultimately, they located and
reburied more than 300,000 individuals in 74 new national cemeteries and they
succeeded in identifying more than half of those they found. The very scale
of this effort would have been unimaginable before the war, when the national
government was very limited in its powers and programs. The project of
reburying the dead defined a different sort of nation-state, a government
newly dedicated to the dignity of each human being in death as well as in
life, a government — as Abraham Lincoln put it — of the people, by the
people, and for the people who had risen in its defense.
Trong khoảng thời gian từ 1866 đến 1871, khi chiến sự hoàn
toàn lắng xuống, quân sỹ Liên bang miền Bắc được cử đi khắp các miền quê bị
chiến tranh giày xéo để tìm thi thể đồng đội. Cuối cùng, họ định vị và an
táng được 303 ngàn người trong 74 nghĩa trang quốc gia mới và nhận dạng thành
công hơn một nửa số họ tìm được. So với trước chiến tranh, khi quyền lực và
chương trình hành động của chính quyền rất hạn chế, thì những nỗ lực vô cùng
to lớn này là điều không thể tưởng tượng nổi. Dự án an táng liệt sỹ định
nghĩa một kiểu quốc gia dân tộc khác trước, một chính quyền mới cống hiến cho
phẩm giá của mỗi con người còn sống hay đã chết, một chính quyên của dân, do
dân và vì dân, những người đã đứng lên để bảo vệ đất nước.
But these unprecedented federal initiatives were far from
sufficient to relieve the sense of loss and mourning that permeated the
nation. Hundreds of thousands of Americans were left with what one bereaved
survivor called a “dread void of uncertainty” about loved ones whose fate
remained unknown. Families wondered for the rest of their lives about lost
husbands, fathers, or sons. One grieving woman described how, and I quote
her, “It was years before I gave up the hope that he would someday appear. I
got it into my head that he had been taken prisoner and carried off but that
he would make his way back one day.” The absence of identifiable bodies left
the bereaved with abiding uncertainty and fantastical hopes, with illusions
to make the world more endurable.
Nhưng ngay cả những sáng kiến liên bang chưa từng có tiền
lệ này cũng không thể làm dịu cảm giác mất mát và tang tóc bao trùm đất nước.
Hàng trăm ngàn người Mỹ bị bỏ lại với khoảng trống khủng khiếp của sự không
chắc chắn về số phận vẫn chưa được sáng tỏ của những người thân yêu. Trong
suốt quãng đời còn lại, thân nhân của họ vẫn luôn tự hỏi về số phận của người
chồng, người cha, hay người con trai mất tích. Một người phụ nữ đau đớn kể
lại “phải mất nhiều năm tôi mới từ bỏ hy vọng rằng một ngày nào đó ông ấy sẽ
xuất hiện. Trong đầu tôi luôn nghĩ rằng ông ấy bị bắt làm tù binh và giải đi,
nhưng ông ấy sẽ tìm đường trở về với tôi”. Thi thể không được nhận dạng khiến
gia đình mất người thân đeo đẳng với sự không chắc chắn, đồng thời hy vọng
vào điều kỳ diệu, tuy là ảo tưởng, để cuộc sống trở nên dễ chịu hơn.
Aftermath. The enduring challenge of how to live with the
residuum of war. Ambrose Bierce, a writer who served in the Union army, wrote
of being permanently haunted by, as he put it, “visions of the dead and
dying,” and he felt himself, as he said, “sentenced to life” and to making
sense of how Civil War death had redefined what life might be. Sidney Lanier,
a Confederate poet who had been both a combatant and a prisoner of war,
commented in 1875 that for most of his “generation in the South since the
War,” he said, “pretty much the whole of life has been not-dying.” A kind of
survivors’ guilt. A version of post-traumatic stress that seizes not just
individuals but societies.
Hậu quả của chiến tranh. Thách thức lâu dài làm thế nào
sống với tàn dư của chiến tranh. Ambrose Bierce, một nhà văn từng phục vụ
trong quân đội Liên bang miền Bắc, đã viết về việc thường xuyên bị ám ảnh bởi
“ảo mộng về người chết và sự chết chóc”, và tự cảm thấymình “bị kết án phải
sống”, và lý giải những cái chết trong cuộc Nội chiến đã định nghĩa lại cuộc
sống như thế nào. Năm 1875, Sydney Lanier, một nhà thơ Liên minh miền Nam,
vừa là chiến sĩ vừa là tù nhân chiến tranh, đã nhận xét rằng đối với phần lớn
“kể từ cuộc chiến, đối với thế hệ của ông ở miền Nam, toàn bộ cuộc đời gần
như chỉ là sự ngắc-ngoải”. Một kiểu mặc cảm tội lỗi của người sống sót. Một
phiên bản của tình trạng căng thẳng hậu sang chấn đè nặng không chỉ lên mỗi
cá nhân mà toàn xã hội.
The aftermath of war is devastation — humans wounded and
disfigured, children who have become orphans, property and sources of
livelihood destroyed, economies shattered, populations divided. Yet the
aftermath rests not just in the body, but in the soul, even in the souls of
those born long after the guns have gone silent. That is why the American
Civil War and its enormous cost continue to influence our national debates
today. That is why members of the Harvard College Class of 1967, men and
women now in their 70s, feel an urgency to confront experiences more than
five decades old, memories of a time when “Vietnam” asked them to define
themselves and their nation. That is why I am so glad to be in your country
at last, for I too am of their generation.
Hậu quả chiến tranh là tàn phá – con người bị thương và
biến dạng; trẻ em trở thành mồ côi; tài sản và nguồn sinh kế bị phá hủy; kinh
tế đảo lộn; dân chúng chia rẽ.Nhưng hậu quả không chỉ dừng lại ở cơ thể, mà còn
nằm trong tâm hồn, thậm chí trong tâm hồn của những người sinh ra rất lâu sau
khi tiếng súng đã tắt. Đó là vì sao cuộc nội chiến Mỹ và cái giá to lớn của
nó tiếp tục ảnh hưởng đến các tranh luận của chúng tôi ngày nay. Đó là vì sao
các thành viên Harvard niên khóa 1967, các ông bà nay đã ở độ tuổi 70, cảm
thấy sự cấp thiết phải đối diện với những kinh nghiệm từ hơn năm thập kỷ
trước, những ký ức của một thời khi “Việt Nam” đòi hỏi họ phải định nghĩa
chính họ và quốc gia của họ. Đó là vì sao tôi hết sức vui mừng cuối cùng cũng
đã được đặt chân đến đất nước các bạn, bởi tôi cũng cùng thế hệ với họ.
The character Kien in Bao Ninh’s acclaimed novel The
Sorrow of War asks, “Why choose war? Why must he write of the war?” Even as
Kien struggles to find another subject, he “cannot stop writing war stories.”
Like him, we write and we talk and we remember because we struggle to
understand how war has made us. Vietnam and the United States fought against
one another in a long and devastating war. Now, both separately and together,
we face its aftermath.
“Tại sao lựa chọn chiến tranh? Tại sao anh phải viết về
cuộc chiến?” nhân vật Kiên trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Nỗi buồn chiến
tranh” của Bảo Ninh tự vấn. Ngay cả khi anh ta cố gắng hết sức để tìm một chủ
đề khác, anh cũng “không thể thôi viết về chiến tranh”. Cũng như anh, chúng
ta viết, chúng ta trò chuyện và chúng ta ghi nhớ bởi chúng ta đều cố gắng để
hiểu chiến tranh đã nhào nhặn chúng ta ra sao. Việt Nam và Hoa Kỳ đã đối đầu
nhau trong một cuộc chiến kéo dài và tàn phá nặng nề. Giờ đây, riêng cũng như
chung, chúng ta đang đối diện với hậu quả của nó.
History is indispensable in that effort. It helps us
confront the ghosts and the demons that the tragedies of the past leave as
their legacy to the present. It illuminates the blindnesses and cruelties
that enable war. It equips us to imagine and to strive for peace.
Trong nỗ lực này, lịch sử là điều không thể thiếu. Lịch sử
giúp chúng ta đối diện với những vong hồn và ma quỷ mà bi kịch quá khứ để lại
như một di sản cho hiện tại. Nó soi rọi những sự mù quáng và tàn bạo đã làm
nên chiến tranh. Nó giúp chúng ta hình dung và đấu tranh cho hòa bình.
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn