MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Sunday, November 20, 2016

A CHILD CALLED 'IT' (1) KHÔNG NƠI NƯƠNG TỰA



A CHILD CALLED 'IT'

KHÔNG NƠI NƯƠNG TỰA

Dave Pelzer

Dave Pelzer


Biên dịch:
THANH HOA - VI THẢO NGUYÊN

CONTENTS
Introduction
Acknowledgement
Author’s notes

1-THE RESCUE
2- GOOD TIMES
3- BAD BOY
4- THE FIGHT FOR FOOD
5- THE ACCIDENT
6- WHILE FATHER IS AWAY
7- THE LORD’S PRAYER
EPILOGUE
AFTERWORD

MC LC
Lời giới thiệu.
Lời cảm ơn.
Lời tác giả.

1- GIẢI THOÁT
2- THỜI TƯƠI ĐẸP
3- ĐỨA TRẺ HƯ HỎNG
4- CUỘC CHIẾN VÌ MIẾNG ĂN
5 -TAI NẠN
6- KHI CHA VẮNG NHÀ
7- LỜI CẦU CHÚA
LỜI KẾT
LỜI BẠT


Introduction

David J. Pelzer's mother, Catherine Roerva, was, he writes in this ghastly, fascinating memoir, a devoted den mother to the Cub Scouts in her care, and somewhat nurturant to her children - but not to David, whom she referred to as "an It."
This book is a brief, horrifying account of the bizarre tortures she inflicted on him, told from the point of view of the author as a young boy being starved, stabbed, smashed face-first into mirrors, forced to eat the contents of his sibling's diapers and a spoonful of ammonia, and burned over a gas stove by a maniacal, alcoholic mom. Sometimes she claimed he had violated some rule - no walking on the grass at school! - but mostly it was pure sadism. Inexplicably, his father didn't protect him; only an alert schoolteacher saved David.

Lời giới thiệu

Mẹ của tác giả David J. Pelzer, Catherine Roerva, từng là, như ông đã viết cuốn hồi ký trong kinh khủng, hấp dẫn này, một người trưởng hướng đạo sinh chăm sóc các sói con, và khá quan tâm chăm sóc cho con cái mình - nhưng không phải cho cậu con trai David, người mà gọi là "một con vật".
Cuốn sách này là một lời kể tóm tắt, kinh hoàng về sự tra tấn kỳ quặc mà bà mẹ đã gây thương tổn cho tác giả, từ quan điểm của  tác giả một cậu bé bị bỏ đói, bị đâm, đập vỡ mặt rồi bị bắt đứng nhìn mình trong gương, bị buộc phải ăn phân của em mình trên tã và uống ammoniac, và bị đốt trên bếp gas bởi một mẹ say rượu, điên cuồng. Đôi khi tuyên con trai đã vi phạm một số quy tắc - không đi bộ trên bãi cỏ ở trường! - Nhưng phần lớn là do tính bà thích trò tàn bạo. Không hiểu sao, cha của tác giả đã không bảo vệ con trai; chỉ một thầy giáo sáng suốt đã cứu được David.


“A Child Called ‘It’ is a heart-stopping, compelling book. It is one of the most important books of our time and a ‘must read’ for anyone who searches for the secret of internal motivation.”
- Vicki Binninger, Executive Director
Parents’ Place A California Child Abuse Prevention, Intervention and Treatment Center
“Không nơi nương tựa là một quyển sách hấp dẫn và làm xúc động lòng người. Đây là một trong những tựa sách có ý nghĩa trong thời đại chúng ta và là quyển sách nên đọc đối với những ai đang đi tìm bí mật của sức mạnh nội tại.”
- Vicki Binniger
Giám đốc điều hành Hội Cha Mẹ, Trung tâm Điều trị, Can thiệp và Phòng chống Bạo hành Trẻ em California

“Once this book was in my hands, I couldn’t put it down. This is the best book on the subject of child abuse I have ever read. As the reader moves with David through fear, loss, isolation, pain and rage to eventual hope, the dark world of the abused child becomes painfully clear. We become aware of the child’s cry through David’s eyes, ears and body. A C’hild Called ‘Jt’made me want to hold my family close to my heart and cherish our love.”
Valerie Bivens, Social Worker
Child Protective Services
The State of California

“Khi cầm quyển sách này trong tay, tôi đã không thể buông xuống. Đây là quyển sách hay nhất về đề tài bạo hành trẻ em mà tôi từng được đọc. Khi độc giả đi cùng David qua nỗi sợ hãi, mát mát, bị cô lập, nỗi đâu và cả những cơn giận dữ tột cùng để đến được với niềm tin sau cùng, thì thế giới tối tăm của đứa trẻ bị ngược đãi cũng được phơi bày ra ánh sáng, dù nó từng chứa đựng nhiều nối đau. Chúng ta đã nghe thấu được tiếng khóc than của những đứa trẻ bị ngược đãi qua đôi mắt, đôi tay và thân thể của Dave Pelzer. Không nơi nương tựa khiến tôi chỉ muốn ôm chặt lấy những người thân yêu của mình trong tình yêu thương.”
- Valerie Bivens, Nhân viên xã hội Tổ chức Bảo vệ Trẻ em California

“In my 31 years of teaching, David Peizer was the most severely abused child I have known.”

Athena Konstan, Teacher
Daly City, California


"Trong 31 năm dạy học của tôi, David Peizer là đứa trẻ bị lạm dụng nghiêm trọng nhất mà tôi đã từng biết."

Athena Konstan, giáo viên
Thành phố Daly, California

“Dave Pelzer’s child experience is a testimony to the triumph of the human spirit. This 1)00k vividly articulates the abuse he suffered at the hands of his mother and the unbelievable apathy of others to his plight. Pelzer’s courage and determination will go a long way in helping the millions of children in America who, too often, suffer every day in silence.”

- Mark Riley
Child Welfare League of America
“Ký ức tuổi thơ của Dave Pelzer là bằng chứng cho sự chiến thắng của ý chí con người. Quyển sách đã lột tả được một cách rõ ràng nhất sự ngược đãi mà cậu bé phải chịu đựng dưới bàn tay của người mẹ và sự bàng quan vô cảm đến khó tin của những người xung quanh trước hoàn cảnh khốn khổ của cậu.
Lòng dũng cảm và sự quyết tâm của Pelzer sẽ còn giúp ích rất nhiều cho hàng triệu trẻ em đang phải sống và chịu đựng sự ngược đãi trong thầm lặng.”
- Mark Riley
Liên hiệp Phúc lợi Trẻ em Hoa Kỳ

‘To know the moment of abuse and how one child willed himself to survive, read this compelling, spellbinding account. One can only hope it will help us focus on stopping abuse before it occurs,”

- Anne Cohn-Donnelly
National Committee for Prevention of Child Abuse

“Để biết thế nào là sự giày vò về tinh thần lẫn thể xác của bạo hành trẻ em cũng như để biets đứa trẻ ấy quyết chí thế nào để sống sót sau tất cả,hãy đọc quyển sách hết sức cảm động và rất thuyết phục này. Hy vọng rằng quyển sách sẽ giúp chúng ta tập trung vào việc ngăn chặng nạn bạo hành trước khi quá muộn.”
- Anne CohnDonnelly
Ủy ban Phòng chống Bạo hành Trẻ em Quốc Gia

“David Pelzer is a triumphant survivor of his childhood abuse. David’s story will help people understand that each year hundreds of thousands of helpless children are being brutalized and tortured.”

Glenn A. Goldberg, former Executive Director
California Consortium

“Dave Pelzer là người sống sót vĩ đại vì đã chiến thắng quá khứ bị ngược đãi của mình. Câu chuyện của Dave sẽ giúp chúng ta hiểu rằng mỗi năm còn có hàng trăm ngàn đứa trẻ vô tội khác bị tra tấn và đối xử tàn bạo.”

- Glenn A.Goldberg
Cựu Giám đốc điều hành của Cục Chống Bạo hành Trẻ em California





Dedication

Lời đề tặng
This book is dedicated to my son Stephen, who, by the grace of God, has taught me the gift of love and joy through the eyes of a child.
This book is also dedicated to the teachers and staff members of Thomas Edison Elementary School to include:

Steven E. Ziegler
Athena Konstan
Peter Hansen
Joyce Woodworth
Janice Woods
Betty Howell
and the School Nurse

To all of you, for your courage and for putting your careers on the line that fateful day, March 5, 1973.
You saved my life.

Quyển sách này được dành tặng cho con trai Stephen của tôi - đứa con mà cùng với lòng lành của Chúa, đã chỉ cho tôi biết thế nào là tình yêu và hạnh phúc bằng đôi mắt của một đứa trẻ.
Quyển sách này cũng được dành tặng cho các thầy cô giáo cũng như hội đồng giáo vụ của Trường tiểu học Thomas Edison, trong đó có:

Thầy Steven E.Ziegler
Cô Athena Konstan
Thầy Peter Hansen
Cô Joyce Woodworth
Cô Janice Woods
Cô Betty Howell
và cô y tá của trường.

Xin được dành tặng cho tất cả các thầy cô, những người đã can đảm và mạo hiểm cả sự nghiệp của mình trong cái ngày định mệnh ấy, ngày 5 tháng 3 năm 1973
Các thầy cô đã cứu vớt cuộc đời em.

Acknowledgments
After years of intensive labor, sacrifice, frustration, compromises and deception, this book is finally published and available in bookstores everywhere. I wish to take a moment and pay homage to those who truly believed in this crusade.
To Jack Canfield, coauthor of the phenomenal bestseller Chicken Soup for the Soul, for his extreme kindness and opening a big door.
Jack is indeed a rare entity who, without reservation, assists more individuals in a single day than many of us can help in a lifetime. Bless you Sir.
To Nancy Mitchell and Kim Wiele at the Canfield Group for their enormous enthusiasm and guidance. Thank you ladies.

Lời cảm ơn
Sau nhiều năm lao động vất vả, hy sinh, thất vọng, thỏa hiệp và lừa dối, cuốn sách này cuối cùng đã được xuất bản và có mặt trong các hiệu sách ở khắp nơi. Tôi muốn nhân thời điểm này bày tỏ lòng kính trọng đối với những người thực sự tin tưởng vào câu chuyện đời tôi.
Xin gửi lời cảm ơn đến Jack Canfield, đồng tác giả của bộ sách Chicken Soup for the Soul, vì sự tận tụy và tấm lòng bác ái rộng mở của ông.
Jack thực sự là một trong số ít những người có thẻ giúp nâng đỡ tâm hồn của rất nhiều người khác, không một chút ngần ngại. Cầu chúa ban phúc lành.
Xin gửi lời cảm ơn đến Nancy Michell và Kim Wiele trong nhóm cộng sự của Canfield, vì sự nhiệt thành và hỗ trợ tận tâm của họ. Chân thành biết ơn các chị.

To Peter Vegso at Health Communications, Inc., as well as Christine Belleris, Matthew Diener, Kim Weiss and the entire friendly staff at HCI for their honesty, professionalism and everyday courtesy that make publishing a pleasure. Kudos galore to Irene Xanthos and Lori Golden for their tenacious drive and for picking up the slack. And a gargantuan thank you to the Art Department for all your hard work and dedication.

Xin gửi lời cảm ơn đến Peter Vesgo công tác ở Trung tâm Truyền thông Sức khỏe (HCI), cũng như cảm ơn Christine Belleris, Metthew Diener, Kim Wiess và toàn thể nhóm cộng sự nhiệt thành ở HCI vì sự tận tụy, tính chuyên nghiệp và sự nhã nhặn hàng ngày của họ đã khiến cho công việc xuất bản quyển sách này trở thành một niềm vui thú. Gửi lời cảm ơn rất nhiều đến Irene Xanthos và Lori Golden vì tinh thần làm việc không mệt mỏi. Và gửi lời cảm ơn chân thành nhất đén Bộ phận Thiết ké Mỹ thuận vì sự hăng say và hết mình của các bạn trong công việc.

A special thank you to Marsha Donohoe, editor extraordinaire, for her hours of reediting and eradicating “the Wahoo” out of the tome (that’s “book” for those of you who reside in Yuba/Sutter Counties in Northern CA), so to provide the reader with a clear, precise sense of this story through the eyes of a child. For Marsha, it was a matter of “… Farmer’s Trust.”
To Patti Breitman, of Breitman Publishing Projects, for her initial work and for giving it a good run for the money.
To Cindy Adams for her unwavering faith when I needed it the most.
A special thank you to Ric & Don at the Rio Villa Resort, mythen home away from home, for providing the perfect sanctuary during the process of this project.
And lastly, to Phyllis Colleen. I wish you happiness. I wish you peace. May God bless you.

Xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến nữ biên tập viên Marsah Donohoe, người đã dành rát nhiều thời gian để biên tập quyển sách này, giúp mang đến cho độc giả một câu chuyện có nọi dung mạch lạc và chính xác dưới cái nhìn của một đứa trẻ.
Xin gửi lời cảm ơn đến Patty Breitman, người làm việc cho Dự án Xuất bản Breitman vì sự đống góp mang tính khơi nguồn của cô, cùng sự hỗ trợ về tài chính rát chu đáo để giúp tôi xuất bản cuốn sách này.
Xin gửi lời cảm ơn đến Cindy Adams vì sự tin tưởng tuyệt đối mà cô đã dành cho tôi.
Xin gửi lời đặc biệt cảm ơn đến Ric và Don ở khu nhà nghỉ Rio, nơi có căn nhà cũ của gia đình tôi năm xưa, vì đã đem đến cho chúng tôi một không gian hoàn hảo trong suốt quá trình làm cuốn sách này.
Và cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến Phyllis Colleen. Tôi chúc cô luôn được hạnh phúc, an lành.

Author’s Notes
Some of the names in this book have been changed in order to maintain the dignity and privacy of others.
This book, the first part of the trilogy, depicts language that was developed from a child’s viewpoint. The tone and vocabulary reflect the age and wisdom of the child at that particular time.
This book is based on the child’s life from ages 4 to 12.
The second part of the trilogy, The Lost Boy, is based on his life from ages 12 to 18.

Lời tác giả
Tên một số nhân vật trong quyển sách này đã được thay đổi để giữ bí mật đời tư của họ.
Quyển sách này là phần đầu trong một bộ ba câu chuyện, miêu tả thực trạng bị ngược đãi dưới cái nhìn của một đứa trẻ. Giọng điệu và ngôn ngữ được sử dụng trong quyển sách phản ánh lứa tuổi và cách suy nghĩ của đứa trẻ trong khoãng thời gian đặc biệt đó.
Quyển sách này viết về cuộc sống của nhân vật chính từ năm bốn tuổi đến năm mười hai tuổi.
Phần thứ hai của bộ ba, quyển The Lost Boy, viết về diễn biến tiếp theo về cuộc sống của nhân vật vào khoảng thời gian nhân vật mười hai đến mười tám tuổi.

Contents

1-The Rescue
2- Good Times
3- Bad Boy
4- The Fight for Food
5- The Accident
6- While Father Is Away
7- The Lord’s Prayer
Epilogue
Afterword

Nội dung

1- Giải thoát
2- Thời tươi đẹp
3- Thằng bé hư
4- Cuộc chiến giành thức ăn
5- Tai nạn
6- Khi cha đi xa
7- Cầu Chúa
Lời kết
Lời bạt
CHAPTER 1 - THE RESCUE

March 5, 1973, Daly City, California
I’m late. I’ve got to finish the dishes on time, otherwise no breakfast; and since I didn’t have dinner last night, I have to make sure I get something to eat. Mother’s running around yelling at my brothers. I can hear her stomping down the hallway towards the kitchen. I dip my hands back into the scalding rinse water. It’s too late. She catches me with my hands out of the water.

CHƯƠNG 1 - GIẢI THOÁT

Ngày 5 tháng 3 năm 1973, thành phố Daly, California.
Tôi dậy muộn. Nếu không rửa xong đống bát đĩa kia đúng giờ, sáng nay tôi sẽ không được ăn sáng. Vì tối qua chẳng được ăn gì nên giờ tôi phải cố làm sao có cái gì đó cho vào bụng. Mẹ đang rượt đuổi avf hét mắng hai người anh em trai của tôi. Nghe thấy tiếng chân huỳnh huỵch của mẹ ngoài hành lang nhà bếp,
tôi vội vã nhúng tay vào bồn rửa bát, nhưng không kịp rồi. Mẹ đã nhìn thấy hai tay tôi bên ngoài chậu nước.

SMACK! Mother hits me in the face, and I topple to the floor. I know better than to stand there and take the hit. I learned the hard way that she takes that as an act of defiance, which means more hits, or worst of all, no food. I regain my posture and dodge her looks, as she screams into my ears.

BỐP! Mẹ tát mạnh vào mặt tôi khiến tôi ngã bổ nhào xuống sàn nhà. Tôi biết tốt hơn là mình nên dứng yên đó mà chịu trận. Tôi đã học được một điều cay đắng là mẹ xem việc tôi ngã, chảy máu hay khóc lóc như một hành động thách thức; và điều đó có nghĩa là tôi sẽ nhận thêm nhiều trận đòn khác hay tệ hơn là sẽ bị bỏ đói. Tôi lồm cồm dậy và né tránh cái nhìn của bà, trong khi bà vẫn quát vào tai tôi những từ ngữ đã trở nên quá quen thuộc.

I act timid, nodding to her threats.
“Please,” I say to myself, “just let me eat. Hit me again, but I have to have food.”
Another blow pushed my head against the tile counter top. I let the tears of mock defeat stream down my face as she storms out of the kitchen, seemingly satisfied with herself. After I count her steps, making sure she’s gone, I breathe a sigh of relief. The act worked. Mother can beat me all she wants, but I haven’t let her take away my will to somehow survive.

Những lời đe dọa của mẹ khiến tôi dè dặt hẳn, tôi thì thào:
- Làm ơn! Chỉ cần cho con ăn thôi. Mẹ cứ đánh con nữa đi, nhưng con cần được ăn!
Cú đánh tiếp theo của mẹ tôi dụi đầu tôi vào tường. Như đã giải tỏa được cơn tức giận, mẹ lao ra khỏi nhà bếp. Những giọt nước mắt chịu đựng chảy dài trên mặt tôi. Khi biết chắc mẹ dã đi khỏi, tôi thở phào nhẹ nhõm. Mẹ có thể đánh tôi bao nhiêu cũng được, nhưng tôi không bao giờ để mẹ vùi dập nghị lực sống của tôi.

I finish the dishes, then my other chores. For my reward I receive breakfast- leftovers from one of my brothers’ cereal bowls. Today it’s Lucky Charms. There are only a few bits of cereal left in a half of a bowl of milk, but as quickly as I can, I swallow it before Mother changes her mind. She has done that before. Mother enjoys using food as her weapon. She knows better than to throw leftovers in the garbage can. She knows I’ll dig it out later. Mother knows most of my tricks.

Rửa xong bát đĩa, tôi dọn dẹp nhà cửa. Phần thưởng cho tất cả những việc này là một bữa ăn sáng- gọi là bữa ăn sáng, nhưng thực ra đó chỉ là những mẩu thức ăn thừa trong khẩu phần của cậu em trai của tôi. Ngày hôm nay như thế là đã may mắn lắm. Nhưng tôi phải ngón thật nhanh trước khi mẹ thay đổi ý. Trước giờ mẹ vẫn thường như thế. Mẹ sử dụng thức ăn như một thứ vũ khí lợi hại. Mẹ sẵn sàng quẳng phần thức ăn thừa ít ỏi vào thùng rác vì biết thế nào tôi cũng moi nó ra mà ăn. Mẹ nắm hết mọi suy nghĩ và hành động của tôi.

Minutes later I’m in the old family station wagon. Because I’m so late with my chores, I have to be driven to school. Usually I run to school, arriving just as class begins, with no time to steal any food from other kids’ lunch boxes.

Vài phút sau đó tôi nhảy vội lên chiếc xe trở hàng của gia đình. Vì phải lo dọn dẹp nhà cửa nên tôi bị trễ giờ, và mẹ phải chở tôi đi học. Thường ngày tôi vẫn chạy bộ đến trường, mỗi lần như vậy tôi đều đến nơi vừa kịp lúc lớp học bắt đầu nên tôi cũng chẳng thó được chút thức ăn nào từ phần ăn trưa của những bạn khác.

Mother drops my oldest brother off, but keeps me for a lecture about her plans for me tomorrow. She is going to take me to her brother’s house. She says Uncle Dan will “take care of me.”
She makes it a threat. I give her a frightened look as if I am truly afraid. But I know that even though my uncle is a hardnosed man, he surely won’t treat me like Mother does.

Mẹ để anh tôi xuống xe trước và giữ tôi lại để thông báo cho tôi biết kế hoạch ngày mai. Mẹ sẽ đưa tôi sang nhà cậu. Mẹ nói Dan sẽ “chăm sóc” tôi.
Giọng mẹ như hăm dọa. Tôi nhìn mẹ làm ra vẻ sợ hãi. Tuy vậy, trong thâm tâm, tôi lại nghĩ dù cậu có nghiêm khắc đến mấy, nhưng chắc chắn cậu sẽ không đối xử với tôi giống như cách của mẹ.

Before the station wagon comes to a complete stop, I dash out of the car. Mother yells for me to return. I have forgotten my crumpled lunch bag, which has always had the same menu for the last three years- two peanut butter sandwiches and a few carrot sticks. Before I bolt out of the car again, she says, “Tell ’em… Tell ’em you ran into the door.”
Then in a voice she rarely uses with me, she states, “Have a nice day.”

Tôi lao ra khỏi xe, mẹ hét với theo bảo tôi quay lại do tôi bỏ quên hộp cơm trưa. khẩu Phần cơm trưa của tôi suốt ba năm nay vẫn vậy - chỉ là hai chiếc bánh sandwich phết bơ đậu phộng và một vài thanh cà rốt bé tí, trước khi tôi đóng cửa mẹ còn nói với theo:
- Này, nếu như cô giáo có hỏi tì nhớ nói do mày bị va vào cửa nhé.
Rồi bằng một giọng rất ít khi dành cho tôi, mẹ nói tiếp – Một ngày tốt lành nhé!

I look into her swollen red eyes. She still has a hangover from last night’s stupor. Her once beautiful, shiny black hair is now frazzled clumps. As usual, she wears no makeup. She is overweight, and
she knows it. In all, this has become Mother’s typical look.
Because I am so late, I have to report to the administrative office. The grayhaired secretary greets me with a smile. Moments later, the school nurse comes out and leads me into her office, where we go through the normal routine. First, she examines my face and arms. “What’s that above your eye?” she asks.

Tôi nhìn theo đôi mắt đỏ hoe sưng húp của mẹ, đó là vết tích của một ngày dài căng thẳng hôm qua. Mái tóc óng ả, mượt mà ngày xưa của mẹ giờ chỉ còn là một búi tóc xơ xác. Mẹ ít khi trang điểm. Do thừa cân nên lúc nào trông mẹ cũng nặng nề, và mẹ biết rõ điều đó.
Vì đến lớp khá muộn nên tôi phải nên văn phòng báo cáo. Cô nhân viên phòng giáo vụ với mái tóc đã điểm bạc cười chào tôi. Lát sau, y tá nhà trường đến gọi tôi vào văn phòng rồi hướng dẫn tôi làm thủ tục vào lớp. Cô y tá nhìn mặt và tay tôi rồi hỏi:
- Mắt em sao thế?

I nod sheepishly, “Oh, I ran into the hall door… by accident.” Again she smiles and takes a clipboard from the top of a cabinet. She flips through a page or two, then bends down to show me. “Here,” she points to the paper, “You said that last Monday. Remember?”
I quickly change my story, “I was playing baseball and got hit by the bat. It was an accident.” Accident. I am always supposed to say that. But the nurse knows better. She scolds me so I’ll tell the truth. I always break down in the end and confess, even though I feel I should protect my mother.


Tôi cúi đầu ấp úng:
- Vâng, do em sơ ý va vào cửa ạ?
Cô mỉm cười và mở ngăn kéo lấy tập hồ sơ. Sau khi lật qua vài trang, cô dừng lại và chỉ vào tờ giấy”
- Đây, hôm thứ Hai tuần trước em cũng nói như vậy. Em có nhớ không?
Tôi vội vàng đính chính:
- Vâng, em chơi bóng và bị va vào cột. Chỉ là sơ ý thôi ạ.
Tôi luôn cố gắng thuyết phục y tá là tôi sơ ý tự gây thương tích cho mình. Nhưng cô ấy hẳn đã hiểu là còn nguyên nhân nào khác. Cô khuyên tôi nên nói thật. Cuối cùng, tôi đã không thể nói dối được nữa và phải thú nhận mọi chuyện, mặc dù tôi biết lẽ ra tôi phải tìm cách nào đó để bảo vệ mẹ.

The nurse tells me that I’ll be fine and asks me to take off my clothes. We have been doing this since last year, so I immediately obey. My longsleeve shirt has more holes than Swiss cheese. It’s the same shirt I’ve worn for about two years. Mother has me wear it every day as her way to humiliate me. My pants are just as bad, and my shoes have holes in the toes. I can wiggle my big toe out of one of them. While I stand clothed only in my underwear, the nurse records my various marks and bruises on the clipboard. She counts the slashlike marks on my face, looking for any she might have missed in the past. She is very thorough. Next, the nurse opens my mouth to look at my teeth that are chipped from having been slammed against the kitchen tile counter top. She jots a few more notes on the paper.

Cô y tá an ủi tôi và bảo tôi cởi áo ngoài. Năm ngoái chúng tôi cũng từng rơi vào tình huống này rồi nên ngay lập tức tôi làm theo cô. Chiếc áo sơ mi dài tay này tôi đã mặc liên tục trong hai năm trời nên bị thủng nhiều lỗ còn hơn cả miếng pho mát Thụy Sĩ nữa. Mẹ tôi bắt tôi mặc đi mặc lại chiếc áo này như muốn tôi phải xấu hổ trước bạn bè. Chiếc quần tôi đang ămcj thì bạc phếch, còn đôi giày thì sờn cũ và rách mũi đến mức ngón chân của tôi có thể thò ra ngọ nguậy. Y tá nhìn những vết bầm và trầy xước trên cơ thể tôi rồi cẩn thận ghi vào hồ sơ. Cô quan sát những vết cưa trên mặt tôi và cố gắng tìm lại những vết thương có đã bỏ qua ở lần ghi trước. Cô bảo tôi há to miệng rồi nhìn vào những dấu răng mẻ của ôi do bị đập vào cạnh bàn. Cô ghi thêm vài thứa lên tờ giấy.
As she continues to look me over, she stops at the old scar on my stomach. “And that,” she says as she takes a deep swallow, “is where she stabbed you?”
“Yes, ma’am,” I reply. “Oh no!” I tell myself, “I’ve done something wrong… again.” The nurse must have seen the concern in my eyes. She puts the clipboard down and hugs me.
“God,” I tell myself, “She is so warm.” I don’t want to let go. I want to stay in her arms forever. I hold my eyes tightly shut, and for a few moments nothing else exists. She pats my head. I flinch from the swollen bruise Mother gave me this morning. The nurse then breaks the embrace and leaves the room. I rush to put my clothes back on. She doesn’t know it, but I do everything as fast as possible.

Có vẻ như cô không để sót bất kỳ dấu vết tổn thương nào của tôi. Cuối cùng cô sửng sốt nhìn vào vết sẹo tên bụng tôi và kêu lên:- Mẹ đánh em vào chỗ này phải không?
- Vâng thưa cô. – Tôi trả lời.”Ôi không”. Tôi nghĩ thầm-“ mình lại phạm sai lầm nữa rôi”. Như đọc được nỗi lo lắng trong mắt tôi, cô y tá đặt hồ sơ
xuống và dịu dàng ôm tôi vào lòng.
”Chao ôi! Cô ấy mới ấm áp làm sao”. Tôi không còn muốn đi đâu nữa, chỉ mong được ở lại trong vòng tay cô mãi mãi. Tôi nhắm nghiền mắt, trong lòng cứ sợ giây phút ngắn ngủi này sẽ không bao giờ có nữa. Cô y tá xoa nhẹ đầu tôi. Thế mà tôi cũng không chịu nổi, phải co người lại vì vết sưng tấy trên trán. Khi cô vừa đi khỏi, tôi vội vã mặc quần áo vào, tôi không muốn ai nhìn thấy những vết thâm tím trên cơ thể mình.

The nurse returns in a few minutes with Mr Hansen the principal, and two of my teachers, Miss Woods and Mr Ziegler. Mr Hansen knows me very well. I’ve been in his office more than any other kid in school. He looks at the paper, as the nurse reports her findings. He lifts my chin. I’m afraid to look into his eyes, which is mostly a habit from trying to deal with my mother. But it’s also because I don’t want to tell him anything. Once, about a year ago, he called Mother to ask about my bruises. At that time, he had no idea what was really going on. He just knew I was a troubled kid who was stealing food. When I came to school the next day, he saw the results of Mother’s beatings. He never called her again.


Một lát sau, cô y tá quay trở lại cùng với thầy hiệu trưởng Hansen và hai giáo viên của tôi, cô wood và thầy Zierler. Thầy hiệu trưởng biết tôi rất rõ. Tôi đến văn phòng của thầy nhiều hơn bất kỳ học sinh nào khác trong trường này. Đọc xong phần ghi chép về tôi trong hồ sơ y tá, thầy nâng cằm tôi lên. Tôi ngượng ngùng không dám nhìn vào mắt thầy, vì lúc nào thầy cũng muốn biết nhiều hơn, nhiều hơn nữa về mẹ tôi, rằng tại sao mọi chuyện lại xảy ra như thế. Tôi thường tránh nói bất kỳ điều gì với thầy về mẹ. Một năm trước có lần thầy mời mẹ tôi lên để hỏi về những vết trầy xước trên ngừơi tôi. Lúc đó thầy không biết chuyện gì đã xảy ra.Thầy chỉ biết tôi là kẻ ngỗ nghịch luôn đánh cắp thức ăn trưa của các bạn trong lớp. Nhưng chỉ ngay ngày hôm sau khi tôi lên lớp, thầy biết tôi lại bị mẹ đánh khi nhìn thấy những vết bầm mới, thầy không bao giờ mời mẹ tôi đến trường nữa.

Mr Hansen barks he’s had enough of this. I almost leap out of my skin with fear. “He’s going to call Mother again!” my brain screams. I break down and cry. My body shakes like jello and I mumble like a baby, begging Mr Hansen not to phone Mother.
“Please!” I whine, “Not today! Don’t you understand, it’s Friday?”
Mr Hansen assures me he’s not going to call Mother, and sends me off to class. Since it’s too late for homeroom class, I sprint directly to Mrs Woodworth’s English class. Today’s a spelling test on all the states and their capitals. I’m not prepared. Usually I’m a very good student, but for the past few months I gave up on everything in my life, including escaping
my misery through my schoolwork.

Thầy Hansen quay sang nói lớn với mọi người rằng không thể để tình trạng này kéo dài. Nghe thầy nói thế, tôi sợ tái mặt.” Thầy lại gọi cho mẹ mất thôi”- Tôi bắt đầu hình dung đến những cảnh tượng khủng phiếp có thể xảy ra. Rồi không thể kìm được nữa, tôi òa khóc, người run lên bần bật. Tôi láp bắp van xin thầy đừng gọi điện cho mẹ:” Xin thầy làm ơn! Làm ơn đừng gọi cho mẹ em hôm nay. Thầy không biết hôm nay là thứ Sáu sao?”
Thầy Hansen đành phải hứa với tôi là sẽ không gọi cho ẹm tôi, rồi thầy bảo tôi hãy v lớp. Tôi chỉ còn kịp chạy thng đến lớp Tiếng Anh của cô Woodworth. Hôm nay là ngày thi viết toàn bang mà tôi lại chưa chuẩn bị gì. Tôi vốn là học sinh giỏi, nhưng mấy tháng qua tôi gần như bỏ mặc mọi thứ trên đời, kể cả việc chạy chốn nỗi đau khổ của mình bằng cách vùi đầu vào những bài tập trong lớp.

Upon entering the room, all the students plug their noses and hiss at me. The substitute teacher, a younger woman, waves her hands in front of her face. She’s not used to my smell. At arms length she hands my test to me, but before I can take my seat in
the back of the class by an open window, I’m summoned back to the principal’s office. The entire room lets out a howl at me – the reject of the fifth grade.

Khi tôi vừa bước chân vào lớp, tất cả học sinh trong lớp đều bịt mũi lại và xì xào bàn tán về tôi. Người dạy thế là một cô giáo trẻ, cô cũng xua xua tay tỏ vẻ khó chịu, Cô ấy không quen với cái mùi của tôi, nhưng tôi chưa kịp về đến chỗ ngồi của mình ở phía cuối lớp, gần cánh cửa sổ đang mở toang, thì bị gọi ngược lên văn phòng của thầy hiệu trưởng. Cả căn phòng xôn xao vì những tiếng thì thào nói về tôi - một đứa học sinh lớp năm luôn bị xa lánh.

I run to the administration office, and I’m there in a flash. My throat is raw and still burns from yesterday’s “game” Mother played against me. The secretary leads me into the teachers’ lounge. After she opens the door, it takes a moment for my eyes to adjust. In front of me, sitting around a table, are my homeroom teacher Mr Ziegler, my math teacher Miss Woods, the school nurse, Mr Hansen and a police officer. My feet become frozen. I don’t know whether to run away or wait for the roof to cave in. Mr Hansen waves me in, as the secretary closes the door behind me. I take a seat at the head of the table, explaining I didn’t steal anything… today. Smiles break everyone’s depressed frowns. I have no idea that they are about to risk their jobs to save me.

Tôi đi như chạy về phía phòng hành chính vả chỉ trong giây lát đã có mặt ở đó. Cổ họng tôi vẫn khô rát và nóng như lửa đốt- hậu quả của”trò chơi” mẹ đã bày ra ngày hômq au. Cô nhân viên phòng giáo vụ dẫn tôi vào phòng họp của giáo viên. Sau khi mở cửa, tôi phải mất ít phút mới có thể định thần trở lại. Trước mặt tôi là thầy chủ nhiệm Ziegler, giáo viên dạy Toán của tôi - cô Moss, cô y tá của trường, thầy Hansen và một viên cảnh sát đang ngồi quanh chiếc bàn dài. Chân tôi tê cứng. Tôi không biết mình nên bỏ chạy hay đứng lại đó để mọi việc muốn ra sao thì ra. Thầy Hansen vẫy tôi vào, còn cô nhân viên phòng giáo vụ thì từ từ khép cửa lại. Tôi ngồi xuống ngay đầu bàn, vội vàng lên tiếng thanh minh rằng hôm nay mình chẳng lấy cắp thứ gì cả… Mọi người đều mỉm cười khiến không khí trở nên dịu lại. tôi không hình dung được rằng họ đang cố gắng cứu lấy tôi.

The police officer explains why Mr Hansen called him. I can feel myself shrink into the chair. The officer asks that I tell him about Mother. I shake my head no. Too many people already know the secret, and I know she’ll find out. A soft voice calms me. I think it’s Miss Woods. She tells me it’s all right. I take a deep breath, wring my hands and reluctantly tell them about Mother and I. Then the nurse has me stand up and show the policeman the scar on my chest. Without hesitation, I tell them it was an accident; which it was - Mother never meant to stab me.

Viên cảnh sát giải thích tại sao họ lại mời ông ấy đến. Tôi co rúm ngừơi lại trên chiếc ghế mình đang ngồi. Viên cảnh sát yêu cầu tôi kể rõ vè mẹ tôi cho ông ấy nghe. Tôi lắc đầu từ chối. Đã có quá nhiều người biết được bí mật của tôi, rồi bà sẽ nhanh chóng biết được điều đó mất thôi. Bỗng một giọng nói dịu dàng vang lên chấn an tôi. Tôi nghĩ đó là cô Moss. Cô ấy nói với tôi rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn. Tôi hít một hơi thật sâu, siết chặt hai bàn tay vào nhau và ngập ngừng kể câu chuyện giữa tôi và mẹ. Rồi cô y tá bảo tôi đứng dậy và chỉ cho viên cảnh sát vết sẹo trên ngực tôi. Không một chút suy nghĩ, tôi nói ngay rằng nó chỉ là một tai nạn, rằng mẹ không bao giờ cố ý làm tôi bị thương như vậy cả.

I cry as I spill my guts, telling them Mother punishes me because I am bad. I wish they would leave me alone. I feel so slimy inside. I know after all these years there is nothing anyone can do.

Tôi vừa khóc vừa cài lại nút áo và nói với họ rằng mẹ chỉ phạt tôi vì tôi không ngoan. Tôi chỉ ước sao họ cứ để tôi được một mình. Thực tâm, tôi cảm thấy sao mình dối trá quá. Nhưng sau ngần ấy năm trời, tôi hiểu rằng se chẳng ai là được điều gì cho tôi cả.

A few minutes later, I am excused to sit in the outer office. As I close the door, all the adults look at me and shake their heads in an approving way. I fidget in my chair, watching the secretary type papers. It seems forever before Mr Hansen calls me back into the room. Miss Woods and Mr Ziegler leave the lounge. They seem happy, but at the same time worried. Miss Woods kneels down and wraps me in her arms. I don’t think I will ever forget the smell of the perfume in her hair. She lets go, turning away so I won’t see her cry. Now I am really worried.
Mr Hansen gives me a lunch tray from the cafeteria. “My God!
Is it lunch time already?” I ask myself.

Sau ít phút đó, các thầy cô bảo tôi tạm ra ngoài ngồi. Khi tôi vừa khép cánh cửa lại, những người lớn ngồi ở phòng ngoài đều nhìn tôi và lắc đầu ra chiều đồng cảm. Tôi ngọ nguậy trên ghế, mắt chăm chú nhìn cô nhân viên phòng giáo vụ đánh máy. Trong lúc chờ đợi thầy Hansen cho gọi tôi trở lại phòng, tôi có cảm giác thời gian như ngừng trôi. Cô Wood và thầy Ziegler rời khỏi phòng họp. Trông họ khá vui vẻ, nhưng đồng thời cũng thoáng chút lo lắng. Cô Wood
quỳ xuống choàng tay ôm lấy tôi. Tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ quên được mùi nước hoa thoảng trên tóc cô. Rồi cô quay mặt bước đi, để tôi không thấy cô khóc. Vậy nên ôi bắt đầu thấy lo lắng thực sự. Thầy Hansen đưa cho toi một khay thức ăn trưa được mua căng tin.
Chúa ơi, đến giờ ăn trưa rồi sao!” – Tôi tự hỏi.

I gobble down the food so fast I can hardly taste it. I finish the tray in record time. Soon the principal returns with a box of cookies, warning me not to eat so fast. I have no idea what’s going on. One of my guesses is that my father, who is separated from my mother, has come to get me. But I know it’s a fantasy.
The policeman asks for my address and telephone number.
“That’s it!” I tell myself. “It’s back to hell! I’m going to get it from her again!”

Tôi ăn ngấu ăn nghiến số thức ăn ấy nhanh đến nỗi chẳng kịp thưởng thức mùi vị của chúng. Tôi ăn xong bữa trưa của mình trong một thời gian kỉ lục. Ngay sau đó, thầy hiệu trưởng trở lại với một gói bánh quy, thầy còn dặn tôi không nên ăn quá nhanh như vậy. Tôi chẳng biết chuyện gì đang diễn ra nữa.
Lúc ấy tôi đoán rằng cha tôi - hiện đang sống ly thân với mẹ - sẽ đến đón tôi. Nhưng tôi biết đó chỉ là điều huyễn hoặc mà thôi. Viên cảnh sát hỏi tôi địa chỉ và
số điện thoại nhà tôi.
Biết ngay mà!”- Tôi thở hắt ra - “Lại quay về địa ngục rồi. Lại quay về địa ngục với mẹ nữa rồi!”

The officer writes down more notes as Mr Hansen and the school nurse look on. Soon he closes his note pad and tells Mr Hansen that he has enough information. I look up at the principal. His face is covered with sweat. I can feel my stomach start to coil. I want to go to the bathroom and throw up.

Viên cảnh sát ghi chú thêm vài điều, còn thầy Hansen và cô y tá đứng một bên theo dõi. Rồi ông ấy gấp cuốn sổ ghi chép của mình lại rồi nói với thầy
Hansen, khuôn mặt thầy ướt đẫm mồ hôi.; Tôi có thể cảm nhận được dạ dày của mình đang quặn thắt lại. Lúc đó tôi chỉ muốn chạy ngay vào nhà vệ sinh để nôn ra hết mọi thứ mà thôi.

Mr Hansen opens the door, and I can see all the teachers on their lunch break staring at me. I’m so ashamed. “They know,” I tell myself. “They know the truth about my mother; the real truth.” It is so important for them to know that I’m not a bad boy. I want so much to be liked, to be loved. I turn down the hall. Mr Ziegler is holding Miss Woods. She is crying. I can hear her sniffle. She gives me another hug and quickly turns away. Mr Ziegler shakes my hand.
“Be a good boy,” he says.
“Yes, sir. I’ll try,” is all I can say.

Thầy Hansen mở cửa ra, tất cả các thầy cô giáo đang ăn trưa quay sang nhìn tôi chăm chú. Tôi xấu hổ vô cùng.”Họ biết hết cả rồi” - Tôi nhủ thầm - “Họ đã biết hết sự thật về mẹ, một sự thật không thể chối cãi.” Nhưng họ cần phải biết rằng tôi không phải là một đứa trẻ hư đốn ngỗ nghịch. Tôi khát khao được mọi người yêu thương quý mến. Tôi lầm lũi đi về phía hành lang. Thầy Ziegler đang ôm lấy cô Wood. Cô đang khóc. Tôi nghe thấy tiếng cô sụt sịt. Cô lại ôm lấy tôi rồi vội vã bước đi. Thầy Ziegler nắm chặt tay tôi.
- Hãy là một cậu bé ngoan em nhé! – Thầy trìu mến nói với tôi.- Vâng thưa thầy! Em sẽ cố gắng! - Lúc ấy tôi chỉ có thể nói với thầy như vậy.

The school nurse stands in silence beside Mr Hansen. They all tell me goodbye. Now I know I am going to jail. “Good,” I tell myself. “At least she won’t be able to beat me if I’m in jail.”

Cô y tá đứng yên lặng bên cạnh thầy Hansen. Tất cả mọi người đều vẫy chào tạm biệt tôi. Giờ tôi biết mình sắp bị bỏ tù rồi.”Cũng tốt thôi”- Tôi tự nhủ - “Ít ra thì bà ấy cũng không thể đánh đập được mình khi mình ở trong tù”.

The police officer and I walk outside, past the cafeteria. I can see some of the kids from my class playing dodge ball. A few of them stop playing. They yell, “David’s busted! David’s busted!”
The policeman touches my shoulder, telling me everything is okay. As he drives me up the street, away from Thomas Edison Elementary School, I see some kids who seem to be fazed by my departure. Before I left, Mr Ziegler told me he would tell the other kids the truth- the real truth. I would give anything to have been there in class when they found out I’m not so bad.

Tôi cùng viên cảnh sát đi qua căng tin để ra ngoài. Tôi nhìn thấy mấy đưa bạn cùng lớp đang chơi bóng ném. Khi nhìn thấy tôi, vài đứa dừng chơi và gào lên: ”David bị bắt! David bị bắt!”. Nhưng viên cảnh sát vỗ lên vai tôi trấn an rằng mọi chuyện đều ổn cả. Khi chiếc xe cảnh sát lăn bánh đưa tôi rời khỏi trường tiểu học Thomas Edison, tôi nhìn thấy vẻ mặt kinh ngạc của một vài đứa bạn khác khi chứng kiến tôi bị giải đi như vậy. Trước khi tôi đi khỏi, thầy Ziegler nói với tôi rằn thày sẽ kể cho các bạn tôi biết sự thật. Một khi mọi người đã biết rằng tôi không phải là một học sinh hư hỏng thì tôi sẵn sàng đánh đổi bất cứ điều gì để được tiếp tục học cùng các bạn của mình.

In a few minutes, we arrive at the Daly City Police Station. I sort of expect Mother to be there. I don’t want to get out of the car. The officer opens the door and gently takes me by the elbow, into a big office. No other person is in the room. The policeman sits in a chair, in the corner, where he types several sheets of paper. I watch the officer closely as I slowly eat my cookies. I savor them as long as I can. I don’t know when I will be eating again.

Vài phút sau, xe đưa chúng tôi đến đồn cảnh sát Daily. Chẳng hiểu sao tôi lại nghĩ rằng có thể mẹ đang ở đó, vì thế tôi không muốn ra khỏi chiếc xe. Viên cảnh sát mở cửa xe rồi chậm rãi dẫn tôi đi qua một khúc quanh để đến một căn phòng lớn. đó không có ai khác ngoài chúng tôi. Viên cảnh sát ngồi xuống chiếc ghế ở góc phòng và bắt đầu đánh máy. Tôi chăm chú nhìn viên cảnh sát trong khi miệng vẫn nhấm nháp món bánh quy thơm ngon. Tôi muốn kéo dài thời gian thưởng thức những cái bánh ngon lành ấy, càng lâu càng tốt. Không biết đến bao giờ tôi mới lại được cho ăn no như vậy.


It’s past 1:00 p.in. when the policeman finishes his paperwork.
He asks for my telephone number again.
“Why?” I whine.
“I have to call her, David,” he says gently.
“No!” I command. “Send me back to school. Don’t you get it? She mustn’t find out I told!”
He calms me down with another cookie, as he slowly dials 7-5-6-2-4-6-0. I watch the black dial turn as I get up and walk towards him, straining my whole body while trying to hear the phone ringing on the other end. Mother answers.

Hơn một giờ trưa, viên cảnh sát mới hoàn tất công việc giấy tờ của mình.
Ông lại hỏi số điện thoại nhà tôi.
- Để làm gì ạ?- Tôi hỏi bằng giọng lo sợ.
- Chú phải gọi cho mẹ của cháu, David ạ.- ông từ tốn trả lời
- Không!- Tôi nói như ra lệnh.- Đưa cháu về trường! Chú không hiểu à? Không được để cho mẹ cháu biết cháu đã nói những gì đâu!
Ông ấy trấn an tôi bằng một gói bánh quy khác trong lúc tay ông ấy chậm rãi quay số 7-5-6-2-4-6-0. Nhìn những con số quay đều trên chiếc điện thoại màu đen, tôi đứng lên và tiến về phía ông ấy, cả người tôi như căng ra khi cố lắng nghe từng hồi chuông diện thoại ở đầu dây bên kia. Mẹ tôi nhấc điện thoại.

Her voice scares me. The policeman waves me away, and takes a deep breath before saying, “Mrs Pelzer, this is Officer Smith from the Daly City Police Department. Your son David will not be coming home today. He will be in the custody of the San Mateo Juvenile Department. If you have any questions, you can call them.” He hangs up the phone and smiles.
“Now that wasn’t so hard, was it?” he asks me.
But the look on his face tells me he is assuring himself, more than he is me.

Giọng nói của bà làm tôi thấy sợ. Viên cảnh sát phẩy tay ra hiệu cho tôi tránh sang một bên, rồi ông hít một hơi thật sâu trước khi nói chuyện với mẹ tôi.
“Chào bà Pelzer! Tôi là cảnh sát thành phố Daily. Con trai David của bà hôm nay sẽ không về nhà. Thằng bé sẽ được giám hộ bởi Cục bảo vệ trẻ em vị thành niên San Mateo. Có vấn đề gì, bà cứ gọi cho họ nhé”. Rồi ông gác điện thoại và nhìn tôi mỉm cười.
- Giờ thì đâu còn gì là quá khó khăn, phải không nào?
Nhưng vẻ mặt của viên cảnh sát cho tôi biết rằng ông đang muốn tự khẳng định với chính mình hơn là muốn làm cho tôi yên lòng.

A few miles later, we are on highway 280, heading towards the outskirts of Daly City. I look to my right and see a sign that reads, “THE MOST BEAUTIFUL HIGHWAY IN THE WORLD.” The officer smiles with relief, as we leave the city limits. “David Pelzer,” he says, “you’re free.”
“What?” I ask, clutching my only source of food. “I don’t understand. Aren’t you taking me to some kind of jail?”
Again he smiles, and gently squeezes my shoulder. “No, David. You have nothing to worry about, honest. Your mother is never going to hurt you again.”
I lean back against the seat. A reflection from the sun hits my eyes. I turn away from the rays as a single tear runs down my cheek.
“I’m free?”

Đi thêm vài dặm đường nữa, chúng tôi đã ở trên đại lộ 280, thẳng ra khu vựa ngoại ô thành phố Daily. Tôi qyau sang phía bên phải và trông thấy biển báo Đường cao tốc đẹp nhất thế giới”. Xe đưa chúng tôi rời nội vi thành phố, viên cảnh sát mỉm cười nhẹ nhõm và nói:
- David Pelze, cháu được tự do.
- Cái gì cơ?- Tôi hỏi lại, tay vẫn khư khư giữ chặt lấy túi thức ăn của mình.- Cháu không hiểu. Chẳng phải chú đang đưa cháu đến trại giam nào sao?
Ông ấy lại mỉm cười, nhẹ nhàng siết lấy vai tôi:
- Không đâu David ạ. Cháu không cần phải lo lắng gì nữa cả, chú nói thật đấy. Mẹ cháu sẽ không bao giờ có thể làm tổn thương cháu nữa đâu.
Tôi tựa người vào thành ghế. Một tia nắng ấm áp chiếu thẳng vào mặt tôi.
Tôi khẽ lách người để tránh tia nắng ấy, một giọt nước mắt từ đâu bỗng nhiên chảy dài trên gò má tôi.
- Mình được tự do rồi sao?


CHAPTER 2 - GOOD TIMES

In the years before I was abused, my family was the “Brady Bunch” of the 1960s. My two brothers and I were blessed with the perfect parents. Our every whim was fulfilled with love and care.
We lived in a modest twobedroom house, in what was considered a “good” neighborhood in Daly City. I can remember looking out of our living room bay window on a clear day, to gaze at the bright orange towers of the Golden Gate Bridge and the beautiful skyline of San Francisco.
My father, Stephen Joseph, supported his family as a fireman, working in the heart of San Francisco. He stood about five feet ten inches tall, and he weighed about 190 pounds. He had broad shoulders and forearms that would make any muscle man proud.
His thick black eyebrows matched his hair. I felt special when he winked at me and called me “Tiger”.

CHƯƠNG 2 - THỜI TƯƠI ĐẸP

Khoảng thời gian trước khi tôi bị mẹ đối xử tàn nhẫn, gia đình tôi là một gia đình kiểu mẫu theo phong cách “Brady Bunch” những năm 60. Cha mẹ yêu thương anh em chúng tôi hết mực. Mỗi ý thích của anh em chúng tôi đều được cha mẹ đáp ứng với tất cả tình yêu thương và sự quan tâm chăm sóc.
Chúng tôi sống trong một căn hộ bình thường có hai phòng ngủ. Gia đình tôi luôn được hàng xóm đánh giá là gia đình mẫu mực. Tôi vẫn còn nhớ vào những ngày nắng đẹp, tôi thường tựa mình vào ô cửa sổ trong phòng khách, phóng tầm mắt về phía những ngọn tháp màu cam sáng chói trên chiếc cầu Golden Gate và ngắm nhìn đường chân trời tuyệt đẹp của San Francisco.
Cha tôi là ông Stephen Joseph. Cha là lính cứu hỏa và là trụ cột của gia đình. Nơi làm việc của cha nằm ở trung tâm San Francisco. Cha tôi cao 1,8 mét và nặng khoảng 85 ký. Bờ vai rộng và đôi cánh tay rắn chắc của ông khiến cho bất cứ người đàn ông nào cũng phải ganh tị. Mái tóc của cha cùng màu với đôi chân mày đen rậm. Tôi luôn thích thú khi cha nháy mắt và âu yếm gọi tôi bằng cái tên “Cọp con”.

My mother, Catherine Roerva, was a woman of average size and appearance. I never could remember the color of her hair or eyes, but Mom was a woman who glowed with love for her children. Her greatest asset was her determination. Mom always had ideas, and she always took command of all family matters.

Mẹ tôi là Catherine Roerva. Bà là một phụ nữ trung bình cả về dáng dấp lẫn diện mạo. Tôi không nhớ được màu tóc hay màu mắt của mẹ, nhưng bà là một người phụ nữ yêu thương con với cả tấm lòng. Điều đáng quý nhất ở mẹ chính là sự quyết đoán. Mẹ thường đưa ra nhiều ý kiến và bà luôn là người đóng vai trò quyết định trong mọi vấn đề của gia đình.

Once, when I was four or five years old, Mom said she was sick, and I remember feeling that she did not seem to be herself at all.

Năm tôi lên bốn hay năm tuổi gì đó, tôi nhớ có lần mẹ bảo rằng mẹ bị bệnh, và tôi vẫn nhớ cái cảm giác của lúc ấy, tôi cảm thấy dường như bà không còn là chính mình nữa.

It was a day when Father was working at the fire station. After serving dinner, Mom rushed from the table and began painting the steps that led to the garage. She coughed as she frantically brushed the red paint onto every step. The paint had not fully dried, when Mom began tacking rubber mats to the steps. The red paint was all over the mats and Mom. When she finished, Mom went into the house and collapsed on the couch. I remember asking her why she had put the mats down before the paint dried. She smiled and said, “I just wanted to surprise your dad.”

Hôm ấy cha đi làm ở đồn cứu hỏa. Sau khi dọn xong bữa tối cho chúng tôi, mẹ hối hả đi về phía nhà xe, vừa đi vừa phết sơn lên những dấu chân của mình. Bà vừa ho liên hồi, vừ dùng cọ quệt như điên những mảng sơn màu đỏ lên mỗi dấu chân. Sơn chưa khô hẳn thì bà đã bắt đầu dán lên đó những miếng lót sàn bằng cao su. Từng vệt sơn đỏ dính bê bết len mấy miếng lót cao su, dính cả lên người của mẹ. Xong, mẹ quay trở vào nhà và buông người xuống ghế trường kỷ. Tôi còn nhớ đã hỏi mẹ rằng tại sao bà lại đặt mấy miếng lót lên khi sơn hãy còn ướt. Bà cười trả lời:[1]
- Mẹ muốn gây bất ngờ cho cha con đấy mà.

When it came to housekeeping, Mom was an absolute clean fiend. After feeding my two brothers, Ronald and Stan, and I breakfast, she would dust, disinfect, scour and vacuum everything. No room in our house was left untouched. As we grew older, mom made sure we did our part by keeping our room neat. Outside, she meticulously attended a small flower garden, which was the envy of the neighborhood. With Mom, everything she touched turned into gold. She didn’t believe in doing anything halfway. Mom often told us that we must always do the best we could, in whatever we did.

Đối với việc nội trợ, mẹ là người cực kỳ kỹ tính và luôn đòi hỏi mọi thứ phải thật sạch sẽ. Sau khi dọn bữa sáng cho tôi và hai người anh em trai của tôi là Ronald và Stan, mẹ lại quét dọn, khử trùng, cọ rửa và hút bụi mọi thứ trong nhà. Mẹ không bỏ sót một gian phòng hay ngóc ngách nào. Khi mấy anh em chúng tôi lớn hơn một chút, mẹ bắt đầu nhắc nhở chúng tôi phải giữ gìn phòng ốc sạch sẽ. Mẹ còn biến mảnh sân trước nhà thành một vườn hoa nhỏ với đủ các sắc màu và tẩn mẩn chăm bón khu vườn ấy mỗi ngày. Với mẹ, nơi nào bà chạm vào là ở phải sạch bóng. Bà không bao giờ cho phép mình làm điều gì đó nửa vời. Mẹ thường khuyên anh em chúng tôi phải luôn cố gắng trong mọi việc.

Mom was truly a gifted cook. Of all the things she did for her family, I think creating new and exotic meals was her favorite. This was especially true on those days when Father was home. Mom would spend the better part of the day preparing one of her fantastic meals. On some days when Father was working, Mom would take us on exciting sightseeing tours around the city. One day, she took us to Chinatown in San Francisco. As we drove around the area, Mom told us about the culture and history of the Chinese people. When we returned, Mom started her record player, and our home was filled with beautiful sounds from the Orient. She then decorated the dining room with Chinese lanterns. That evening, she dressed in a kimono and served what seemed to us as a very exotic but delicious meal. At the end of dinner, Mom gave us fortune cookies and read the captions for us. I felt that the cookie’s message would lead me to my destiny.
Some years later, when I was old enough to read, I found one of my old fortunes. It said, “Love and honor thy mother, for she is the fruit that gives thou life.”

Mẹ tôi còn là một đầu bếp siêu hạng. Tôi nghĩ rằng việc sáng tạo ra các món ăn mới lạ chính là sở thích của mẹ. Điều này được thẻ hiện rất rõ vào những ngày có cha tôi ở nhà. Những ngày này, mẹ sẽ dành nhiều thời gian hơn để chuẩn bị cho cả nhà một bữa ăn thật thịnh soạn. Còn vào những ngày cha đi làm, mẹ lại đưa mấy anh em chúng tôi đi tham quan thành phố. Một ngày nọ, mẹ đưa chúng tôi đến thăm Phố Người Hoa ở San Francisco. Trong lúc lái xe quanh các con đường ở đó, mẹ kể cho chúng tôi nghe vè văn hóa và lịch sử của người Trung Hoa. Khi trở về nhà, mẹ bật đĩa hát lên, cả gian nhà bỗng chốc tràn ngập những giai điệu phương Đông trầm bổng tuyệt vời. Mẹ còn trang trí phòng ăn với những chiếc đèn lồng Trung Hoa. Tối hôm ấy, mẹ mặc một bộ kimono và cho chúng tôi ăn những món ăn lạ nhưng cực kỳ ngon miệng. Sau bữa tối, mẹ cho chúng tôi mỗi đứa vài cái bánh quy. Đó là loại bánh ngọt gập lại và có chữ bên trong. Rồi bà đọc những dòng chữ ấy cho chúng tôi nghe. Tôi có cảm giác thông điệp trong miếng bánh sẽ đưa tôi đến với vận số của mình.
Dòng chữ trong miếng bánh của tôi có nội dung: “Hãy yêu thương và tôn kính mẹ của con, bởi mẹ là suối mát nuôi lớn cuộc đời con”.

Back then our house was full of pets- cats, dogs, aquariums filled with exotic fish and a gopher tortoise named “Thor”. I remember the tortoise best because Mom let me pick a name for it. I felt proud because my brothers had been chosen to name the other pets and it was now my turn. I named the reptile after my favorite cartoon character.

Thời gian đó, nhà tôi nuôi rất nhiều chó mèo. Chúng tôi còn có nhiều hồ cá với các loại cá lạ và một con rùa tên Thor. Tôi nhớ nhất con rùa này vìmẹ đã để tôi đặt tên cho nó. Tôi lấy làm tự hào vì các anh em trai của tôi đều đã được đặt tên cho các con vật nuôi trong nhà, bây giờ mới đến lượt tôi. Tôi đã đặt tên nó theo tên của một nhân vật hoạt hình mà tôi yêu thích.

The five and ten-gallon aquariums seemed to be everywhere. There were at least two in the living room, and one filled with guppies in our bedroom. Mom creatively decorated the heated tanks with colored gravel and colored foil backs; anything she thought would make the tanks more realistic. We would often sit by the tanks while Mom told us about the different species of fish.

Các hồ cá lớn nhỏ có dung tích từ 25 đến 50 lít hầu như ở khắp nơi trong nhà. Có ít nhát hai cái trong phòng khách, còn ngay trong phòng của anh em chúng tôi là một hồ nuôi cá nước ngọt. Mẹ đã tô điểm cho hồ cá thật bắt mắt với những viên sỏi nhiều màu sắc, thành hồ cũng được mẹ trang trí công phu. Nhờ bàn tay khéo léo của mẹ, các hồ cá trở nên thật sống động. Thuở ấy, anh em chúng tôi thường xúm xít quanh bể cá nghe mẹ kể chuyện về những loài cá khác nhau.

The most dramatic of Mom’s lessons, came one Sunday afternoon. One of our cats was behaving in an odd way. Mom had us all sit down by the cat while she explained the process of birth. After all the kittens has slipped safely out of the mother cat, Mom explained in great detail the wonder of life. No matter what the family was doing, she somehow came up with a constructive lesson; though we were not usually aware that we were being taught.


For our family - during those good years - the holidays started with Halloween. One October night, when the huge harvest moon was in full view, Mom hurried the three of us out of our house, to gaze at the “Great Pumpkin” in the sky. When we returned to our bedroom, she told us to peek under our pillows where we found Matchbox race cars. My two brothers and I squealed with delight as Mom’s face was flushed with pride.

Trong suốt những năm tháng hạnh phúc ấy, đối với gia đình chúng tôi, các kỳ nghỉ chính thức bắt đầu từ dịp lễ Halloween. Một đêm tháng Mười nọ, khi trăng trên bầu trời đêm đã tròn vành vạnh, mẹ giục cả ba anh em chúng tôi ra trước sân ngắm “quả bí đỏ khổng lồ” trên nền trời cao vút. Khi chúng tôi trở về phòng ngủ của mình, mẹ bảo chúng tôi hãy nhìn xem phía dưới gối của mỗi đứa có thứ gì. Ôi, đó là những chiếc xe đua đồ chơi hiệu Matchbox. Ba anh em tồi cùng nhảy cẫng lên vui sướng, còn gương mặt của mẹ thì rạng ngời hạnh phúc.

The day after Thanksgiving, Mom would disappear to the basement, then bring up enormous boxes filled with Christmas decorations. While standing on a ladder, she tacked strings of ornaments to the ceiling beams. When she was finished, every room in our house had a seasonal touch. In the dining room Mom arranged different sizes of red candles on the counter of her prized oak hutch. Snowflake patterns graced every window in the living room and dining room. Christmas lights were draped around our bedroom windows. Every night I fell asleep while staring at the soft, colorful glow of the Christmas lights that blinked on and off.

Một ngày sau lễ Tạ ơn, mẹ xuống dưới tầng hầm rồi mang lên mấy chiếc hộp bán đầy bụi, bên trong là vô số những vật dụng dùng để trang trí cho lễ Giáng sinh. Mẹ đứng trên một cái thang và đính các dây kim tuyến đủ sắc màu lên trần và tường nhà. Sau khi mẹ hoàn tất, khắp các gian phòng như được khoác chiếc áo mới. Mẹ còn cắm những cây nến đỏ đủ kích cỡ lên những chiếc kệ nhỏ xinh làm bằng gỗ sồi trong phòng ăn. Các hình vẽ bông tuyết được mẹ điểm xuyết trên khắp các cửa sổ trong nhà. Các dãy đèn thì nhấp nháy chạy quanh cửa sổ phòng ngủ của anh em chúng tôi. Mỗi tối, khi ngắm nhìn ánh sáng dịu nhẹ, huyền ảo hắt ra từ phía cửa sổ, tôi lại thích thú mỉm cười rồi rút người vào chăn, nhắm nghiền mắt để tận hưởng niềm hạnh phúc mơn man khắp da thịt.

Our Christmas tree was never ever an inch under eight feet, and it took the whole family hours to decorate it. Each year one of us was honored by being allowed to place the angel at the top of the tree, while Father held us up in his strong arms. After the tree was decorated and dinner was finished, we would pile into the station wagon and cruise the neighborhood, admiring the decorations on other homes. Mom always rambled on about her ideas of bigger and better things for the next Christmas, even though my brothers and I knew our house was always the best.

Cây thông của gia đình chúng tôi không bao giờ thấp dưới hai mét rưỡi. Mỗi dịp Giáng sinh về, cả nhà tôi lại quây quần bên nhau hàng giờ liền để trang trí cho nó. Cứ mỗi một năm, ba anh em chúng tôi lại thay phiên nhau được cha công kênh lên cao bằng đôi tay rắn chắc của ông để treo hình thiênthần lên đỉnh của cây thông. Sau khi trang trí cây thông và dùng xong bữa tối, cả nhà lại xím xít leo lên xe ngựa để ghé thăm hàng xóm và chiêm ngưỡng cách trang trí của họ. Cứ mỗi mùa Giáng sinh về, mẹ lại có thêm nhiều ý tưởng mới và độc đáo hơn và anh em tôi biết ngôi nhà của mình lúc nào cũng là ngôi nhà được trang trí đẹp nhất.

When we returned home, Mom sat us down by the fireplace to drink egg nog. While she told us stories, Bing Crosby sang “White Christmas” on the stereo. I was so excited during those holiday seasons that I couldn’t sleep. Sometimes Mom would cradle me, while I fell asleep listening to the crackle of the fire.

Khi trở về nhà, mẹ bảo chúng tôi ngồi xuống cạnh bếp lửa trong phòng khách để cùng uống rượu trúng. Rồi mẹ bắt đầu kể chuyện cho chúng tôi nghe, trong lúc đó thì đài phát thanh phát bài “Giáng sinh trắng” do ca sĩ Bing Crosby trình bày. Suốt những ngày nghỉ đó, tôi hào hứng đến nỗi chẳng thể nào ngủ được. Có khi mẹ phái bế và đu đưa tôi trong tay khi tôi mãi lắng nghe tiếng tí tách của bếp lửa hồng mà mắt nhắm mắt mở.

As Christmas Day came nearer, my brothers and I became more and more excited. The pile of gifts at the base of the tree grew day by day. By the time Christmas finally arrived, there were dozens of gifts for each of us.

Ngày lễ Giáng sinh càng đến gần, mấy anh em chúng tôi lại càng trở nên phấn khích. Đống quà tặng đặt dưới gốc cây thông cứ cao dần lên từng ngày. Và vào đúng đêm Giáng sinh, mỗi anh em chúng tôi nhận được cả chục hộp quà.

On Christmas Eve, after a special dinner and caroling, we were allowed to open one gift. Afterwards, we were sent to bed. I always strained my ears as I laid in bed, waiting for the sound of Santa’s sleigh bells. But I always fell asleep before I heard his reindeer land on the roof.

Vào đêm Giáng sinh, sau bữa ăn tối đặc biết và hát mừng Chúa giáng sinh, chúng tôi được phép mở một món quà của mình. Sau đó, cha mẹ giục chúng tôi nhanh chóng về phòng ngủ. Nằm trên giường, tôi cứ ngóng tai nghe tiếng chuông xe trượt tuyết của ông già Noel. Nhưng năm nào tôi cũng ngủ quên trước khi kịp nghe tiếng xe tuần lộc dừng lại trên nóc nhà của mình.

Before dawn, Mom would creep into our room and wake us, whispering, “Santa came!” One year she gave each of us a yellow, plastic, Tonka hard hat and had us march into the living room. It took us forever to rip the colorful paper from the boxes, to discover our new Christmas toys. Afterwards, Mom had us run to the backyard in our new robes, to look back in through the window at our huge Christmas tree. That year, standing in the yard, I remember seeing Mom cry. I asked her why she was sad. Mom told me she was crying because she was so happy to have a real family.

Trời mới tờ mờ sáng, mẹ nhón chân rón rén vào phòng chúng tôi và thì thầm: “Ông già Noel đến rồi kìa các con!” để đánh thức chúng tôi dậy. Một dịp Giáng sinh nọ, mẹ tặng mỗi đứa chúng tôi một chiếc mũ Tonka màu vàng bằng nhựa cứng và bảo chúng tôi đội lên rồi “diễu hành” khắp phòng khách. Sau đó, mẹ mặc áo khoác mới vào cho chúng tôi rồi giục chúng tôi chạy ra sân sau để ngắm cây thông khổng lồ trong nhà qua làn kính cửa sổ. Một lần nọ, khi đứng ngoài sân nhìn vào nhà, tôi đã thấy bà khóc. Tôi hỏi tại sao mẹ lại khóc như vậy thì bà nói rằng bà khóc vì quá hạnh phúc khi có được một mái ấm thật sự.

Because Father’s job often required him to work 24-hour shifts, Mother often took us on day trips to places like the nearby Golden Gate Park in San Francisco. As we slowly drove through the park, Mom explained how the areas were different and how she envied the beautiful flowers. We always visited the park’s Steinhart Aquarium last. My brothers and I would blaze up the stairs and charge through the heavy doors. We were thrilled as we leaned over the brass, seahorseshaped fence, looking far below at the small waterfall and pond that were home to the alligators and large turtles. As a child, this was my favorite place in the entire park. I once became frightened, as I thought about slipping through the barrier and falling into the pond. Without speaking a word, Mom must have felt my fear. She looked down at me and held my hand ever so softly.

Công việc của một người lính cứu hỏa buộc cha tôi phải vắng nhà suốt ngày, nên mẹ là người đưa chúng tôi đi chơi. Nơi mẹ thường đưa chúng tôi đến nhất là khu vực gần Công viên Golden Gate ở San Francisco. Vừa cho xe chạy chầm chậm qua công viên, mẹ vừa giảng giải cho chúng tôi nghe về sựkhác nhau giữa các vùng miền. Mẹ còn xuýt xoa trước vẻ đẹp diệu kỳ của những bông hoa rực rỡ trong công viên. Bể cá Steinhart của công viên luôn là điểm tham quan cuối cùng của chúng tôi. Tại đây, chúng tôi tha hồ leo trèo cầu thang và chạy nhảy qua lại giữa các cánh cửa lớn. Chúng tôi đặc biết thích thú khi tựa người vào bức tượng hình cá ngựa được làm bằng đồng và phóng tầm mắt xuống phía dưới một cái hồ rộng - nới trú ngụ của mấy con cá sấu và những con rùa vàng to lớn. Đây chính là nơi tôi thích nhất trong khu công viên. Tôi nhớ có lần tôi đã rất sợ hãi khi nghĩ đến việc mình sẽ bị trượt chân khỏi hàng rào ngăn cách và rới tõm xuống cái hồ ấy. Lúc đó, như đọc được nỗi sợ hãi trong mắt tôi, mẹ đã nhẹ nhàng siết lấy tay tôi để trấn an.


Spring meant picnics. Mom would prepare a feast of fried chicken, salads, sandwiches and lots of desserts the night before. Early the next day, our family sped off to Junipero Serra Park. Once there, my brothers and I would run wild on the grass and pump higher and higher on the park’s swings. Sometimes we would venture off on a new trail. Mom always had to pry us away from our fun, when it came time for lunch. We wolfed down our food, hardly tasting it, before my brothers and I blitzed off for parts unknown, in search of high adventure. Our parents seemed happy to lie next to each other on a blanket, sip red wine and watch us play.

Mùa xuân là mùa của những chuyến dã ngoại. Buổi tối trước khi khởi hành, mẹ sẽ chuẩn bị một bữa thịnh soạn gồm nào là gà rán, xà lách trộn, bánh mì sandwich và rất nhiều món tráng miệng. Sáng sớm hôm sau, cả nhà chúng tôi sẽ phóng xe thẳng đến Công viên Junipero Serra. Ở đó, ba anh em tôi sẽ được thỏa thích chạy nhảy trên những cánh đồng cỏ xanh mượt và đung đưa thật cao trên những chiếc xích đu. Có lúc, chúng tôi còn cùng nhau khám phá một con đường mòn mới phát hiện ở gần đó. Mẹ luôn để mắt đến ba anh em tôi trong lúc chúng tôi chơi đùa. Đến giờ ăn trưa, mẹ lại gọi chúng tôi về và đưa cho chúng tôi những phần thức ăn thơm phức. Chẳng kịp thưởng thức hương vị của những món ăn mẹ đưa cho, chúng tôi cứ thế ngấu nghiến phần ăn của mình để còn tiếp tục “oanh tạc” những vùng đất mới trong cuộc tìm kiếm đầy mạo hiểm. Còn cha mẹ thì hạnh phúc nằm cạnh nhau trên tấm bạt trải rộng, cùng nhâm nhi rượu vang và dõi mắt xem chúng tôi vui đùa.

It was always a thrill when the family went on summer vacation. Mom was always the mastermind behind these trips. She planned every detail, and swelled with pride as the activities came together. Usually we traveled to Portola or Memorial Park, and camped out in our giant, green tent for a week or so. But whenever Father drove us north across the Golden Gate Bridge, I knew we were going to my favorite place in the world – the Russian River.

Khi hè đến, chúng tôi lại háo hức đón chờ những kỳ nghỉ thú vị khác. Mẹ luôn là người lên kế hoạch cho những chuyến đi trong dịp hè. Mẹ chuẩn bị và cân nhắc kỹ đến từng chi tiết và luôn tỏ ra hài lòng khi kế hoạch của mình được cả nhà thực hiện một cách trọn vẹn. Thường thì chúng tôi vẫn đến Công viên Memorial hoặc Công viên Portola, cắm trại trong một cái lều lớn màu xanh và ở đó cả tuần liền hoặc khi lâu hơn. Nhưng cũng có khi cha đưa cả nhà băng qua cây cầu Golden Gate, lúc đó, chúng tôi biết mình sắp được đến với một trong những điểm đến ưa thích nhất trên thế giới - Dòng sông Nga[2].

The most memorable trip to the river for me, happened the year I was in kindergarten. On the last day of school, Mom asked that I be excused a halfhour early. As Father honked the horn, I rocketed up the small hill from the school, to the waiting car. I was excited because I knew where we were going. During the drive, I became fascinated at the seemingly endless fields of grapes. When we drove into the quiet town of Guerneville, I rolled my window down to smell the sweet air from the redwood trees.

Đối với tôi, chuyến đi đáng nhớ nhất khi đến với con sông này là năm tôi học mẫu giáo. Vào ngày cuối cùng của năm học, mẹ xin cho tôi được về sớm nửa tiếng. Nghe tiếng kèn xe của cha, tôi lao như tên bắn qua mô đất nhỏ trước cổng trường hướng về phía chiếc xe đang chờ sẵn. Tôi càng hào hứng hơn nữakhi biết nơi mình sắp đến là nơi nào. Suốt chặng đường đi, mắt tôi cứ dán chặt vào những cánh đồng nho kéo dài bất tận ở hai bên đường. Khi xe vào đến thị trấn yên tĩnh của vùng Guerneville, tôi kéo kính xe xuống để ngửi mùi hương ngọt ngào của những cánh rừng gỗ đỏ.

Each day was a new adventure. My brothers and I either spent the day climbing an old, burnt tree stump with our special whomperstomper boots or swimming in the river at Johnson’s Beach. Johnson’s Beach was a whole day’s event. We would leave our cabin by nine and return after three. Mom taught each of us to swim in a small, trenched hole in the river. That summer Mom taught me how to swim on my back. She seemed so proud when I was finally able to do it.

Với tôi, mỗi ngày nghỉ trôi qua đều là một chuyến phiêu lưu thú vị. Có hôm ba anh em tôi cùng leo lên một gốc cây to đã cháy đen, có lúc chúng tôi lại thỏa thích rượt đuổi nhau trên bãi tắm Johnson. Bãi tắm Johnson là khu nghỉ mát hoạt động cả ngày. Chúng tôi thường ở đó từ chín giờ sáng đến ba giờ chiều. Nơi đó, mẹ đã tập cho chúng tôi bơi trong một rãnh nước nhỏ. Mùa hè năm ấy, mẹ dạy cho tôi bơi ngửa. Bà tỏ ra rất tự hào khi cuối cùng tôi cũng có thể biết cách bơi ngửa.

Everyday seemed sprinkled with magic. One day after dinner, Mom and Dad took the three of us to watch the sunset. All of us held hands, as we crept past Mr Parker’s cabin to get to the river. The green river water was as smooth as glass. The bluejays scolded the other birds, and a warm breeze blew through my hair. Without a word, we stood watching the fireballlike sun as it sank behind the tall trees, leaving bright blue and orange streaks in the sky. From above, I felt someone hug my shoulders. I thought it was my father. I turned and became flushed with pride to find Mom holding me tightly. I could feel her heart beat. I never felt as safe and as warm as that moment in time, at the Russian River.

Mỗi ngày qua đi đều đầy ắp những điều bí ẩn. Một ngày nọ, sau bữa cơm chiều, cha mẹ dẫn cả ba anh em tôi đi ngắm cảnh hoàng hôn. Chúng tôi nắm tay nhau và rón rén đi ngang qua lều của gia đình ông Parker để ra đến bờ sông. Mặt nước sông xanh trong và phẳng lì như gương. Từng đàn chim sải cánh chao liệng trên không, bình thản quay về tổ sau một ngày dài. Một làn gió nhẹ thoảng qua tóc tôi, mang theo hương thơm của đất trời và cây cỏ. Không ai nói một lời, chúng tôi chỉ lặng yên ngắm nhìn quả cầu lửa đang dần khuất sau những rặng cây cao vút, để lại trên bầu trời những vệt màu xanh sáng chói lẫn đỏ rực. Bỗng một bàn tay choàng ngang vai tôi. Tôi đoán đó là cha. Nhưng khi xoay người lại, tôi xúc động nhận thấy mẹ đang ghì chặt lấy vai tôi. Lúc ấy, tôi còn cảm nhận được cả hơi thở và từng nhịp đập nơi lồng ngực mẹ. Tôi đã không bao giờ còn có được cảm giác yên bình và ấm áp như ngày hôm ấy - khoảnh khác bình yên bên Dòng sông Nga xinh đẹp.

CHAPTER 3 - BAD BOY

My relationship with Mom drastically changed from discipline that developed into a kind of lifestyle that grew out of control. It became so bad at times, I had no strength to crawl away - even if it meant saving my life.

CHƯƠNG 3 - ĐỨA TRẺ HƯ HỎNG

Mối quan hệ giữa mẹ và tôi dần trở nên xấu đi. Từ việc áp dụng những hình thức kỷ luật mang tính răn đe, mẹ bắt đầu đối xử với tôi ngày càng cay nghiệt hơn. Thậm chí, nhiều lần mẹ đánh đập tôi thẳng tay đến nỗi tôi không còn sức lết đi chỗ khác để tránh đòn.

As a small child, I probably had a voice that carried farther than others. I also had the unfortunate luck of getting caught at mischief, even though my brothers and I were often committing the same “crime”. In the beginning, I was put in a corner of our bedroom. By this time, I had become afraid of Mom. Very afraid. I never asked her to let me come out. I would sit and wait for one of my brothers to come into our bedroom, and have him ask if David could come out now and play.

Từ khi tôi còn nhỏ, giọng nói của tôi dường như đã khác hẳn so với những đứa trẻ khác. Tôi cũng không may mắn khi cứ bị mẹ bắt quả tang và buộc tội là kẻ đầu tiêu trong khi cả ba anh em chúng tôi cùng góp phần gây ra những trò đùa tai quái. Thời gian đầu, tôi bị phạt phải đứng ở góc phòng ngủ của mình trong nhiều giờ liền. Lúc đó, tôi bắt đầu sợ mẹ. Rất sợ. Tôi không bao giờ dám xin mẹ cho ra ngoài chơi. Tôi cứ ở đó và chờ cho đến khi em trai tôi vào phòng, tôi sẽ bảo nó ra ngoài xin mẹ hộ tôi.

About this time, Mom’s behavior began to change radically. At times while Father was away at work, she would spend the entire day lying on the couch, dressed only in her bathrobe, watching television. Mom got up only to go to the bathroom, get another drink or heat leftover food.

Cũng từ dạo đó, cách cư xử của mẹ tôi bắt đầu thay đỏi hoàn toàn. Những khi cha đi làm, cả ngày mẹ chỉ ở nhà, mặc mỗi một chiếc áo ngủ nhăn nhúm và nằm dài trên trường kỷ xem tivi. Chỉ khi nào mẹ cần vào nhà tắm, muốn lấy thêm rượu hay hâm lại thức ăn thừa thì mẹ mới ngồi dậy.

When she yelled at us, her voice changed from the nurturing mother to the wicked witch. Soon, the sound of Mother’s voice began to send tremors down my spine. Even when she barked at one of my brothers, I’d run to hide in our room, hoping she would soon return to the couch, her drink and her TV show.

Mỗi khi mẹ quát mắng chúng tôi, giọng bà lại sang sảng và the thé như mụ phù thủy độc ác tôi vẫn thường xem trên tivi. Ít lâu sau, chẳng hiểu sao chỉ cần nghe tiếng mẹ, tôi lại cảm thấy lạnh xương sống và rợn cả người. Thậm chí khi mẹ quát tháo Ron và Stan thì tôi cũng nhanh nhanh tìm đường trốn về phòng mình, chỉ mong sao mẹ mau chóng quay lại ghế trường kỷ, uống rượu và xem tivi.

After a while, I could determine what kind of day I was going to have by the way she dressed. I would breathe a sigh of relief whenever I saw Mom come out of her room in a nice dress with her face made up. On these days she always came out with a smile.

Dần dần, chỉ cần nhìn qua cách ăn mặc của bà, tôi có thể đoán được ngày hôm đó của tôi sẽ như thế nào. Tôi sẽ thở phào nhẹ nhõm khi thấy mẹ ra khỏi phòng mà ăn mặc thật dẹp và trang điểm thật kỹ. Những ngày này, mẹ luôn ra khỏi nhà với nụ cười rất tươi.

When Mother decided that the “corner treatment” was no longer effective, I graduated to the “mirror treatment”. In the beginning, it was a nonotice form of punishment. Mother would simply grab me and smash my face against the mirror, smearing my tearstreaked face on the slick, reflective glass. Then she would order me to say over and over again, “I’m a bad boy! I’m a bad boy! I’m a bad boy!” I was then forced to stand, staring into the mirror.

Rồi đến một ngày nọ, khi cảm thấy hình phạt “đứng ở góc phòng” không còn hiệu quả nữa, thế là mẹ chuyển sang áp dụng “hình phạt gương soi”. Lúc đầu, tôi không nghĩ mẹ dùng cách ấy để trừng phạt tôi. Mẹ thường túm lấy tôi, dí sát mặt tôi vào gương, di di khuôn mặt nhòe nhoẹt nước mắt của tôi trên bề mặt bóng loáng của tấm gương treo trên tường, rồi bà ép tôi lặp đi lặp lại câu: “Tôi là một đứa hư hỏng. Tôi là một đứa hư hỏng. Tôi là một đứa hư hỏng”.

I would stand there with my hands locked to my sides, weaving back and forth, dreading the moment when the second set of television commercials aired. I knew Mother would soon be stomping down the hall to see if my face was still against the mirror, and to tell me what a sickening child I was.

Rồi tôi bị bắt phải đứng yên đó, mắt dán vào gương. Tôi cứ đứng như vậy, hai tay ép sát vào thân người, thỉnh thoảng tôi lén mẹ đung đưa qua lại cho đỡ mỏi. Những lúc ấy, tôi rất lo sợ khi nghĩ đến lúc bắt đầu chương trình quảng cáo yêu thích của mẹ trên tivi. Bởi ngay lúc ấy mẹ sẽ chạy xuống để xem tôi có còn nhìn vào gương hay không và mắng vào mặt tôi rằng tôi là một đứa bệnh hoạn.

Whenever my brothers came into the room while I was at the mirror, they would look at me, shrug their shoulders and continue to play- as if I were not there. At first I was jealous, but soon I learned that they were only trying to save their own skins.
While Father was at work, Mother would often yell and scream while forcing my brothers and I to search the entire house for something she had lost. The quest usually started in the morning and lasted for hours. After a while, I was usually sent to search in the garage which was under part of the house – like a basement. Even there, I trembled upon hearing Mother scream at one of my brothers.

Mỗi khi Ron hay Stan vào phòng trong lúc tôi đang chịu phạt, họ chỉ biết nhìn tôi trân trân, nhún vai hờ hững rôi lại tiếp tục chơi đùa, cứ như chẳng hề có mặt tôi ở đó vậy. Lúc đầu, tôi còn ganh tị và cảm thấy hơi giận họ, nhưng rồi tôi cũng nghiệm ra rằng họ có thái độ như vậy cũng chỉ vì muốn tự bảo vệ mình khỏi những trận đòn xé da xé thịt của mẹ mà thôi.
Những khi cha tôi vắng nhà, mẹ thường quát tháo, la mắng buộc anh em tôi lục tung nhà cửa lên để tìm vài món đồ mà mẹ đã để lạc. Những cuộc tìm kiếm như thế thường bắt đầu từ buổi sáng và kéo dài nhiều giờ liền. Được một lúc, mẹ lại bắt tôi phải xuống nhà xe ở tầng hầm để tìm tiếp. Ngay cả khi đã ở dưới đó, tôi cũng phải co rúm người lại khi nghe thấy tiếng mẹ quát tháo Ron và Stan.

The searches continued for months, and finally, I was the only one singled out to look for her things. Once, I forgot what I was looking for. When I timidly asked her what it was that I was to find, Mother smacked me in the face. She was lying on the couch at the time, and she didn’t even stop watching her television show. Blood gushed from my nose and I began to cry.
Mother snatched a napkin from her table, tore a piece and rammed it up my nose. “You know damn well what you’re looking for!” she screamed. “Now go find it!” I scurried back down to the basement, making sure I made enough noise to convince Mother I was feverishly obeying her command. As Mother’s “find the thing” became more common, I began to fantasize that I had found her missing item. I imagined myself marching upstairs with my prize and Mom greeting me with hugs and kisses. My fantasy included the family living happily ever after. But, I never found any of Mother’s lost things, and she never let me forget that I was an incompetent loser.

Những cuộc tìm kiếm cứ thế diễn ra liên tục trong nhiều tháng, nhưng rồi cuối cùng, tôi trở thành chiến binh đơn độc tiếp tục cuộc tìm kiếm những món đồ cho mẹ. Một lần, chẳng hiểu sao tôi lại quên mất mình đang tìm thứ gì. Khi tôi rụt rè lại gần hỏi lại xem mẹ đang cần tôi tìm thứ gì, mẹ liền thẳng tay giáng vào mặt tôi một cái nảy lửa. Lúc đó, mẹ vẫn nằm dài trên trường kỷ, mắt không rời màn hình tivi. Mũi tôi tứa máu, đau, tôi bật khóc.
Tiện tay, mẹ vơ lấy một mảnh khăn ăn trên bàn, xé một miếng rồi nhét vào mũi tôi.
- Mày biết rõ là mày phải tìm cái quái gì mà. - Mẹ trừng mắt quát. – Đi tìm ngay cho tao!
Tôi vội vã chạy ngược về phía tầng hầm, cố tạo nên thật nhiều tiếng ồn để mẹ tin rằng tôi đang cuống cuồng tuân theo mệnh lệnh của bà. Kể từ khi việc tìm đồc ho mẹ trở nên quá quen thuộc, tôi bắt đầu mơ tưởng viễn vông đến việc một ngày nào đó mình sẽ tìm ra những đồ vật bị thất lạc của mẹ. Tôi tưởng tượng cảnh mình đứng trên gác, tay đưa cao chiến lợi phẩm và mẹ sẽ ôm hôn chúc mừng tôi. Trong giấc mơ ấy, tôi còn thấy hình ảnh gia đình mình sống đầm ấm và hạnh phúc bên nhau. Nhưng rồi sau đó tôi như người bừng tỉnh cơn mê, hốt hoảng và hoang mang khi nhận ra sự thật đau lòng là mình chẳng bao giờ tìm được món đồ thất lạc nào của mẹ cả. Còn mẹ thì luôn đay nghiến và xéo xắt rằng tôi chỉ là một kẻ bất tài vô dụng.

As a small child, I realized Mom was as different as night and day when Father was home from work. When Mom. fixed her hair and put on nice clothes, she seemed more relaxed. I loved it when Dad was home. It meant no beatings, mirror treatments or long searches for her missing things. Father became my protector. Whenever he went to the garage to work on a project, I followed him. If he sat in his favorite chair to read the newspaper, I parked myself at his feet. In the evenings, after the dinner dishes were cleared from the table, Father would wash them, and I would dry. I knew that as long as I stayed by his side, no harm would come to me.

Từ dạo ấy, tôi đã nhận thấy rằng khi có cha ở nhà, mẹ hoàn toàn khác hẳn so với những lúc cha đi vắng. Mẹ chăm chút đầu tóc gọn gàng hơn, mặc những bộ quần áo thẳng thớm và đẹp hơn; những lúc ấy, trông mẹ mới thoải mái và tươi tắn làm sao. Tôi rất thích những ngày có cha ở nhà, bởi những ngày ấy sẽ không có cảnh đánh đập, cũng không có hình phạt soi gương hay những cuộc tìm kiếm mệt mỏi những món đồ bị thất lạc. Cha đã trở thành thần hộ mệnh của tôi. Hễ thấy cha đi xuống nhà xe làm việc là tôi liền lẽo đẽo theo sau. Khi cha ngồi trên chiếc ghế bành yêu thích của ông để đọc báo, thì tôi cũng sẽ ngồi nagy dưới chân ông. Sau buổi cơm chiều, ba anh em tôi dọn chén bát xuống, cha sẽ là người rửa, còn tôi đứng kế bên lau khô và úp chúng lên. Tôi biết rằng chỉ cần tôi được ở bên cạnh cha thì tôi sẽ tránh được những trận đòn roi của mẹ.

One day before he left for work, I received a dreadful shock. After he said goodbye to Ron and Stan, he knelt down, held my shoulders tightly and told me to be a “good boy”. Mother stood behind him with her arms folded across her chest, and a grim smile on her face. I looked into my father’s eyes and knew right then that I was a “bad boy”. An icecold chill rushed through my body. I wanted to hold on to him and never let go, but before I could give Father a hug, he stood up, turned and walked out the door, without saying another word.

Một ngày nọ trước khi cha đi làm, tôi bng cảm nhận một cú sốc khủng khiếp. Sau khi chào tạm biệt Ron và Stan, ông quỳ xuống giữ chặt vai tôi và nói rằng tôi hãy là một “cậu bé ngoan”. Lúc ấy mẹ đang đứng sau lưng cha, hai tay bà khoanh trước ngực, miệng nở một nụ cười nham hiểm. Tôi nhìn vào mắt cha, và ngay lúc đó tôi biết rằng trong mắt mọi người, tôi chỉ là một thằng bé hư hỏng. Tôi rùng mình. Tôi muốn giữ chặt lấy cha và không để ông đi, nhưng tôi chưa kịp ôm lấy cha thì ông đã đứng bật dậy, quay lưng và bước nhanh ra cửa, không nói thêm một lời nào nữa cả.

For a short time after Father’s warning, things seemed to calm down between Mother and I. When Dad was home, my brothers and I played in our room or outside, until about 3:00 P.M. Mother would then turn on the television so we could watch cartoons. For my parents, 3:00 P.M. meant “Happy Hour”.

Sau hôm đó, tình hình giữa mẹ và tôi dường như cũng lắng dịu. Mỗi khi cha ở nhà, ba anh em tôi cùng chơi đùa trong phòng hoặc ngoài sân đến khoảng ba giờ chiều mỗi ngày. Sau đó, mẹ sẽ mở tivi để cả ba anh em xem phim hoạt hình. Đối với cha mẹ, thời gian lúc ba giờ chiều là “khoảnh khắc hạnh phúc”.
Father would cover the kitchen counter top with bottles of alcohol and tall fancy glasses. He cut up lemons and limes, placing them in small bowls beside a small jar of cherries. They often drank from midafternoon, until my brothers and I climbed into bed. I remember watching them dance around the kitchen to music from the radio. They held each other close, and they looked so happy. I thought I could bury the bad times. I was wrong. The bad times were only beginning.
Những lúc ấy, cha sẽ lấy rượu, cắt chanh thành từng lát mỏng đặt vào một cái tô nhỏ rồi lấy hũ sơ ri mang lên bàn ăn. Cha mẹ thường bắt đầu uống rượu từ giữa trưa cho đến tận lúc ba anh em tôi lên giường ngủ. Rồi họ cùng nhau khiêu vũ khắp nhà bếp trong tiếng nhạc phát ra từ chiếc radio. Họ ôm nhau thật chặt, khuôn mặt cả hai rạng ngời hạnh phúc. Trong giây phút ấy, tôi cứ nghĩ rằng thế là mình có thể chôn vùi những ngày tồi tệ đã qua. Nhưng tôi đã lầm. Những ngày tồi tệ bây giờ mới thật sự bắt đầu.

A month or two later, on a Sunday, while Father was at work, my brothers and I were playing in our room when we heard Mother rush down the hall, yelling at us. Ron and Stan ran for cover in the living room. I instantly sat down in my chair. With both arms stretched out and raised, Mother came at me. As she came closer and closer, I backed my chair towards the wall. Soon, my head touched the wall. Mother’s eyes were glazed and red, and her breath smelled of booze. I closed my eyes as the oncoming blows began to rock me from side to side.

Sau đó một hoặc hai thánh, vào một ngày Chủ nhật nọ, trong lúc cha vắng nhà, mấy anh em tôi đang chơi trong phòng thì nghe thấy tiếng mẹ chạy từ trên nhà xuống, miệng la hét réo tên chúng tôi. Ron và Stan vội chạy đi tìm chỗ nấp trong phòng khách, còn tôi chỉ biết ngồi chết sững trên ghế. Mẹ giơ cao hai cánh tay thẳng về phía trước và xồng xộc lao về phía tôi. Khi mẹ sấn lại gần, tôi giật hốt hoảng lùi ghế lại, đến khi chạm phải bức tường phía sau lưng thì người tôi co rúm, cứng đờ, miệng ú ớ như con chó con bị dồn vào chân tường. Đôi mắt mẹ đỏ ngầu, đờ đẫn, còn hơi thở thì nồng nặc mùi rượu. Tôi nhắm nghiền mắt, rụt người đón những cú đánh tới tấp mẹ nện xuống người.

I tried to protect my face with my hands, but Mother would only knock them away. Her punches seemed to last forever. Finally, I snaked my left arm up to cover my face. As Mother grabbed my arm, she lost her balance and staggered back a step. As she jerked violently to regain her stability, I heard something pop, and felt an intense pain in my shoulder and arm. The startled look on Mother’s face told me that she had heard the sound too, but she released her grip on my arm, and turned and walked away as if nothing had happened. I cradled my arm as it began to throb with pain. Before I could actually inspect my arm, Mother summoned me to dinner.

Tôi cố dùng tay đỡ những cái tát xối xả vào mặt, nhưng mẹ gạt tay tôi sang một bên rồi liên tục thụi vào mặt, vào người tôi. Khi mẹ dùng hết sức để túm lấy cánh tay của tôi, bà mất thăng bằng và lảo đảo lùi về phía sau một bước. Trong lúc mẹ chới với quơ tay để lấy lại thăng bằng, tôi nghe thấy một tiếng “bốp” rõ to và một cảm giác đau đớn khủng khiếp lan nhanh khắp vai và tay tôi. Thoáng sững sờ trên gương mặt mẹ cho tôi biết bà cũng nghe thấy âm thanh đó. Nhưng bà chỉ buông tay tôi ra, rồi quay phắt đi như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Tôi nâng cánh tay của mình lên, cảm giác đau đớn đến tê liệt. Tôi chưa kịp xem tay mình bị thế nào thì mẹ đã gọi tôi lên ăn tối.

I plopped down at a T.V. tray to try to eat. As I reached for a glass of milk, my left arm did not respond. My fingers twitched upon command, but my arm tingled and had become lifeless. I looked at Mother, trying to plead with my eyes. She ignored me. I knew something was very wrong, but I was too afraid to utter a word. I simply sat there, staring at my tray of food. Mother finally excused me and sent me to bed early, telling me to sleep in the top bunk. This was unusual because I had always slept on the bottom. Sometime near morning I finally fell asleep, with my left arm carefully cradled in the other.

Tôi ngồi bệt xuống bên khay thức ăn của mình và cố nuốt lấy miếng cơm. Khi tính với tay lấy ly sữa, cánh tay trái của tôi không thể nhúc nhích. Những ngón tay vẫn ngọ ngoạy theo sự điều khiển của tôi, nhưng cánh tay thì tê liệt như đã chết. Tôi nhìn mẹ như van lơn. Bà ấy vẫn cứ lờ tôi đi. Tôi biết có điều gì đó rất nghiêm trọng đã xảy ra với cánh tay của mình, nhưng tôi lại quá sợ hãi đến nỗi chẳng thốt được nên lời. Tôi chỉ biết ngồi đó, mắt liếc nhìn khay thức ăn. Sau cùng, mẹ cũng lên tiếng xin lỗi tôi và cho tôi đi ngủ sớm. Mẹ bảo tôi leo lên tầng trên cùng của chiếc giường mà nằm. Điều này thật bất thường vì từ trước tối giờ tôi chỉ ngủ ở tầng dưới cùng mà thôi. Phải đến gần sáng tôi mới có thể thiếp đi trong tư thế tay phải ôm lấy cánh tay trái nhức buốt.

I hadn’t slept long when Mother awakened me, explaining that I had rolled out of the top bunk during the night. She seemed to be deeply concerned about my condition, as she drove me to the hospital. When she told the doctor about my fall from the top bunk bed, I could tell by the look he gave me that he knew my injury was no accident. Again, I was too afraid to speak up. At home, Mother made up an even more dramatic story for Father. In the new version, Mother included her efforts to catch me before I hit the floor. As I sat in Mother’s lap, listening to her lie to Father, I knew my mom was sick. But my fear kept the accident our secret. I knew if I ever told anyone, the next “accident” would be worse.

Tôi ngủ chưa được bao lâu thì mẹ gọi tôi dậy, bà nói rằng đêm qua tôi đã lăn ngã xuống giường. Bà làm ra vẻ rất lo lắng cho tôi và lái xe đưa tôi đến bệnh viện. Khi bà nói với bác sĩ rằng tôi bị ngã từ trên giường tầng xuống, tôi nhìn vào mắt ông và hiểu ông không tin vào những lời mẹ tôi nói. Ông biết cánh tay tôi không phải bị gãy do tai nạn. Một lần nữa, tôi vì quá sợ nên không dám nói lên sự thật. Lúc về nhà, mẹ thậm chí còn vẽ nên một câu chuyện cực kỳ xúc động khi kể lại với cha. Trong kịch bản mới này, mẹ còn thêm vào chi tiết là bà đã cố hết sức để đỡ lấy tôi trước khi tôi rớt xuống sàn nhà. Ngồi trong lòng mẹ, lắng nghe câu chuyện bịa đật của bà, tôi đã nghĩ rằng bà bị bệnh. Nhưng nỗi sợ hãi tỏng tôi đã giữ cho tai nạn kia mãi là một bí mật giữa tôi và mẹ. Tôi hiểu rằng, nếu tôi hé răng nói với ai về chuyện đã xảy ra, “tai nạn” kế tiếp sẽ còn tồi tệ hơn.

School was a haven for me. I was thrilled to be away from Mother. At recess I was a wild man. I blitzed through the barkcovered playground, Looking for new, adventurous things to do. I made friends easily and felt so happy to be at school.

Trường học chính là nơi ẩn náu bình yên của tôi. Tôi thật sự vui sướng khi được thoát khỏi mẹ. GIờ giải lao, tôi là một người tự do. Tôi chạy nhảy như con chim non dọc ngang khắp sân trường, tìm kiếm những trò chơi kỳ thú và mới mẻ. Tôi dễ dàng kết bạn với mọi người và cảm thấy vui vẻ vô cùng khi ở trường.

One day in late spring, when I returned home from school, Mother threw me into her bedroom. She then yelled at me, stating I was to be held back from the first grade because I was a bad boy. I did not understand. I knew I had more “happy face” papers than anybody in the class. I obeyed my teacher and I felt she liked me. But Mother continued to roar that I had shamed the family and would be severely punished. She decided that I was banned from watching television, forever. I was to go without dinner and accomplish whatever chores Mother could dream up. After another thrashing, I was sent to the garage to stand until Mother called me to go to bed.

Một ngày cuối xuân nọ, khi tôi vừa đi học về, mẹ lại ném tôi vào phòng của bà. Mẹ mắng xối xả vào mặt tôi, bảo rằng tôi phải học lại lớp một vì tôi là một đứa hư hỏng. Tôi không hiểu gì cả. Tôi nhớ là mình có nhiều bài kiểm tra điểm cao hơn bất kỳ bạn bè nào trong lớp. Tôi vâng lời cô giáo và cảm thấy cô ấy cũng rất quý mến tôi. Nhưng mẹ vẫn tiếp tục gào rống lên rằng tôi đã làm cho gia đình xấu hổ và tôi sẽ bị phạt thật nặng. Bà cấm tôi không bao giờ được xem tivi nữa. Tôi cũng sẽ không được ăn bữa tối và phải làm bất cứ việc vặt nào trong nhà mà mẹ có thể nghĩ ra. Mẹ tát tôi thêm một cái rõ đâu rồi tống tôi xuống nhà xe, bắt tôi đứng đó cho đến khi bà cho phép đi ngủ mới thôi.
That summer, without warning, I was dropped off at my Aunt Jose’s house on the way to the campsite. No one told me about this and I could not understand why. I felt like an outcast as the station wagon drove away, leaving me behind. I felt so sad and hollow. I tried to run away from my aunt’s house. I wanted to find my family, and for some strange reason, I wanted to be with Mother.

Mùa hè năm ấy, trên đường cả nhà đi cắm trại, mẹ bỏ tôi lại ở nhà dì Josie mà không một lời báo trước. Chẳng ai nói với tôi về điều này cả, và tôi cũng không hiểu tại sao mình lại bị đối xử như vậy. Tôi cảm nhận rõ cảm giác tủi thân của một kẻ bị hắt hủi và ruồng bỏ khi chiếc xe tải nhỏ chở cả nhà tiếp tục lăn bánh, để lại mình tôi bơ vơ phía sau. Tôi cảm thấy vô cùng buồn bã và lạc lõng. Thế là tôi đã cố trốn khỏi nhà dì. Tôi muốn đi tìm gia đình của mình. Và thật khó hiểu, tôi muốn được ở bên cạnh m.

I didn’t get far, and my aunt later informed my mother of my attempt. The next time Father worked the 24hour shift, I paid for my sin. Mother smacked, punched and kicked me until I crumpled to the floor. I tried to tell Mother that I had run away because I wanted to be with her and the family. I tried to tell her that I had missed her, but Mother refused to let me speak. I tried once more and Mother dashed to the bathroom, snatched a bar of soap and crammed it down my throat. After that, I was no longer allowed to speak unless I was instructed to do so.

Tôi đi chẳng được bao xa thì dì tôi đã thông báo với mẹ về việc tôi bỏ trốn. Và thế là vào ngày hôm sau khi cha tôi đi làm cả ngày, tôi đã phải trả giá cho tội lỗi đó của mình. Mẹ đánh, đấm và đá vào người tôi cho đến khi tôi quỵ ngã xuống sàn nhà. Tôi đã cố nói với mẹ rằng tôi bỏ trốn khỏi nhà dì chỉ vì tôi muốn ở cạnh mẹ và gia đình. Tôi đã cố nói với mẹ rằng tôi nhớ bà ấy, nhưng mẹ cấm tôi không được nói nữa. Khi tôi cố nói hết những suy nghĩ trong lòng mình thì ngay lập tức mẹ xông vào nhà tắm, vồ lấy một cục xà phòng và tộng thẳng nó vào miệng tôi. Từ đó, tôi không được phép mở miệng nói bất cứ điều gì khi mẹ chưa cho phép.

Returning to the first grade was really a joy. I knew the basic lessons and was instantly dubbed the class genius. Since I was held back, Stan and I were in the same grade. During recess, I would go over to Stan’s firstgrade class to play. At school we were the best of friends; however, at home, we both knew I was not to be acknowledged.

Học lại lớp một quả là một niềm vui đôi với tôi. Tôi đã thuộc làu các bài học vỡ lòng và nghiễm nhiên tôi trở thành học sinh giỏi nhất lớp. Từ khi ở lại lớp, tôi trở thành bạn học của Stan - em trai mình. Giờ giải lao, tôi lại chạy sang lớp Stan rủ nó đi chơi. Ở trường, chúng tôi là hai đứa bạn thân, nhưng khi ở nhà, cả hai đều hiểu rằng tôi không được mẹ thừa nhận.

One day I rushed home to show off a school paper. Mother threw me into her bedroom, yelling about a letter she had received from the North Pole. She claimed the letter said that I was a “bad boy” and Santa would not bring me any gifts for Christmas. Mother raged on and on, saying that I had embarrassed the family again. I stood in a daze, as Mother badgered me relentlessly. I felt I was living in a nightmare that Mother had created, and I prayed she would somehow wake up.

Một ngày nọ, tôi chạy về nhà để khoe mẹ một bài kiểm tra tôi đạt được điểm cao. Tôi chưa kịp mở miệng, mẹ đã ném tôi vào phòng của bà, miệng không ngừng la hét về một lá thư mà bà nhận được từ Bắc Cực. Bà khẳng định lá thư ấy nói rằng tôi là một “đứa bé hư” và Ông già Noel sẽ không tặng bất kỳ món quà Giáng sinh nào cho tôi cả. Mẹ cứ thế nổi giận đùng đùng và luôn miệng mắng rằng tôi lại làm cho gia đình xấu hổ. Tôi đứng sững như trời trồng, mặc cho những lời xỉa xói của mẹ cứ ong ỏng không dứt bên tai. Tôi có cảm giác như mình đang sống trong một cơn ác mộng do chính mẹ tạo nên, và tôi ước sao mẹ hãy mau chóng tỉnh lại.

Before Christmas that year, there were only a couple of gifts for me under the tree, and those came from relatives outside the immediate family. On Christmas morning, Stan dared to ask Mother why Santa had brought me only two paintbynumber pictures. She lectured him saying, “Santa only brings toys to good boys and girls.”
Giáng sinh năm đó, trong những gói quà rực rỡ sắc màu dưới gốc cây thông, chỉ có hai món quà dành cho tôi. Chúng được những người bà con xa của tôi gửi đến, chứ không phải của những người thân sát bên cạnh tôi. Vào buổi sáng ngày lễ Giáng sinh, Stan đánh liều hỏi mẹ tại sao Ông già Noel chỉ tặng cho tôi hai bức tranh vẽ mấy con số. Mẹ liền giảng giải cho nó nghe:
- Ông già Noel chỉ tặng quà cho những đứa trẻ ngoan.

I stole a glance from Stan. There was sorrow in his eyes, and I could tell that he understood Mother’s freakish games. Since I was still under punishment, on Christmas Day I had to change into my work clothes and perform my chores. While I was cleaning the bathroom, I overheard an argument between Mother and Father. She was angry with him for “going behind her back” to buy me the paintings. Mother told Father that she was in charge of disciplining “the boy” and that he had undermined her authority by buying the gifts. The longer Father argued his case, the angrier she became. I could tell he had lost, and that I was becoming more and more isolated.

Tôi lén nhìn Stan, bắt gặp ánh mắt nghi hoặc của no khi nhìn mẹ. Một nỗi buồn thoáng hiện trong mắt nó, và tôi tin rằng nó thừa biết những trò quái đản của mẹ. Vì còn đang trong thời gian chịu phạt nên trong ngày lễ Giáng sinh, tôi không được mặc quần áo đẹp mà chỉ mặc bộ đồ tôi vẫn thường mặc khi ở nhà, và tôi vẫn phải làm việc nhà như thường lệ. Trong khi đang lau chùi nhà tắm, tôi nghe lỏm được cuộc cãi vã giữa cha và mẹ. Mẹ giận dữ với cha vì bà cho rằng ông đã lén mua cho tôi mấy món quà đó. Mẹ nói rằng bà vẫn là người chịu trách nhiệm quản giáo “thằng bé” và rằng ông làm như thế là đã làm mất đi quyền uy của bà. Cha càng thanh minh thì mẹ càng trở nên giận dữ.
Tôi biết ông đã thua trong cuộc tranh cãi đó, và tôi cũng biết mình đang ngày càng trở nên cô độc hơn.

A few months later, Mother became a den mother for the Cub Scouts. Whenever the other kids came to our home, she treated them like kings. Some of the other kids told me how they wished their mothers would be like mine. I never responded, but I wondered to myself what they would think if they knew the real truth. Mother only kept the den mother job for a few months. When she gave it up I was so relieved because it meant I could go to other kids’ homes for the Wednesday meetings.

Vài tháng sau đó, mẹ trở thành hội trưởng của nhóm hướng đạo sinh Sói con. Bất cứ hi nào những đứa trẻ khác đến nhà tôi chơi, bà lại đối xử với chúng như những ông hoàng. Vài đứa còn nói với tôi rằng ướng gì mẹ chúng cũng giống như mẹ tôi. Tôi chẳng trả lời, nhưng tôi tự hỏi chúng sẽ nghĩ gì nếu biết được sự thật. Mẹ chỉ giữ vai trò hội trưởng trong vài tháng. Khi bà hết nhiệm kỳ, tôi như được giải thoát vì điều đó có nghĩa là tôi có thể đến nhà của những đứa trẻ khác trong những buổi họp mặt được tổ chức vào mỗi ngày thứ Tư.

One Wednesday, I came home from school to change into my blue and gold Cub Scout uniform. Mother and I were the only ones in the house, and I could tell by the look on her face that she was after blood. After smashing my face against the bedroom mirror, she snatched my arm and dragged me to the car. During the drive to my den mother’s house, Mother told me what she was going to do with me when we got home. I scooted to the far side of the front seat of the car, but it didn’t work. She reached across the seat and seized my chin, lifting my head towards hers. Mother’s eyes were bloodshot and her voice sounded as if she were possessed.

Vào một ngày thứ Tư nọ, vừa đi học về, tôi chạy vội đi thay bộ đồng phục hướng đạo sinh để còn kịp qua nhà đứa bạn tham dự buổi họp mặt. Trong nhà chỉ có mẹ và tôi. Vẻ mặt của bà lúc ấy trong rất giận dữ. Sau khi dí mạnh mặt tôi vào tấm gương treo trong phòng ngủ, mẹ xốc nách tôi lên và kéo lê tôi vào trong xe hơi. Suốt đoạn dường đi đến nhà bà hội trưởng mới, mẹ luôn miệng nói tôi nghe rằng bà sẽ làm gì tôi khi chúng tôi trở về nhà. Ngồi ở ghế trước, tôi cố nếp mình về phía cửa xe để tránh xa mẹ, nhưng vô hiệu. Chốc chốc bà lại chồm ra khỏi ghế, vươn tay chộp lấy cằm tôi, hất mặt tôi về phía bà rồi lại ném vào tôi những tia nhìn hằng học. Đôi mắt mẹ tôi đỏ ngầu, còn giọng nói của bà nghe như thể bà đang bị điều gì đó ám ảnh.

When we arrived at the den mother’s house, I ran to the door crying. I whined to her that I had been a bad boy and could not attend the meeting. The den mother smiled politely, saying that she would like me to come to the next meeting. That was the last time I saw her.

Vừa đến nhà bà hội trưởng, tôi vội lao nhanh ra khỏi xe và chạy đến cửa nhà khóc nức nở. Tôi vừa khóc vừa nói với bà hội trưởng rằng tôi là một đứa bé hư hỏng và không thể tham dự buổi họp mặt. Bà hội trưởng mỉm cười lịch sự, bà nói rằng hy vọng tôi sẽ có mặt trong buổi họp mặt lần tới. Nhưng đó là lần cuối cùng tôi được gặp bà.

Once home, Mother ordered me to strip off my clothes and stand by the kitchen stove. I shook from a combination of fear and embarrassment. She then revealed my hideous crime. Mother told me that she had often driven to school to watch my brothers and I play during our lunch period recess. Mother claimed that she had seen me that very day playing on the grass, which was absolutely forbidden by her rules. I quickly answered that I never played on the grass. I knew Mother had somehow made a mistake. My reward for observing Mother’s rules and telling the truth was a hard punch in the face.

Về đến nhà, mẹ ra lệnh cho tôi cởi hết quần áo ra và bắt tôi đứng gần cái bếp lò trong nhà bếp. Cả người tôi run rẩy vì vừa sợ vừa xấu hổ. Rồi mẹ bắt đầu nói cho tôi biết tội lỗi của tôi là gì. Mẹ nói rằng bà vẫn thường xuyên lái xe đến trường để xem anh em tôi chơi như thế nào trong giờ nghỉ trưa. Mẹ luận rằng ngày hôm ấy chính mắt bà đã thấy tôi nghịch ngợm trên bãi cỏ trong trường, một điều hoàn toàn bị cấm kỵ trong mớ luật lệ mà bà đặt ra cho tôi. Tôi nhanh nhẩu nói với mẹ rằng tôi không hề chơi trên cỏ. Tôi nghĩ mẹ đã nhầm. Đáp lại lời giải thích ấy là một cú thoi như trời giáng mẹ đấm thẳng vào mặt tôi.
Mother then reached over and turned on the gas burners to the kitchen stove. Mother told me that she had read an article about a mother who had her son lie on top of a hot stove. I instantly became terrified. My brain became numb, and my legs wobbled. I wanted to disappear. I closed my eyes, wishing her away. My brain locked up when I felt Mother’s hand clamp my arm as if it were in a vice grip.
“You’ve made my life a living hell!” she sneered. “Now it’s time I showed you what hell is like!”

Thế rồi mẹ chồm người bật khóa ga của bếp lò lên. Mẹ nói rằng bà đã từng đọc một bài báo nói về một người mẹ đã trừng phạt con trai mình bằng cách cho nó nằm trên bếp lò đang cháy. Tôi khúm người lại, cảm thấy sợ hãi tột độ. Đầu óc tôi đờ đẫn, còn chân tay thì bủn rủn. Tôi muốn được tan biến đi ngay lập tức. Tôi nhấm nghiền mặt lại, ước gì bà ấy chịu bỏ đi. Đầu óc tôi như tê dại khi mẹ cứ giữ chặt lấy cánh tay tôi:
- Mày đã biến cuộc đời của tao thành địa ngục trần gian! - Mẹ rít qua kẽ răng bằng một giọng cay độc. - Bây giờ là lúc tao cho mày thấy địa ngục là thế nào con ạ.

Gripping my arm, Mother held it in the orangeblue flame. My skin seemed to explode from the heat. I could smell the scorched hairs from my burnt arm. As hard as I fought, I could not force Mother to let go of my arm. Finally I fell to the floor, on my hands and knees, and tried to blow cool air on my arm. “It’s too bad your drunken father’s not here to save you,” she hissed.

Mẹ nắm chặt lấy cánh tay tôi hơ trên ngọn lửa màu xanh cam đang phừng phực cháy. Tôi cảm nhận rõ tay mình như muốn nổ tung vì sức nóng của ngọn lửa. Tôi còn ngửi tháy được mùi lông tay bị cháy xém của mình. Trong cơn hoảng loạn, tôi đã cố hết sức vùng vẫy nhưng vô ích, tôi không cách nào giãy thoát khỏi bàn tay chắc như gọng kìm của mẹ. Cuối cùng, mẹ buông tay và đẩy tôi ngã lăn ra sàn. Tay chân tôi co rúm lại, tôi cố dùng miệng thổi thổi vào cánh tay đang bỏng rát của mình.
- Thật là tệ hại khi thằng cha say xỉn của mày lại không có ở đây để cứu mạng mày nhỉ? - Mẹ rít lên.

Mother then ordered me to climb up onto the stove and lie on the flames so she could watch me burn. I refused, crying and pleading. I felt so scared I stomped my feet in protest. But Mother continued to force me on top of the stove. I watched the flames, praying the gas might run out.
Rồi mẹ lệnh cho tôi trèo lên bếp lò mà nằm trên ngọn lửa, để bà tận mắt chứng kiến xem tôi bị đốt cháy như thế nào. Tôi khiếp đảm vừa dậm chân thình thịch xuống sàn vừa khóc lóc van xin mẹ hãy tha cho tôi. Nhưng mẹ vẫn trừng mắt bắt tôi trèo lên cái bếp lò đang phừng phực cháy. Tôi đờ đẫn nhìn ngọ lửa, lòng chỉ mong sao ga trong bình nhanh cạn đi.

Suddenly I began to realize the longer I could keep myself off the top of the stove, the better my chances were for staying alive. I knew my brother Ron would soon be coming home from his scout meeting, and I knew Mother never acted this bizarre when anyone else was in the house. In order to survive, I had to buy time. I stole a glance at the kitchen clock behind me. The second hand seemed to creep ever so slowly. To keep Mother off balance, I began to ask whining questions. This infuriated her even more, and Mother began to rain blows around my head and chest. The more Mother slugged me, the more I began to realize I had won! Anything was better than burning on the stove.

Đột nhiên tôi nhận ra rằng, tôi càng kéo dài thời gian tránh xa cái bếp thì cơ hội sống sót của tôi càng cao. Tôi nhớ rằng anh trai Ron của tôi sắp trở về từ buổi họp mặt hướng đạo sinh, và tôi cũng biết rằng mẹ chẳng bao giờ làm những chuyện quái gở như vậy khi có bất cứ ai khác ở nhà. Để sống sót, tôi phải tìm mọi cách để kéo dài thời gian. Tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ treo trên tường bếp. Chưa bao giờ tôi cảm thấy cây kim giây lại nhích chậm như thế. Để làm mẹ mất tập trung, tôi bắt đầu hỏi bà những câu hỏi không đầu không đuôi. Điều này lại càng làm bà tức điên lên và lao tới đánh túi bụi vào đầu, vào ngực tôi. Mẹ càng điên tiết đánh tôi, tôi càng nhận ra mình đã thắng! Bị đánh cũng được, miễn là đừng bị nướng trên bếp lò.


Finally, I heard the front door fly open. It was Ron. My heart surged with relief. The blood from Mother’s face drained. She knew she had lost. For a moment in time, Mother froze. I seized that instant to grab my clothes and race to the garage, where I quickly dressed. I stood against the wall and began to whimper until I realized that I had beaten her. I had bought a few precious minutes. I used my head to survive. For the first time, I had won!

Cuối cùng, tôi cũng nghe thấy tiếng mở cửa trước. Là Ron. Tim tôi nức lên nhẹ nhõm. Những mạch máu trên khuôn mặt mẹ như giãn ra. Mẹ hiểu rằng mình đã thua. Bất giác, người bà chợt sững lại. Chớp cơ hội, tôi quơ vội lấy quần áo và chạy biến vào nhà xe để mặc vào. Tôi đứng tựa lưng vào tường và cứ thế khóc thút thít cho đến khi tôi nhận ra rằng mình đã đánh bại mẹ. Tôi đã giành lấy được nhưng giây phút ít ỏi quý giá để hạ gục mẹ. Tôi đã sống sót nhờ cái đầu của mình. Lần đầu tiên, tôi đã thắng!

Standing alone in that damp, dark garage, I knew, for the first time, that I could survive. I decided that I would use any tactic I could think of to defeat Mother or to delay her from her grizzly obsession. I knew if I wanted to live, I would have to think ahead. I could no longer cry like a helpless baby. In order to survive, I could never give in to her. That day I vowed to myself that I would never, ever again give that bitch the satisfaction of hearing me beg her to stop beating me.

Một mình đứng trong nhà xe tối tăm, ẩm thấp, lần đầu tiên, tôi biết rằng mình có thể sống sót khỏi những trò tai quái của mẹ. Thế là tôi quyết định từ đó về sau, tôi sẽ sử dụng bất cứ mưu mẹo nào mà tôi có thể nghĩ ra để chống lại mẹ hay chí ít là để trì hoãn những hình phạt tàn nhẫn của bà. Tôi biết nếu tôi muốn sống, tôi phải biết nghĩ xa và phải hành động. Tôi không thể khóc lóc như một đứa con nít vô dụng nữa. Để sống sót, tôi không thể nhượng bộ với bà ấy nữa. Ngày hôm ấy, tôi đã thề với lòng mình rằng, tôi không bao giờ, không bao giờ để cho con mụ độc ác ấy được hả hê thỏa mãn khi nghe tôi khóc lóc van xin mụ đừng hành hạ tôi nữa.

In the coldness of the garage, my entire body trembled from both the cold anger and intense fear. I used my tongue to lick the burn and soothe my throbbing arm. I wanted to scream, but I refused to give Mother the pleasure of hearing me cry. I stood tall. I could hear Mother talking to Ron upstairs, telling him how proud she was of him, and how she didn’t have to worry about Ron becoming like David- a bad boy.

Trong cái lạnh của nhà để xe, toàn thân tôi run lên bần bật vì giận dữ và vì nỗi sợ hãi đã lan tỏa đến tột cùng. Tôi dùng lưỡi liếm nhẹ vào chỗ tay bỏng để bớt đau, hệt như con chó con đang liếm láp vết thương. Tôi muốn gào thét lên thật to, nhưng tôi lại không muốn mẹ lại vui sướng và hả hê khi nghe tiếng tôi khóc. Tôi đứng thẳng dậy. Từ trong nhà xe, tôi có thể nghe văng vẳng  tiếng mẹ đang nói chuyện với Ron ở trên nhà. Bà nói rằng bà rất tự hào về Ron, và rằng bà chẳng phải lo lắng gì bề anh ấy như phải lo lắng cho David -
một thằng bé hư đốn.

CHAPTER 4 - THE FIGHT FOR FOOD

The summer after the burn incident, school became my only hope of escape. Except for the short duration of a fishing trip, things with Mother were touch and go, or smash and dash – she would smash me, and I would dash to the solitude of the basement/garage. The month of September brought school and bliss. I had new clothes and a shiny, new lunch pail. Because Mother had me wear the same clothes week after week, by October my clothes had become weathered, torn and smelly. She hardly bothered to cover my bruises on my face and arms. When asked, I had my readymade excuses Mother brainwashed into me.

CHƯƠNG 4 - CUỘC CHIẾN VÌ MIẾNG ĂN

Kể từ mùa hè sau vụ mẹ muốn thiêu tôi trên bếp lò, trường học đã trở thành niềm hy vọng duy nhất có thể giúp tôi trốn thoát những trò quái ác của mẹ. Trừ thời gian vui vẻ ngắn ngủi trong một lần đi câu cá, còn lại thì tôi luôn phải ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm. Dường như mối liên hệ duy nhất giữa tôi và mẹ chỉ là những cú vồ và những cái tránh né - mẹ xồng xộc lao vào tôi, còn tôi thì tháo chạy về phía nhà xe vắng vẻ và nín thở ở yên đó. Tháng Chín là thời điểm tôi được trở lại trường học và tận hưởng những niềm vui thích ở đó. Ngày khai giảng, tôi được mẹ phát cho một bộ quần áo mới và một cái hộp đựng cơm sáng bóng, mới toanh. Mẹ bắt tôi quanh năm suốt tháng chỉ được mặc một bộ quần áo đó, thế nên chỉ đến khoảng tháng Mười là chúng đã trở nên bạc phếch, rách rưới và bốc mùi nồng nặc. Ngoài ra, bà thậm chí còn chẳng mảy may lo đến việc làm thế nào để che bớt những vết thâm tím trên mặt mũi, tay chân tôi. Bởi bà thừa biết nếu có ai hỏi đến, thì tôi đã có những lời giải thích được bà lập trình sẵn trong đầu của mình rồi.

By then, Mother would “forget” to feed me any dinner. Breakfast wasn’t much better. On a good day, I was allowed leftover cereal portions from my brothers, but only if I performed all of my chores before going to school.

Rồi thì mẹ thường xuyên “quên” cho tôi ăn tối. Bữa ăn sáng cũng chẳng khá gì hơn. Ngày nào thật đẹp trời, tôi mới được mẹ cho ăn phần ngũ cốc thừa của Ron và Stan, nhưng chỉ khi tôi đã hoàn thành tất cả việc nhà trước khi đến trường.

At night I was so hungry, my stomach growled as if I were an angry bear. At night I lay awake concentrating on food. “Maybe tomorrow I’ll get dinner,” I said to myself. Hours later, I would drift off to sleep, fantasizing about food. I mainly dreamt of colossal hamburgers with all the fixings. In my dreams I seized my prize and brought it to my lips. I visualized every inch of the hamburger. The meat dripped with grease, and thick slices of cheese bubbled on top. Condiments oozed between the lettuce and tomato. As I brought the hamburger closer to my face, I opened my mouth to devour my prize, but nothing happened. I’d try again and again, but no matter how hard I struggled, I could not taste a morsel of my fantasy. Moments later I would wake up, with my stomach more hollow than before. I could not satisfy my hunger; not even in my dreams.

Hôm nào cũng vậy, cứ đêm đến là bụng tôi lại đói cồn cào và sôi sùng sục như tiếng gầm gừ của một con gấu đang trong cơn giận dữ. Cứ đêm đến là tôi lại trằn trọc, thao thức bởi đầu óc chỉ nghĩ đến thức ăn. “Ngày mai mình sẽ được cho ăn đàng hoàng thôi mà.” - Tôi thường tự trấn an mình như vậy. Vài giờ sau đó, tôi mệt lả rồi thiếp đi. Những giấc mơ chập chờn bắt đầu ập đến. Tôi toàn mơ về những cái ham-bơ-gơ khổng lồ ăn kèm với các loại rau quả. Trong mơ, tôi đã chộp ngay lấy phần ăn ngon lành ấy của mình, đưa lên miệng liếm láp. Tôi mường tượng ra đến từng milimet của cái bánh khổng lồ . Miếng thịt của cái bánh rỉ ra chất mỡ béo ngậy, và mấy miếng phô-mát dày cộm xếpphía trên cùng bị hai nửa cái bánh ép cho tràn cả ra ngoài. Nước xốt gia vị thì ứa cả ra lá rau diếp màu xanh và mấy lát cà chua màu đỏ. Nhưng khi tôi định kề sát cái ham-bơ-gơ ấy vào miệng và há thật to để ngấu nghiến nó, thì tôi lại không tài nào làm được. Tôi thử lại, rồi thử lại lần nữa, nhưng dù cho cố gắng đến mấy, tôi vẫn không thể nào chạm được lưỡi vào bất cứ chỗ nào trên cái bánh quá ngon lành ấy. Ngay lúc ấy thì tôi tỉnh giấc, bụng lại càng cồn cào hơn. Tôi đã không thể thỏa mãn cơn đói của mình, ngay cả trong mơ.

Soon after I had begun to dream about food, I started stealing food at school. My stomach coiled with a combination of fear and anticipation. Anticipation because I knew that within seconds, I would have something to put in my stomach. Fear because I also knew that at any time, I could get caught stealing.

Chẳng bao lâu sau khi tôi thường có những giấc mơ về những bữa ăn ngon tuyệt, thì tôi cũng bắt đầu lấy trộm thức ăn ở trường. Dạ dày của tôi cứ thắt lên quằn quại vì cả nỗi sợ hãi lẫn cơn thèm muốn. Thèm muốn bởi vì tôi biết rằng chỉ trong tích tắc thôi là tôi có thể có cái gì đó cho vào bụng. Sợ hãi bởi vì tôi biết rằng bất cứ lúc nào tôi cũng có thể bị bắt quả tang đang ăn cắp.

I always stole food before school began, while my classmates were playing outside the building. I would sneak to the wall, right outside my homeroom, drop my lunch pail by another pail and kneel down so nobody could see me hunting through their lunches. The first few times were easy, but after several days, some students began to discover Twinkies and other desserts missing from their lunches. Within a short time, my classmates began to hate me. The teacher told the principal, who in turn informed Mother. The fight for food became a cycle. The principal’s report to Mother led to more beatings and less food for me at the house.

Tôi luôn đánh cắp thức ăn trước giờ học, khi các bạn cùng lớp của tôi còn đang chơi ngoài sân. Tôi sẽ núp đằng sau bức tường ngay ngoài lớp học của mình, đặt hộp cơm của tôi bên cạnh hộp cơm của người khác và ngồi thụp xuống đất để không ai trông thấy tôi đang trộm thức ăn của mọi người. Một vài lần trộm đầu tiên diễn ra trót lọt, nhưng chỉ ít ngày sau đó, vài người bạn của tôi bắt đầu phát hiện ra bánh twinkie[3] và nhiều món bánh ngọt khác trong bữa trưa của họ không cánh mà bay. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, các bạn cùng lớp bắt đầu ghét tôi. Sau đó, thầy chủ nhiệm của tôi báo sự việc lên thầy hiệu trưởng, người có trách nhiệm thông báo lại cho mẹ tôi mọi việc. Cuộc chiến vì cái ăn của tôi bởi thế rơi vào một cái vòng luẩn quẩn. Thầy hiệu trưởng báo mọi việc cho mẹ tôi biết để rồi tôi bị đánh nhiều hơn và phần ăn ở nhà của tôi đã ít lại càng ít hơn.

On weekends, to punish me for my thefts, Mother refused to feed me. By Sunday night, my mouth would water as I began to plot new, foolproof ways to steal food without getting caught. One of my plots was to steal from other firstgrade rooms, where I wasn’t known as well. On Monday mornings I would dash from Mother’s car to a new firstgrade classroom to pick through lunch boxes. I got away with it for a short time, but it didn’t take long for the principal to trace the thefts back to me.
At the house, the dual punishment of hunger and violent attacks continued. By this time, for all practical purposes, I was no longer a member of the family.

Vào những ngày cuối tuần, để trừng trị tội ăn cắp của tôi, mẹ lại không cho tôi ăn. Đến một tối Chủ nhật nọ, nước bọt trong miệng tôi cứ ứa ra khi tôi bắt đầu hình dung nên những chiếu mới và cũng hết sức ngu ngốc để tiếp tục đánh cắp thức ăn mà không bị ai phát hiện. Một trong những âm mưu mới đó là ăn cắp thức ăn của các học sinh lớp một ở các lớp khác, nơi không ai
biết rõ về tôi. Ngay buổi sáng thứ Hai đầu tuần, khi mẹ vừa đưa tôi đến trường, tôi đã phóng ào ra khỏi xe và chạy thật nhanh vào một lớp khối một khác để lấy cắp thức ăn trưa. Tôi chỉ làm được như vậy trong một thời gian ngắn, bởi vì chẳng bao lâu sau, thầy hiệu trưởng lại phát hiện ra thủ phạm của những vụ trộm cắp đó chính là tôi.Ở nhà, tôi lại tiếp tục bị đánh đập tàn nhẫn và bị bỏ đói. Đến thời điểm này, trên thực tế, tôi đã không còn là thành viên của gia đình mình nữa.

I existed, but there was little or no recognition. Mother had even stopped using my name; referring to me only as The Boy. I was not allowed to eat meals with the family, play with my brothers, or watch television. I was grounded to the house. I was not allowed to look at or speak to anybody. When I returned to the house from school, I immediately accomplished the various chores Mother assigned me. When the chores were finished, I went directly to the basement, where I stood until summoned to clean off the dinner table and wash the dishes. It was made very clear that getting caught sitting or lying down in the basement would bring dire consequences. I had become Mother’s slave.

Tôi chỉ tồn tại trong nhà chứ không được mọi người thừa nhận hoặc chỉ được thừa nhận chút ít mà thôi. Mẹ thậm chí chẳng buồn gọi đến tên tôi nữa, thay vào đó bà gọi tôi là “thằng đó”. Tôi không được dùng bữa cùng gia đình, không được chơi với Ron và Stan, cũng không được xem tivi. Tôi như con cá mắc cạn trong chính ngôi nhà của mình. Tôi không được phép nhìn hoặc nói chuyện với bất cứ ai. Đi học về là tôi lại bắt tay vào làm ngay tất cả các công việc mà mẹ giao. Xong việc, tôi lủi thủi xuống nhà xe, cứ đứng ở đó cho dến khi nào được gọi lên để lau dọn bàn ăn và rửa chén dĩa của bữa tối. Trong lúc tôi đứng trong nhà xe, nếu mẹ phát hiện tôi ngồi hoặc nằm thì chắc chắn hậu quả mà tôi phải gánh chịu là vô cùng khủng khiếp. Tôi chính thức trở thành nô lệ của mẹ.

Father was my only hope, and he did all he could to sneak me scraps of food. He tried to get Mother drunk, thinking the liquor might leave her in a better mood. He tried to get Mother to change her mind about feeding me. He even attempted to make deals, promising her the world. But all his attempts were useless. Mother was as solid as a rock. If anything, her drunkenness made it worse. Mother became more like a monster.

Cha là chỗ dựa duy nhất của tôi. Ông đã phải cố gắng lắm mới lén mẹ để mang cho tôi một vài mẩu thức ăn vụn. Vì nghĩ rằng men rượu sẽ giúp cho tâm trạng của mẹ khá hơn nên ông thường cố chuốc cho mẹ say. Cha đã cố hết sức để thay đổi cách suy nghĩ của mẹ về việc ăn uống của tôi. Cha còn ra sức thỏa hiệp, hứa đủ thứ chuyện trên đời với mẹ để tôi được cho ăn uống bình thường. Nhưng tất cả đều vô ích. Mẹ vẫn lạnh lùng như sỏi đá. Khi có bất cứ chuyện gì xảy ra, cơn say của bà lại khiến mọi thứ trở nên tệ hại hơn trước. Mẹ thật sự còn tàn bạo hơn cả một con quái vật.

I knew Father’s efforts to help me led to stress between he and Mother. Soon, midnight arguments began to occur. From bed I could hear the tempo build to an earshattering climax. By then they were both drunk, and I could hear Mother scream every vulgar phrase imaginable. It didn’t matter what issue started the fight, I would soon be the object of their battle. I knew Father was trying to help, but in bed I still shivered with fear. I knew he would lose, making things worse for me the next day. When they first began to fight, Mother would storm off in the car with the tyres screeching. She usually returned home in less than an hour. The next day, they would both act as if nothing had happened. I was grateful when Father found an excuse to come down to the basement and sneak me a piece of bread. He always promised me he would keep trying.

Tôi biết những cố gắng của cha khi muốn bênh vực và giúp đỡ tôi đã làm cho mối quan hệ giữa mẹ và ông trở nên căng thẳng. Chẳng bao lâu sau, những trận cãi vã lúc nửa đêm bắt đầu nổ ra. Những khi xung đột lên đến đỉnh điểm, nằm trên giường tôi vẫn có thể nghe thấy những tiếng cãi vã phát ra với cường độ âm thanh xé tai. Sau đó cả hai lại uống rượu đến say mèm và tôi nghe mẹ gào lên những từ ngữ thô tục nhất mà bà có thể nghĩ ra. Không cần biết nguyên nhân chính dẫn đến cuộc cãi vã là gì, nhưng cuối cùng thì tôi cũng lại trở thành đề tài của cuộc khẩu chiến. Dẫu biết cha đang cố gắng giúp tôi, nhưng những lúc đó tôi vẫn cứ run rẩy vì sợ hãi. Bởi tôi biết cha sẽ thua cuộc, và điều đó sẽ làm cho mọi thứ còn tồi tệ hơn nữa vào ngày hôm sau. Tôi còn nhớ lần đầu tiên hai người cãi vã, mẹ đã phóng xe ra khỏi nhà, để lại sau lứng tiếng bánh xe rít lên đến rợn người. Nhưng thường thì chưa đầy một giờ đồng hồ sau đó bà lại quay trở về. Ngày hôm sau, họ lại cư xử với nhau như thể chưa có chuyện gì xảy ra. Tôi cảm thấy an ủi phần nào khi cha cố tìm ra một cái cớ nào đó để đi xuống nhà xe và dấm dúi cho tôi một mẫu nhỏ bánh mì. Cha luôn hứa với tôi rằng ông vẫn đang cố gắng để giúp tôi.

As the arguments between Mother and Father became more frequent, he began to change. Often after an argument, he would pack an overnight bag and set off in the middle of the night for work. After he left, Mother would yank me out of bed and drag me to the kitchen. While I stood shivering in my pyjamas, she’d smack me from one side of the kitchen to the other. One of my resistance techniques was to lay on the floor acting as though I didn’t have the strength to stand. That tactic didn’t last long. Mother would yank me up by the ears and yell into my face with her bourbon breath, for minutes at a time. On these nights, her message was always the same: I was the reason she and Father were having problems. Often I became so tired, my legs would shake. My only escape was to stare at the floor and hope that Mother would soon run out of steam.

Khi những cuộc cãi vã giữa cha và mẹ trở nên thường xuyên hơn, cha tôi bắt đầu thay đổi. Thường thì sau mỗi lần gây gổ với mẹ, cha thường quảy túi lên vai đi đến sở làm ngay lúc nửa đêm. Khi cha đã đi khỏi, mẹ lôi tôi ra khỏi giường và kéo xệch tôi xuống nhà bếp. Trong khi tôi vẫn còn đang ngái ngủ và đứng run rẩy trong bộ pijama, bà bắt đầu thẳng tay nện cho tôi ngã xiêu vẹo và lê lết từ góc bếp bên này sang góc bếp bên kia. Một trong những chiêu để tránh đòn của tôi là nằm dài lả người trên sàn nhà và làm ra vẻ như không còn chút sức lực nào để đứng lên nữa. Nhưng chiêu này chỉ phát huy tác dụng trong một thời gian ngắn mà thôi. Sau đó, khi đã biết rõ tẩy của tôi, mỗi lần tôi vừa khụy xuống là mẹ lại nắm tai tôi xách lên và quát vào mặt tôi với hơi thở nồng nặc mùi rượu. Vào những đêm như vậy, mẹ luôn lặp đi lặp lại một điệp khúc rằng tôi chính là nguyên nhân gây ra những mối bất hòa giữa cha mẹ. Những lúc ấy, tai tôi lại ong lên, người mỏi nhừ còn tay chân thì run lẩy bẩy. Tôi biết cách duy nhất thoát khỏi mẹ là cứ đứng yên đó, mắt dán xuống sàn nhà, hy vọng rằng mẹ sẽ sớm kiệt sức, không thể nói được nữa và buông tha cho tôi.

By the time I was in the second grade, Mother was pregnant with her fourth child. My teacher, Miss Moss, began to take a special interest in me. She began by questioning me about my attentiveness. I lied, saying I had stayed up late watching television. My lies were not convincing, and she continued to pry not only about why I was sleepy, but also about the condition of my clothes and the bruises on my body. Mother always coached me on what to say about my appearance, so I simply passed Mother’s story to the teacher.

Năm tôi lên lớp hai, mẹ tôi có thai đứa con thứ tư. Cô giáo Moss bắt đầu quan tâm đặc biệt đến sức tập trung của tôi trong giờ học. Tôi đã nói dối rằng do tôi thức khuya xem tivi. Những lời nói dối của tôi xem ra chẳng thuyết phục được cô. Thế là cô tiếp tục dò hỏi nguyên nhân tại sao tôi hay ngủ gật trong lớp, về bộ quần áo tôi mặc và cả những vết thâm tím trên người của tôi. Do mẹ đã vẽ sẵn những gì tôi cần phải nói với người khác về bề ngoài của mình, vì vậy tôi dễ dàng lặp lại những lời bịa đặt ấy với cô giáo.

Months crept by and Miss Moss became more persistent. One day, she finally reported her concerns to the school principal. He knew me well as the food thief, so he called Mother. When I returned to the house that day, it was as if somebody had dropped an atomic bomb. Mother was more violent than ever.
She was furious that some “Hippie” teacher had turned her in for child abuse. Mother said that she would meet with the principal by the next day to justify all the false accusations. By the end of the session, my nose bled twice and I was missing a tooth.

Nhiều tháng trôi qua, cô Moss lại càng trở nên kiên trì hơn nữa với trường hợp của tôi. Cuối cùng, vào một ngày nọ, cô đã bày tỏ nỗi lo lắng của mình với thầy hiệu trưởng. Thầy vốn đã biết quá rõ tôi là một thằng ăn cắp thức ăn, thế nên ông lại gọi cho mẹ. Ngày hôm đó khi về đến nhà, tôi có cảm giác như ai đó vừa thả vào nhà tôi một quả bom nguyên tử.
Mẹ tôi trở nên dữ tợn hơn bao giờ hết. Bà điên tiết lên vì cho rằng có vài giáo viên “lập dị” nào đó đã khép bà vào tội ngược đãi trẻ em. Mẹ nói rằng ngày hôm sau bà ấy sẽ đến trường của tôi để bào chữa, thanh minh về những lời buộc tội sai sự thật. Kết thúc buổi nói chuyện ấy, tôi bị chảy máu mũi hay lần và bị gãy một cái răng.

When I returned from school the next afternoon, Mother smiled as if she had won a milliondollar sweepstakes. She told me how she had dressed up to see the principal, with her infant son Russell in her arms. Mother told me how she had explained to the principal how David had an overactive imagination.
Mother told him how David had often struck and scratched himself to get attention, since the recent birth of his new brother, Russell. I could imagine her turning on her snakelike charm as she cuddled Russell for the benefit of the principal. At the end of their talk, Mother said that she was more than happy to cooperate with the school. She said they could call her any time there was a problem with David. Mother said the staff at school had been instructed to pay no attention to my wild stories of child beating or not being fed. Standing there in the kitchen that day, listening to her boast, gave me a feeling of total emptiness.

Chiều hôm sau, khi tôi đi học về, mẹ nhìn tôi cười đắc ý như thể vừa thắng được một triệu đô-la tiền cá cược vậy. Bà nói cho tôi biết bà đã che đậy sự thật như thế nào khi đến gặp thầy hiệu trưởng cùng với đứa em Russell của tôi trên tay. Mẹ đã nói với thầy hiệu trưởng rằng David bị chứng hoang tưởng.
Mẹ kể với thầy hiệu trưởng là David thường tự đánh đập và cào cấu mình để thu hút sự chú ý và quan tâm của người khác kể từ khi em trai của nó là Russell ra đời. Tôi có thể tưởng tượng ra cảnh mẹ vừa đứng uốn éo như một con rắn vừa nựng nịu Russell trước mặt thầy hiệu trưởng để đạt được mục đích của mình. Bà còn nói rằng kết thúc cuộc nói chuyện với thầy hiệu trưởng, bà vui mừng không sao tả xiết khi từ nay sẽ được hợp tác chặt chẽ với nhà trường. Bất kì khi nào David có vân đề gì thì các thầy cô ở trường sẽ gọi ngay cho bà. Bà cũng đã dặn các thầy cô ở trường là không cần phải để ý gì đến những câu chuyện điên rồ do tôi dựng nên về việc bị đánh đập hay bị bỏ đói.

As Mother told me about the meeting, I could sense her heightened confidence, and her new confidence made me fear for my life. I wished I could dissolve and be gone forever. I wished I would never have to face another human being again.

Hôm ấy, tôi chỉ biết đứng im trong nhà bếp lắng nghe câu chuyện khoác lác của bà, long thấy trống rỗng đến vô cùng. Nghe mẹ thao thao bất tuyệt về cuộc gặp gỡ với thầy hiệu trưởng, tôi cảm nhận được vẻ tự đắc của bà. Chính thái độ đó của bà làm tôi thấy lo sợ cho cuộc đời của mình. Tôi ước gì mình có thể tan chảy ra và biến mất mãi mãi. Tôi ước gì mình sẽ chẳng bao giờ phải đối diện với bất kỳ ai nữa cả.

That summer, the family vacationed at the Russian River. Although I got along better with Mother, the magical feeling had disappeared. The hayrides, the weenie roasts and story telling were things of the past. We spent more and more time in the cabin. Even the day trips to Johnson’s Beach were rare.

Mùa hè năm đó, gia đình tôi đi nghỉ ở Sông Nga. Mặc dù mối quan hệ giữa tôi và mẹ có vẻ bớt căng thẳng, nhưng cảm giác hân hoan và hạnh phúc của ngày xưa đã không còn nữa. Những chuyến xe cỏ[4], những buổi xem nhạc rock Weenie Roast[5] và những câu chuyện kể hấp dẫn giờ chỉ còn là quá khứ. Phần lớn thời gian chúng tôi chỉ ở trong lều mà thôi. Những chuyến dạo chơi vào ban ngày đến bãi biển Johnson nổi tiếng cũng trở nên hiếm hoi.

Father tried to make the vacation more fun by taking the three of us to play on the new super slide. Russell, who was still a toddler, stayed in the cabin with Mother. One day, when Ron, Stan and I were playing at a neighbor’s cabin, Mother came out onto the porch and yelled for us to come in immediately. Once in the cabin, I was scolded for making too much noise. For my punishment, I was not allowed to go with Father and my brothers to the super slide. I sat on a chair in a corner, shivering, hoping that something would happen so the three of them wouldn’t leave. I knew Mother had something hideous on her mind. As soon as they left, she brought out one of Russell’s soiled diapers. She smeared the diaper on my face. I tried to sit perfectly still. I knew if I moved, it would only be worse. I didn’t look up. I couldn’t see Mother standing over me, but I could hear her heavy breathing.
After what seemed like an hour, Mother knelt down beside me and in a soft voice said, “Eat it.”

Cha cố gắng làm cho không khí của kỳ nghỉ thêm phần vui vẻ và thoải mái bằng cách đưa chúng toi đi chơi trên chiếc ván trượt ông mới mua. Lúc bấy giờ Russell chỉ mới chập chững biết đi nên phải ở lại lều với mẹ. Hôm đó, khi Ron, Stan và tôi đang chơi gần nhà nghỉ của hàng xóm thì mẹ ra đứng ngay cổng nhà nghỉ của mình và gào réo bắt chúng tôi phải về ngay lập tức. Vừa bước vào nhà, tôi bị mẹ mắng cho một trận vì tội quá ồn ào. Hình phạt dành cho tôi là tôi không được phép đi chơi lướt ván với cha và hai người anh em của mình. Tôi ngồi run rẩy trên một cái ghế trong góc phòng, lòng chỉ mong sao có điều gì đó xảy ra để họ không bỏ một mình tôi ở lại với mẹ. Tôi biết rằng mẹ đang toan tính chuyện gì đó. Ngay khi họ vừa đi khỏi, mẹ liền lôi ra mấy cái tã bẩn của Russell. Bà dí dí rồi chà cái tã lên mặt tôi. Tôi cố gắng ngồi thật
vững. Tôi biết là nếu tôi nhúc nhích hay cố tình né tránh, thì mọi thứ sẽ còn tệ hơn nữa. Tôi không nhìn lên. Tôi không nhìn thấy mẹ đang đứng trước mặt tôi, nhưng tôi có thể nghe thấy hơi thở dồn dập của bà.
Sau một khoảng thời gian kéo dài như cả giờ đồng hồ trôi qua, mẹ quỳ xuống bên cạnh tôi, nói vào tai tôi bằng một giọng rất khẽ: “Ăn đi”.

I looked straight ahead, avoiding her eyes. “No way!” I said to myself. Like so many times before, avoiding her was the wrong thing to do. Mother smacked me from side to side. I clung to the chair, fearing if I fell off she would jump on me.
“I said eat it!” she sneered.
Switching tactics, I began to cry. “Slow her down,” I thought to myself. I began to count to myself, trying to concentrate. Time was my only ally. Mother answered my crying with more blows to my face, stopping only when she heard Russell crying.
Even with my face covered with defecation, I was pleased. I thought I might win.

Tôi bàng hoàng không thể tin vào tai mình và thảng thốt ngước nhìn lên, cốc tránh ánh mắt của mẹ. Không thể nào! Tôi tự nhủ. Cũng như bao lần trước đó, tôi biết chống đối lại mẹ là một việc không nên làm vì sẽ chẳng ích gì. Mẹ bắt đầu tát lia lịa vào mặt tôi. Tôi bám chặt tay vào thành ghế để khỏi ngã xuống đất, nếu không chắc mẹ sẽ nhảy bổ lên người tôi mất thôi. “Tao nói ‘ăn đi’!” - Mẹ rít lên.
Tôi nghĩ mình cần phải thay đổi chiến lược để đối phó với mẹ, thế là tôi bắt đầu khóc lóc van xin. Phải cầm chân bà ấy lại. Tôi nhủ thầm. Tôi cố gắng đếm nhẩm và tập trung cao độ. Thời gian là đồng minh duy nhất của tôi lúc này. Mẹ đáp lại những tiếng khóc lóc của tôi bằng mấy cú đấm thẳng vào mặt tôi như trời giáng. Chỉ đến khi nghe tiếng Russell khóc, bà mới chịu dừng tay. Dù cho mặt mũi tôi lúc đó bê bết phân là phân, nhưng chẳng hiểu sao tôi vẫn lâng lâng một cảm giác thỏa nguyện. Tôi nghĩ rằng mình đã có thể thắng.

I tried to wipe the shit away, flicking it onto the wooden floor. I could hear Mother singing softly to Russell, and I imagined him cradled in her arms, I prayed he wouldn’t fall asleep. A few minutes later my luck ran out.
Still smiling, Mother returned to her conquest. She grabbed me by the back of the neck and led me to the kitchen. There, spread out on the counter top, was another full diaper. The smell turned my stomach. “Now, you are going to eat it!” she said.
Mother had the same look in her eyes that she had the day she wanted me to lie on top of the gas stove back at the house.

Tôi cố lau sạch phân dính trên mặt mình, phân còn vung vẩy cả trên sàn nhà gỗ. Tôi nghe thấy tiếng mẹ khe khẽ hát ru Russell ngủ, và tôi có thê tưởng tượng thằng bé được ôm ấp thế nào trong vòng tay của mẹ. Nhưng chỉ ít phút sau, bùa hộ mệnh của tôi cũng đã say giấc.
Miệng vẫn mỉm cười, mẹ quay trở lại trò vui của mình. Bà tóm lấy cổ tôi và lôi tôi vào nhà bếp. Trên bàn ăn là một cái tã khác đầy phân. Cái mùi của nó làm tôi muốn nôn mửa.
- Bây giờ thì mày hãy ăn cho hết đi! – Mẹ ra lệnh.
Đôi mắt của mẹ lúc này ánh lên những tia nhìn hằn học và hả hê hệt như lúc bà bắt tôi leo lên cái bếp lò đang phừng phực lửa ngày trước.

Without moving my head, I moved my eyes, searching for the daisycolored clock that I knew was on the wall. A few seconds later, I realized the clock was behind me. Without the clock, I felt helpless. I knew I needed to lock my concentration on something, in order to keep any kind of control of the situation. Before I could find the clock, Mother’s hands seized my neck. Again she repeated, “Eat it!”

Không dám xoay đầu, tôi chỉ đảo mắt tìm chiếc đồng hồ màu vàng hoa cúc mà tôi biết chắc rằng nó nằm đâu đó trên tường. Sau vài giây, tôi nhận ra chiếc đồng hồ nằm trên bức tường ở phía sau lưng. Nếu không có nó, tôi sẽ cảm thấy bất lực. Tôi biết là mình cần phải tập trung tinh thần vào một vật gì đó, để có thể nắm được quyền kiểm soát cho tình thế hiện tại. Nhưng trước khi tôi kịp nhìn thấy chiếc đồng hồ, thì mẹ đã chộp lấy cổ tôi. Bà nghiến răng lặp lại những từ một:
- Ăn đi!

I held my breath. The smell was overpowering. I tried to focus on the top corner of the diaper.
Seconds seemed like hours. Mother must have known my plan. She slammed my face into the diaper and rubbed it from side to side.
I anticipated her move. As I felt my head being forced down, I closed my eyes tightly and clamped my mouth shut. My nose struck first. A warm sensation oozed from my nostrils. I tried to stop the blood from escaping by breathing in. I snorted bits of defecation back up my nose with the blood. I threw my hands on the counter top and tried to pull myself out of her grip. I twisted from side to side with all my strength, but she was too powerful.

Tôi nín thở. Cái mùi của nó thật quá sức tưởng tượng. Tôi cố tập trung vào phần đầu là phần sạch nhất của cái tã. Thời gian như kéo dài hàng thế kỷ.
Mẹ ắt hẳn đã biết được kế hoạch của tôi. Mẹ ụp mặt tôi vào cái tã và chà qua chà lại khuôn mặt tôi trên cái vật bẩn thỉu ấy.
Tôi đoán trước được hành động của mẹ. Khi mẹ vừa dúi đầu tôi chúi xuống dưới, tôi liền nhắm chặt mắt và mím chặt miệng lại. Mũi của tôi bị đập mạnh xuống bàn. Một chất gì đó âm ấm rĩ ra từ mũi tôi. Theo quán tính, tôi hít vào để máu mũi khỏi chảy ra. Thế là tôi hít phải một ít phân cùng với máu ngược trở lại mũi. Hai tay tôi đập xuống bàn, tôi cố vùng vẫy để thoát khỏi bàn tay kìm kẹp của mẹ. Tôi cố giãy giụa với tất cả sức lực để thoát khỏi tấm thân hộ pháp của mẹ, nhưng mẹ quá mạnh.

Suddenly Mother let go. “They’re back! They’re back!” she gasped. Mother snatched a wash cloth from the sink and threw it at me. “Clean the shit off your face,” she bellowed as she wiped the brown stains from the counter top. I wiped my face the best I could, but not before blowing bits of defecation from my nose. Moments later, Mother stuffed a piece of napkin up my bloody nose and ordered me to sit in the corner. I sat there for the rest of the evening, still smelling traces of the diaper through my nose.
The family never returned to the Russian River again.

Bỗng nhiên mẹ buông tôi ra. - Họ về rồi. Họ về rồi. – Mẹ vừa nói vừa thở hổn hển. Mẹ quơ lấy cái khăn vắt trên bồn rửa mặt ném cho tôi rồi quát: - Lau hết phân trên cái mặt gớm ghiếc của mày đi. – Bà gầm lên trong lúc lau chùi mấy bệt phân nâu lem luốc trên mặt bàn. Tôi dung khăn lau mặt thật kỹ, không quên khịt thật mạnh để lấy hết chỗ phân trong mũi ra. Lát sau, mẹ tọng một miếng khăn giấy vào lỗ mũi đang chảy máu của tôi và lệnh cho tôi ngồi vào góc phòng. Tôi ngồi đó suốt buổi chiều, mũi vẫn còn ngửi thấy thứ mùi kinh khủng của cái tã.
Từ đó, gia đình tôi chẳng bao giờ quay trở lại Sông Nga nữa.

In September, I returned to school with last year’s clothes and my old, rusted, green lunch pail. I was a walking disgrace. Mother packed the same lunch for me every day: two peanut butter sandwiches and a few limp carrot sticks. Since I was no longer a member of the family, I was not allowed to ride to school in the family station wagon. Mother had me run to school. She knew I would not arrive in time to steal any food from my classmates.

Tháng Chín, tôi trở lại trường học với bộ quần áo cũ mặc từ nhiều năm trước và cái hộp cơm màu xanh lá đã rỉ sét. Tôi trở thành một nỗi ô nhục biết đi trong gia đình của mình. Ngày nào cũng vậy, mẹ gói cho tôi phần ăn trưa gồm hai lát sandwich phết bơ đậu phộng và vài mẫu cà rốt bé tẹo. Vì khôngcòn là thành viên trong gia đình nữa, nên tôi không được phép ngồi cùng xe với mọi người để mẹ chở đi học. Mẹ bắt tôi phải chạy bộ đến trường. Bà biết rằng làm thế tôi sẽ không đến trường kịp giờ để lấy trộm thức ăn của các bạn học.

At school I was a total outcast. No other kid would have anything to do with me. During the lunch recesses, I stuffed the sandwiches down my throat as I listened to my former friends make up songs about me. “David the Food Thief” and “PelzerSmellzer” were two of the playground favorites. I had no one to talk to or play with. I felt all alone.

Ở trường, tôi là một đứa trẻ bị loại bỏ hoàng toàn khỏi những cuộc chơi. Chẳng đứa bạn nào chịu nói chuyện hay chơi đùa với tôi cả. Suốt giờ ăn trưa, tôi ngồi một mình và cố nuốt trôi từng lát sandwich xuống cổ họng đắng nghét, cảm thấy tủi thân vô cùng khi nghe mấy đứa bạn cất lời trêu chọc. Bọn bạn vẫn thường xì xào bàn tán hoặc ném vào tôi những cậu đại loại như: “David, thằng ăn cắp thức ăn” và “Thằng hôi rình”. Không một ai muốn lại gần tôi, không một ai muốn dính dáng gì đến tôi. Tôi thấy mình sao cô độc quá.

At the house, while standing for hours in the garage, I passed the time by imagining new ways to feed myself. Father occasionally tried to sneak scraps of food to me, but with little success. I came to believe if I were to survive, I would have to rely on myself. I had exhausted all possibilities at school. All the students now hid their lunch pails, or locked them in the coat closet of the classroom. The teachers and principal knew me and carefully watched me. I had little to no chance of stealing anymore food at school.

Ở nhà, mỗi khi bị mẹ bắt đứng hàng giờ trong nhà xe, tôi giết thời gian bằng cách nghĩ ra những cách mới để tìm lấy cái ăn cho mình. Thỉnh thoảng cha vẫn tìm cách lén mẹ lấy cho tôi vài mẫu thức ăn, nhưng rất ít khi ông qua được mắt mẹ. Càng ngày tôi càng tin rằng, nếu muốn sống sót, tôi sẽ phải dựa vào chính mình. Tôi không thể trông mong vào bất kỳ cơ hội nào để lấy cắp thức ăn ở trường nữa. Tất cả học sinh lúc bấy giờ đều giấu hộp thức ăn vào tủ riêng và khóa lại. Còn các thầy cô bộ môn và thầy hiệu trưởng thì đã biết rất rõ về tôi và luôn giám sát tôi cẩn thận. Hầu như tôi không thể manh nha ý định đánh cắp thức ăn ở trường được nữa.

Finally, I devised a plan that might work. Students were not allowed to leave the playground during lunch recess, so nobody would expect me to leave. My idea was to sneak away from the playground and run to the local grocery store, and steal cookies, bread, chips or whatever I could. In my mind, I planned every step of my scheme. When I ran to school the next morning, I counted every step so I could calculate my pace and later apply it to my trip to the store. After a few weeks, I had all the information I needed. The only thing left was finding the courage to attempt the plan. I knew it w ould take longer to go from the school to the store because it was up a hill, so I allowed 15 minutes. Coming back downhill would be easier, so I allowed 10 minutes. This meant I had only 10 minutes at the store.

Sau cùng, tôi cũng đã nghĩ ra được một kế hoạch có vẻ khả thi. Theo quy định của nhà trường thì vào giờ giải lao buổi trưa, học sinh không được phép rời khỏi sân chơi, vì vậy sẽ không ai nghĩ đến việc tôi không có mặt ở đó. Kế hoạch mới của tôi là tôi sẽ lẻn ra khỏi sân chơi, chạy đến quầy bách hóa trong trường để đánh cắp bánh quy, bánh mì, bánh khoai tậy hoặc bất cứ thứ gì có thể. Tôi tính toán thật kỹ từng chi tiết cho kế hoạch đó. Sáng hôm sau, khi chạy bộ đến trường, tôi đếm từng bước chân để có thể tính toán chính xác thời gian để áp dụng cho kế hoạch nhắm vào quầy bách hóa. Vài tuần sau đó, tôi đã có được mọi thông tin cần thiết. Điều cuối cùng là phải có đủ dũng khí để thực hiện kế hoạch ấy. VÌ quầy bách hóa nằm trên một ngọn đồi nên từ trường học đến đó mất khoảng mười lăm phút, còn lúc về thì chỉ mất mười phút. Thế nghĩa là tôi chỉ có mười phút tại quầy bách hóa mà thôi.

Each day when I ran to and from school, I tried to run faster, pounding each step as if I were a marathon runner. As the days passed and my plan became more solid, my hunger for food was replaced with daydreaming. I fantasized whenever performing my chores at the house. On my hands and knees while scrubbing the bathroom tiles, I imagined I was the prince in the story “The Prince and the Pauper”. As the Prince, I knew I could end the charade of acting like a servant any time I wanted. In the basement, I stood perfectly still with my eyes closed, dreaming I was a comicbook hero. But my daydream was always interrupted by hunger pangs, and my thoughts soon returned to my plan of stealing food.

Hàng ngày, khi chạy từ nhà tới trường rồi từ trường về nhà, tôi cố gắng chạy nhanh hớn, dậm chân thật mạnh xuống đường như thể mình là một vẫn động viên ma-ra-tông vậy. Từng ngày trôi qua, kế hoạch của tôi trở nên chặt chẽ hơn. Trong thời gian đó, thính thoảng cơn đói của tôi lại được thay thế bằng những cơn mộng tưởng. Cứ mỗi lần ở nhà làm việc là tôi lại mơ màng viển vông. Trong lúc bò lê cọ rửa sàn nhà tắm, tôi cứ tưởng tượng mình chính là hoàng tử trong câu chuyện “Hoàng tử và Người hành khất”[6]. Khi đã là hoàng tử, tôi có thể chấm dứt trò chơi mà mình phải đóng vai là một tên đầy tớ. Mỗi khi bị bắt đứng ở dưới tầng hầm, tôi lại đứng yên bất động với hai mắt nhắm nghiền, mơ mộng ra cảnh mình là nhân vật anh hùng trong một câu chuyện nào đó. Nhưng rồi cơn mộng tưởng sớm bị gián đoạn vì những cơn đói đến cồn cào ruột gan, thế là suy nghĩ của tôi lại nhanh chóng trở về với kế hoạch ăn cắp thức ăn.

Even when I was sure my plan was foolproof, I was too afraid to put it into action. During the lunch recess at school, I strolled around the playground making excuses to myself for my lack of guts to run to the store. I told myself I would get caught or that my timing calculations were not accurate. All through the argument with myself, my stomach growled, calling me a “chicken”. Finally, after several days without dinner and only the small leftover portions for breakfast, I decided to do it.

Nhưng do tôi biết chắc kế hoạch của mình là hoàn toàn ngu ngốc, nên tôi vẫn chưa có đủ can đảm để thực hiện. Suốt giờ nghỉ trưa, tôi cứ lòng vòng quanh sân trường, tự trách mình sao không có đủ quyết tâm để chạy thẳng đến quầy bách hóa kia. Rồi tôi tự nhủ hay là mình đừng nghĩ đến chuyện điên rồ đó nữa, bởi sự tính toán về thời gian có thể không chính xác và mình sẽ bị bắt gặp. Trong lúc tôi đang phải đấu tranh tư tưởng với chính mình thì bụng của tôi lại sôi lên cồn cào như thể nó đang giễu tôi là “đồ gà con”. Cuối cùng, sau nhiều ngày không đưuọc ăn tối mà chỉ được ném cho mấy mẩu bánh vụn cho bữa sáng, tôi đánh liều tiến hành kế hoạch của mình.

A few moments after the lunch bell rang, I blitzed up the street, away from the school, with my heart pounding and my lungs bursting for air. I made it to the store in half the time I allowed myself. Walking up and down the aisles of the store, I felt as if everybody was staring at me. I felt as though all the customers were talking about the smelly, ragged child. It was then that I knew my plan was doomed because I had not taken into account how I might look to other people. The more I worried about my appearance, the more my stomach became seized with fear. I froze in the aisle, not knowing what to do. I slowly began to count the seconds away. I began to think about all the times I had been starving. Suddenly without thinking, I grabbed the first thing I saw on the shelf, ran out of the store and raced back to school. Clutched tightly in my hand was my prize - a box of graham crackers.

Hôm ấy, sau khi chuông báo hiệu giờ giải lao buổi trưa vang lên được vài phút, tôi vội lao xuống đường chạy thật nhanh về phía quầy bách hóa. Tim tôi đập thình thịch còn miệng thì thở hồng hộc. Tôi đến được quầy bách hóa với khoảng thời gian chỉ bằng một nửa so với những gì tôi đã ước tính. Thấp thỏm đi lên đi xuống giữa các lối đi trong quầy để tiện quan sát, tôi có cảm tưởng như mọi ánh mắt đều đang đổ dồn về phía mình. Tôi có cảm giác như tất cả những ai đang có mặt tại cửa tiệm lúc đó đều xì xầm bàn tán về tôi - một thằng bé hôi hám và rách rưới. Rồi tôi nhận ra kế hoạch của mình có thể sẽ phá sản mất thôi bởi tôi đã không lường trước được bộ dạng của mình sẽ gây sự chú ý thế nào đến mọi người xung quanh. Tôi càng lo lắng về vẻ ngoài của mình thì dạ dày của tôi lại càng quặn thắt bởi nỗi sợ hãi. Tôi cứ thế đứng chết trân ngay lối đi trong quầy, không biết phải làm gì tiếp theo. Tôi vừa nghe rõ nhịp tim đập thình thịch của mình vừa đếm từng thời khắc trôi qua. Đầu tôi đặc nghẹt những suy nghĩ. Nghĩ đến những lúc mình bị bỏ đói, dường như một sự quyết tâm cao độ xâm chiếm lấy tôi. Không còn nao núng trước những gì đang diễn ra xung quanh, tôi bạo gan thộp lấy cái gói đầu tiên tôi nhìn thấy trên kệ hàng và chạy nhanh ra khỏi cửa tiệm rồi lao trở về trường học. Người tôi run lên bần bật vì sợ. Nhưng tôi cũng sung sướng đến bật khóc khi đã nắm chặt trong tay “chiến lợi phẩm” của mình - một gói bánh quy Graham [7].

As I came near the school I hid my possession under my shirt, on the side that didn’t have any holes, as I walked through the schoolyard. Inside, I ditched the food in the garbage can of the boys’ restroom. Later that afternoon, after making an excuse to the teacher, I returned to the restroom to devour my prize. I could feel my mouth begin to water, but my heart sank as I looked into an empty trash can. All my careful plans and all the pain of convincing myself that I would eat, were wasted. The custodian had emptied the trash can before I could slip away to the restroom.

Về gần tới trường, tôi giấu gói bánh trong áo sơ mi, bên phần áo không bị thủng, rồi thản nhiên đi ngang qua sân trường. Sau đó tôi đi thẳng vào nhà vệ sinh nam và giấu gói bánh trong thùng rác. Quá trưa hôm đó, sau khi xin phép thầy giáo, tôi trở lại nhà vệ sinh để thưởng thức chiến lợi phẩm của mình. Chỉ cần nghĩ đến việc được liếm láp món bánh ngon lành thì nước bọt trong miệng tôi đã ứa ra. Nhưng rồi tim tôi thắt lại khi trước mắt tôi là một cái thùng rác trống rỗng. Vậy là kế hoạch tỉ mỉ cùng những công sức khó nhọc của tôi giờ đã trở thành công cốc. Người lao công đã dọn sạch thùng rác trước khi tôi kịp quay trở lại nhà vệ sinh.

That day my plan failed, but on other attempts I was lucky. Once, I managed to hide my treasure in my desk in homeroom, only to find on the next day that I had been transferred to the school across the street. Except for losing the stolen food, I welcomed the transfer. Now, I felt I had a new license to steal.
Not only was I able to snitch food from my classmates again, but I also sprinted to the grocery store about once a week.
Sometimes at the grocery store, if I felt things weren’t just right, I didn’t steal anything. As always, I finally got caught. The manager called Mother. At the house, I was thrashed relentlessly. Mother knew why I stole food and so did Dad, but she still refused to feed me. The more I craved food, the more I tried to come up with a better plan to steal it.


Ngày hôm ấy, kế hoạch của tôi đã thất bại, nhưng vào những lần sau đó, tôi đã may mắn hơn. Có lần tôi giấy chiến lợi phẩm trong ngăn bàn ở phòng điểm danh, để đến sáng hôm sau tôi lấy nó ra như thể tôi đã mang theo từ nhà đến trường. Lúc đó tôi cảm giác như mình đã được cấp phép để ăn cắp. Mọi chuyện diễn ra tương đối suôn sẻ.
Tôi không những có thể thỉnh thoảng tiếp tục đánh cắp thức ăn của các bạn cùng lớp, mà còn có thể chạy hết tốc lực đến quầy bách hóa mỗi tuần một lần để thó vài món mang về. Mỗi khi đến quầy bách hóa, nếu tôi linh cảm thấy có gì đó không ổn, tôi sẽ không lấy bất cứ thứ gì cả. Cũng như những lần ăn cắp trước, cuối cùng tôi lại bị tóm. Ông chủ cửa hàng đã gọi điện báo cho mẹ tôi biết. Khi về nhà, tôi lại nhận những trận đòn tàn nhẫn của mẹ. Mẹ thừa hiểu tại sao tôi phải ăn cắp thức ăn, cha tôi cũng vậy, nhưng bà ấy vẫn nhất quyết không cho tôi ăn. Tôi càng khao khát được ăn thì đầu óc tôi lại càng cố sức nghĩ ra một kế hoạch mới nào đó hoàn hảo hơn để đạt được điều đó.

After dinner, it was Mother’s habit to scrape the leftovers from the dinner plates into a small garbage can. Then she would summon me up from the basement, where I had been standing while the family ate. It was my function to wash the dishes.
Standing there with my hands in the scalding water, I could smell the scraps from dinner in the small garbage can. At first my idea was nauseating, but the more I thought about it, the better it seemed. It was my only hope for food. I finished the dishes as fast as I could and emptied the garbage in the garage. My mouth watered at the sight of the food, and I gingerly picked the good pieces out while scraping bits of paper or cigarette butts away, and gobbled the food as fast as I could.


Sau bữa ăn tối, mẹ có thói quen gom tất cả phần thức ăn thừa trên dĩa cho vào một cái thùng rác nhỏ, rồi bà mới cho gọi tôi lên - lúc đó đang dưới tầng hầm chờ cả nhà dùng xong bữa. Nhiệm vụ của tôi là rửa hết đống chén đĩa bẩn. Trong lúc đứng ở bồn rửa chén, tôi có thể ngửi thấy mùi thức ăn thừa mà mẹ đã ném vào thùng rác. Ngay lúc ấy, một ý nghĩ lóe lên trong đầu khiến tôi muốn nôn ọe, nhưng càng nghĩ và càng tự thuyết phục mình thì tôi cũng cảm thấy đỡ hơn. Đó chính là hy vọng duy nhất để cái bụng của tôi được no. Tôi cố rửa xong đống chén bát càng nhanh càng tốt rồi mang cái thùng rác xuống nhà xe để lục lọi. Vừa nhìn thấy thức ăn, miệng tôi ứa nước bọt và hai bên quai hàm nhức buốt đến tận mang tai. Tôi vừa gạt giấy và đầu lọc thuốc lá sang một bên vừa cẩn thận nhặt từng mẫu thức ăn còn nguyên ra khỏi đám bầy nhầy. Rồi tôi ngấu nghiến hết chỗ thức ăn ấy nhanh đến độ không kịp thở.


As usual, my new plan came to an abrupt halt when Mother caught me in the act. For a few weeks I quit the garbage routine, but I finally had to return to it, in order to silence my growling stomach. Once, I ate some leftover pork. Hours later I was bent over in extreme pain. I had diarrhea for a week. While I was sick, Mother informed me she had purposefully left the meat in the refrigerator for two weeks, to spoil before she threw it away.

Như một lẽ thường tình, kế hoạch mới của tôi lại đột ngột bị khựng lại vì bị mẹ bắt gặp. Thế là trong suốt nhiều tuần liền, tôi buộc phải từ bỏ thói quen ăn đồ ăn trong thùng rác. Nhưng rồi sau cùng tôi cũng đành đánh bạo lén lút trở về với thói quen cũ để chống lại những cơn đói đến mờ mắt. Tôi nhớ một lần nọ, tôi đã lục thùng rác để ăn vài miếng thịt heo thừa. Chỉ vài giờ sau đó, cả người tôi quằn quại vì những cơn đau dữ dội. Tôi bị tiêu chảy suốt cả tuần. Khi tôi bị bệnh, mẹ mới nói cho tôi biết là bà đã cố tình để phần thịt heo ấy hai tuần trong tủ lạnh, cho nó bị thối rữa rồi mới ném vào thùng rác.

She knew I couldn’t resist stealing it. As time progressed, Mother had me bring the garbage can to her so she could inspect it while she lay on the couch. She never knew that I wrapped food between paper towels and hid them in the bottom of the can. I knew she wouldn’t want to get her fingers dirty, digging in the bottom of the trash can, so my scheme worked for a while.

Bà thừa biết tôi sẽ lén moi phần thịt ôi thiu ấy từ thùng rác ra mà ăn. Thời gian sau đó, cứ sau bữa cơm chiều, mẹ lại bắt tôi khuân cái thùng rác đến chỗ bà nằm cho bà kiểm tra. Bà không bao giờ biết rằng đối đối phó với chuyện này, tôi đã gói thức ăn vào mấy miếng khăn giấy và giấu nó dưới đáy thùng. Tôi biết là mẹ sẽ không muốn bới cái thùng rác lên để cho những ngón tay của mình bị vấy bẩn, vì vậy âm mưu của tôi cũng hữu dụng được một thời gian.

Mother sensed I was getting food some way, so she began sprinkling ammonia in the trash can. After that, I gave up on the garbage at the house and focused my sights on finding some other way to get food at school. After getting caught stealing from other kids’ lunches, my next idea was to rip off frozen lunches from the school cafeteria.

Dường như mẹ cảm nhận được rằng tôi vẫn có thể lấy được thức ăn bằng cách nào đó, thế nên bà bắt đầu tưới dung dịch amoniac vào thùng rác. Từ đó, tôi đành từ bỏ thói quen moi thức ăn từ thùng rác ở nhà và chỉ tập trung tìm cách để đánh cắp thức ăn ở trường mà thôi. Từ sau khi tôi bị bắt quả tang đánh cắp thức ăn trưa của các bạn học, ý định tiếp theo của tôi là sẽ đánh cắp thức ăn đông lạnh trong căng-tin trường học.

I timed my restroom break so that the teacher excused me from the classroom just after the delivery truck dropped off its supply of frozen lunches. I crept into the cafeteria and snatched a few frozen trays, then I scurried to the restroom. Alone in the restroom, I swallowed the frozen hot dogs and later tots in huge chunks so fast I almost choked myself in the process. After filling my stomach I returned to the classroom, feeling proud so I fed myself.

Tôi tính toán thời gian để xin phép thầy giáo đi vệ sinh ngay sau khi chiếc xe tải giao hàng mang đến căng-tin những hộp thức ăn đông lạnh dành cho bữa trưa. Sau đó tôi lẻn vào căng-tin và vơ lấy vài hộp thức ăn lạnh rồi chạy thục mạng vào nhà vệ sinh. Ở trong ấy, tôi ngấu nghiến mấy cây xúc xích đông lạnh và món bánh tater tots [8] với những vốc thật lớn. Tôi ăn nhanh đến
độ gần như bị mắc nghẹn. Sau khi đã nhét đầy thức ăn vào bụng, tôi trở lại lớp học, trong lòng thấy vô cùng tự hào vì tôi đã tự kiếm được cái ăn cho mình.

As I ran to the house from school that afternoon, all I could think about was stealing food from the cafeteria the next day. Minutes later, Mother changed my mind. She dragged me into the bathroom and slugged me in the stomach so hard that I bent over. Pulling me around to face the toilet, she ordered me to shove my finger down my throat. I resisted. I tried my old trick of counting to myself, as I stared into the porcelain toilet bowl, “One … two …” I never made it to three. Mother rammed her finger into my mouth, as if she wanted to pull my stomach up through my throat. I squirmed in every direction in an effort to fight her. She finally let me go, but only when I agreed that I would vomit for her.

Buổi chiều hôm ấy, khi đi học về, đầu óc tôi chỉ nghĩ đến việc ăn cắp thức ăn ở căng tin trường học vào ngày hôm sau mà thôi. Nhưng chỉ vài phút sau đó, mẹ đã làm cho mọi dự định của tôi tan tan biến. Bà lôi tôi xềnh xệch vào nhà tắm, ra sức thụi túi bụi vào bụng tôi khiến tôi oằn người quằn quại vì đau đớn. Rồi bà tiếp tục lôi tôi vào nhà vệ sinh và bắt tôi phải thọc ngón tay vào trong cổ họng. Tôi không chịu làm theo. Tôi cố áp dụng chiêu thức cũ là đếm nhẩm, mắt tôi liếc nhìn vào bồn cầu bằng men sứ, “Một… hai… “ nhưng tôi chẳng bao giờ đếm được đến ba. Mẹ tôi tức mình thọc luôn ngón tay của bà ấy vào cổ họng tôi. Tôi oằn người vẫy vùng chỉ mong thoát khỏi tấm thân hộ pháp của bà ấy. Cuối cùng thì bà cũng buông tha cho tôi, nhưng chỉ là khi tôi chấp nhận sẽ ói ra hết cho bà ấy xem.

I knew what was going to happen next. I closed my eyes as chunks of red meat spilled into the toilet. Mother just stood behind me, with her hands on her hips and said, “I thought so.
Your Father’s going to hear about this!” I tensed myself for the volley of blows that I knew was coming, but nothing happened.
After a few seconds, I spun around to discover that Mother had left the bathroom. I knew the episode wasn’t over. Moments later she returned with a small bowl, ordered me to scoop the partiallydigested food out of the toilet and put it in the bowl.
Since Father was away shopping at the time, Mother was gathering evidence for his return.

Tôi biết chuyện gì sắp sửa xảy ra. Tôi nhắm nghiền mắt lại mặc cho những thớ thịt heo đỏ hỏn trôi tuột vào trong bồn cầu. Mẹ đứng sau lưng tôi, tay chống nạnh và nói:
- Tao nghĩ vậy đấy. Cha mày sắp biết hết chuyện này rồi.
Tôi gồng người chờ đợi những cú đấm cú đá mà mẹ sắp dành cho tôi, nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Vài giây sau, tôi quay người lại và biết mẹ đã ra khỏi nhà tắm. Nhưng tôi biết mọi chuyện vẫn chưa kết thúc. Vài phút sau mẹ trở lại với một cái tô nhỏ trên tay, bà bắt tôi múc những mảng thức ăn chưa được tiêu hóa hết trong bồn cầu vào cái tô ấy. Bởi lúc đó cha tôi ra ngoài mua sắm nên mẹ làm thế là để giữ lại chứng cứ cho ông xem.

Later that night, after I finished all of my evening chores, Mother had me stand by the kitchen table while she and Father talked in the bedroom. In front of me was the bowl of hot dogs that I had vomited.
I couldn’t look at it, so I closed my eyes and tried to imagine myself far away from the house. A short time later, Mother and Father stormed into the kitchen. “Look at this, Steve,” Mother barked, thrusting her finger in the direction of the bowl. “So you think The Boy is through stealing food, do you?”

Đêm hôm đó, sau khi tôi hoàn tất mọi công việc nhà, mẹ bắt tôi đứng cạnh bàn ăn trong nhà bếp trong lúc bà nói chuyện với cha tôi trong phòng ngủ. Trước mặt tôi lúc đó là cái tô đựng đầy thứ thịt mà tôi đã ói ra lúc chiều.
Tôi không thể nhìn vào đó, tôi chỉ biết nhắm mắt lại và hình dung đến cảnh một ngày nào đó mình sẽ trốn khỏi nhà để đến một nơi thật xa. Một lát sau, mẹ kéo cha lao vào nhà bếp.
- Nhìn đây này, Steve! Anh có còn nghĩ rằng thằng nhãi đó không ăn cắp thức ăn nữa hay không? - Mẹ gào lên, tay chỉ thẳng về phía cái tô.

By the look on Father’s face, I could tell he was getting more and more tired of the constant “What has The Boy done now” routine. Staring at me, he shook his head in disapproval and stammered, “Well, Roerva, if you would just let The Boy have something to eat.”
A heated battle of words broke out in front of me, and as always, Mother won. “EAT? You want The Boy to eat, Stephen? Well, The Boy is going to EAT! He can eat this!”

Ngước nhìn khuôn mặt của cha lúc ấy, tôi có thể thấy rằng ông đã ngày càng trở nên mệt mỏi với cụm từ “Điều thằng đó đã làm” mà mẹ luôn miệng chì chiết. Liếc nhìn tôi, cha lắc đầu tỏ vẻ không tán thành với mẹ, rồi ông lắp bắp:- Mà Roerva này, nếu có thể thì em cho thằng bé ăn chút gì đi.
Cha vừa dứt lời, một trận cãi vã nảy lửa đã diễn ra ngay trước mặt tôi và như mọi khi, mẹ là người chiến thắng.
- ĂN? Anh muốn cho thằng nhãi đó ăn à, Stephen? Được rồi, nó sẽ được ĂN. Bảo nó ăn cái này đi!

Mother yelled at the top of her lungs, shoving the bowl towards me and stomping off to the bedroom.
The kitchen became so quiet I could hear Father’s strained breathing. He gently placed his hand on my shoulder and said, “Wait here, Tiger. I’ll see what I can do.” He returned a few minutes later, after trying to talk Mother out of her demand. By the saddened look on his face, I knew immediately who won.

Mẹ trợn mắt hét lên the thé, hất cái tô về phía tôi rồi hậm hực bỏ về phòng.
Không khí trong gian bếp trở nên yên lặng như tờ khiến cho tôi có thể nghe thấy cả hơi thở nặng nề đầy lo âu của cha. Sau một hồi đắn đo, cha nhẹ nhàng đặt tay lên vai tôi và nói:
- Cứ chờ ở đây, Cọp con. Để xem cha có thể làm được gì không nhé.
Nói rồi ông bỏ đi. Tôi biết ông đi gặp mẹ để cố thuyết phục bà đừng bắt tôi làm như thế. Chỉ vài phút sau, cha quay trở lại. Nhìn vẻ mặt buồn bã của cha, tôi hiểu ngay chuyện gì sẽ xảy ra.

I sat on a chair and picked the clumps of hot dogs out of the bowl with my hand. Globs of thick saliva slipped through my fingers, as I dropped it in my mouth. As I tried to swallow, I began to whimper. I turned to Father, who stood looking through me with a drink in his hand. He nodded for me to continue. I couldn’t believe he just stood there as I ate the revolting contents of the bowl. At that moment, I knew we were slipping further and further apart.

Tôi ngồn trên một cái ghế và dùng tay với lấy đống tịt nhểu nhảo kia ra khỏi tô. Cảm giác muốn nôn ọe đã tràn đến cổ họng. Vừa đưa mấy miếng thịt đã bốc mùi lên miệng tôi vừa nhắm mắt để cố nuốt cho trôi. Nuốt xong miếng đầu tiên, tôi bật khóc. Tôi quay sang nhìn cha. Ông đứng đó với ly rượu trong tay, chỉ biết nhìn khi tôi phải nuốt cái thứ gớm ghiếc ấy vào bụng. Đã thế ông còn nhìn tôi gật đầu như ra hiệu tôi hãy tiếp tục. Tôi không thể tin là cha chỉ có thể đứng đó nhìn trong lúc tôi đang phải nuốt lấy mớ thức ăn ghê tởm trong cái tô kia. Chính trong giây phút đó, tôi biết cha con tôi đang dần rời xa nhau…

I tried to swallow without tasting, until I felt a hand clamp on the back of my neck. “Chew it!” Mother snarled, “Eat it! Eat it all!” she said, pointing to the saliva. I sat deeper in my chair. A river of tears rolled down my cheeks. After I had chewed the mess in the bowl, I tilted my head back and forced what remained, down my throat. I closed my eyes and screamed to myself to keep it from coming back up into my mouth. I didn’t open my eyes until I was sure my stomach wasn’t going to reject my cafeteria meal. When I did open them, I stared at Father who turned away to avoid my pain. At that moment I hated Mother to no end, but I hated Father even more. The man who had helped me in the past, just stood like a statue while his son ate something even a dog wouldn’t touch.

Tôi nín thở nuốt trọng để không phải ngửi thấy cái mùi tanh tưởi ấy, cho đến khi có một bàn tay kẹp chặt lấy cổ tôi từ phía sau:
- Nhai đi. – Mẹ gầm gừ. – Ăn đi! Ăn hết đi!
Mắt bà long lên, tay dúi đầu tôi vào cái tô. Tôi ngồi lọt thỏm trong cái ghế, nước mắt dầm dề chảy xuống gò má. Sau khi nhai xong đống hỗn độn trong cái tô, tôi ngửa đầu ra sau để cố ép cho những gì còn lại trong miệng tôi trôi xuống cổ họng. Tôi nhắm nghiền mắt lại và gào thét với chính mình rằng bằng mọi cách đừng để cho cái thứ ấy trào ngược trở lên miệng. Mãi cho đến khi tôi chắc chắn mọi thứ đã ổn thì tôi mới dám mở mắt ra. Tôi nhìn chằm chặp vào cha, ông đang vội quay đi để tránh nhìn thấy nỗi đau đớn của tôi.
Ngay chính lúc đó, tôi cảm thấy căm ghét mẹ đến tận cùng, nhưng tôi còn ghét cha nhiều hơn thế gấp trăm vạn lần. Người đàn ông ấy đã từng nhiều lần tìm cách giúp đỡ tôi, bênh vực cho tôi, nhưng giờ thì ông chỉ đứng im như một pho tượng khi chứng kiến con trai phải cho vào miệng một thứ mà ngay cả con chó còn chê.

After I finished the bowl of regurgitated hot dogs, Mother returned in her robe and threw a wad of newspapers at me. She informed me the papers were my blankets, and the floor under the table was now my bed. Again I shot a glance at Father, but he acted as though I was not even in the room. Forcing myself not to cry in front of them, I crawled, completely dressed, under the table, and covered myself with the newspapers, like a rat in a cage.

Sau khi tôi ăn xong phần xúc xích do chính mình ói mửa ra, mẹ quay trở lại trong chiếc áo choàng và ném vào người tôi một đống báo. Bà bảo ràng tôi sẽ lấy đống báo đó làm mền đắp, và sàn nhà phía dưới cái bàn ăn sẽ là giường ngủ của tôi. Tôi lại nhìn về phía cha, nhưng ông ấy đã làm như thể chẳng hề có tôi ở đó. Tôi cố nén nước mắt, không muốn mình phải khóc lóc trước mặt hai con người đó. Mặt tôi đột nhiên trở nên biến sắc. Tôi hoàn toàn vô cảm. Tôi lồm cồm chui xuống gầm bàn, lấy mấy tờ báo phủ lên người rồi nằm co ro ở đấy. Trông tôi lúc ấy hệt như một con chuột nhắt bị nhốt vào lồng vậy.

For months I slept under the breakfast table next to a box of kitty litter, but I soon learned to use the newspapers to my advantage. With the papers wrapped around me, my body heat kept me warm. Finally, Mother told me that I was no longer privileged enough to sleep upstairs, so I was banished downstairs to the garage. My bed was now an old army cot. To stay warm, I tried to keep my head close to the gas heater. But after a few cold nights, I found it best to keep my hands clamped under my arms and feet curled towards my buttocks. Sometimes at night I would wake up and try to imagine I was a real person, sleeping under a warm electric blanket, knowing I was safe and that somebody loved me. My imagination worked for awhile, but the cold nights always brought me back to my reality. I knew no one could help me. Not my teachers, my so-called brothers or even Father. I was on my own, and every night I prayed to God that I could be strong both in body and soul. In the darkness of the garage, I laid on the wooden cot and shivered until I fell into a restless sleep.

Suốt nhiều tháng liền, tôi ngủ dưới gầm bàn nơi cả nhà tôi vẫn ngồi ăn sáng, kế bên là một chiếc hộp lớn làm ổ cho lũ mèo con nhà tôi. Chẳng lâu sau đó, tôi cũng tìm được cách để tận dụng mớ báo kia. Tôi dùng những tờ báo quấn quanh mình để giữ ấm cho cơ thể. Sau cùng, mẹ nói với tôi rằng tôi không được phép ngủ ở nhà trên nữa, và thế là tôi bị hất khỏi đó để trở lại nhà để xe. Chỗ ngủ của tôi bây giờ là một chiếc giường cũi cũ kỹ. Để giữ ấm, tôi cố gắng áp sát đầu mình vào lò sưởi. Nhưng sau vài đêm chịu đựng giá lạnh, tôi nhận ra cách tốt nhất để giữ ấm cho mình là nằm kẹp hai tay vào nách và co quắp hai chân đến tận mông. Thỉnh thoảng khi giật mình tỉnh giấc vào lúc nửa đêm, tôi cố gắng hình dung mình là một con người thật sự, được nằm ngủ trong một chiếc chăn điện ấm áp, được an toàn và được ai đó yêu thương. Đầu óc tôi đắm chìm trong mộng mị được một lúc, rồi thì đem dài giá lạnh lại mang tôi trở về với thực tại phũ phàng. Tôi biết chẳng ai có thể giúp được tôi cả. Không phải thầy cô giáo của tôi, không phải những người mà tôi gọi là anh em, càng không phải là cha của tôi. Tôi chỉ có thể đứng trên đôi chân của chính mình, và hàng đêm tôi luôn cầu xin Chúa hãy ban cho tôi sức mạnh cả về tinh thần lẫn thể chất. Trong bóng đêm tĩnh mịch ở nhà để xe, tôi nằm trên chiếc giường gỗ run rẫy gì lạnh cho đến khi chìm vào giấc ngủ chập chờn.

Once, during my midnight fantasies, I came up with the idea of begging for food on my way to school. Even though the after school vomit inspection was carried out every day when I returned to the house from school, I thought that any food I ate in the morning would be digested by the afternoon.
As I began my run to school, I made sure I ran extra fast so I would have more time for my hunt for food. I then altered my course – stopping and knocking on doors. I would ask the lady who answered if she happened to find a lunch box near her house. For the most part, my plan worked. I could tell by looking at these ladies that they felt sorry for me. Thinking ahead, I used a fake name so nobody would know who I really was. For weeks my plan worked, until one day when I came to the house of a lady who knew Mother. My timetested story, “I lost my lunch. Could you make me one?” fell apart. Even before I left her house, I knew she would call Mother.

Một lần nọ, trong cơn mộng mị lúc nửa đêm, tôi chợt nảy ra ý định đi xin thức ăn trên đường đến trường. Dẫu biết rằng mẹ vẫn liên tục tiến hành những cuộc “sát hạch nôn mửa” mỗi ngày ngay khi tôi vừa đi học về nhưng tôi nghĩ rằng những thứ tôi ăn vào lúc sáng sẽ được tiêu hóa vào buổi trưa thôi.
Thế là mỗi sáng khi bắt đầu chạy bộ đến trường, tôi phải cố gắng chạy hết tốc lực để có thêm nhiều thời gian cho cuộc tìm kiếm thức ăn của mình. Sau đó tôi còn quyết định thay đổi kế hoạch, tôi không xin mà sẽ ghé vô bất kỳ ngôi nhà nào trên đường và gõ cửa. Khi có người ra mở cửa, tôi sẽ vờ hỏi xem họ có tình cờ thấy một cái hộp đựng cơm trưa nào gần đấy hay không. Những lần như vậy, kế hoạch của tôi tỏ ra rất hữu dụng. Nhìn vẻ mặt của họ, tôi thấy rõ sự cảm thông sâu sắc mà họ dành cho tôi. Tôi còn lo xa bằng cách dùng một cái tên giả để không ai biết tôi thật sự là ai. Nhiều tuần lễ trôi qua, kế hoạch của tôi diễn ra trơn tru, cho đến một ngày kia, tôi gõ cửa một ngôi nhà mà người phụ nữ ở đó lại là người quen của mẹ tôi. Câu chuyện “Con làm mất bữa trưa của mình. Cô có thể làm giúp con một phần ăn khác hay không?” do tôi dựng nên đã đổ vỡ tan tành. Thậm chí trước khi rời khỏi căn nhà ấy, tôi còn biết thế nào cô ấy cũng gọi cho mẹ tôi.

That day at school I prayed for the world to end. As I fidgeted in the classroom, I knew Mother was lying on the couch, watching television and getting more drunk by the hour, while thinking of something hideous to do to me when I arrived at her house after school. Running to the house from school that afternoon, my feet felt as though they were encased in blocks of cement. With every step I prayed that Mother’s friend had not called her, or had somehow mistaken me for another kid. Above me the skies were blue, and I could feel the sun’s rays warm my back. As I approached Mother’s house, I looked up towards the sun, wondering if I would ever see it again. I carefully cracked the front door open before slipping inside, and tiptoed down the stairs to the garage.
Ngày hôm ấy ở trường học, tôi chỉ biết cầu nguyện sao cho hôm đó là ngày tận thế mà thôi. Trong lúc tôi cứ bồn chồn đứng ngồi không yên ở lớp học, thì tôi biết khi ấy ở nhà, mẹ đang nằm dài trên trường kỷ xem tivi và uống rượu triền miên đồng thời sẽ nghĩ ra trò gì đó thật kinh tởm để làm với tôi khi tổi trở về ngôi nhà của bà ấy sau khi tan học. Buổi chiều hôm ấy, khi chạy từ trường về nhà sau giờ học, tôi có cảm giác chân mình nặng nề như bị dính chặt vào những tảng xi-măng vậy. Cứ sau mỗi bước đi, tôi lại cầu xin cho người phụ nữ ấy đừng gọi điện cho mẹ tôi, hoặc mong sao cô ấy nhầm tôi với một đứa trẻ khác. Trên đầu tôi, bầu trời vẫn trong xanh, và sau lưng tôi mặt trời vẫn chiếu những tia nắng ấm áp. Về đến nhà, tôi nhìn về phía mặt trời và tự hỏi không biết tôi còn có thể nhìn thấy ánh dương ấy lần nào nữa hay không. Tôi khẽ mở hé cánh cửa lớn rồi lách vào trong nhà, nhón gót đi rón rén xuống nhà để xe.

I expected Mother to fly down the stairs and beat me on the cement floor any second. She didn’t come. After changing into my work clothes, I crept upstairs to the kitchen and began washing Mother’s lunch dishes. Not knowing where she might be, my ears became radar antennae, seeking out her exact location. As I washed the dishes, my back became tense with fear.
My hands shook, and I couldn’t concentrate on my chores. Finally, I heard Mother come out of her bedroom and walk down the hall towards the kitchen. For a fleeting moment I looked out of the window. I could hear the laughter and screams of the children playing. For a moment I closed my eyes and imagined I was one of them. I felt warm inside. I smiled.

Tôi hình dung mẹ sẽ bay ngay xuống cầu thang và đánh tôi ngã nhào trên nền xi-măng vào bất cứ lúc nào. Thế nhưng tôi chẳng thấy bà ấy đâu. Sau khi mặc bộ đồ làm việc nhà vào, tôi lại rón rén đi lên nhà trên, vào bếp và bắt đầu rửa đống chén đĩa mà mẹ đa bày ra vào buổi trưa. Vì không thể biết được mẹ đang ở đâu nên tai tôi bỗng trở thành cái ăng-ten ra-đa để dò tìm vị trí của bà. Trong lúc rửa chén, tôi cứ có cảm giác hồi hộp, phập phồng lo sợ từ phía sau lưng.
Hai tay tôi run rẩy, và tôi không thể tập trung vào công việc của mình. Cuối cùng, tôi cũng nghe thấy tiếng mẹ bước ra khỏi phòng ngủ, đi qua phòng lớn để xuống nhà bếp. Ngay trong khoảnh khắc đó, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi có thể nghe thấy tiếng cười đùa, la hét cửa bọn trẻ đang nô đùa ngoài ấy. Cũng trong khoảnh khắc ấy, tôi nhắm mắt lại và tưởng tượng mình là một trong số những đứa trẻ ấy. Tôi thấy lòng mình ấm lại. Tôi mỉm cười.

My heart skipped a beat when I felt Mother breathing down my neck. Startled, I dropped a dish, but before it could hit the floor I snatched it out of the air. “You’re a quick little shit, aren’t you?” she sneered. “You can run fast and find time to beg for food. Well … we’ll just see how fast you really are.”
Expecting Mother to bash me, I tensed my body, waiting for her to strike. When it didn’t happen, I thought she would leave and return to her TV show, but that didn’t happen either. Mother remained inches behind me, watching my every move. I could see her reflection in the kitchen window. Mother saw it too, and smiled back. I nearly peed my pants.

Tim tôi đập thình thịch khi cảm nhận rõ hơi thở của mẹ ngay phía sau lưng mình. Giật mình, tôi đánh rơi một cái đĩa, nhưng trước khi nó rơi xuống nền nhà, tôi đã kịp chụp lấy nó.
- Mày cũng nhanh nhỉ, cái đồ thối tha kia? – Bà ấy cười khinh bỉ. – Mày còn có thể chạy thật nhanh để có thời gian đi xin thức ăn kia mà. Được thôi… để xem mày nhanh như thế nào.
Vì nghĩ rằng mẹ sẽ nện cho một trận nên tôi gồng người chuẩn bị chịu trận, nhưng mẹ không đánh. Tôi lại nghĩ bà ấy sẽ quay trở lại phòng để tiếp tục xem tivi, nhưng bà cũng không đi. Mẹ vẫn đứng đấy sau lưng tôi, quan sát nhất của nhất động của tôi. Tôi có thể nhìn thấy hình ảnh của mẹ phản chiếu trên cửa sổ nhà bếp. Bà ấy cũng thấy và nhếch mép cười. Nhìn thấy nụ cười của bà, tôi gần như muốn tè vãi cả ra quần.

When I finished the dishes, I began cleaning the bathroom. Mother sat on the toilet as I scoured the bathtub. While I was on my hands and knees scrubbing the tile floor, she calmly and quietly stood behind me. I expected her to come around and kick me in the face, but she didn’t. As I continued my chores, my anxiety grew. I knew Mother was going to beat me, but I didn’t know how, when or where. It seemed to take forever for me to finish the bathroom. By the time I did, my legs and arms were shaking with anticipation. I could not concentrate on anything but her. Whenever I found the courage to look up at Mother, she smiled and said, “Faster young man. You’ll have to move much faster than that.”

Rửa chén đĩa xong, tôi tiếp tục cọ rửa nhà tắm. Trong lúc tôi lau chùi bồn tắm thì mẹ ngồi trên bồn cầu. Khi tôi bò ra chà sàn nhà, bà vẫn lặng im ngồi đấy quan sát tôi từ phía sau. Tôi cứ nghĩ rằng bà sẽ đi vòng lên phía trước rồi đá vào mặt tôi, nhưng bà ấy đã không làm như thế. Tôi vẫn tiếp tục công việc của mình, nỗi lo sợ trong tôi mỗi lúc một lớn dần lên. Tôi biết mẹ sắp đánh như thế nào, khi nào đánh và đánh ở đâu. Tôi có cảm giác như công việc chà rửa nhà tắm này dường như kéo dài vô tận. Tôi làm việc mà chân tay cứ ở trong tư thế đề phòng. Tôi không thể tập trung vào bất cứ điều gì khác ngoài mẹ. Sau khi lấy hết can đảm, tôi ngẩng lên nhìn bà, bà lại nhếch mép cười và nói:
- Nhanh nữa lên nào thằng nhóc. Mày sẽ còn phải làm nhanh hơn thế này nữa đấy.


No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn