|
A CHILD CALLED 'IT'
|
KHÔNG NƠI NƯƠNG TỰA
|
Dave Pelzer
|
Dave Pelzer
|
|
Biên dịch:
THANH HOA - VI THẢO NGUYÊN
|
CONTENTS
Introduction
Acknowledgement
Author’s notes
1-THE RESCUE
2- GOOD TIMES
3- BAD BOY
4- THE FIGHT FOR FOOD
5- THE ACCIDENT
6- WHILE FATHER IS AWAY
7- THE LORD’S PRAYER
EPILOGUE
AFTERWORD
|
MỤC LỤC
Lời giới thiệu.
Lời cảm ơn.
Lời tác giả.
1- GIẢI THOÁT
2- THỜI TƯƠI ĐẸP
3- ĐỨA TRẺ HƯ HỎNG
4- CUỘC CHIẾN VÌ MIẾNG ĂN
5 -TAI NẠN
6- KHI CHA VẮNG NHÀ
7- LỜI CẦU CHÚA
LỜI KẾT
LỜI BẠT
|
Introduction
David J. Pelzer's mother, Catherine Roerva, was, he writes
in this ghastly, fascinating memoir, a devoted den mother to the Cub Scouts in her
care, and somewhat
nurturant to her children - but not to David, whom she referred to as "an It."
This book is a brief, horrifying account of the bizarre
tortures she inflicted on him, told from the point of view of the author as a young
boy being
starved, stabbed, smashed face-first into mirrors, forced to eat the contents of his sibling's diapers
and a spoonful of ammonia, and burned over a gas stove by a maniacal, alcoholic mom.
Sometimes she claimed he had violated some rule - no walking on the grass at school! - but mostly it was pure sadism. Inexplicably, his
father didn't protect him; only an alert schoolteacher saved David.
|
Lời giới thiệu
Mẹ của tác giả David J. Pelzer, Catherine Roerva,
từng là, như
ông đã viết cuốn
hồi ký trong kinh
khủng, hấp dẫn này, một người trưởng hướng đạo sinh chăm sóc các
sói con, và khá
quan tâm chăm sóc cho
con cái mình - nhưng không phải cho cậu con trai David, người mà bà gọi là "một
con vật".
Cuốn sách này là một lời kể tóm tắt, kinh hoàng về sự tra tấn kỳ quặc
mà bà mẹ đã gây thương
tổn cho tác giả,
từ quan điểm của tác giả là một cậu bé bị bỏ đói, bị đâm, đập vỡ mặt
rồi bị bắt đứng nhìn mình trong gương, bị buộc phải ăn phân của em mình trên tã và uống ammoniac, và bị đốt trên bếp gas bởi một bà
mẹ say
rượu, điên cuồng. Đôi
khi bà tuyên con trai đã vi phạm một số quy tắc - không đi bộ trên bãi cỏ ở
trường! - Nhưng phần lớn là do tính bà thích trò tàn
bạo. Không
hiểu sao, cha của tác giả đã không bảo vệ con trai; chỉ một thầy giáo sáng suốt đã
cứu được
David.
|
“A Child Called ‘It’ is a heart-stopping, compelling
book. It is one of the most important books of our time and a ‘must read’ for
anyone who searches for the secret of internal motivation.”
- Vicki Binninger, Executive
Director
Parents’ Place A California
Child Abuse Prevention, Intervention and Treatment Center
|
“Không nơi nương tựa
là một quyển sách hấp dẫn và làm xúc động lòng người. Đây là một trong những
tựa sách có ý nghĩa trong thời đại chúng ta và là quyển sách nên đọc đối với
những ai đang đi tìm bí mật của sức mạnh nội tại.”
- Vicki Binniger
Giám đốc điều hành Hội Cha Mẹ, Trung tâm Điều trị, Can thiệp và Phòng chống Bạo hành
Trẻ em California
|
“Once this book was in my hands, I couldn’t put it
down. This is the best book on the subject of child abuse I have ever read.
As the reader moves with David through fear, loss, isolation, pain and rage
to eventual hope, the dark world of the abused child becomes painfully clear.
We become aware of the child’s cry through David’s eyes, ears and body. A
C’hild Called ‘Jt’made me want to hold my family close to my heart and
cherish our love.”
Valerie
Bivens, Social Worker
Child
Protective Services
The State
of California
|
“Khi cầm quyển sách
này trong tay, tôi đã không thể buông xuống. Đây là quyển sách hay nhất về đề
tài bạo hành trẻ em mà tôi từng được đọc. Khi độc giả đi cùng David qua nỗi
sợ hãi, mát mát, bị cô lập, nỗi đâu và cả những cơn giận dữ tột cùng để đến
được với niềm tin sau cùng, thì thế giới tối tăm của đứa trẻ bị ngược đãi cũng
được phơi bày ra ánh sáng, dù nó từng chứa đựng nhiều nối đau. Chúng ta đã
nghe thấu được tiếng khóc than của những đứa trẻ bị ngược đãi qua đôi mắt,
đôi tay và thân thể của Dave Pelzer. Không nơi nương tựa khiến tôi chỉ muốn ôm chặt lấy những
người thân yêu của mình trong tình yêu thương.”
- Valerie Bivens, Nhân viên xã hội Tổ chức Bảo vệ Trẻ em California
|
“In my 31 years of teaching, David Peizer was the
most severely abused child I have known.”
Athena
Konstan, Teacher
Daly City, California
|
"Trong 31 năm dạy học của tôi, David Peizer là đứa
trẻ bị lạm dụng nghiêm trọng nhất mà tôi đã từng biết."
Athena
Konstan, giáo viên
Thành phố Daly, California
|
“Dave Pelzer’s child experience is a testimony to
the triumph of the human spirit. This 1)00k vividly articulates the abuse he
suffered at the hands of his mother and the unbelievable apathy of others to
his plight. Pelzer’s courage and determination will go a long way in helping
the millions of children in America who, too often, suffer every day in
silence.”
- Mark Riley
Child
Welfare League of America
|
“Ký ức tuổi thơ của
Dave Pelzer là bằng chứng cho sự chiến thắng của ý chí con người.
Quyển sách đã lột tả được một cách rõ ràng nhất sự ngược đãi mà cậu bé phải chịu
đựng dưới bàn tay của người mẹ và sự bàng quan vô cảm đến khó tin của
những người xung quanh trước hoàn cảnh khốn khổ của cậu.
Lòng dũng cảm và sự
quyết tâm của Pelzer sẽ còn giúp ích rất nhiều cho hàng triệu trẻ em đang
phải sống và chịu đựng sự ngược đãi trong thầm lặng.”
- Mark Riley
Liên hiệp Phúc lợi Trẻ em Hoa Kỳ
|
‘To know the moment of abuse and how one child
willed himself to survive, read this compelling, spellbinding account. One
can only hope it will help us focus on stopping abuse before it occurs,”
- Anne
Cohn-Donnelly
National
Committee for Prevention of Child Abuse
|
“Để biết thế nào là
sự giày vò về tinh thần lẫn thể xác của bạo hành trẻ em cũng như để
biets đứa trẻ ấy quyết chí thế nào để sống sót sau tất cả,hãy đọc quyển sách
hết sức cảm động và rất thuyết phục này. Hy vọng rằng quyển sách sẽ giúp
chúng ta tập trung vào việc ngăn chặng nạn bạo hành trước khi quá muộn.”
- Anne CohnDonnelly
Ủy ban Phòng chống Bạo hành Trẻ em Quốc Gia
|
“David Pelzer is a triumphant survivor of his
childhood abuse. David’s story will help people understand that each year
hundreds of thousands of helpless children are being brutalized and tortured.”
Glenn A.
Goldberg, former Executive Director
California
Consortium
|
“Dave Pelzer là
người sống sót vĩ đại vì đã chiến thắng quá khứ bị ngược đãi của mình.
Câu chuyện của Dave sẽ giúp chúng ta hiểu rằng mỗi năm còn có hàng trăm
ngàn đứa trẻ vô tội khác bị tra tấn và đối xử tàn bạo.”
- Glenn A.Goldberg
Cựu Giám đốc điều hành của Cục Chống Bạo hành Trẻ em
California
|
|
|
|
|
Dedication
|
Lời đề tặng
|
This book is
dedicated to my son Stephen, who, by the grace of God, has taught me the gift of
love and joy through the eyes of a child.
This book is also
dedicated to the teachers and staff members of Thomas Edison Elementary School
to include:
Steven E. Ziegler
Athena Konstan
Peter Hansen
Joyce Woodworth
Janice Woods
Betty Howell
and the School Nurse
To all of you, for
your courage and for putting your careers on the line that fateful day, March
5, 1973.
You saved my life.
|
Quyển sách này được
dành tặng cho con trai Stephen của tôi - đứa con mà cùng với lòng lành của Chúa, đã chỉ cho
tôi biết thế nào là tình yêu và hạnh phúc bằng đôi mắt của một đứa trẻ.
Quyển sách này cũng
được dành tặng cho các thầy cô giáo cũng như hội đồng giáo vụ của Trường tiểu học Thomas Edison,
trong đó có:
Thầy Steven
E.Ziegler
Cô Athena Konstan
Thầy Peter Hansen
Cô Joyce Woodworth
Cô Janice Woods
Cô Betty Howell
và cô y tá của
trường.
Xin được dành tặng
cho tất cả các thầy cô, những người đã can đảm và mạo hiểm cả sự nghiệp của mình
trong cái ngày định mệnh ấy, ngày 5 tháng 3 năm 1973
Các thầy cô đã cứu
vớt cuộc đời em.
|
Acknowledgments
After years of intensive labor, sacrifice, frustration, compromises and deception, this
book is finally published and available in bookstores everywhere. I wish to take a
moment and pay homage to
those who truly believed in this crusade.
To Jack Canfield, coauthor of the phenomenal bestseller Chicken Soup for the Soul, for his
extreme kindness and opening a big door.
Jack is indeed a rare entity who, without reservation, assists more individuals in a
single day than many of us can help in a lifetime. Bless you Sir.
To Nancy Mitchell and Kim Wiele at the Canfield Group for their enormous enthusiasm and
guidance. Thank you ladies.
|
Lời cảm ơn
Sau nhiều
năm lao động vất vả, hy sinh, thất vọng, thỏa hiệp và lừa dối, cuốn sách này
cuối cùng đã được xuất bản và có mặt trong các hiệu sách ở khắp nơi. Tôi muốn
nhân thời điểm này bày tỏ lòng kính trọng đối với những người thực sự tin tưởng
vào câu chuyện đời tôi.
Xin gửi lời cảm ơn đến Jack Canfield, đồng tác giả của bộ
sách Chicken Soup
for the Soul, vì sự tận tụy và tấm lòng bác ái rộng mở của ông.
Jack thực sự là một trong số ít những người có thẻ giúp nâng
đỡ tâm hồn của rất nhiều người khác, không một chút ngần ngại.
Cầu chúa ban phúc lành.
Xin gửi lời cảm ơn đến Nancy Michell và Kim Wiele trong
nhóm cộng sự của
Canfield, vì sự nhiệt thành và hỗ trợ tận tâm của họ. Chân thành biết ơn các chị.
|
To Peter Vegso at Health Communications, Inc., as well as Christine Belleris, Matthew
Diener, Kim Weiss and the entire friendly staff at HCI for their honesty,
professionalism and everyday courtesy that make publishing a pleasure. Kudos galore to Irene Xanthos and Lori
Golden for their tenacious drive and for picking up the slack. And a gargantuan thank
you to the Art
Department for all your hard work and dedication.
|
Xin gửi lời cảm ơn đến Peter Vesgo công tác ở Trung tâm
Truyền thông Sức
khỏe (HCI), cũng như cảm ơn Christine Belleris, Metthew Diener, Kim Wiess và toàn thể nhóm cộng sự
nhiệt thành ở HCI vì sự tận tụy, tính chuyên nghiệp và sự nhã nhặn hàng ngày của họ đã
khiến cho công việc xuất bản quyển sách này trở thành một niềm vui thú. Gửi lời cảm
ơn rất nhiều đến Irene Xanthos và Lori Golden vì tinh thần làm việc không mệt mỏi. Và
gửi lời cảm ơn chân
thành nhất đén Bộ phận Thiết ké Mỹ thuận vì sự hăng say và hết mình của các bạn trong công việc.
|
A special thank you to Marsha Donohoe, editor extraordinaire, for her hours of
reediting and eradicating “the Wahoo” out of the tome (that’s “book” for those of
you who reside in
Yuba/Sutter Counties in Northern CA), so to provide the reader with a clear, precise
sense of this story through the eyes of a child. For Marsha, it was a matter of “…
Farmer’s Trust.”
To Patti Breitman, of Breitman Publishing Projects, for
her initial work
and for giving it a good run for the money.
To Cindy Adams for her unwavering faith when I needed it the most.
A special thank you to Ric & Don at the Rio Villa
Resort, mythen home away from home, for providing the perfect sanctuary during the process of this
project.
And lastly, to Phyllis Colleen. I wish you happiness. I
wish you peace.
May God bless you.
|
Xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến nữ biên tập viên Marsah
Donohoe, người đã dành
rát nhiều thời gian để biên tập quyển sách này, giúp mang đến cho độc giả một câu chuyện có nọi
dung mạch lạc và chính xác dưới cái nhìn của một đứa trẻ.
Xin gửi lời cảm ơn đến Patty Breitman, người làm việc cho
Dự án Xuất bản
Breitman vì sự đống góp mang tính khơi nguồn của cô, cùng sự hỗ trợ về tài chính rát chu đáo để
giúp tôi xuất bản cuốn sách này.
Xin gửi lời cảm ơn đến Cindy Adams vì sự tin tưởng tuyệt
đối mà cô đã dành cho
tôi.
Xin gửi lời đặc biệt cảm ơn đến Ric và Don ở khu nhà nghỉ
Rio, nơi có căn nhà cũ
của gia đình tôi năm xưa, vì đã đem đến cho chúng tôi một không gian hoàn hảo trong suốt quá trình
làm cuốn sách này.
Và cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến Phyllis Colleen. Tôi
chúc cô luôn được hạnh phúc, an lành.
|
Author’s Notes
Some of the names in this book have been changed in order
to maintain the
dignity and privacy of others.
This book, the first part of the trilogy, depicts language
that was developed
from a child’s viewpoint. The tone and vocabulary reflect the age and wisdom of the child
at that particular
time.
This book is based on the child’s life from ages 4 to 12.
The second part of the trilogy, The Lost Boy, is based on
his life from
ages 12 to 18.
|
Lời tác giả
Tên một số nhân vật trong quyển sách này đã được thay đổi
để giữ bí mật đời tư
của họ.
Quyển sách này là phần đầu trong một bộ ba câu chuyện,
miêu tả thực trạng bị
ngược đãi dưới cái nhìn của một đứa trẻ. Giọng điệu và ngôn ngữ được sử dụng trong quyển sách phản
ánh lứa tuổi và cách suy nghĩ của đứa trẻ trong khoãng thời gian đặc biệt đó.
Quyển sách này viết về cuộc sống của nhân vật chính từ năm
bốn tuổi đến năm
mười hai tuổi.
Phần thứ hai của bộ ba, quyển The Lost Boy, viết về diễn
biến tiếp theo về cuộc
sống của nhân vật vào khoảng thời gian nhân vật mười hai đến mười tám tuổi.
|
Contents
1-The Rescue
2- Good Times
3- Bad Boy
4- The Fight for Food
5- The Accident
6- While Father Is Away
7- The Lord’s Prayer
Epilogue
Afterword
|
Nội dung
1- Giải thoát
2- Thời tươi đẹp
3- Thằng bé
hư
4- Cuộc chiến giành thức ăn
5- Tai nạn
6- Khi cha đi xa
7- Cầu Chúa
Lời kết
Lời bạt
|
CHAPTER 1 - THE RESCUE
March 5, 1973, Daly City, California
I’m late. I’ve got to finish the dishes on time, otherwise no breakfast;
and since I didn’t have
dinner last night, I have to make sure I get something to eat. Mother’s running
around yelling at my brothers. I can hear her stomping down the hallway towards the kitchen. I dip my hands back into
the scalding rinse water. It’s too late. She catches me with my hands out of the
water.
|
CHƯƠNG 1 - GIẢI THOÁT
Ngày 5 tháng 3 năm 1973, thành phố Daly, California.
Tôi dậy muộn. Nếu không rửa xong đống bát đĩa kia đúng
giờ, sáng nay tôi sẽ không được ăn sáng. Vì tối qua chẳng được ăn gì nên giờ tôi phải cố
làm sao có cái gì đó
cho vào bụng. Mẹ đang rượt đuổi avf hét mắng hai người anh em trai của tôi. Nghe thấy tiếng chân
huỳnh huỵch của mẹ ngoài hành lang nhà bếp,
tôi vội vã nhúng tay vào bồn rửa bát, nhưng không kịp rồi.
Mẹ đã nhìn thấy hai tay tôi bên ngoài chậu nước.
|
SMACK! Mother hits me in the face, and I topple to the
floor. I know better
than to stand there and take the hit. I learned the hard way that she takes that as an
act of defiance, which means more hits, or worst of all, no food. I regain my posture
and dodge her
looks, as she screams into my ears.
|
BỐP! Mẹ tát mạnh vào mặt tôi khiến tôi ngã bổ nhào xuống
sàn nhà. Tôi biết tốt hơn là mình nên dứng yên đó mà chịu trận. Tôi đã học được một
điều cay đắng là
mẹ xem việc tôi ngã, chảy máu hay khóc lóc như một hành động thách thức; và điều đó có nghĩa là
tôi sẽ nhận thêm nhiều trận đòn khác hay tệ hơn là sẽ bị bỏ đói. Tôi lồm cồm
dậy và né tránh cái nhìn của bà, trong khi bà vẫn quát vào tai tôi những từ ngữ
đã trở nên quá quen thuộc.
|
I act timid, nodding to her threats.
“Please,” I say to myself, “just let me eat. Hit me again,
but I have to have food.”
Another blow pushed my head against the tile counter top. I let
the tears of mock
defeat stream down my face as she storms out of the kitchen, seemingly satisfied with
herself. After I count her steps, making sure she’s gone, I breathe a sigh of relief.
The act worked.
Mother can beat me all she wants, but I haven’t let her take away my will to somehow
survive.
|
Những lời đe dọa của mẹ khiến tôi dè dặt hẳn, tôi thì
thào:
- Làm ơn! Chỉ cần cho con ăn thôi. Mẹ cứ đánh con nữa đi,
nhưng con cần được ăn!
Cú đánh tiếp theo của mẹ tôi dụi đầu tôi vào tường. Như đã giải
tỏa được cơn tức giận,
mẹ lao ra khỏi nhà bếp. Những giọt nước mắt chịu đựng chảy dài trên mặt tôi. Khi biết chắc mẹ dã
đi khỏi, tôi thở phào nhẹ nhõm. Mẹ có thể đánh tôi bao nhiêu cũng được, nhưng tôi
không bao giờ để mẹ vùi dập nghị lực sống của tôi.
|
I finish the dishes, then my other chores. For my reward I receive breakfast- leftovers from
one of my brothers’ cereal bowls. Today it’s Lucky Charms. There are only a few bits
of cereal left
in a half of a bowl of milk, but as quickly as I can, I swallow it before Mother changes
her mind. She has done that before. Mother enjoys using food as her weapon. She knows better than to throw leftovers in
the garbage can. She knows I’ll dig it out later. Mother knows most of my tricks.
|
Rửa xong bát đĩa, tôi dọn dẹp nhà cửa. Phần thưởng cho tất
cả những việc này là một bữa ăn sáng- gọi là bữa ăn sáng, nhưng thực ra đó chỉ là
những mẩu thức ăn thừa
trong khẩu phần của cậu em trai của tôi. Ngày hôm nay như thế là đã may mắn lắm. Nhưng tôi phải
ngón thật nhanh trước khi mẹ thay đổi ý. Trước giờ mẹ vẫn thường như thế. Mẹ sử dụng thức ăn
như một thứ vũ khí lợi hại. Mẹ sẵn sàng quẳng phần thức ăn thừa ít ỏi vào thùng rác vì
biết thế nào tôi cũng moi nó ra mà ăn. Mẹ nắm hết mọi suy nghĩ và hành động của tôi.
|
Minutes later I’m in the old family station wagon. Because I’m so late with my chores, I have
to be driven to school. Usually I run to school, arriving just as class begins, with no time to steal any food from other
kids’ lunch boxes.
|
Vài phút sau đó tôi nhảy vội lên chiếc xe trở hàng của gia
đình. Vì phải lo dọn dẹp nhà cửa nên tôi bị trễ giờ, và mẹ phải chở tôi đi học. Thường
ngày tôi vẫn chạy bộ
đến trường, mỗi lần như vậy tôi đều đến nơi vừa kịp lúc lớp học bắt đầu nên tôi cũng chẳng thó được
chút thức ăn nào từ phần ăn trưa của những bạn khác.
|
Mother drops my oldest brother off, but keeps me for a
lecture about her
plans for me tomorrow. She is going to take me to her brother’s house. She says Uncle
Dan will “take care of me.”
She makes it a threat. I give her a frightened look as if
I am truly afraid. But I
know that even though my uncle is a hardnosed man, he surely won’t treat me like
Mother does.
|
Mẹ để anh tôi xuống xe trước và giữ tôi lại để thông báo
cho tôi biết kế hoạch ngày mai. Mẹ sẽ đưa tôi sang nhà cậu. Mẹ nói Dan sẽ “chăm sóc”
tôi.
Giọng mẹ như hăm dọa. Tôi nhìn mẹ làm ra vẻ sợ hãi. Tuy
vậy, trong thâm tâm, tôi lại nghĩ dù cậu có nghiêm khắc đến mấy, nhưng chắc chắn cậu sẽ
không đối xử với tôi
giống như cách của mẹ.
|
Before the station wagon comes to a complete stop, I dash
out of the car.
Mother yells for me to return. I have forgotten my crumpled lunch bag, which has
always had the same menu for the last three years- two peanut butter sandwiches and a
few carrot
sticks. Before I bolt out of the car again, she says, “Tell ’em… Tell ’em you ran into the
door.”
Then in a voice she rarely uses with me, she states, “Have a nice day.”
|
Tôi lao ra khỏi xe, mẹ hét với theo bảo tôi quay lại do
tôi bỏ quên hộp cơm trưa. khẩu Phần cơm trưa của tôi suốt ba năm nay vẫn vậy - chỉ là hai
chiếc bánh sandwich
phết bơ đậu phộng và một vài thanh cà rốt bé tí, trước khi tôi đóng cửa mẹ còn nói với theo:
- Này, nếu như cô giáo có hỏi tì nhớ nói là do mày bị va vào cửa nhé.
Rồi bằng một giọng rất ít khi dành cho tôi, mẹ nói tiếp – Một ngày tốt
lành nhé!
|
I look into her swollen red eyes. She still has a hangover from
last night’s stupor. Her once beautiful, shiny black hair is now frazzled clumps. As usual, she wears no
makeup. She is overweight, and
she knows it. In all, this has become Mother’s typical
look.
Because I am so late, I have to report to the
administrative office. The grayhaired secretary greets me with a smile. Moments later, the school nurse
comes out and leads me into her office, where we go through the normal routine. First,
she examines my
face and arms. “What’s that above your eye?” she asks.
|
Tôi nhìn theo đôi mắt đỏ hoe sưng húp của mẹ, đó là vết
tích của một ngày dài căng thẳng hôm qua. Mái tóc óng ả, mượt mà ngày xưa của mẹ giờ chỉ
còn là một búi
tóc xơ xác. Mẹ ít khi trang điểm. Do thừa cân nên lúc nào trông mẹ cũng nặng nề, và mẹ biết rõ điều
đó.
Vì đến lớp khá muộn nên tôi phải nên văn phòng báo cáo. Cô
nhân viên phòng giáo vụ
với mái tóc đã điểm bạc cười chào tôi. Lát sau, y tá nhà trường đến gọi tôi vào văn phòng
rồi hướng dẫn tôi làm thủ tục vào lớp. Cô y tá nhìn mặt và tay tôi rồi hỏi:
- Mắt em sao thế?
|
I nod sheepishly, “Oh, I ran into the hall door… by accident.” Again she smiles and takes a
clipboard from the top of a cabinet. She flips through a page or two, then bends down
to show me.
“Here,” she points to the paper, “You said that last Monday. Remember?”
I quickly change my story, “I was playing baseball and got
hit by the bat.
It was an accident.” Accident. I am always supposed to say that. But the nurse knows
better. She scolds me so I’ll tell the truth. I always break down in the end and
confess, even though I feel I should protect my mother.
|
Tôi cúi đầu ấp úng:
- Vâng, do em sơ ý va vào cửa ạ?
Cô mỉm cười và mở ngăn kéo lấy tập hồ sơ. Sau khi lật qua
vài trang, cô dừng lại và chỉ vào tờ giấy”
- Đây, hôm thứ Hai tuần trước em cũng nói như vậy. Em có
nhớ không?
Tôi vội vàng đính chính:
- Vâng, em chơi bóng và bị va vào cột. Chỉ là sơ ý thôi ạ.
Tôi luôn cố gắng thuyết phục y tá là tôi sơ ý tự gây
thương tích cho mình. Nhưng cô ấy hẳn đã hiểu là còn nguyên nhân nào khác. Cô khuyên
tôi nên nói thật.
Cuối cùng, tôi đã không thể nói dối được nữa và phải thú nhận mọi chuyện, mặc dù tôi biết lẽ ra tôi
phải tìm cách nào đó để bảo vệ mẹ.
|
The nurse tells me that I’ll be fine and asks me to take
off my clothes. We
have been doing this since last year, so I immediately obey. My longsleeve shirt has more holes
than Swiss cheese.
It’s the same shirt I’ve worn for about two years. Mother has me wear it every day as
her way to humiliate me. My pants are just as bad, and my shoes have holes in the
toes. I can wiggle my
big toe out of one of them. While I stand clothed only in my underwear, the nurse
records my various marks and bruises on the clipboard. She counts the slashlike marks
on my face, looking
for any she might have missed in the past. She is very thorough. Next, the nurse
opens my mouth to look at my teeth that are chipped from having been slammed against
the kitchen tile
counter top. She jots a few more notes on the paper.
|
Cô y tá an ủi tôi và bảo tôi cởi áo ngoài. Năm ngoái chúng
tôi cũng từng rơi vào
tình huống này rồi nên ngay lập tức tôi làm theo cô. Chiếc áo sơ mi dài tay này tôi đã mặc liên tục
trong hai năm trời nên bị thủng nhiều lỗ còn hơn cả miếng pho mát Thụy Sĩ nữa. Mẹ
tôi bắt tôi mặc đi mặc lại chiếc áo này như muốn tôi phải xấu hổ trước bạn bè.
Chiếc quần tôi đang ămcj thì bạc phếch, còn đôi giày thì sờn cũ và rách mũi
đến mức ngón chân của tôi có thể thò ra ngọ nguậy. Y tá nhìn những vết bầm và
trầy xước trên cơ thể tôi rồi cẩn thận ghi vào hồ sơ. Cô quan sát những vết cưa trên mặt
tôi và cố gắng tìm lại những vết thương có đã bỏ qua ở lần ghi trước. Cô bảo tôi há to
miệng rồi nhìn vào những dấu răng mẻ của ôi do bị đập vào cạnh bàn.
Cô ghi thêm vài thứa lên tờ giấy.
|
As she continues to look me over, she stops at the old
scar on my stomach. “And
that,” she says as she takes a deep swallow, “is where she stabbed you?”
“Yes, ma’am,” I reply. “Oh no!” I tell myself, “I’ve done something wrong… again.” The nurse
must have seen the concern in my eyes. She puts the clipboard down and hugs me.
“God,” I tell myself, “She is so warm.” I don’t want to
let go. I want to stay
in her arms forever. I hold my eyes tightly shut, and for a few moments nothing else
exists. She pats my head. I flinch from the swollen bruise Mother gave me this
morning. The nurse then breaks the embrace and leaves the room. I rush to put my clothes back on. She doesn’t know
it, but I do everything as fast as possible.
|
Có vẻ như cô không để sót bất kỳ dấu vết tổn thương nào của
tôi. Cuối cùng cô sửng sốt nhìn vào vết sẹo tên bụng tôi và kêu lên:- Mẹ đánh
em vào chỗ này phải không?
- Vâng thưa cô. – Tôi trả lời.”Ôi không”. Tôi nghĩ thầm-“
mình lại phạm sai lầm nữa rôi”. Như đọc được nỗi lo lắng trong mắt tôi, cô y tá đặt hồ
sơ
xuống và dịu dàng ôm tôi vào lòng.
”Chao ôi! Cô ấy mới ấm áp làm sao”. Tôi không còn muốn đi đâu nữa, chỉ mong
được ở lại trong vòng tay cô mãi mãi. Tôi nhắm nghiền mắt, trong lòng cứ sợ giây phút
ngắn ngủi này sẽ không bao giờ có nữa. Cô y tá xoa nhẹ đầu tôi. Thế mà tôi cũng không chịu
nổi, phải co người lại vì vết sưng tấy trên trán. Khi cô vừa đi khỏi, tôi vội vã
mặc quần áo vào, tôi
không muốn ai nhìn thấy những vết thâm tím trên cơ thể mình.
|
The nurse returns in a few minutes with Mr Hansen the principal, and two of my teachers,
Miss Woods and Mr Ziegler. Mr Hansen knows me very well. I’ve been in his office more than any other kid in school. He
looks at the paper, as the nurse reports her findings. He lifts my chin. I’m afraid
to look into his eyes, which is mostly a habit from trying to deal with my mother. But
it’s also because I don’t want to tell him anything. Once, about a year ago, he called Mother
to ask about my bruises. At that time, he had no idea what was really going on. He
just knew I was a
troubled kid who was stealing food. When I came to school the next day, he saw the
results of Mother’s beatings. He never called her again.
|
Một lát sau, cô y tá quay trở lại cùng với thầy hiệu trưởng Hansen
và hai giáo viên của tôi, cô wood và thầy Zierler. Thầy hiệu trưởng biết tôi rất rõ.
Tôi đến văn phòng của
thầy nhiều hơn bất kỳ học sinh nào khác trong trường này. Đọc xong phần ghi chép về tôi trong hồ sơ y
tá, thầy nâng cằm tôi lên. Tôi ngượng ngùng không dám nhìn vào mắt thầy, vì lúc nào thầy
cũng muốn biết nhiều hơn, nhiều hơn nữa về mẹ tôi, rằng tại sao mọi chuyện lại xảy
ra như thế. Tôi thường tránh nói bất kỳ điều gì với thầy về mẹ. Một năm trước có lần thầy mời
mẹ tôi lên để hỏi về
những vết trầy xước trên ngừơi tôi. Lúc đó thầy không biết chuyện gì đã xảy ra.Thầy chỉ biết tôi là
kẻ ngỗ nghịch luôn đánh cắp thức ăn trưa của các bạn trong lớp. Nhưng chỉ ngay
ngày hôm sau khi tôi lên lớp, thầy biết tôi lại bị mẹ đánh khi nhìn thấy những vết
bầm mới, thầy không bao giờ mời mẹ tôi đến trường nữa.
|
Mr Hansen barks he’s had enough of this. I almost leap out
of my skin with
fear. “He’s going to call Mother again!” my brain screams. I break down and cry. My
body shakes like jello and I mumble like a baby, begging Mr Hansen not to phone Mother.
“Please!” I whine, “Not today! Don’t you understand, it’s Friday?”
Mr Hansen assures me he’s not going to call Mother, and sends me off to class. Since it’s
too late for homeroom class, I sprint directly to Mrs Woodworth’s English class.
Today’s a spelling test
on all the states and their capitals. I’m not prepared. Usually I’m a very good
student, but for the past few months I gave up on everything in my life, including
escaping
my misery through my schoolwork.
|
Thầy Hansen quay sang nói lớn với mọi người rằng không thể
để tình trạng này kéo
dài. Nghe thầy nói thế, tôi sợ tái mặt.” Thầy lại gọi cho mẹ mất thôi”- Tôi bắt đầu hình dung đến
những cảnh tượng khủng phiếp có thể xảy ra. Rồi không thể kìm được nữa, tôi òa
khóc, người run lên bần bật. Tôi láp bắp van xin thầy đừng gọi điện cho mẹ:”
Xin thầy làm ơn! Làm ơn đừng gọi cho mẹ em hôm nay. Thầy không biết hôm nay là thứ Sáu sao?”
Thầy Hansen đành phải hứa với tôi là sẽ không gọi cho ẹm
tôi, rồi thầy bảo tôi hãy về lớp. Tôi chỉ còn kịp chạy thẳng đến lớp Tiếng Anh của cô Woodworth. Hôm nay là ngày thi
viết toàn bang mà tôi lại chưa chuẩn bị gì. Tôi vốn là học sinh giỏi, nhưng mấy
tháng qua tôi gần như bỏ mặc mọi thứ trên đời, kể cả việc chạy chốn nỗi đau khổ
của mình bằng cách vùi đầu vào những bài tập trong lớp.
|
Upon entering the room, all the students plug their noses
and hiss at me.
The substitute teacher, a younger woman, waves her hands in front of her face. She’s
not used to my smell. At arms length she hands my test to me, but before I can take my
seat in
the back of the class by an open window, I’m summoned back
to the
principal’s office. The entire room lets out a howl at me – the reject of the fifth grade.
|
Khi tôi vừa bước chân vào lớp, tất cả học sinh trong lớp
đều bịt mũi lại và xì xào bàn tán về tôi. Người dạy thế là một cô giáo trẻ, cô cũng xua
xua tay tỏ vẻ khó chịu, Cô ấy không quen với cái mùi của tôi, nhưng tôi chưa kịp về
đến chỗ ngồi của mình
ở phía cuối lớp, gần cánh cửa sổ đang mở toang, thì bị gọi ngược lên văn phòng của thầy hiệu
trưởng. Cả căn phòng xôn xao vì những tiếng thì thào nói về tôi - một đứa học sinh lớp năm luôn bị
xa lánh.
|
I run to the administration office, and I’m there in a flash.
My throat is raw
and still burns from yesterday’s “game” Mother played against me. The secretary
leads me into the teachers’ lounge. After she opens the door, it takes a moment for my
eyes to adjust. In
front of me, sitting around a table, are my homeroom teacher Mr Ziegler, my
math teacher Miss Woods, the school nurse, Mr Hansen and a police officer. My feet become frozen. I don’t know
whether to run away or wait for the roof to cave in. Mr Hansen waves me in, as the
secretary closes the door behind me. I take a seat at the head of the table, explaining I didn’t steal anything…
today. Smiles break everyone’s depressed frowns. I have no idea that they are about to risk their jobs to save me.
|
Tôi đi như chạy về phía phòng hành chính vả chỉ trong giây
lát đã có mặt ở đó. Cổ họng tôi vẫn khô rát và nóng như lửa đốt- hậu quả của”trò
chơi” mẹ đã bày ra ngày
hômq au. Cô nhân viên phòng giáo vụ dẫn tôi vào phòng họp của giáo viên. Sau khi mở cửa, tôi
phải mất ít phút mới có thể định thần trở lại. Trước mặt tôi là thầy chủ nhiệm
Ziegler, giáo viên dạy Toán của tôi - cô Moss, cô y tá của trường, thầy Hansen và một viên cảnh sát
đang ngồi quanh chiếc bàn dài. Chân tôi tê cứng. Tôi không biết mình nên bỏ chạy hay
đứng lại đó để mọi việc muốn ra sao thì ra. Thầy Hansen vẫy tôi vào, còn cô nhân viên
phòng giáo vụ thì từ từ
khép cửa lại. Tôi ngồi xuống ngay đầu bàn, vội vàng lên tiếng thanh minh rằng hôm nay mình chẳng lấy
cắp thứ gì cả… Mọi người đều mỉm cười khiến không khí trở nên dịu lại. tôi không hình
dung được rằng họ đang cố gắng cứu lấy tôi.
|
The police officer explains why Mr Hansen called him. I
can feel myself
shrink into the chair. The officer asks that I tell him about Mother. I shake my head no.
Too many people already know the secret, and I know she’ll find out. A soft voice calms me. I think it’s Miss Woods. She
tells me it’s all right. I take a deep breath, wring my hands and reluctantly tell
them about Mother and I.
Then the nurse has me stand up and show the policeman the scar on my chest.
Without hesitation, I tell them it was an accident; which it was - Mother never meant to stab me.
|
Viên cảnh sát giải thích tại sao họ lại mời ông ấy đến.
Tôi co rúm ngừơi lại trên chiếc ghế mình đang ngồi. Viên cảnh sát yêu cầu tôi kể rõ vè mẹ
tôi cho ông ấy nghe. Tôi
lắc đầu từ chối. Đã có quá nhiều người biết được bí mật của tôi, rồi bà sẽ nhanh chóng biết được điều
đó mất thôi. Bỗng một giọng nói dịu dàng vang lên chấn an tôi. Tôi nghĩ đó là cô Moss. Cô ấy
nói với tôi rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn. Tôi hít một hơi thật sâu, siết chặt hai bàn tay
vào nhau và ngập ngừng kể câu chuyện giữa tôi và mẹ. Rồi cô y tá bảo tôi đứng dậy và chỉ cho
viên cảnh sát vết sẹo
trên ngực tôi. Không một chút suy nghĩ, tôi nói ngay rằng nó chỉ là một tai nạn, rằng mẹ không bao giờ
cố ý làm tôi bị thương như vậy cả.
|
I cry as I spill my guts, telling them Mother punishes me
because I am bad. I
wish they would leave me alone. I feel so slimy inside. I know after all these
years there is nothing anyone can do.
|
Tôi vừa khóc vừa cài lại nút áo và nói với họ rằng mẹ chỉ phạt tôi
vì tôi không ngoan. Tôi chỉ ước sao họ cứ để tôi được một mình. Thực tâm, tôi cảm thấy sao
mình dối trá quá.
Nhưng sau ngần ấy năm trời, tôi hiểu rằng se chẳng ai là được điều gì cho tôi cả.
|
A few minutes later, I am excused to sit in the outer
office. As I close the
door, all the adults look at me and shake their heads in an approving way. I fidget in
my chair, watching the secretary type papers. It seems forever before Mr Hansen calls me back into the room. Miss Woods
and Mr Ziegler leave the lounge. They seem happy, but at the same time worried.
Miss Woods kneels
down and wraps me in her arms. I don’t think I will ever forget the smell of the
perfume in her hair. She lets go, turning away so I won’t see her cry. Now I am
really worried.
Mr Hansen gives me a lunch tray from the cafeteria. “My
God!
Is it lunch time already?” I ask myself.
|
Sau ít phút đó, các thầy cô bảo tôi tạm ra ngoài ngồi. Khi tôi vừa khép cánh cửa lại, những người lớn ngồi
ở phòng ngoài đều nhìn tôi và lắc đầu ra chiều đồng cảm. Tôi ngọ nguậy trên ghế, mắt chăm
chú nhìn cô nhân viên phòng giáo vụ đánh máy. Trong lúc chờ đợi thầy Hansen cho gọi
tôi trở lại phòng, tôi có cảm giác thời gian như ngừng trôi. Cô Wood và thầy Ziegler rời khỏi
phòng họp. Trông họ khá vui vẻ, nhưng đồng thời
cũng thoáng chút lo lắng. Cô Wood
quỳ xuống choàng tay ôm lấy tôi. Tôi nghĩ mình sẽ không
bao giờ quên được mùi nước hoa thoảng trên tóc cô. Rồi cô quay mặt bước đi, để tôi không
thấy cô khóc. Vậy nên
ôi bắt đầu thấy lo lắng thực sự. Thầy Hansen đưa cho toi một khay thức ăn trưa
được mua ở căng tin.
“Chúa ơi, đến giờ ăn trưa rồi sao!” – Tôi tự hỏi.
|
I gobble down the food so fast I can hardly taste it. I
finish the tray in
record time. Soon the principal returns with a box of cookies, warning me not to eat so
fast. I have no idea what’s going on. One of my guesses is that my father, who is
separated from my
mother, has come to get me. But I know it’s a fantasy.
The policeman asks for my address and telephone number.
“That’s it!” I tell myself. “It’s back to hell! I’m going
to get it from her
again!”
|
Tôi ăn ngấu ăn nghiến số thức ăn ấy nhanh đến nỗi chẳng
kịp thưởng thức mùi vị
của chúng. Tôi ăn xong bữa trưa của mình trong một thời gian kỉ lục. Ngay sau đó, thầy hiệu trưởng
trở lại với một gói bánh quy, thầy còn dặn tôi không nên ăn quá nhanh như vậy.
Tôi chẳng biết chuyện gì đang diễn ra nữa.
Lúc ấy tôi đoán rằng cha tôi - hiện đang sống ly thân với mẹ - sẽ đến đón tôi. Nhưng tôi biết đó chỉ là điều
huyễn hoặc mà thôi. Viên cảnh sát hỏi tôi địa chỉ và
số điện thoại nhà tôi.
“Biết ngay mà!”- Tôi thở hắt ra - “Lại quay về địa ngục rồi. Lại quay về địa ngục với mẹ nữa
rồi!”
|
The officer writes down more notes as Mr Hansen and the school nurse look on. Soon he
closes his note pad and tells Mr Hansen that he has enough information. I look up at
the principal.
His face is covered with sweat. I can feel my stomach start to coil. I want to go to the
bathroom and throw up.
|
Viên cảnh sát ghi chú thêm vài điều, còn thầy Hansen và cô
y tá đứng một bên theo dõi. Rồi ông ấy gấp cuốn sổ ghi chép của mình lại rồi nói với
thầy
Hansen, khuôn mặt thầy ướt đẫm mồ hôi.; Tôi có thể cảm
nhận được dạ dày của mình đang quặn thắt lại. Lúc đó tôi chỉ muốn chạy ngay vào nhà vệ sinh
để nôn ra hết mọi
thứ mà thôi.
|
Mr Hansen opens the door, and I can see all the teachers
on their lunch
break staring at me. I’m so ashamed. “They know,” I tell myself. “They know the
truth about my mother; the real truth.” It is so important for them to know that
I’m not a bad boy. I want so much to be liked, to be loved. I turn down the hall. Mr Ziegler is holding Miss
Woods. She is crying. I can hear her sniffle. She gives me another hug and quickly
turns away. Mr
Ziegler shakes my hand.
“Be a good boy,” he says.
“Yes, sir. I’ll try,” is all I can say.
|
Thầy Hansen mở cửa ra, tất cả các thầy cô giáo đang ăn
trưa quay sang nhìn tôi chăm chú. Tôi xấu hổ vô cùng.”Họ biết hết cả rồi” - Tôi nhủ
thầm - “Họ đã biết hết
sự thật về mẹ, một sự thật không thể chối cãi.” Nhưng họ cần phải biết rằng tôi không phải là một
đứa trẻ hư đốn ngỗ nghịch. Tôi khát khao được mọi người yêu thương quý mến. Tôi
lầm lũi đi về phía hành lang. Thầy Ziegler đang ôm lấy cô Wood. Cô đang khóc. Tôi nghe thấy
tiếng cô sụt sịt. Cô lại ôm lấy tôi rồi vội vã bước đi. Thầy Ziegler nắm chặt tay
tôi.
- Hãy là một cậu bé ngoan em nhé! – Thầy trìu mến nói với
tôi.- Vâng thưa thầy! Em sẽ cố gắng! - Lúc ấy tôi chỉ có thể nói với
thầy như vậy.
|
The school nurse stands in silence beside Mr Hansen. They
all tell me
goodbye. Now I know I am going to jail. “Good,” I tell myself. “At least she won’t be
able to beat me if I’m in jail.”
|
Cô y tá đứng yên lặng bên cạnh thầy Hansen. Tất cả mọi
người đều vẫy chào tạm biệt tôi. Giờ tôi biết mình sắp bị bỏ tù rồi.”Cũng tốt thôi”-
Tôi tự nhủ - “Ít ra thì bà ấy cũng không thể đánh đập được mình khi mình ở trong
tù”.
|
The police officer and I walk outside, past the cafeteria.
I can see some of
the kids from my class playing dodge ball. A few of them stop playing. They yell,
“David’s busted! David’s busted!”
The policeman touches my shoulder, telling me everything
is okay. As he
drives me up the street, away from Thomas Edison Elementary School, I see some kids
who seem to be fazed by my departure. Before I left, Mr Ziegler told me he would tell
the other kids
the truth- the real truth. I would give anything to have been there in class when they
found out I’m not so bad.
|
Tôi cùng viên cảnh sát đi qua căng tin để ra ngoài. Tôi
nhìn thấy mấy đưa bạn cùng lớp đang chơi bóng ném. Khi nhìn thấy tôi, vài đứa dừng chơi
và gào lên: ”David bị bắt! David bị bắt!”. Nhưng viên cảnh
sát vỗ lên vai tôi trấn an rằng mọi chuyện đều ổn cả. Khi chiếc xe cảnh sát lăn bánh
đưa tôi rời khỏi trường tiểu học Thomas Edison, tôi nhìn thấy vẻ mặt kinh ngạc của một vài đứa
bạn khác khi
chứng kiến tôi bị giải đi như vậy. Trước khi tôi đi khỏi, thầy Ziegler nói với tôi rằn thày sẽ kể cho các bạn
tôi biết sự thật. Một khi mọi người đã biết rằng tôi không phải là một học
sinh hư hỏng thì tôi sẵn sàng đánh đổi bất cứ điều gì để được tiếp tục học cùng
các bạn của mình.
|
In a few minutes, we arrive at the Daly City Police
Station. I sort of
expect Mother to be there. I don’t want to get out of the car. The officer opens the door
and gently takes me by the elbow, into a big office. No other person is in the room.
The policeman
sits in a chair, in the corner, where he types several sheets of paper. I watch the
officer closely as I slowly eat my cookies. I savor them as long as I can. I don’t
know when I will be eating again.
|
Vài phút sau, xe đưa chúng tôi đến đồn cảnh sát Daily.
Chẳng hiểu sao tôi lại nghĩ rằng có thể mẹ đang ở đó, vì thế tôi không muốn ra khỏi chiếc
xe. Viên cảnh sát mở
cửa xe rồi chậm rãi dẫn tôi đi qua một khúc quanh để đến một căn phòng lớn. Ở đó không có ai khác ngoài chúng
tôi. Viên cảnh sát ngồi xuống chiếc ghế ở góc phòng và bắt đầu đánh máy. Tôi chăm
chú nhìn viên cảnh sát trong khi miệng vẫn nhấm nháp món bánh quy thơm ngon. Tôi muốn kéo dài thời gian thưởng thức những cái
bánh ngon lành ấy, càng lâu càng tốt. Không biết đến bao giờ tôi mới lại được
cho ăn no như vậy.
|
It’s past 1:00 p.in. when the policeman finishes his paperwork.
He asks for my telephone number again.
“Why?” I whine.
“I have to call her, David,” he says gently.
“No!” I command. “Send me back to school. Don’t you get it? She mustn’t find out I told!”
He calms me down with another cookie, as he slowly dials
7-5-6-2-4-6-0. I watch the black dial turn as I get up and walk towards him, straining my whole
body while trying to hear the phone ringing on the other end. Mother answers.
|
Hơn một giờ trưa, viên cảnh sát mới hoàn tất công việc
giấy tờ của mình.
Ông lại hỏi số điện thoại nhà tôi.
- Để làm gì ạ?- Tôi hỏi bằng giọng lo sợ.
- Chú phải gọi cho mẹ của cháu, David ạ.- ông từ tốn trả
lời
- Không!- Tôi nói như ra lệnh.- Đưa cháu về trường! Chú không hiểu à? Không được để cho mẹ cháu biết cháu
đã nói những gì đâu!
Ông ấy trấn an tôi bằng một gói bánh quy khác trong lúc
tay ông ấy chậm rãi quay số 7-5-6-2-4-6-0. Nhìn những con số quay đều trên chiếc điện
thoại màu đen, tôi đứng
lên và tiến về phía ông ấy, cả người tôi như căng ra khi cố lắng nghe từng hồi chuông diện thoại ở
đầu dây bên kia. Mẹ tôi nhấc điện thoại.
|
Her voice scares me. The policeman waves me away, and takes a deep breath before saying, “Mrs Pelzer,
this is Officer Smith from the Daly City Police Department. Your son David will
not be coming home
today. He will be in the custody of the San Mateo Juvenile Department. If you have
any questions, you can call them.” He hangs up the phone and smiles.
“Now that wasn’t so hard, was it?” he asks me.
But the look on his face tells me he is assuring himself, more than he is
me.
|
Giọng nói của bà làm tôi thấy sợ. Viên cảnh sát phẩy tay
ra hiệu cho tôi tránh sang một bên, rồi ông hít một hơi thật sâu trước khi nói chuyện với mẹ
tôi.
“Chào bà Pelzer! Tôi là cảnh sát thành phố Daily. Con trai
David của bà hôm nay sẽ không về nhà. Thằng bé sẽ được giám hộ bởi Cục bảo vệ trẻ em vị
thành niên San Mateo. Có
vấn đề gì, bà cứ gọi cho họ nhé”. Rồi ông gác điện thoại và nhìn tôi mỉm cười.
- Giờ thì đâu còn gì là quá khó khăn, phải không nào?
Nhưng vẻ mặt của viên cảnh sát cho tôi biết rằng ông đang
muốn tự khẳng định
với chính mình hơn là muốn làm cho tôi yên lòng.
|
A few miles later, we are on highway 280, heading towards the outskirts of Daly City. I look
to my right and see a sign that reads, “THE MOST BEAUTIFUL HIGHWAY IN THE WORLD.” The officer smiles with
relief, as we leave the city limits. “David Pelzer,” he says, “you’re free.”
“What?” I ask, clutching my only source of food. “I don’t understand. Aren’t you taking me
to some kind of jail?”
Again he smiles, and gently squeezes my shoulder. “No, David. You have nothing to worry
about, honest. Your mother is never going to hurt you again.”
I lean back against the seat. A reflection from the sun
hits my eyes. I turn
away from the rays as a single tear runs down my cheek.
“I’m free?”
|
Đi thêm vài dặm đường nữa, chúng tôi đã ở trên đại lộ 280,
thẳng ra khu vựa ngoại ô thành phố Daily. Tôi qyau sang phía bên phải và trông thấy
biển báo “Đường cao tốc đẹp nhất thế giới”.
Xe đưa chúng tôi rời nội vi thành phố, viên cảnh sát mỉm cười nhẹ nhõm và nói:
- David Pelze, cháu được tự do.
- Cái gì cơ?- Tôi hỏi lại, tay vẫn khư khư giữ chặt lấy
túi thức ăn của mình.- Cháu không hiểu. Chẳng phải chú đang đưa cháu đến trại giam nào
sao?
Ông ấy lại mỉm cười, nhẹ nhàng siết lấy vai tôi:
- Không đâu David ạ. Cháu không cần phải lo lắng gì nữa
cả, chú nói thật đấy. Mẹ cháu sẽ không bao giờ có thể làm tổn thương cháu nữa đâu.
Tôi tựa người vào thành ghế. Một tia nắng ấm áp chiếu
thẳng vào mặt tôi.
Tôi khẽ lách người để tránh tia nắng ấy, một giọt nước mắt
từ đâu bỗng nhiên chảy dài trên gò má tôi.
- Mình được tự do rồi sao?
|
CHAPTER 2 - GOOD TIMES
In the years before I was abused, my family was the “Brady Bunch” of the 1960s. My two
brothers and I were blessed with the perfect parents. Our every whim was fulfilled
with love and care.
We lived in a modest twobedroom house, in what was considered a “good” neighborhood
in Daly City. I can remember looking out of our living room bay window on a clear day,
to gaze at the
bright orange towers of the Golden Gate Bridge and the beautiful skyline of San
Francisco.
My father, Stephen Joseph, supported his family as a
fireman, working in
the heart of San Francisco. He stood about five feet ten inches tall, and he weighed
about 190 pounds. He had broad shoulders and forearms that would make any muscle
man proud.
His thick black eyebrows matched his hair. I felt special
when he winked at
me and called me “Tiger”.
|
CHƯƠNG 2 - THỜI TƯƠI ĐẸP
Khoảng thời gian trước khi tôi bị mẹ đối xử tàn nhẫn, gia
đình tôi là một gia đình kiểu
mẫu theo phong cách “Brady Bunch” những năm 60. Cha mẹ yêu thương anh em chúng tôi hết
mực. Mỗi ý thích của anh em chúng tôi đều được cha mẹ đáp ứng với tất cả tình yêu thương
và sự quan tâm chăm sóc.
Chúng tôi sống trong một căn hộ bình thường có hai phòng
ngủ. Gia đình tôi luôn
được hàng xóm đánh giá là gia đình mẫu mực. Tôi vẫn còn nhớ vào những ngày nắng đẹp, tôi
thường tựa mình vào ô cửa sổ trong phòng khách, phóng tầm mắt về phía những ngọn tháp màu
cam sáng chói trên chiếc cầu Golden Gate và ngắm nhìn đường chân trời tuyệt đẹp của
San Francisco.
Cha tôi là ông Stephen Joseph. Cha là lính cứu hỏa và là
trụ cột của gia đình. Nơi
làm việc của cha nằm ở trung tâm San Francisco. Cha tôi cao 1,8 mét và nặng khoảng 85 ký. Bờ vai
rộng và đôi cánh tay rắn chắc của ông khiến cho bất cứ người đàn ông nào cũng
phải ganh tị. Mái tóc của cha cùng màu với đôi chân mày đen rậm. Tôi luôn thích thú khi cha
nháy mắt và âu yếm gọi tôi bằng cái tên “Cọp con”.
|
My mother, Catherine Roerva, was a woman of average size and appearance. I never could
remember the color of her hair or eyes, but Mom was a woman who glowed with love for
her children. Her
greatest asset was her determination. Mom always had ideas, and she always took
command of all family matters.
|
Mẹ tôi là Catherine Roerva. Bà là một phụ nữ trung bình cả
về dáng dấp lẫn diện
mạo. Tôi không nhớ được màu tóc hay màu mắt của mẹ, nhưng bà là một người phụ nữ yêu thương
con với cả tấm lòng. Điều đáng quý nhất ở mẹ chính là sự quyết đoán. Mẹ thường đưa ra nhiều ý
kiến và bà luôn là người đóng vai trò quyết định trong mọi vấn đề của gia đình.
|
Once, when I was four or five years old, Mom said she was
sick, and I
remember feeling that she did not seem to be herself at all.
|
Năm tôi lên bốn hay năm tuổi gì đó, tôi nhớ có lần mẹ bảo rằng mẹ bị
bệnh, và tôi vẫn nhớ cái cảm giác của lúc ấy, tôi cảm thấy dường như bà không còn là
chính mình nữa.
|
It was a day when Father was working at the fire station.
After serving
dinner, Mom rushed from the table and began painting the steps that led to the garage.
She coughed as she frantically brushed the red paint onto every step. The paint
had not fully dried, when Mom began tacking rubber mats to the steps. The red paint was all over the mats
and Mom. When she finished, Mom went into the house and collapsed on the couch. I remember asking her why she had
put the mats down before the paint dried. She smiled and said, “I just wanted to
surprise your dad.”
|
Hôm ấy cha đi làm ở đồn cứu hỏa. Sau khi dọn xong bữa tối cho chúng tôi,
mẹ hối hả đi về phía
nhà xe, vừa đi vừa phết sơn lên những dấu chân của mình. Bà vừa ho liên hồi, vừ dùng cọ quệt như
điên những mảng sơn màu đỏ lên mỗi dấu chân. Sơn chưa khô hẳn thì bà đã bắt đầu dán lên đó
những miếng lót sàn bằng cao su. Từng vệt sơn đỏ dính bê bết len mấy miếng lót cao su,
dính cả lên người của mẹ.
Xong, mẹ quay trở vào nhà và buông người xuống ghế trường kỷ. Tôi còn nhớ đã hỏi mẹ rằng tại
sao bà lại đặt mấy miếng lót lên khi sơn hãy còn ướt. Bà cười trả lời:[1]
- Mẹ muốn gây bất ngờ cho cha con đấy mà.
|
When it came to housekeeping, Mom was an absolute clean fiend. After feeding my two
brothers, Ronald and Stan, and I breakfast, she would dust, disinfect, scour and vacuum everything. No room in our house
was left untouched. As we grew older, mom made sure we did our part by keeping our room neat. Outside, she
meticulously attended a small flower garden, which was the envy of the neighborhood.
With Mom, everything
she touched turned into gold. She didn’t believe in doing anything halfway. Mom often told us that we must
always do the best we could, in whatever we did.
|
Đối với việc nội trợ, mẹ là người cực kỳ kỹ tính và luôn
đòi hỏi mọi thứ phải thật
sạch sẽ. Sau khi dọn bữa sáng cho tôi và hai người anh em trai của tôi là Ronald và Stan, mẹ lại
quét dọn, khử trùng, cọ rửa và hút bụi mọi thứ trong nhà. Mẹ không bỏ sót một
gian phòng hay ngóc ngách nào. Khi mấy anh em chúng tôi lớn hơn một chút, mẹ bắt đầu nhắc nhở
chúng tôi phải giữ gìn phòng ốc sạch sẽ. Mẹ còn biến mảnh sân trước nhà thành một vườn hoa
nhỏ với đủ các
sắc màu và tẩn mẩn chăm bón khu vườn ấy mỗi ngày. Với mẹ, nơi nào bà chạm vào là ở phải sạch
bóng. Bà không bao giờ cho phép mình làm điều gì đó nửa vời. Mẹ thường khuyên anh em chúng
tôi phải luôn cố gắng trong mọi việc.
|
Mom was truly a gifted cook. Of all the things she did for
her family, I
think creating new and exotic meals was her favorite. This was especially true on those
days when Father was home. Mom would spend the better part of the day preparing one
of her fantastic
meals. On some days when Father was working, Mom would take us on exciting sightseeing
tours around the city. One day, she took us to Chinatown in San Francisco. As we
drove around the
area, Mom told us about the culture and history of the Chinese people. When we
returned, Mom started her record player, and our home was filled with beautiful
sounds from the Orient. She then decorated the dining room with Chinese lanterns. That evening, she
dressed in a kimono and served what seemed to us as a very exotic but delicious meal.
At the end of dinner, Mom gave us fortune cookies and read the captions for us. I felt that the cookie’s
message would lead me to my destiny.
Some years later, when I was old enough to read, I found
one of my old
fortunes. It said, “Love and honor thy mother, for she is the fruit that gives thou life.”
|
Mẹ tôi còn là một đầu bếp siêu hạng. Tôi nghĩ rằng việc
sáng tạo ra các món ăn
mới lạ chính là sở thích của mẹ. Điều này được thẻ hiện rất rõ vào những ngày có cha tôi ở nhà. Những
ngày này, mẹ sẽ dành nhiều thời gian hơn để chuẩn bị cho cả nhà một bữa ăn thật thịnh soạn.
Còn vào những ngày cha đi làm, mẹ lại đưa mấy anh em chúng tôi đi tham quan thành
phố. Một ngày nọ, mẹ đưa chúng tôi đến thăm Phố Người Hoa ở San Francisco. Trong lúc lái
xe quanh các con
đường ở đó, mẹ kể cho chúng tôi nghe vè văn hóa và lịch sử của người Trung Hoa. Khi trở về nhà,
mẹ bật đĩa hát lên, cả gian nhà bỗng chốc tràn ngập những giai điệu phương Đông trầm bổng
tuyệt vời. Mẹ còn trang trí phòng ăn với những chiếc đèn lồng Trung Hoa. Tối hôm ấy,
mẹ mặc một bộ kimono và cho chúng tôi ăn những món ăn lạ nhưng cực kỳ ngon miệng.
Sau bữa tối, mẹ
cho chúng tôi mỗi đứa vài cái bánh quy. Đó là loại bánh ngọt gập lại và có chữ bên trong. Rồi bà
đọc những dòng chữ ấy cho chúng tôi nghe. Tôi có cảm giác thông điệp trong miếng
bánh sẽ đưa tôi đến với vận số của mình.
Dòng chữ trong miếng bánh của tôi có nội dung: “Hãy yêu
thương và tôn kính mẹ của con, bởi mẹ là suối mát nuôi lớn cuộc đời con”.
|
Back then our house was full of pets- cats, dogs,
aquariums filled with
exotic fish and a gopher tortoise named “Thor”. I remember the tortoise best because
Mom let me pick a name for it. I felt proud because my brothers had been chosen to
name the other pets
and it was now my turn. I named the reptile after my favorite cartoon character.
|
Thời gian đó, nhà tôi nuôi rất nhiều chó mèo. Chúng tôi
còn có nhiều hồ cá với các loại cá lạ và một con rùa tên Thor. Tôi nhớ nhất con rùa
này vìmẹ đã để tôi đặt tên cho nó. Tôi lấy làm tự hào vì các anh em trai của
tôi đều đã được đặt tên
cho các con vật nuôi trong nhà, bây giờ mới đến lượt tôi. Tôi đã đặt tên nó theo tên của một nhân
vật hoạt hình mà tôi yêu thích.
|
The five and ten-gallon aquariums seemed to be everywhere. There were at least two in the
living room, and one filled with guppies in our bedroom. Mom creatively decorated
the heated tanks with
colored gravel and colored foil backs; anything she thought would make the tanks more
realistic. We would often sit by the tanks while Mom told us about the different species
of fish.
|
Các hồ cá lớn nhỏ có dung tích từ 25 đến 50 lít hầu như ở
khắp nơi trong nhà. Có
ít nhát hai cái trong phòng khách, còn ngay trong phòng của anh em chúng tôi là một hồ nuôi cá
nước ngọt. Mẹ đã tô điểm cho hồ cá thật bắt mắt với những viên sỏi nhiều màu
sắc, thành hồ cũng được mẹ trang trí công phu. Nhờ bàn tay khéo léo của mẹ, các hồ cá trở nên
thật sống động. Thuở ấy, anh em chúng tôi thường xúm xít quanh bể cá nghe mẹ kể
chuyện về những loài cá khác nhau.
|
The most dramatic of Mom’s lessons, came one Sunday afternoon. One of our cats was
behaving in an odd way. Mom had us all sit down by the cat while she explained the
process of birth. After
all the kittens has slipped safely out of the mother cat, Mom explained in great detail
the wonder of life. No matter what the family was doing, she somehow came up with a constructive lesson; though we
were not usually aware that we were being taught.
|
|
For our family - during those good years - the holidays started with Halloween. One
October night, when the huge harvest moon was in full view, Mom hurried the three of us
out of our house,
to gaze at the “Great Pumpkin” in the sky. When we returned to our bedroom, she
told us to peek under our pillows where we found Matchbox race cars. My two brothers and I squealed with delight as
Mom’s face was flushed with pride.
|
Trong suốt những năm tháng hạnh phúc ấy, đối với gia đình
chúng tôi, các kỳ
nghỉ chính thức bắt đầu từ dịp lễ Halloween. Một đêm tháng Mười nọ, khi trăng trên bầu trời đêm đã
tròn vành vạnh, mẹ giục cả ba anh em chúng tôi ra trước sân ngắm “quả bí đỏ khổng lồ”
trên nền trời cao vút. Khi chúng tôi trở về phòng ngủ của mình, mẹ bảo chúng tôi hãy
nhìn xem phía dưới gối của mỗi đứa có thứ gì. Ôi, đó là những chiếc xe đua đồ chơi
hiệu Matchbox. Ba
anh em tồi cùng nhảy cẫng lên vui sướng, còn gương mặt của mẹ thì rạng ngời hạnh phúc.
|
The day after Thanksgiving, Mom would disappear to the basement, then bring up enormous
boxes filled with Christmas decorations. While standing on a ladder, she tacked
strings of ornaments to
the ceiling beams. When she was finished, every room in our house had a seasonal
touch. In the dining room Mom arranged different sizes of red candles on the counter
of her prized
oak hutch. Snowflake patterns graced every window in the living room and dining
room. Christmas lights were draped around our bedroom windows. Every night I fell
asleep while staring
at the soft, colorful glow of the Christmas lights that blinked on and off.
|
Một ngày sau lễ Tạ ơn, mẹ xuống dưới tầng hầm rồi mang lên
mấy chiếc hộp bán
đầy bụi, bên trong là vô số những vật dụng dùng để trang trí cho lễ Giáng sinh. Mẹ đứng trên một cái
thang và đính các dây kim tuyến đủ sắc màu lên trần và tường nhà. Sau khi mẹ hoàn tất,
khắp các gian phòng như được khoác chiếc áo mới. Mẹ còn cắm những cây nến đỏ đủ kích cỡ lên
những chiếc kệ nhỏ
xinh làm bằng gỗ sồi trong phòng ăn. Các hình vẽ bông tuyết được mẹ điểm xuyết trên khắp các
cửa sổ trong nhà. Các dãy đèn thì nhấp nháy chạy quanh cửa sổ phòng ngủ của anh em chúng
tôi. Mỗi tối, khi ngắm nhìn ánh sáng dịu nhẹ, huyền ảo hắt ra từ phía cửa sổ, tôi lại thích
thú mỉm cười rồi rút
người vào chăn, nhắm nghiền mắt để tận hưởng niềm hạnh phúc mơn man khắp da thịt.
|
Our Christmas tree was never ever an inch under eight
feet, and it took
the whole family hours to decorate it. Each year one of us was honored by being allowed
to place the angel at the top of the tree, while Father held us up in his strong arms.
After the tree was decorated
and dinner was finished, we would pile into the station wagon and cruise the
neighborhood, admiring the decorations on other homes. Mom always rambled on about
her ideas of
bigger and better things for the next Christmas, even though my brothers and I knew our
house was always the best.
|
Cây thông của gia đình chúng tôi không bao giờ thấp dưới
hai mét rưỡi. Mỗi dịp
Giáng sinh về, cả nhà tôi lại quây quần bên nhau hàng giờ liền để trang trí cho nó. Cứ mỗi một năm,
ba anh em chúng tôi lại thay phiên nhau được cha công kênh lên cao bằng đôi tay rắn chắc
của ông để treo hình thiênthần lên đỉnh của cây thông. Sau khi trang trí cây
thông và dùng xong bữa tối, cả nhà lại xím xít leo lên xe ngựa để ghé thăm hàng xóm và
chiêm ngưỡng cách trang trí của họ. Cứ mỗi mùa Giáng sinh về, mẹ lại có thêm nhiều ý
tưởng mới và độc đáo
hơn và anh em tôi biết ngôi nhà của mình lúc nào cũng là ngôi nhà được trang trí đẹp nhất.
|
When we returned home, Mom sat us down by the fireplace to drink egg nog. While she told us
stories, Bing Crosby sang “White Christmas” on the stereo. I was so excited during
those holiday
seasons that I couldn’t sleep. Sometimes Mom would cradle me, while I fell asleep
listening to the crackle of the fire.
|
Khi trở về nhà, mẹ bảo chúng tôi ngồi xuống cạnh bếp lửa trong phòng khách để cùng uống
rượu trúng. Rồi mẹ bắt đầu kể chuyện cho chúng tôi nghe, trong lúc đó thì đài phát thanh
phát bài “Giáng sinh trắng” do ca sĩ Bing Crosby trình bày. Suốt những ngày nghỉ đó,
tôi hào hứng đến nỗi chẳng thể nào ngủ được. Có khi mẹ phái bế và đu đưa tôi trong tay khi
tôi mãi lắng nghe
tiếng tí tách của bếp lửa hồng mà mắt nhắm mắt mở.
|
As Christmas Day came nearer, my brothers and I became more and more excited. The pile of
gifts at the base of the tree grew day by day. By the time Christmas finally arrived,
there were dozens
of gifts for each of us.
|
Ngày lễ Giáng sinh càng đến gần, mấy anh em chúng tôi lại
càng trở nên phấn
khích. Đống quà tặng đặt dưới gốc cây thông cứ cao dần lên từng ngày. Và vào đúng đêm Giáng sinh,
mỗi anh em chúng tôi nhận được cả chục hộp quà.
|
On Christmas Eve, after a special dinner and caroling, we were allowed to open one gift.
Afterwards, we were sent to bed. I always strained my ears as I laid in bed, waiting
for the sound of Santa’s sleigh bells. But I always fell asleep before I heard his reindeer land on the roof.
|
Vào đêm Giáng sinh, sau bữa ăn tối đặc biết và hát mừng
Chúa giáng sinh, chúng
tôi được phép mở một món quà của mình. Sau đó, cha mẹ giục chúng tôi nhanh chóng về phòng ngủ.
Nằm trên giường, tôi cứ ngóng tai nghe tiếng chuông xe trượt tuyết của ông già Noel. Nhưng
năm nào tôi cũng ngủ quên trước khi kịp nghe tiếng xe tuần lộc dừng lại trên nóc nhà của
mình.
|
Before dawn, Mom would creep into our room and wake us, whispering, “Santa came!” One year
she gave each of us a yellow, plastic, Tonka hard hat and had us march into the living room. It took us forever to rip
the colorful paper from the boxes, to discover our new Christmas toys. Afterwards, Mom
had us run to the
backyard in our new robes, to look back in through the window at our huge Christmas
tree. That year, standing in the yard, I remember seeing Mom cry. I asked her why she
was sad. Mom told
me she was crying because she was so happy to have a real family.
|
Trời mới tờ mờ sáng, mẹ nhón chân rón rén vào phòng chúng
tôi và thì thầm:
“Ông già Noel đến rồi kìa các con!” để đánh thức chúng tôi dậy. Một dịp Giáng sinh nọ, mẹ tặng mỗi
đứa chúng tôi một chiếc mũ Tonka màu vàng bằng nhựa cứng và bảo chúng tôi đội lên rồi
“diễu hành” khắp phòng khách.
Sau đó, mẹ mặc áo khoác mới vào cho chúng tôi rồi giục chúng tôi chạy ra sân sau để ngắm
cây thông khổng lồ trong nhà qua làn kính cửa sổ. Một lần nọ, khi đứng ngoài sân nhìn vào nhà,
tôi đã thấy bà khóc. Tôi hỏi tại sao mẹ lại khóc như vậy thì bà nói rằng bà khóc vì
quá hạnh phúc khi có được một mái ấm thật sự.
|
Because Father’s job often required him to work 24-hour shifts, Mother often took us on
day trips to places like the nearby Golden Gate Park in San Francisco. As we slowly
drove through the
park, Mom explained how the areas were different and how she envied the beautiful
flowers. We always visited the park’s Steinhart Aquarium last. My brothers and I
would blaze up the stairs
and charge through the heavy doors. We were thrilled as we leaned over the
brass, seahorseshaped fence, looking far below at the small waterfall and pond that
were home to the
alligators and large turtles. As a child, this was my favorite place in the entire park.
I once became frightened, as I thought about slipping through the barrier and
falling into the pond. Without speaking a word, Mom must have felt my fear. She looked
down at me and held my hand ever so softly.
|
Công việc của một người lính cứu hỏa buộc cha tôi phải
vắng nhà suốt ngày, nên
mẹ là người đưa chúng tôi đi chơi. Nơi mẹ thường đưa chúng tôi đến nhất là khu vực gần Công
viên Golden Gate ở San Francisco. Vừa cho xe chạy chầm chậm qua công viên, mẹ
vừa giảng giải cho chúng tôi nghe về sựkhác nhau giữa các vùng miền. Mẹ còn
xuýt xoa trước vẻ đẹp diệu kỳ của những bông hoa rực rỡ trong công viên. Bể cá
Steinhart của công viên luôn là điểm tham quan cuối cùng của chúng tôi. Tại đây,
chúng tôi tha hồ leo trèo cầu thang và chạy nhảy qua lại giữa các cánh cửa lớn. Chúng
tôi đặc biết thích thú khi tựa người vào bức tượng hình cá ngựa được làm bằng đồng và phóng
tầm mắt xuống
phía dưới một cái hồ rộng - nới trú ngụ của mấy con cá sấu và những con rùa vàng to lớn. Đây
chính là nơi tôi thích nhất trong khu công viên. Tôi nhớ có lần tôi đã rất sợ
hãi khi nghĩ đến việc mình sẽ bị trượt chân khỏi hàng rào ngăn cách và rới tõm
xuống cái hồ ấy. Lúc đó, như đọc được nỗi sợ hãi trong mắt tôi, mẹ đã nhẹ nhàng
siết lấy tay tôi để trấn an.
|
Spring meant picnics. Mom would prepare a feast of fried chicken, salads, sandwiches and
lots of desserts the night before. Early the next day, our family sped off to Junipero
Serra Park. Once there,
my brothers and I would run wild on the grass and pump higher and higher on the
park’s swings. Sometimes we would venture off on a new trail. Mom always had to pry us away from our fun, when it came
time for lunch. We wolfed down our food, hardly tasting it, before my brothers and I blitzed off for parts unknown, in
search of high adventure. Our parents seemed happy to lie next to each other on a
blanket, sip red wine and watch us play.
|
Mùa xuân là mùa của những chuyến dã ngoại. Buổi tối trước
khi khởi hành, mẹ sẽ
chuẩn bị một bữa thịnh soạn gồm nào là gà rán, xà lách trộn, bánh mì sandwich và rất nhiều món tráng
miệng. Sáng sớm hôm sau, cả nhà chúng tôi sẽ phóng xe thẳng đến Công viên Junipero Serra.
Ở đó, ba anh em tôi sẽ được thỏa thích chạy nhảy trên những cánh đồng cỏ xanh mượt và đung
đưa thật cao trên
những chiếc xích đu. Có lúc, chúng tôi còn cùng nhau khám phá một con đường mòn mới phát hiện ở
gần đó. Mẹ luôn để mắt đến ba anh em tôi trong lúc chúng tôi chơi đùa. Đến giờ ăn trưa,
mẹ lại gọi chúng tôi về và đưa cho chúng tôi những phần thức ăn thơm phức. Chẳng
kịp thưởng thức hương vị của những món ăn mẹ đưa cho, chúng tôi cứ thế ngấu nghiến phần ăn
của mình để còn
tiếp tục “oanh tạc” những vùng đất mới trong cuộc tìm kiếm đầy mạo hiểm. Còn cha mẹ thì hạnh phúc
nằm cạnh nhau trên tấm bạt trải rộng, cùng nhâm nhi rượu vang và dõi mắt xem chúng tôi
vui đùa.
|
It was always a thrill when the family went on summer vacation. Mom was always the
mastermind behind these trips. She planned every detail, and swelled with pride as
the activities came together. Usually we traveled to Portola or Memorial Park, and camped out in our giant, green
tent for a week or so. But whenever Father drove us north across the Golden Gate
Bridge, I knew we
were going to my favorite place in the world – the Russian River.
|
Khi hè đến, chúng tôi lại háo hức đón chờ những kỳ nghỉ
thú vị khác. Mẹ luôn là người lên kế hoạch cho những chuyến đi trong dịp hè. Mẹ
chuẩn bị và cân nhắc
kỹ đến từng chi tiết và luôn tỏ ra hài lòng khi kế hoạch của mình được cả nhà thực hiện một cách trọn
vẹn. Thường thì chúng tôi vẫn đến Công viên Memorial hoặc Công viên Portola, cắm trại
trong một cái lều lớn màu xanh và ở đó cả tuần liền hoặc khi lâu hơn. Nhưng cũng có
khi cha đưa cả nhà băng qua cây cầu Golden Gate, lúc đó, chúng tôi biết mình sắp được đến
với một trong
những điểm đến ưa thích nhất trên thế giới - Dòng sông Nga[2].
|
The most memorable trip to the river for me, happened the year I was in kindergarten. On the
last day of school, Mom asked that I be excused a halfhour early. As Father honked the horn, I rocketed up the small hill
from the school, to the waiting car. I was excited because I knew where we were
going. During the drive, I became fascinated at the seemingly endless fields of grapes. When we drove into the
quiet town of Guerneville, I rolled my window down to smell the sweet air from the
redwood trees.
|
Đối với tôi, chuyến đi đáng nhớ nhất khi đến với con sông
này là năm tôi học mẫu
giáo. Vào ngày cuối cùng của năm học, mẹ xin cho tôi được về sớm nửa tiếng. Nghe tiếng kèn xe của
cha, tôi lao như tên bắn qua mô đất nhỏ trước cổng trường hướng về phía chiếc xe
đang chờ sẵn. Tôi càng hào hứng hơn nữakhi biết nơi mình sắp đến là nơi nào.
Suốt chặng đường đi, mắt tôi cứ dán chặt vào những cánh đồng nho kéo dài bất tận ở hai bên
đường. Khi xe vào đến thị trấn yên tĩnh của vùng Guerneville, tôi kéo kính xe xuống để
ngửi mùi hương ngọt ngào của những cánh rừng gỗ đỏ.
|
Each day was a new adventure. My brothers and I either
spent the day
climbing an old, burnt tree stump with our special whomperstomper boots or swimming
in the river at Johnson’s Beach. Johnson’s Beach was a whole day’s event. We would leave our cabin by nine and return
after three. Mom taught each of us to swim in a small, trenched hole in the river. That
summer Mom taught me
how to swim on my back. She seemed so proud when I was finally able to do it.
|
Với tôi, mỗi ngày nghỉ trôi qua đều là một chuyến phiêu
lưu thú vị. Có hôm ba anh
em tôi cùng leo lên một gốc cây to đã cháy đen, có lúc chúng tôi lại thỏa thích rượt đuổi nhau trên
bãi tắm Johnson. Bãi tắm Johnson là khu nghỉ mát hoạt động cả ngày. Chúng tôi thường ở đó
từ chín giờ sáng đến ba giờ chiều. Nơi đó, mẹ đã tập cho chúng tôi bơi trong một rãnh
nước nhỏ. Mùa hè năm ấy, mẹ dạy cho tôi bơi ngửa. Bà tỏ ra rất tự hào khi cuối cùng tôi
cũng có thể biết cách
bơi ngửa.
|
Everyday seemed sprinkled with magic. One day after
dinner, Mom and Dad
took the three of us to watch the sunset. All of us held hands, as we crept past Mr
Parker’s cabin to get to the river. The green river water was as smooth as glass. The bluejays scolded the other birds,
and a warm breeze blew through my hair. Without a word, we stood watching the fireballlike sun as it sank behind
the tall trees, leaving bright blue and orange streaks in the sky. From above, I
felt someone hug my shoulders. I thought it was my father. I turned and became flushed with pride to find
Mom holding me tightly. I could feel her heart beat. I never felt as safe and as
warm as that moment in time, at the Russian River.
|
Mỗi ngày qua đi đều đầy ắp những điều bí ẩn. Một ngày nọ,
sau bữa cơm chiều,
cha mẹ dẫn cả ba anh em tôi đi ngắm cảnh hoàng hôn. Chúng tôi nắm tay nhau và rón rén đi ngang
qua lều của gia đình ông Parker để ra đến bờ sông. Mặt nước sông xanh trong và phẳng lì như
gương. Từng đàn chim sải cánh chao liệng trên không, bình thản quay về tổ sau một ngày
dài. Một làn gió nhẹ thoảng qua tóc tôi, mang theo hương thơm của đất trời và cây cỏ.
Không ai nói một lời,
chúng tôi chỉ lặng yên ngắm nhìn quả cầu lửa đang dần khuất sau những rặng cây cao vút, để lại
trên bầu trời những vệt màu xanh sáng chói lẫn đỏ rực. Bỗng một bàn tay choàng
ngang vai tôi. Tôi đoán đó là cha. Nhưng khi xoay người lại, tôi xúc động nhận
thấy mẹ đang ghì chặt lấy vai tôi. Lúc ấy, tôi còn cảm nhận được cả hơi thở và
từng nhịp đập nơi lồng ngực mẹ. Tôi đã không bao giờ còn có được cảm giác yên bình và ấm áp
như ngày hôm ấy - khoảnh khác bình yên bên Dòng sông Nga xinh đẹp.
|
CHAPTER 3 - BAD BOY
My relationship with Mom drastically changed from discipline that developed into a
kind of lifestyle that grew out of control. It became so bad at times, I had no
strength to crawl away - even if it
meant saving my life.
|
CHƯƠNG 3 - ĐỨA TRẺ HƯ HỎNG
Mối quan hệ giữa mẹ và tôi dần trở nên xấu đi. Từ việc áp
dụng những hình
thức kỷ luật mang tính răn đe, mẹ bắt đầu đối xử với tôi ngày càng cay nghiệt hơn. Thậm chí, nhiều
lần mẹ đánh đập tôi thẳng tay đến nỗi tôi không còn sức lết đi chỗ khác để tránh đòn.
|
As a small child, I probably had a voice that carried
farther than others.
I also had the unfortunate luck of getting caught at mischief, even though my brothers
and I were often committing the same “crime”. In the beginning, I was put in a corner
of our bedroom. By
this time, I had become afraid of Mom. Very afraid. I never asked her to let
me come out. I would sit and wait for one of my brothers to come into our bedroom,
and have him ask if David could come out now and play.
|
Từ khi tôi còn nhỏ, giọng nói của tôi dường như đã khác
hẳn so với những đứa trẻ
khác. Tôi cũng không may mắn khi cứ bị mẹ bắt quả tang và buộc tội là kẻ đầu tiêu trong khi
cả ba anh em chúng tôi cùng góp phần gây ra những trò đùa tai quái. Thời gian
đầu, tôi bị phạt phải đứng ở góc phòng ngủ của mình trong nhiều giờ liền. Lúc đó, tôi bắt đầu sợ mẹ. Rất sợ. Tôi không bao giờ dám xin mẹ cho ra ngoài chơi.
Tôi cứ ở đó và chờ cho đến khi em trai tôi vào phòng, tôi sẽ bảo nó ra ngoài xin mẹ hộ tôi.
|
About this time, Mom’s behavior began to change radically. At times while Father was away at
work, she would spend the entire day lying on the couch, dressed only in her
bathrobe, watching
television. Mom got up only to go to the bathroom, get another drink or heat leftover
food.
|
Cũng từ dạo đó, cách cư xử của mẹ tôi bắt đầu thay đỏi
hoàn toàn. Những khi cha
đi làm, cả ngày mẹ chỉ ở nhà, mặc mỗi một chiếc áo ngủ nhăn nhúm và nằm dài trên trường kỷ xem
tivi. Chỉ khi nào mẹ cần vào nhà tắm, muốn lấy thêm rượu hay hâm lại thức ăn thừa thì mẹ
mới ngồi dậy.
|
When she yelled at us, her voice changed from the
nurturing mother to the
wicked witch. Soon, the sound of Mother’s voice began to send tremors down my
spine. Even when she barked at one of my brothers, I’d run to hide in our room,
hoping she would soon
return to the couch, her drink and her TV show.
|
Mỗi khi mẹ quát mắng chúng tôi, giọng bà lại sang sảng và the thé
như mụ phù thủy độc ác tôi vẫn thường xem trên tivi. Ít lâu sau, chẳng hiểu sao chỉ
cần nghe tiếng mẹ, tôi
lại cảm thấy lạnh xương sống và rợn cả người. Thậm chí khi mẹ quát tháo Ron và Stan thì tôi cũng
nhanh nhanh tìm đường trốn về phòng mình, chỉ mong sao mẹ mau chóng quay lại ghế trường
kỷ, uống rượu và xem tivi.
|
After a while, I could determine what kind of day I was
going to have by the
way she dressed. I would breathe a sigh of relief whenever I saw Mom come out of her
room in a nice dress with her face made up. On these days she always came out with a smile.
|
Dần dần, chỉ cần nhìn qua cách ăn mặc của bà, tôi có thể
đoán được ngày hôm đó của tôi sẽ như thế nào. Tôi sẽ thở phào nhẹ nhõm khi thấy mẹ ra
khỏi phòng mà ăn
mặc thật dẹp và trang điểm thật kỹ. Những ngày này, mẹ luôn ra khỏi nhà với nụ cười rất tươi.
|
When Mother decided that the “corner treatment” was no longer effective, I graduated to
the “mirror treatment”. In the beginning, it was a nonotice form of punishment.
Mother would simply grab me and smash my face against the mirror, smearing my tearstreaked face on the slick,
reflective glass. Then she would order me to say over and over again, “I’m a bad boy!
I’m a bad boy!
I’m a bad boy!” I was then forced to stand, staring into the mirror.
|
Rồi đến một ngày nọ, khi cảm thấy hình phạt “đứng ở góc
phòng” không còn
hiệu quả nữa, thế là mẹ chuyển sang áp dụng “hình phạt gương soi”. Lúc đầu, tôi không nghĩ mẹ dùng
cách ấy để trừng phạt tôi. Mẹ thường túm lấy tôi, dí sát mặt tôi vào gương, di
di khuôn mặt nhòe nhoẹt nước mắt của tôi trên bề mặt bóng loáng của tấm gương treo trên
tường, rồi bà ép tôi lặp đi lặp lại câu: “Tôi là một đứa hư hỏng. Tôi là một đứa hư
hỏng. Tôi là một đứa hư hỏng”.
|
I would stand there with my hands locked to my sides, weaving back and forth,
dreading the moment when the second set of television commercials aired. I knew Mother would soon be stomping down the
hall to see if my face was still against the mirror, and to tell me what a sickening
child I was.
|
Rồi tôi bị bắt phải đứng yên đó, mắt dán vào gương. Tôi cứ
đứng như vậy, hai tay
ép sát vào thân người, thỉnh thoảng tôi lén mẹ đung đưa qua lại cho đỡ mỏi. Những lúc ấy, tôi rất
lo sợ khi nghĩ đến lúc bắt đầu chương trình quảng cáo yêu thích của mẹ trên
tivi. Bởi ngay lúc ấy mẹ sẽ chạy xuống để xem tôi có còn nhìn vào gương hay
không và mắng vào mặt tôi rằng tôi là một đứa bệnh hoạn.
|
Whenever my brothers came into the room while I was at the mirror, they would look at me,
shrug their shoulders and continue to play- as if I were not there. At first I was
jealous, but soon I
learned that they were only trying to save their own skins.
While Father was at work, Mother would often yell and scream while forcing my brothers
and I to search the entire house for something she had lost. The quest usually
started in the morning
and lasted for hours. After a while, I was usually sent to search in the garage which
was under part of the house – like a basement. Even there, I trembled upon hearing
Mother scream at one
of my brothers.
|
Mỗi khi Ron hay Stan vào phòng trong lúc tôi đang chịu
phạt, họ chỉ biết nhìn tôi trân trân, nhún vai hờ hững rôi lại tiếp tục chơi đùa,
cứ như chẳng hề có mặt tôi ở đó vậy. Lúc đầu, tôi còn ganh tị và cảm thấy hơi giận
họ, nhưng rồi tôi cũng
nghiệm ra rằng họ có thái độ như vậy cũng chỉ vì muốn tự bảo vệ mình khỏi những trận đòn xé da xé
thịt của mẹ mà thôi.
Những khi cha tôi vắng nhà, mẹ thường quát tháo, la mắng
buộc anh em tôi lục
tung nhà cửa lên để tìm vài món đồ mà mẹ đã để lạc. Những cuộc tìm kiếm như thế thường bắt đầu từ
buổi sáng và kéo dài nhiều giờ liền. Được một lúc, mẹ lại bắt tôi phải xuống nhà xe ở tầng
hầm để tìm tiếp. Ngay cả khi đã ở dưới đó, tôi cũng phải co rúm người lại khi nghe thấy
tiếng mẹ quát tháo Ron và Stan.
|
The searches continued for months, and finally, I was the
only one singled
out to look for her things. Once, I forgot what I was looking for. When I timidly asked
her what it was that I was to find, Mother smacked me in the face. She was lying on the couch at the time, and she didn’t
even stop watching her television show. Blood gushed from my nose and I began to cry.
Mother snatched a napkin from her table, tore a piece and rammed it up my nose. “You know
damn well what you’re looking for!” she screamed. “Now go find it!” I scurried back down to the basement, making sure
I made enough noise to convince Mother I was feverishly obeying her command. As Mother’s “find the thing” became
more common, I began to fantasize that I had found her missing item. I imagined myself marching upstairs with my prize
and Mom greeting me with hugs and kisses. My fantasy included the family living
happily ever after.
But, I never found any of Mother’s lost things, and she never let me forget that I was
an incompetent loser.
|
Những cuộc tìm kiếm cứ thế diễn ra liên tục trong nhiều
tháng, nhưng rồi
cuối cùng, tôi trở thành chiến binh đơn độc tiếp tục cuộc tìm kiếm những món đồ cho mẹ. Một lần,
chẳng hiểu sao tôi lại quên mất mình đang tìm thứ gì. Khi tôi rụt rè lại gần hỏi
lại xem mẹ đang cần tôi tìm thứ gì, mẹ liền thẳng tay giáng vào mặt tôi một
cái nảy lửa. Lúc đó, mẹ vẫn nằm dài trên trường kỷ, mắt không rời màn hình tivi. Mũi tôi tứa
máu, đau, tôi bật khóc.
Tiện tay, mẹ vơ lấy một mảnh khăn ăn trên bàn, xé một
miếng rồi nhét vào mũi tôi.
- Mày biết rõ là mày phải tìm cái quái gì mà. - Mẹ trừng
mắt quát. – Đi tìm ngay cho tao!
Tôi vội vã chạy ngược về phía tầng hầm, cố tạo nên thật
nhiều tiếng ồn để mẹ tin
rằng tôi đang cuống cuồng tuân theo mệnh lệnh của bà. Kể từ khi việc tìm đồc ho mẹ trở nên quá
quen thuộc, tôi bắt đầu mơ tưởng viễn vông đến việc một ngày nào đó mình sẽ tìm ra những đồ
vật bị thất lạc của mẹ. Tôi tưởng tượng cảnh mình đứng trên gác, tay đưa cao chiến lợi
phẩm và mẹ sẽ ôm hôn chúc mừng tôi. Trong giấc mơ ấy, tôi còn thấy hình ảnh gia đình
mình sống đầm ấm
và hạnh phúc bên nhau. Nhưng rồi sau đó tôi như người bừng tỉnh cơn mê, hốt hoảng và hoang
mang khi nhận ra sự thật đau lòng là mình chẳng bao giờ tìm được món đồ thất lạc nào của mẹ
cả. Còn mẹ thì luôn đay nghiến và xéo xắt rằng tôi chỉ là một kẻ bất tài vô dụng.
|
As a small child, I realized Mom was as different as night
and day when
Father was home from work. When Mom. fixed her hair and put on nice clothes, she
seemed more relaxed. I loved it when Dad was home. It meant no beatings, mirror
treatments or long searches for her missing things. Father became my protector. Whenever he went to the
garage to work on a project, I followed him. If he sat in his favorite chair to read
the newspaper, I
parked myself at his feet. In the evenings, after the dinner dishes were cleared from
the table, Father would wash them, and I would dry. I knew that as long as I stayed by
his side, no harm
would come to me.
|
Từ dạo ấy, tôi đã nhận thấy rằng khi có cha ở nhà, mẹ hoàn
toàn khác hẳn so với
những lúc cha đi vắng. Mẹ chăm chút đầu tóc gọn gàng hơn, mặc những bộ quần áo thẳng thớm và đẹp
hơn; những lúc ấy, trông mẹ mới thoải mái và tươi tắn làm sao. Tôi rất thích những ngày
có cha ở nhà, bởi những ngày ấy sẽ không có cảnh đánh đập, cũng không có hình phạt soi gương
hay những cuộc
tìm kiếm mệt mỏi những món đồ bị thất lạc. Cha đã trở thành thần hộ mệnh của tôi. Hễ thấy cha đi
xuống nhà xe làm việc là tôi liền lẽo đẽo theo sau. Khi cha ngồi trên chiếc ghế
bành yêu thích của ông để đọc báo, thì tôi cũng sẽ ngồi nagy dưới chân ông. Sau
buổi cơm chiều, ba anh em tôi dọn chén bát xuống, cha sẽ là người rửa, còn tôi đứng kế bên lau
khô và úp chúng lên. Tôi biết rằng chỉ cần tôi được ở bên cạnh cha thì tôi sẽ tránh
được những trận đòn roi của mẹ.
|
One day before he left for work, I received a dreadful
shock. After he said
goodbye to Ron and Stan, he knelt down, held my shoulders tightly and told me to
be a “good boy”. Mother stood behind him with her arms folded across her chest, and a
grim smile on her
face. I looked into my father’s eyes and knew right then that I was a “bad boy”. An
icecold chill rushed through my body. I wanted to hold on to him and never let go,
but before I could give Father a hug, he stood up, turned and walked out the door, without saying another word.
|
Một ngày nọ trước khi cha đi làm, tôi bỗng cảm nhận một cú sốc khủng khiếp. Sau khi chào tạm biệt
Ron và Stan, ông quỳ xuống giữ chặt vai tôi và nói rằng tôi hãy là một “cậu bé
ngoan”. Lúc ấy mẹ đang đứng sau lưng cha, hai tay bà khoanh trước ngực, miệng nở một nụ cười
nham hiểm. Tôi nhìn vào mắt cha, và ngay lúc đó tôi biết rằng trong mắt mọi người, tôi chỉ là
một thằng bé hư hỏng.
Tôi rùng mình. Tôi muốn giữ chặt lấy cha và không để ông đi, nhưng tôi chưa kịp ôm lấy cha thì
ông đã đứng bật dậy, quay lưng và bước nhanh ra cửa, không nói thêm một lời nào nữa cả.
|
For a short time after Father’s warning, things seemed to
calm down between
Mother and I. When Dad was home, my brothers and I played in our room or
outside, until about 3:00 P.M. Mother would then turn on the television so we
could watch cartoons. For
my parents, 3:00 P.M. meant “Happy Hour”.
|
Sau hôm đó, tình hình giữa mẹ và tôi dường như cũng lắng
dịu. Mỗi khi cha ở nhà,
ba anh em tôi cùng chơi đùa trong phòng hoặc ngoài sân đến khoảng ba giờ chiều mỗi ngày. Sau
đó, mẹ sẽ mở tivi để cả ba anh em xem phim hoạt hình. Đối với cha mẹ, thời gian lúc ba
giờ chiều là “khoảnh khắc hạnh phúc”.
|
Father would cover the kitchen counter top with bottles of alcohol and tall fancy glasses. He
cut up lemons and limes, placing them in small bowls beside a small jar of
cherries. They often drank from midafternoon, until my brothers and I climbed into bed. I remember watching them
dance around the kitchen to music from the radio. They held each other close, and they looked so happy. I thought I could
bury the bad times. I was wrong. The bad times were only beginning.
|
Những lúc ấy, cha sẽ lấy rượu, cắt chanh thành từng lát
mỏng đặt vào một cái
tô nhỏ rồi lấy hũ sơ ri mang lên bàn ăn. Cha mẹ thường bắt đầu uống rượu từ giữa trưa cho đến tận
lúc ba anh em tôi lên giường ngủ. Rồi họ cùng nhau khiêu vũ khắp nhà bếp trong tiếng nhạc
phát ra từ chiếc radio. Họ ôm nhau thật chặt, khuôn mặt cả hai rạng ngời hạnh phúc.
Trong giây phút ấy, tôi cứ nghĩ rằng thế là mình có thể chôn vùi những ngày tồi tệ đã qua.
Nhưng tôi đã lầm.
Những ngày tồi tệ bây giờ mới thật sự bắt đầu.
|
A month or two later, on a Sunday, while Father was at
work, my brothers
and I were playing in our room when we heard Mother rush down the hall, yelling
at us. Ron and Stan ran for cover in the living room. I instantly sat down in my
chair. With both arms
stretched out and raised, Mother came at me. As she came closer and closer, I backed
my chair towards the wall. Soon, my head touched the wall. Mother’s eyes were glazed
and red, and her
breath smelled of booze. I closed my eyes as the oncoming blows began to rock me
from side to side.
|
Sau đó một hoặc hai thánh, vào một ngày Chủ nhật nọ, trong
lúc cha vắng nhà, mấy
anh em tôi đang chơi trong phòng thì nghe thấy tiếng mẹ chạy từ trên nhà xuống, miệng la hét
réo tên chúng tôi. Ron và Stan vội chạy đi tìm chỗ nấp trong phòng khách, còn tôi
chỉ biết ngồi chết sững trên ghế. Mẹ giơ cao hai cánh tay thẳng về phía trước và xồng xộc
lao về phía tôi. Khi mẹ sấn lại gần, tôi giật hốt hoảng lùi ghế lại, đến khi chạm
phải bức tường phía sau lưng thì người tôi co rúm, cứng đờ, miệng ú ớ như con chó con
bị dồn vào chân tường. Đôi mắt mẹ đỏ ngầu, đờ đẫn, còn hơi thở thì nồng nặc mùi rượu.
Tôi nhắm nghiền
mắt, rụt người đón những cú đánh tới tấp mẹ nện xuống người.
|
I tried to protect my face with my hands, but Mother would only knock them away. Her punches seemed to
last forever. Finally, I snaked my left arm up to cover my face. As Mother grabbed
my arm, she lost
her balance and staggered back a step. As she jerked violently to regain her
stability, I heard something pop, and felt an intense pain in my shoulder and arm.
The startled look on Mother’s face told me that she had heard the sound too, but she released her grip on my
arm, and turned and walked away as if nothing had happened. I cradled my arm as it
began to throb with
pain. Before I could actually inspect my arm, Mother summoned me to dinner.
|
Tôi cố dùng tay đỡ những cái tát xối xả vào mặt, nhưng mẹ
gạt tay tôi sang một bên rồi liên tục thụi vào mặt, vào người tôi. Khi mẹ dùng hết sức để
túm lấy cánh tay của
tôi, bà mất thăng bằng và lảo đảo lùi về phía sau một bước. Trong lúc mẹ chới với quơ tay để lấy lại
thăng bằng, tôi nghe thấy một tiếng “bốp” rõ to và một cảm giác đau đớn khủng
khiếp lan nhanh khắp vai và tay tôi. Thoáng sững sờ trên gương mặt mẹ cho tôi
biết bà cũng nghe thấy âm thanh đó. Nhưng bà chỉ buông tay tôi ra, rồi quay phắt đi như
thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Tôi nâng cánh tay của mình lên, cảm giác đau đớn đến
tê liệt. Tôi chưa kịp xem tay mình bị thế nào thì mẹ đã gọi tôi lên ăn tối.
|
I plopped down at a T.V. tray to try to eat. As I reached
for a glass of
milk, my left arm did not respond. My fingers twitched upon command, but my arm tingled
and had become lifeless. I looked at Mother, trying to plead with my eyes. She
ignored me. I knew
something was very wrong, but I was too afraid to utter a word. I simply sat there, staring
at my tray of food. Mother finally excused me and sent me to bed early, telling me to
sleep in the top
bunk. This was unusual because I had always slept on the bottom. Sometime near morning
I finally fell asleep, with my left arm carefully cradled in the other.
|
Tôi ngồi bệt xuống bên khay thức ăn của mình và cố nuốt
lấy miếng cơm. Khi tính
với tay lấy ly sữa, cánh tay trái của tôi không thể nhúc nhích. Những ngón tay vẫn ngọ ngoạy theo
sự điều khiển của tôi, nhưng cánh tay thì tê liệt như đã chết. Tôi nhìn mẹ như van lơn. Bà ấy
vẫn cứ lờ tôi đi. Tôi biết có điều gì đó rất nghiêm trọng đã xảy ra với cánh tay của
mình, nhưng tôi lại quá sợ hãi đến nỗi chẳng thốt được nên lời. Tôi chỉ biết ngồi đó, mắt liếc
nhìn khay thức ăn. Sau
cùng, mẹ cũng lên tiếng xin lỗi tôi và cho tôi đi ngủ sớm. Mẹ bảo tôi leo lên tầng trên cùng của
chiếc giường mà nằm. Điều này thật bất thường vì từ trước tối giờ tôi chỉ ngủ ở
tầng dưới cùng mà thôi. Phải đến gần sáng tôi mới có thể thiếp đi trong tư thế
tay phải ôm lấy cánh tay trái nhức buốt.
|
I hadn’t slept long when Mother awakened me, explaining that I had rolled out of the top
bunk during the night. She seemed to be deeply concerned about my condition, as she
drove me to the
hospital. When she told the doctor about my fall from the top bunk bed, I could tell by
the look he gave me that he knew my injury was no accident. Again, I was too afraid to speak up. At home, Mother made up
an even more dramatic story for Father. In the new version, Mother included her efforts to catch me before I hit the
floor. As I sat in Mother’s lap, listening to her lie to Father, I knew my mom was
sick. But my fear kept the accident our secret. I knew if I ever told anyone, the next “accident” would be
worse.
|
Tôi ngủ chưa được bao lâu thì mẹ gọi tôi dậy, bà nói rằng
đêm qua tôi đã lăn ngã
xuống giường. Bà làm ra vẻ rất lo lắng cho tôi và lái xe đưa tôi đến bệnh viện. Khi bà nói với bác
sĩ rằng tôi bị ngã từ trên giường tầng xuống, tôi nhìn vào mắt ông và hiểu ông
không tin vào những lời mẹ tôi nói. Ông biết cánh tay tôi không phải bị gãy do
tai nạn. Một lần nữa, tôi vì quá sợ nên không dám nói lên sự thật. Lúc về nhà,
mẹ thậm chí còn vẽ nên một câu chuyện cực kỳ xúc động khi kể lại với cha. Trong kịch bản mới
này, mẹ còn thêm vào chi tiết là bà đã cố hết sức để đỡ lấy tôi trước khi tôi rớt
xuống sàn nhà. Ngồi trong lòng mẹ, lắng nghe câu chuyện bịa đật của bà, tôi đã nghĩ
rằng bà bị bệnh. Nhưng nỗi sợ hãi tỏng tôi đã giữ cho tai nạn kia mãi là một bí mật
giữa tôi và mẹ. Tôi hiểu
rằng, nếu tôi hé răng nói với ai về chuyện đã xảy ra, “tai nạn” kế tiếp sẽ còn tồi tệ hơn.
|
School was a haven for me. I was thrilled to be away from Mother. At recess I was a wild
man. I blitzed through the barkcovered playground, Looking for new, adventurous
things to do. I made
friends easily and felt so happy to be at school.
|
Trường học chính là nơi ẩn náu bình yên của tôi. Tôi thật
sự vui sướng khi
được thoát khỏi mẹ. GIờ giải lao, tôi là một người tự do. Tôi chạy nhảy như con chim non dọc ngang
khắp sân trường, tìm kiếm những trò chơi kỳ thú và mới mẻ. Tôi dễ dàng kết bạn với mọi người
và cảm thấy vui vẻ vô cùng khi ở trường.
|
One day in late spring, when I returned home from school, Mother threw me into her bedroom.
She then yelled at me, stating I was to be held back from the first grade because I was a bad boy. I did not understand. I
knew I had more “happy face” papers than anybody in the class. I obeyed my teacher and
I felt she liked me.
But Mother continued to roar that I had shamed the family and would be severely
punished. She decided that I was banned from watching television, forever. I was to go without dinner and accomplish
whatever chores Mother could dream up. After another thrashing, I was sent to the
garage to stand until
Mother called me to go to bed.
|
Một ngày cuối xuân nọ, khi tôi vừa đi học về, mẹ lại ném
tôi vào phòng của
bà. Mẹ mắng xối xả vào mặt tôi, bảo rằng tôi phải học lại lớp một vì tôi là một đứa hư hỏng. Tôi
không hiểu gì cả. Tôi nhớ là mình có nhiều bài kiểm tra điểm cao hơn bất kỳ bạn bè nào trong
lớp. Tôi vâng lời cô giáo và cảm thấy cô ấy cũng rất quý mến tôi. Nhưng mẹ vẫn tiếp tục
gào rống lên rằng tôi đã làm cho gia đình xấu hổ và tôi sẽ bị phạt thật nặng. Bà cấm tôi
không bao giờ được xem
tivi nữa. Tôi cũng sẽ không được ăn bữa tối và phải làm bất cứ việc vặt nào trong nhà mà mẹ có
thể nghĩ ra. Mẹ tát tôi thêm một cái rõ đâu rồi tống tôi xuống nhà xe, bắt tôi
đứng đó cho đến khi bà cho phép đi ngủ mới thôi.
|
That summer, without warning, I was dropped off at my Aunt Jose’s house on the way to the
campsite. No one told me about this and I could not understand why. I felt like an
outcast as the station wagon drove away, leaving me behind. I felt so sad and hollow. I tried to run away from
my aunt’s house. I wanted to find my family, and for some strange reason, I wanted to
be with Mother.
|
Mùa hè năm ấy, trên đường cả nhà đi cắm trại, mẹ bỏ tôi
lại ở nhà dì Josie mà không một lời báo trước. Chẳng ai nói với tôi về điều này cả,
và tôi cũng không
hiểu tại sao mình lại bị đối xử như vậy. Tôi cảm nhận rõ cảm giác tủi thân của một kẻ bị hắt hủi và
ruồng bỏ khi chiếc xe tải nhỏ chở cả nhà tiếp tục lăn bánh, để lại mình tôi bơ
vơ phía sau. Tôi cảm thấy vô cùng buồn bã và lạc lõng. Thế là tôi đã cố trốn
khỏi nhà dì. Tôi muốn đi tìm gia đình của mình. Và thật khó hiểu, tôi muốn được ở
bên cạnh mẹ.
|
I didn’t get far, and my aunt later informed my mother of my attempt. The next time Father
worked the 24hour shift, I paid for my sin. Mother smacked, punched and kicked me
until I crumpled to
the floor. I tried to tell Mother that I had run away because I wanted to be with her
and the family. I tried to tell her that I had missed her, but Mother refused to let me
speak. I tried once more and Mother dashed to the bathroom, snatched a bar of soap and crammed it down my
throat. After that, I was no longer allowed to speak unless I was instructed to do so.
|
Tôi đi chẳng được bao xa thì dì tôi đã thông báo với mẹ về việc
tôi bỏ trốn. Và thế là vào ngày hôm sau khi cha tôi đi làm cả ngày, tôi đã
phải trả giá cho tội lỗi đó của mình. Mẹ đánh, đấm và đá vào người tôi cho đến khi
tôi quỵ ngã xuống sàn nhà. Tôi đã cố nói với mẹ rằng tôi bỏ trốn khỏi nhà dì
chỉ vì tôi muốn ở cạnh mẹ và gia đình. Tôi đã cố nói với mẹ rằng tôi nhớ bà ấy,
nhưng mẹ cấm tôi không được nói nữa. Khi tôi cố nói hết những suy nghĩ trong lòng mình thì
ngay lập tức mẹ xông vào nhà tắm, vồ lấy một cục xà phòng và tộng thẳng nó vào
miệng tôi. Từ đó, tôi không được phép mở miệng nói bất cứ điều gì khi mẹ chưa cho phép.
|
Returning to the first grade was really a joy. I knew the
basic lessons and
was instantly dubbed the class genius. Since I was held back, Stan and I were in the
same grade. During recess, I would go over to Stan’s firstgrade class to play. At
school we were the best
of friends; however, at home, we both knew I was not to be acknowledged.
|
Học lại lớp một quả là một niềm vui đôi với tôi. Tôi đã
thuộc làu các bài học vỡ lòng và nghiễm nhiên tôi trở thành học sinh giỏi nhất lớp.
Từ khi ở lại lớp, tôi
trở thành bạn học của Stan - em trai mình. Giờ giải lao, tôi lại chạy sang lớp Stan rủ nó đi chơi. Ở
trường, chúng tôi là hai đứa bạn thân, nhưng khi ở nhà, cả hai đều hiểu rằng tôi
không được mẹ thừa nhận.
|
One day I rushed home to show off a school paper. Mother threw me into her bedroom, yelling
about a letter she had received from the North Pole. She claimed the letter said that I was a “bad boy” and Santa would
not bring me any gifts for Christmas. Mother raged on and on, saying that I had embarrassed the family again. I
stood in a daze, as Mother badgered me relentlessly. I felt I was living in a
nightmare that Mother had created, and I prayed she would somehow wake up.
|
Một ngày nọ, tôi chạy về nhà để khoe mẹ một bài kiểm tra
tôi đạt được điểm
cao. Tôi chưa kịp mở miệng, mẹ đã ném tôi vào phòng của bà, miệng không ngừng la hét về một lá
thư mà bà nhận được từ Bắc Cực. Bà khẳng định lá thư ấy nói rằng tôi là một “đứa bé hư”
và Ông già Noel sẽ không tặng bất kỳ món quà Giáng sinh nào cho tôi cả. Mẹ cứ thế
nổi giận đùng đùng và luôn miệng mắng rằng tôi lại làm cho gia đình xấu hổ. Tôi đứng sững
như trời trồng,
mặc cho những lời xỉa xói của mẹ cứ ong ỏng không dứt bên tai. Tôi có cảm giác như mình đang sống
trong một cơn ác mộng do chính mẹ tạo nên, và tôi ước sao mẹ hãy mau chóng tỉnh lại.
|
Before Christmas that year, there were only a couple of
gifts for me under the
tree, and those came from relatives outside the immediate family. On Christmas
morning, Stan dared to ask Mother why Santa had brought me only two paintbynumber pictures. She lectured him saying,
“Santa only brings toys to good boys and girls.”
|
Giáng sinh năm đó, trong những gói quà rực rỡ sắc màu dưới gốc cây thông,
chỉ có hai món quà dành cho tôi. Chúng được những người bà con xa của tôi gửi đến,
chứ không phải của những người thân sát bên cạnh tôi. Vào buổi sáng ngày lễ Giáng
sinh, Stan đánh liều hỏi mẹ tại sao Ông già Noel chỉ tặng cho tôi hai bức tranh vẽ mấy con
số. Mẹ liền giảng
giải cho nó nghe:
- Ông già Noel chỉ tặng quà cho những đứa trẻ ngoan.
|
I stole a glance from Stan. There was sorrow in his eyes, and I could
tell that he understood Mother’s freakish games. Since I was still under punishment,
on Christmas Day
I had to change into my work clothes and perform my chores. While I was cleaning the
bathroom, I overheard an
argument between Mother and Father. She was angry with him for “going behind
her back” to buy me the paintings. Mother told Father that she was in charge of disciplining “the boy” and that he
had undermined her authority by buying the gifts. The longer Father argued his case,
the angrier she
became. I could tell he had lost, and that I was becoming more and more isolated.
|
Tôi lén nhìn Stan, bắt gặp ánh mắt nghi hoặc của no khi
nhìn mẹ. Một nỗi buồn thoáng hiện trong mắt nó, và tôi tin rằng nó thừa biết những
trò quái đản của mẹ.
Vì còn đang trong thời gian chịu phạt nên trong ngày lễ Giáng sinh, tôi không được mặc quần áo
đẹp mà chỉ mặc bộ đồ tôi vẫn thường mặc khi ở nhà, và tôi vẫn phải làm việc nhà như thường
lệ. Trong khi đang lau chùi nhà tắm, tôi nghe lỏm được cuộc cãi vã giữa cha và mẹ. Mẹ
giận dữ với cha vì bà cho rằng ông đã lén mua cho tôi mấy món quà đó. Mẹ nói rằng bà vẫn
là người chịu
trách nhiệm quản giáo “thằng bé” và rằng ông làm như thế là đã làm mất đi quyền uy của bà. Cha
càng thanh minh thì mẹ càng trở nên giận dữ.
Tôi biết ông đã thua trong cuộc tranh cãi đó, và tôi cũng
biết mình đang ngày càng trở nên cô độc hơn.
|
A few months later, Mother became a den mother for the Cub Scouts. Whenever the other kids
came to our home, she treated them like kings. Some of the other kids told me how they wished their mothers would be like
mine. I never responded, but I wondered to myself what they would think if they knew
the real truth.
Mother only kept the den mother job for a few months. When she gave it up I was
so relieved because it meant I could go to other kids’ homes for the Wednesday
meetings.
|
Vài tháng sau đó, mẹ trở thành hội trưởng của nhóm hướng
đạo sinh Sói con. Bất
cứ hi nào những đứa trẻ khác đến nhà tôi chơi, bà lại đối xử với chúng như những ông hoàng. Vài đứa
còn nói với tôi rằng ướng gì mẹ chúng cũng giống như mẹ tôi. Tôi chẳng trả lời, nhưng tôi
tự hỏi chúng sẽ nghĩ gì nếu biết được sự thật. Mẹ chỉ giữ vai trò hội trưởng trong vài
tháng. Khi bà hết nhiệm kỳ, tôi như được giải thoát vì điều đó có nghĩa là tôi có thể
đến nhà của những đứa trẻ
khác trong những buổi họp mặt được tổ chức vào mỗi ngày thứ Tư.
|
One Wednesday, I came home from school to change into my blue and gold Cub Scout uniform.
Mother and I were the only ones in the house, and I could tell by the look on her
face that she was after
blood. After smashing my face against the bedroom mirror, she snatched my arm and dragged me
to the car. During
the drive to my den mother’s house, Mother told me what she was going to do with me
when we got home. I scooted to the far side of the front seat of the car, but it
didn’t work. She reached across the seat and seized my chin, lifting my head towards hers. Mother’s eyes were
bloodshot and her voice sounded as if she were possessed.
|
Vào một ngày thứ Tư nọ, vừa đi học về, tôi chạy vội đi
thay bộ đồng phục hướng đạo sinh để còn kịp qua nhà đứa bạn tham dự buổi họp mặt. Trong nhà chỉ có mẹ và tôi. Vẻ mặt
của bà lúc ấy trong rất giận dữ. Sau khi dí mạnh mặt tôi vào tấm gương treo
trong phòng ngủ, mẹ xốc nách tôi lên và kéo lê tôi vào trong xe hơi. Suốt đoạn
dường đi đến nhà bà
hội trưởng mới, mẹ luôn miệng nói tôi nghe rằng bà sẽ làm gì tôi khi chúng tôi trở về nhà.
Ngồi ở ghế trước, tôi cố
nếp mình về phía cửa xe để tránh xa mẹ, nhưng vô hiệu. Chốc chốc bà lại chồm ra khỏi ghế, vươn
tay chộp lấy cằm tôi, hất mặt tôi về phía bà rồi lại ném vào tôi những tia nhìn
hằng học. Đôi mắt mẹ tôi đỏ ngầu, còn giọng nói của bà nghe như thể bà đang bị
điều gì đó ám ảnh.
|
When we arrived at the den mother’s house, I ran to the door
crying. I whined to her that I had been a bad boy and could not attend the
meeting. The den mother smiled politely, saying that she would like me to come to the next meeting. That was the
last time I saw her.
|
Vừa đến nhà bà hội trưởng, tôi vội lao nhanh ra khỏi xe và chạy đến
cửa nhà khóc nức nở. Tôi vừa khóc vừa nói với bà hội trưởng rằng tôi là một đứa bé hư
hỏng và không thể tham dự buổi họp mặt. Bà hội trưởng mỉm cười lịch sự, bà nói rằng hy
vọng tôi sẽ có mặt
trong buổi họp mặt lần tới. Nhưng đó là lần cuối cùng tôi được gặp bà.
|
Once home, Mother ordered me to strip off my clothes and stand by the kitchen stove. I
shook from a combination of fear and embarrassment. She then revealed my hideous
crime. Mother told
me that she had often driven to school to watch my brothers and I play during our
lunch period recess. Mother claimed that she had seen me that very day playing on the
grass, which was
absolutely forbidden by her rules. I quickly answered that I never played on the grass.
I knew Mother had somehow made a mistake. My reward for observing Mother’s rules and telling the truth was a hard punch
in the face.
|
Về đến nhà, mẹ ra lệnh cho tôi cởi hết quần áo ra và bắt
tôi đứng gần cái bếp lò trong nhà bếp. Cả người tôi run rẩy vì vừa sợ vừa xấu hổ.
Rồi mẹ bắt đầu nói cho
tôi biết tội lỗi của tôi là gì. Mẹ nói rằng bà vẫn thường xuyên lái xe đến trường để xem anh em tôi chơi
như thế nào trong giờ nghỉ trưa. Mẹ luận rằng ngày hôm ấy chính mắt bà đã thấy tôi nghịch
ngợm trên bãi cỏ trong trường, một điều hoàn toàn bị cấm kỵ trong mớ luật lệ mà bà đặt ra cho
tôi. Tôi nhanh
nhẩu nói với mẹ rằng tôi không hề chơi trên cỏ. Tôi nghĩ mẹ đã nhầm. Đáp lại lời giải thích ấy là
một cú thoi như trời giáng mẹ đấm thẳng vào mặt tôi.
|
Mother then reached over and turned on the gas burners to
the kitchen
stove. Mother told me that she had read an article about a mother who had her son lie on
top of a hot stove. I instantly became terrified. My brain became numb, and my legs
wobbled. I wanted to
disappear. I closed my eyes, wishing her away. My brain locked up when I felt
Mother’s hand clamp my arm as if it were in a vice grip.
“You’ve made my life a living hell!” she sneered. “Now
it’s time I showed
you what hell is like!”
|
Thế rồi mẹ chồm người bật khóa ga của bếp lò lên. Mẹ nói
rằng bà đã từng đọc một
bài báo nói về một người mẹ đã trừng phạt con trai mình bằng cách cho nó nằm trên bếp lò đang
cháy. Tôi khúm người lại, cảm thấy sợ hãi tột độ. Đầu óc tôi đờ đẫn, còn chân tay thì bủn
rủn. Tôi muốn được tan biến đi ngay lập tức. Tôi nhấm nghiền mặt lại, ước gì bà ấy
chịu bỏ đi. Đầu óc tôi như tê dại khi mẹ cứ giữ chặt lấy cánh tay tôi:
- Mày đã biến cuộc đời của tao thành địa ngục trần gian! -
Mẹ rít qua kẽ răng bằng
một giọng cay độc. - Bây giờ là lúc tao cho mày thấy địa ngục là thế nào con ạ.
|
Gripping my arm, Mother held it in the orangeblue flame. My skin seemed to
explode from the heat. I could smell the scorched hairs from my burnt arm. As hard as I fought, I could not force
Mother to let go of my arm. Finally I fell to the floor, on my hands and knees, and
tried to blow cool air
on my arm. “It’s too bad your drunken father’s not here to save you,” she hissed.
|
Mẹ nắm chặt lấy cánh tay tôi hơ trên ngọn lửa màu xanh cam
đang phừng phực
cháy. Tôi cảm nhận
rõ tay mình như muốn nổ tung vì sức nóng của ngọn lửa. Tôi còn ngửi tháy được mùi
lông tay bị cháy xém của mình. Trong cơn hoảng loạn, tôi đã cố hết sức vùng vẫy nhưng vô
ích, tôi không cách nào giãy thoát khỏi bàn tay chắc như gọng kìm của mẹ. Cuối cùng, mẹ
buông tay và đẩy tôi ngã lăn ra sàn. Tay chân tôi co rúm lại, tôi cố dùng miệng thổi
thổi vào cánh tay đang bỏng rát của mình.
- Thật là tệ hại khi thằng cha say xỉn của mày lại không
có ở đây để cứu mạng mày
nhỉ? - Mẹ rít lên.
|
Mother then ordered me to climb up onto the stove and lie on the
flames so she could watch me burn. I refused, crying and pleading. I felt so scared I
stomped my feet in
protest. But Mother continued to force me on top of the stove. I watched the flames,
praying the gas might run out.
|
Rồi mẹ lệnh cho tôi trèo lên bếp lò mà nằm trên ngọn lửa,
để bà tận mắt chứng
kiến xem tôi bị đốt cháy như thế nào. Tôi khiếp đảm vừa dậm chân thình thịch xuống sàn vừa khóc lóc
van xin mẹ hãy tha cho tôi. Nhưng mẹ vẫn trừng mắt bắt tôi trèo lên cái bếp lò đang phừng
phực cháy. Tôi đờ đẫn nhìn ngọ lửa, lòng chỉ mong sao ga trong bình nhanh cạn đi.
|
Suddenly I began to realize the longer I could keep myself
off the top of
the stove, the better my chances were for staying alive. I knew my brother Ron would
soon be coming home from his scout meeting, and I knew Mother never acted this
bizarre when anyone
else was in the house. In order to survive, I had to buy time. I stole a glance at the
kitchen clock behind me. The second hand seemed to creep ever so slowly. To keep Mother off balance, I began to ask
whining questions. This infuriated her even more, and Mother began to rain blows
around my head and chest. The more Mother slugged me, the more I began to realize I had won! Anything was
better than burning on the stove.
|
Đột nhiên tôi nhận ra rằng, tôi càng kéo dài thời gian
tránh xa cái bếp thì cơ hội sống sót của tôi càng cao. Tôi nhớ rằng anh trai Ron
của tôi sắp trở về từ
buổi họp mặt hướng đạo sinh, và tôi cũng biết rằng mẹ chẳng bao giờ làm những chuyện quái gở như vậy
khi có bất cứ ai khác ở nhà. Để sống sót, tôi phải tìm mọi cách để kéo dài thời
gian. Tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ treo trên tường bếp. Chưa bao giờ tôi cảm
thấy cây kim giây lại nhích chậm như thế. Để làm mẹ mất tập trung, tôi bắt đầu
hỏi bà những câu hỏi không đầu không đuôi. Điều này lại càng làm bà tức điên
lên và lao tới đánh túi bụi vào đầu, vào ngực tôi. Mẹ càng điên tiết đánh tôi,
tôi càng nhận ra mình đã thắng! Bị đánh cũng được, miễn là đừng bị nướng trên
bếp lò.
|
Finally, I heard the front door fly open. It was Ron. My
heart surged with
relief. The blood from Mother’s face drained. She knew she had lost. For a moment in
time, Mother froze. I seized that instant to grab my clothes and race to the garage,
where I quickly
dressed. I stood against the wall and began to whimper until I realized that I had beaten
her. I had bought a few precious minutes. I used my head to survive. For the first
time, I had won!
|
Cuối cùng, tôi cũng nghe thấy tiếng mở cửa trước. Là Ron.
Tim tôi nức lên nhẹ
nhõm. Những mạch máu trên khuôn mặt mẹ như giãn ra. Mẹ hiểu rằng mình đã thua. Bất giác, người
bà chợt sững lại. Chớp cơ hội, tôi quơ vội lấy quần áo và chạy biến vào nhà xe để mặc vào. Tôi
đứng tựa lưng vào tường và cứ thế khóc thút thít cho đến khi tôi nhận ra rằng mình đã đánh bại
mẹ. Tôi đã giành lấy
được nhưng giây phút ít ỏi quý giá để hạ gục mẹ. Tôi đã sống sót nhờ cái đầu của mình. Lần đầu
tiên, tôi đã thắng!
|
Standing alone in that damp, dark garage, I knew, for the
first time, that I
could survive. I decided that I would use any tactic I could think of to defeat Mother or
to delay her from her grizzly obsession. I knew if I wanted to live, I would have to
think ahead. I could
no longer cry like a helpless baby. In order to survive, I could never give in to
her. That day I vowed to myself that I would never, ever again give that bitch the
satisfaction of hearing me beg her to stop beating me.
|
Một mình đứng trong nhà xe tối tăm, ẩm thấp, lần đầu tiên,
tôi biết rằng mình có
thể sống sót khỏi những trò tai quái của mẹ. Thế là tôi quyết định từ đó về sau, tôi sẽ sử dụng bất
cứ mưu mẹo nào mà tôi có thể nghĩ ra để chống lại mẹ hay chí ít là để trì hoãn những hình
phạt tàn nhẫn của bà. Tôi biết nếu tôi muốn sống, tôi phải biết nghĩ xa và phải hành
động. Tôi không thể khóc lóc như một đứa con nít vô dụng nữa. Để sống sót, tôi
không thể nhượng bộ với bà ấy nữa. Ngày hôm ấy, tôi đã thề với lòng mình rằng, tôi không
bao giờ, không bao giờ
để cho con mụ độc ác ấy được hả hê thỏa mãn khi nghe tôi khóc lóc van xin mụ đừng hành hạ tôi
nữa.
|
In the coldness of the garage, my entire body trembled
from both the cold
anger and intense fear. I used my tongue to lick the burn and soothe my throbbing arm.
I wanted to scream, but I refused to give Mother the pleasure of hearing me cry. I
stood tall. I could
hear Mother talking to Ron upstairs, telling him how proud she was of him, and how she
didn’t have to worry about Ron becoming like David- a bad boy.
|
Trong cái lạnh của nhà để xe, toàn thân tôi run lên bần
bật vì giận dữ và vì nỗi sợ hãi đã lan tỏa đến tột cùng. Tôi dùng lưỡi liếm nhẹ vào
chỗ tay bỏng để bớt
đau, hệt như con chó con đang liếm láp vết thương. Tôi muốn gào thét lên thật to, nhưng tôi lại không
muốn mẹ lại vui sướng và hả hê khi nghe tiếng tôi khóc. Tôi đứng thẳng dậy. Từ trong nhà
xe, tôi có thể nghe văng vẳng
tiếng mẹ đang
nói chuyện với Ron ở trên nhà. Bà nói rằng bà rất tự hào về Ron, và rằng bà chẳng phải lo lắng
gì bề anh ấy như phải lo lắng cho David -
một thằng bé hư đốn.
|
CHAPTER 4 - THE FIGHT FOR FOOD
The summer after the burn incident, school became my only hope of escape. Except for the
short duration of a fishing trip, things with Mother were touch and go, or smash and
dash – she would smash me, and I would dash
to the solitude of the basement/garage. The month of September brought school and bliss. I had new clothes and a
shiny, new lunch pail. Because Mother had me wear the same clothes week after
week, by October my
clothes had become weathered, torn and smelly. She hardly bothered to cover my
bruises on my face and arms. When asked, I had my readymade excuses Mother
brainwashed into me.
|
CHƯƠNG 4 - CUỘC CHIẾN VÌ MIẾNG ĂN
Kể từ mùa hè sau vụ mẹ muốn thiêu tôi trên bếp lò, trường
học đã trở thành
niềm hy vọng duy nhất có thể giúp tôi trốn thoát những trò quái ác của mẹ. Trừ thời gian vui vẻ ngắn
ngủi trong một lần đi câu cá, còn lại thì tôi luôn phải ở trong những hoàn cảnh
nguy hiểm. Dường như mối liên hệ duy nhất giữa tôi và mẹ chỉ là những cú vồ và những cái
tránh né - mẹ xồng xộc lao vào tôi, còn tôi thì tháo chạy về phía nhà xe vắng vẻ và
nín thở ở yên đó. Tháng Chín là thời điểm tôi được trở lại trường học và tận hưởng những niềm
vui thích ở đó.
Ngày khai giảng, tôi được mẹ phát cho một bộ quần áo mới và một cái hộp đựng cơm sáng bóng, mới
toanh. Mẹ bắt tôi quanh năm suốt tháng chỉ được mặc một bộ quần áo đó, thế nên chỉ đến khoảng
tháng Mười là chúng đã trở nên bạc phếch, rách rưới và bốc mùi nồng nặc. Ngoài ra, bà thậm
chí còn chẳng mảy may
lo đến việc làm thế nào để che bớt những vết thâm tím trên mặt mũi, tay chân tôi. Bởi bà thừa
biết nếu có ai hỏi đến, thì tôi đã có những lời giải thích được bà lập trình sẵn
trong đầu của mình rồi.
|
By then, Mother would “forget” to feed me any dinner. Breakfast wasn’t much better. On a
good day, I was allowed leftover cereal portions from my brothers, but only if I performed all of my chores before
going to school.
|
Rồi thì mẹ thường xuyên “quên” cho tôi ăn tối. Bữa ăn sáng
cũng chẳng khá gì
hơn. Ngày nào thật đẹp trời, tôi mới được mẹ cho ăn phần ngũ cốc thừa của Ron và Stan, nhưng
chỉ khi tôi đã hoàn thành tất cả việc nhà trước khi đến trường.
|
At night I was so hungry, my stomach growled as if I were
an angry bear.
At night I lay awake concentrating on food. “Maybe tomorrow I’ll get dinner,” I said
to myself. Hours later, I would drift off to sleep, fantasizing about food. I
mainly dreamt of colossal hamburgers with all the fixings. In my dreams I seized my prize and brought it to my
lips. I visualized every inch of the hamburger. The meat dripped with grease, and thick
slices of cheese
bubbled on top. Condiments oozed between the lettuce and tomato. As I brought the
hamburger closer to my face, I opened my mouth to devour my prize, but nothing
happened. I’d try again and again, but no matter how hard I struggled, I could not taste a morsel of my fantasy.
Moments later I would wake up, with my stomach more hollow than before. I could not satisfy my hunger; not even in my
dreams.
|
Hôm nào cũng vậy, cứ đêm đến là bụng tôi lại đói cồn cào
và sôi sùng sục như tiếng
gầm gừ của một con gấu đang trong cơn giận dữ. Cứ đêm đến là tôi lại trằn trọc, thao thức bởi
đầu óc chỉ nghĩ đến thức ăn. “Ngày mai mình sẽ được cho ăn đàng hoàng thôi mà.” -
Tôi thường tự trấn an mình như vậy. Vài giờ sau đó, tôi mệt lả rồi thiếp đi. Những giấc mơ
chập chờn bắt đầu ập đến. Tôi toàn mơ về những cái ham-bơ-gơ khổng lồ ăn kèm với các
loại rau quả. Trong mơ, tôi đã chộp ngay lấy phần ăn ngon lành ấy của mình, đưa lên
miệng liếm láp. Tôi
mường tượng ra đến từng milimet của cái bánh khổng lồ . Miếng thịt của cái bánh rỉ ra chất mỡ
béo ngậy, và mấy miếng phô-mát dày cộm xếpphía trên cùng bị hai nửa cái bánh
ép cho tràn cả ra ngoài. Nước xốt gia vị thì ứa cả ra lá rau diếp màu xanh và
mấy lát cà chua màu đỏ. Nhưng khi tôi định kề sát cái ham-bơ-gơ ấy vào miệng và há thật to để
ngấu nghiến nó, thì tôi lại không tài nào làm được. Tôi thử lại, rồi thử lại lần nữa,
nhưng dù cho cố gắng đến mấy, tôi vẫn không thể nào chạm được lưỡi vào bất cứ chỗ nào trên
cái bánh quá ngon
lành ấy. Ngay lúc ấy thì tôi tỉnh giấc, bụng lại càng cồn cào hơn. Tôi đã không thể thỏa mãn cơn đói
của mình, ngay cả trong mơ.
|
Soon after I had begun to dream about food, I started
stealing food at
school. My stomach coiled with a combination of fear and anticipation. Anticipation
because I knew that within seconds, I would have something to put in my stomach. Fear because I also knew that at any
time, I could get caught stealing.
|
Chẳng bao lâu sau khi tôi thường có những giấc mơ về những
bữa ăn ngon tuyệt,
thì tôi cũng bắt đầu lấy trộm thức ăn ở trường. Dạ dày của tôi cứ thắt lên quằn quại vì cả nỗi sợ
hãi lẫn cơn thèm muốn. Thèm muốn bởi vì tôi biết rằng chỉ trong tích tắc thôi
là tôi có thể có cái gì đó cho vào bụng. Sợ hãi bởi vì tôi biết rằng bất cứ lúc nào
tôi cũng có thể bị bắt quả tang đang ăn cắp.
|
I always stole food before school began, while my
classmates were playing
outside the building. I would sneak to the wall, right outside my homeroom, drop my
lunch pail by another pail and kneel down so nobody could see me hunting through
their lunches. The
first few times were easy, but after several days, some students began to discover
Twinkies and other desserts missing from their lunches. Within a short time, my
classmates began to hate
me. The teacher told the principal, who in turn informed Mother. The fight for
food became a cycle. The principal’s report to Mother led to more beatings and less
food for me at the
house.
|
Tôi luôn đánh cắp thức ăn trước giờ học, khi các bạn cùng
lớp của tôi còn đang chơi ngoài sân. Tôi sẽ núp đằng sau bức tường ngay ngoài lớp học của
mình, đặt hộp cơm
của tôi bên cạnh hộp cơm của người khác và ngồi thụp xuống đất để không ai trông thấy tôi đang
trộm thức ăn của mọi người. Một vài lần trộm đầu tiên diễn ra trót lọt, nhưng
chỉ ít ngày sau đó, vài người bạn của tôi bắt đầu phát hiện ra bánh twinkie[3]
và nhiều món bánh ngọt khác trong bữa trưa của họ không cánh mà bay. Chỉ trong một thời gian rất
ngắn, các bạn cùng lớp bắt đầu ghét tôi. Sau đó, thầy chủ nhiệm của tôi báo sự việc lên thầy
hiệu trưởng, người
có trách nhiệm thông báo lại cho mẹ tôi mọi việc. Cuộc chiến vì cái ăn của tôi bởi thế rơi vào một
cái vòng luẩn quẩn. Thầy hiệu trưởng báo mọi việc cho mẹ tôi biết để rồi tôi bị đánh nhiều
hơn và phần ăn ở nhà của tôi đã ít lại càng ít hơn.
|
On weekends, to punish me for my thefts, Mother refused to feed me. By Sunday night, my mouth
would water as I began to plot new, foolproof ways to steal food without getting
caught. One of my
plots was to steal from other firstgrade rooms, where I wasn’t known as well. On Monday
mornings I would dash from Mother’s car to a new firstgrade classroom to pick through lunch boxes. I got away with it
for a short time, but it didn’t take long for the principal to trace the thefts back to
me.
At the house, the dual punishment of hunger and violent attacks continued. By this time,
for all practical purposes, I was no longer a member of the family.
|
Vào những ngày cuối tuần, để trừng trị tội ăn cắp của tôi,
mẹ lại không cho tôi
ăn. Đến một tối Chủ nhật nọ, nước bọt trong miệng tôi cứ ứa ra khi tôi bắt đầu hình dung nên
những chiếu mới và cũng hết sức ngu ngốc để tiếp tục đánh cắp thức ăn mà không
bị ai phát hiện. Một trong những âm mưu mới đó là ăn cắp thức ăn của các học sinh lớp một ở
các lớp khác, nơi không ai
biết rõ về tôi. Ngay buổi sáng thứ Hai đầu tuần, khi mẹ
vừa đưa tôi đến trường, tôi đã phóng ào ra khỏi xe và chạy thật nhanh vào một lớp khối một khác
để lấy cắp thức
ăn trưa. Tôi chỉ làm được như vậy trong một thời gian ngắn, bởi vì chẳng bao lâu sau, thầy hiệu
trưởng lại phát hiện ra thủ phạm của những vụ trộm cắp đó chính là tôi.Ở nhà,
tôi lại tiếp tục bị đánh đập tàn nhẫn và bị bỏ đói. Đến thời điểm này, trên thực tế, tôi đã
không còn là thành viên của gia đình mình nữa.
|
I existed, but there was little or no recognition. Mother had even
stopped using my name; referring to me only as The Boy. I was not allowed to eat meals with the family, play with my
brothers, or watch television. I was grounded to the house. I was not allowed to
look at or speak to anybody. When I returned to the house from school, I immediately accomplished the
various chores Mother assigned me. When the chores were finished, I went directly
to the basement,
where I stood until summoned to clean off the dinner table and wash the dishes. It was
made very clear that getting caught sitting or lying down in the basement would bring
dire consequences.
I had become Mother’s slave.
|
Tôi chỉ tồn tại trong nhà chứ không được mọi người thừa
nhận hoặc chỉ được thừa nhận chút ít mà thôi. Mẹ thậm chí chẳng buồn gọi đến tên tôi nữa,
thay vào đó bà gọi
tôi là “thằng đó”. Tôi không được dùng bữa cùng gia đình, không được chơi với Ron và Stan, cũng
không được xem tivi. Tôi như con cá mắc cạn trong chính ngôi nhà của mình. Tôi
không được phép nhìn hoặc nói chuyện với bất cứ ai. Đi học về là tôi lại bắt tay vào làm
ngay tất cả các công việc mà mẹ giao. Xong việc, tôi lủi thủi xuống nhà xe, cứ đứng
ở đó cho dến khi nào được gọi lên để lau dọn bàn ăn và rửa chén dĩa của bữa tối.
Trong lúc tôi đứng trong nhà xe, nếu mẹ phát hiện tôi ngồi hoặc nằm thì chắc chắn
hậu quả mà tôi phải gánh chịu là vô cùng khủng khiếp. Tôi chính thức trở thành nô lệ của
mẹ.
|
Father was my only hope, and he did all he could to sneak
me scraps of
food. He tried to get Mother drunk, thinking the liquor might leave her in a better mood.
He tried to get Mother to change her mind about feeding me. He even attempted to
make deals,
promising her the world. But all his attempts were useless. Mother was as solid as a rock. If
anything, her drunkenness made it worse. Mother became more like a monster.
|
Cha là chỗ dựa duy nhất của tôi. Ông đã phải cố gắng lắm
mới lén mẹ để mang cho
tôi một vài mẩu thức ăn vụn. Vì nghĩ rằng men rượu sẽ giúp cho tâm trạng của mẹ khá hơn nên ông
thường cố chuốc cho mẹ say. Cha đã cố hết sức để thay đổi cách suy nghĩ của mẹ về việc ăn
uống của tôi. Cha còn ra sức thỏa hiệp, hứa đủ thứ chuyện trên đời với mẹ để tôi được
cho ăn uống bình thường. Nhưng tất cả đều vô ích. Mẹ vẫn lạnh lùng như sỏi đá. Khi có
bất cứ chuyện gì xảy
ra, cơn say của bà lại khiến mọi thứ trở nên tệ hại hơn trước. Mẹ thật sự còn tàn bạo hơn cả một con
quái vật.
|
I knew Father’s efforts to help me led to stress between
he and Mother.
Soon, midnight arguments began to occur. From bed I could hear the tempo build
to an earshattering climax. By then they were both drunk, and I could hear Mother
scream every vulgar
phrase imaginable. It didn’t matter what issue started the fight, I would soon be
the object of their battle. I knew Father was trying to help, but in bed I still
shivered with fear. I knew he would lose, making things worse for me the next day. When they first began to
fight, Mother would storm off in the car with the tyres screeching. She usually
returned home in less than an hour. The next day, they would both act as if nothing had happened. I was
grateful when Father found an excuse to come down to the basement and sneak me a piece
of bread. He
always promised me he would keep trying.
|
Tôi biết những cố gắng của cha khi muốn bênh vực và giúp
đỡ tôi đã làm cho mối quan hệ giữa mẹ và ông trở nên căng thẳng. Chẳng bao lâu sau,
những trận cãi vã
lúc nửa đêm bắt đầu nổ ra. Những khi xung đột lên đến đỉnh điểm, nằm trên giường tôi vẫn có thể nghe
thấy những tiếng cãi vã phát ra với cường độ âm thanh xé tai. Sau đó cả hai lại uống rượu đến
say mèm và tôi nghe mẹ gào lên những từ ngữ thô tục nhất mà bà có thể nghĩ ra. Không cần biết nguyên nhân chính dẫn đến cuộc cãi
vã là gì, nhưng cuối cùng thì tôi cũng lại trở thành đề tài của cuộc khẩu chiến. Dẫu biết cha
đang cố gắng giúp tôi, nhưng những lúc đó tôi vẫn cứ run rẩy vì sợ hãi. Bởi tôi biết cha sẽ
thua cuộc, và điều đó sẽ
làm cho mọi thứ còn tồi tệ hơn nữa vào ngày hôm sau. Tôi còn nhớ lần đầu tiên hai người cãi vã,
mẹ đã phóng xe ra khỏi nhà, để lại sau lứng tiếng bánh xe rít lên đến rợn
người. Nhưng thường thì chưa đầy một giờ đồng hồ sau đó bà lại quay trở về. Ngày
hôm sau, họ lại cư xử với nhau như thể chưa có chuyện gì xảy ra. Tôi cảm thấy
an ủi phần nào khi cha cố tìm ra một cái cớ nào đó để đi xuống nhà xe và dấm
dúi cho tôi một mẫu nhỏ bánh mì. Cha luôn hứa với tôi rằng ông vẫn đang cố gắng để giúp tôi.
|
As the arguments between Mother and Father became more frequent, he began to change. Often
after an argument, he would pack an overnight bag and set off in the middle of the
night for work. After
he left, Mother would yank me out of bed and drag me to the kitchen. While I stood
shivering in my pyjamas, she’d smack me from one side of the kitchen to the other.
One of my resistance
techniques was to lay on the floor acting as though I didn’t have the strength to stand.
That tactic didn’t last long. Mother would yank me up by the ears and yell into my face
with her bourbon
breath, for minutes at a time. On these nights, her message was always the same: I was
the reason she and Father were having problems. Often I became so tired, my legs
would shake. My
only escape was to stare at the floor and hope that Mother would soon run out of
steam.
|
Khi những cuộc cãi vã giữa cha và mẹ trở nên thường xuyên
hơn, cha tôi bắt đầu thay đổi. Thường thì sau mỗi lần gây gổ với mẹ, cha thường
quảy túi lên vai đi
đến sở làm ngay lúc nửa đêm. Khi cha đã đi khỏi, mẹ lôi tôi ra khỏi giường và kéo xệch tôi xuống nhà bếp.
Trong khi tôi vẫn còn đang ngái ngủ và đứng run rẩy trong bộ pijama, bà bắt đầu thẳng tay
nện cho tôi ngã xiêu vẹo và lê lết từ góc bếp bên này sang góc bếp bên kia. Một trong
những chiêu để tránh đòn của tôi là nằm dài lả người trên sàn nhà và làm ra vẻ như không
còn chút sức lực nào
để đứng lên nữa. Nhưng chiêu này chỉ phát huy tác dụng trong một thời gian ngắn mà thôi. Sau
đó, khi đã biết rõ tẩy của tôi, mỗi lần tôi vừa khụy xuống là mẹ lại nắm tai tôi
xách lên và quát vào mặt tôi với hơi thở nồng nặc mùi rượu. Vào những đêm như
vậy, mẹ luôn lặp đi lặp lại một điệp khúc rằng tôi chính là nguyên nhân gây ra những mối bất
hòa giữa cha mẹ. Những lúc ấy, tai tôi lại ong lên, người mỏi nhừ còn tay chân thì run lẩy
bẩy. Tôi biết cách duy nhất thoát khỏi mẹ là cứ đứng yên đó, mắt dán xuống sàn nhà,
hy vọng rằng mẹ
sẽ sớm kiệt sức, không thể nói được nữa và buông tha cho tôi.
|
By the time I was in the second grade, Mother was pregnant with her fourth child. My teacher,
Miss Moss, began to take a special interest in me. She began by questioning me about
my attentiveness.
I lied, saying I had stayed up late watching television. My lies were not
convincing, and she continued to pry not only about why I was sleepy, but also about
the condition of
my clothes and the bruises on my body. Mother always coached me on what to say
about my appearance, so I simply passed Mother’s story to the teacher.
|
Năm tôi lên lớp hai, mẹ tôi có thai đứa con thứ tư. Cô giáo
Moss bắt đầu quan tâm đặc biệt đến sức tập trung của tôi trong giờ học. Tôi đã nói
dối rằng do tôi thức
khuya xem tivi. Những lời nói dối của tôi xem ra chẳng thuyết phục được cô. Thế là cô tiếp tục dò hỏi
nguyên nhân tại sao tôi hay ngủ gật trong lớp, về bộ quần áo tôi mặc và cả những vết thâm tím
trên người của tôi. Do mẹ đã vẽ sẵn những gì tôi cần phải nói với người khác về bề
ngoài của mình, vì vậy tôi dễ dàng lặp lại những lời bịa đặt ấy với cô giáo.
|
Months crept by and Miss Moss became more persistent. One day, she finally reported her
concerns to the school principal. He knew me well as the food thief, so he called
Mother. When I returned to the house that day, it was as if somebody had dropped an atomic bomb. Mother was
more violent than ever.
She was furious that some “Hippie” teacher had turned her
in for child abuse.
Mother said that she would meet with the principal by the next day to justify all the
false accusations. By the end of the session, my nose bled twice and I was missing a
tooth.
|
Nhiều tháng trôi qua, cô Moss lại càng trở nên kiên trì
hơn nữa với trường hợp
của tôi. Cuối cùng, vào một ngày nọ, cô đã bày tỏ nỗi lo lắng của mình với thầy hiệu trưởng. Thầy
vốn đã biết quá rõ tôi là một thằng ăn cắp thức ăn, thế nên ông lại gọi cho mẹ. Ngày hôm đó
khi về đến nhà, tôi có cảm giác như ai đó vừa thả vào nhà tôi một quả bom nguyên tử.
Mẹ tôi trở nên dữ tợn hơn bao giờ hết. Bà điên tiết lên vì cho rằng
có vài giáo viên “lập dị” nào đó đã khép bà vào tội ngược đãi trẻ em. Mẹ nói rằng
ngày hôm sau bà ấy sẽ đến trường của tôi để bào chữa, thanh minh về những lời buộc
tội sai sự thật. Kết thúc buổi nói chuyện ấy, tôi bị chảy máu mũi hay lần và bị gãy một cái
răng.
|
When I returned from school the next afternoon, Mother smiled as if she had won a
milliondollar sweepstakes. She told me how she had dressed up to see the principal,
with her infant son Russell in her arms. Mother told me how she had explained to the principal how David had an
overactive imagination.
Mother told him how David had often struck and scratched himself to get attention, since
the recent birth of his new brother, Russell. I could imagine her turning on her
snakelike charm as she cuddled Russell for the benefit of the principal. At the end of their talk, Mother said that she
was more than happy to cooperate with the school. She said they could call her any time there was a problem with David.
Mother said the staff at school had been instructed to pay no attention to my wild
stories of child beating
or not being fed. Standing there in the kitchen that day, listening to her boast, gave
me a feeling of total emptiness.
|
Chiều hôm sau, khi tôi đi học về, mẹ nhìn tôi cười đắc ý
như thể vừa thắng được
một triệu đô-la tiền cá cược vậy. Bà nói cho tôi biết bà đã che đậy sự thật như thế nào khi đến gặp
thầy hiệu trưởng cùng với đứa em Russell của tôi trên tay. Mẹ đã nói với thầy
hiệu trưởng rằng David bị chứng hoang tưởng.
Mẹ kể với thầy hiệu trưởng là David thường tự đánh đập và
cào cấu mình để thu hút sự chú ý và quan tâm của người khác kể từ khi em trai của nó
là Russell ra
đời. Tôi có thể tưởng tượng ra cảnh mẹ vừa đứng uốn éo như một con rắn vừa nựng nịu Russell trước
mặt thầy hiệu trưởng để đạt được mục đích của mình. Bà còn nói rằng kết thúc cuộc nói
chuyện với thầy hiệu trưởng, bà vui mừng không sao tả xiết khi từ nay sẽ được hợp tác
chặt chẽ với nhà trường. Bất kì khi nào David có vân đề gì thì các thầy cô ở trường sẽ
gọi ngay cho bà. Bà
cũng đã dặn các thầy cô ở trường là không cần phải để ý gì đến những câu chuyện điên rồ do tôi
dựng nên về việc bị đánh đập hay bị bỏ đói.
|
As Mother told me about the meeting, I could sense her heightened confidence, and her new
confidence made me fear for my life. I wished I could dissolve and be gone forever. I wished I would never have to face
another human being again.
|
Hôm ấy, tôi chỉ biết đứng im trong nhà bếp lắng nghe câu
chuyện khoác lác của bà, long thấy trống rỗng đến vô cùng. Nghe mẹ thao thao bất tuyệt về
cuộc gặp gỡ với thầy
hiệu trưởng, tôi cảm nhận được vẻ tự đắc của bà. Chính thái độ đó của bà làm tôi thấy lo sợ cho cuộc
đời của mình. Tôi ước gì mình có thể tan chảy ra và biến mất mãi mãi. Tôi ước gì mình sẽ
chẳng bao giờ phải đối diện với bất kỳ ai nữa cả.
|
That summer, the family vacationed at the Russian River. Although I got along better with
Mother, the magical feeling had disappeared. The hayrides, the weenie roasts and
story telling were things of the past. We spent more and more time in the cabin. Even the day trips to
Johnson’s Beach were rare.
|
Mùa hè năm đó, gia đình tôi đi nghỉ ở Sông Nga. Mặc dù mối
quan hệ giữa tôi và
mẹ có vẻ bớt căng thẳng, nhưng cảm giác hân hoan và hạnh phúc của ngày xưa đã không còn nữa.
Những chuyến xe cỏ[4], những buổi xem nhạc rock Weenie Roast[5] và những câu chuyện kể hấp dẫn
giờ chỉ còn là quá khứ. Phần lớn thời gian chúng tôi chỉ ở trong lều mà thôi. Những chuyến dạo
chơi vào ban ngày
đến bãi biển Johnson nổi tiếng cũng trở nên hiếm hoi.
|
Father tried to make the vacation more fun by taking the
three of us to play
on the new super slide. Russell, who was still a toddler, stayed in the cabin with
Mother. One day, when Ron, Stan and I were playing at a neighbor’s cabin, Mother came
out onto the
porch and yelled for us to come in immediately. Once in the cabin, I was scolded for
making too much noise. For my punishment, I was not allowed to go with Father and my brothers to the super slide. I sat
on a chair in a corner, shivering, hoping that something would happen so the three of
them wouldn’t
leave. I knew Mother had something hideous on her mind. As soon as they left, she
brought out one of Russell’s soiled diapers. She smeared the diaper on my face. I tried
to sit perfectly
still. I knew if I moved, it would only be worse. I didn’t look up. I couldn’t see
Mother standing over me, but I could hear her heavy breathing.
After what seemed like an hour, Mother knelt down beside
me and in a soft
voice said, “Eat it.”
|
Cha cố gắng làm cho không khí của kỳ nghỉ thêm phần vui vẻ
và thoải mái bằng cách
đưa chúng toi đi chơi trên chiếc ván trượt ông mới mua. Lúc bấy giờ Russell chỉ mới chập chững
biết đi nên phải ở lại lều với mẹ. Hôm đó, khi Ron, Stan và tôi đang chơi gần nhà nghỉ của
hàng xóm thì mẹ ra đứng ngay cổng nhà nghỉ của mình và gào réo bắt chúng tôi phải về ngay lập tức. Vừa bước vào nhà, tôi bị mẹ mắng cho
một trận vì tội quá ồn ào. Hình phạt dành cho tôi là tôi không được phép đi chơi lướt ván với
cha và hai người anh em của mình. Tôi ngồi run rẩy trên một cái ghế trong góc phòng, lòng chỉ
mong sao có điều
gì đó xảy ra để họ không bỏ một mình tôi ở lại với mẹ. Tôi biết rằng mẹ đang toan tính chuyện gì đó.
Ngay khi họ vừa đi khỏi, mẹ liền lôi ra mấy cái tã bẩn của Russell. Bà dí dí rồi
chà cái tã lên mặt tôi. Tôi cố gắng ngồi thật
vững. Tôi biết là nếu tôi nhúc nhích hay cố tình né tránh,
thì mọi thứ sẽ còn tệ hơn nữa. Tôi không nhìn lên. Tôi không nhìn thấy mẹ đang đứng trước
mặt tôi, nhưng tôi có
thể nghe thấy hơi thở dồn dập của bà.
Sau một khoảng thời gian kéo dài như cả giờ đồng hồ trôi
qua, mẹ quỳ xuống bên
cạnh tôi, nói vào tai tôi bằng một giọng rất khẽ: “Ăn đi”.
|
I looked straight ahead, avoiding her eyes. “No way!” I
said to myself.
Like so many times before, avoiding her was the wrong thing to do. Mother smacked
me from side to side. I clung to the chair, fearing if I fell off she would jump on me.
“I said eat it!” she sneered.
Switching tactics, I began to cry. “Slow her down,” I
thought to myself. I
began to count to myself, trying to concentrate. Time was my only ally. Mother
answered my crying with more blows to my face, stopping only when she heard Russell
crying.
Even with my face covered with defecation, I was pleased.
I thought I
might win.
|
Tôi bàng hoàng không thể tin vào tai mình và thảng thốt
ngước nhìn lên, cốc tránh ánh mắt của mẹ. Không thể nào! Tôi tự nhủ. Cũng như bao lần
trước đó, tôi biết
chống đối lại mẹ là một việc không nên làm vì sẽ chẳng ích gì. Mẹ bắt đầu tát lia lịa vào mặt tôi. Tôi
bám chặt tay vào thành ghế để khỏi ngã xuống đất, nếu không chắc mẹ sẽ nhảy bổ lên người
tôi mất thôi. “Tao nói ‘ăn đi’!” - Mẹ rít lên.
Tôi nghĩ mình cần phải thay đổi chiến lược để đối phó với
mẹ, thế là tôi bắt đầu khóc lóc van xin. Phải cầm chân bà ấy lại. Tôi nhủ thầm. Tôi
cố gắng đếm nhẩm và
tập trung cao độ. Thời gian là đồng minh duy nhất của tôi lúc này. Mẹ đáp lại những tiếng khóc
lóc của tôi bằng mấy cú đấm thẳng vào mặt tôi như trời giáng. Chỉ đến khi nghe tiếng Russell
khóc, bà mới chịu dừng tay. Dù cho mặt mũi tôi lúc đó bê bết phân là phân, nhưng chẳng
hiểu sao tôi vẫn lâng lâng một cảm giác thỏa nguyện. Tôi nghĩ rằng mình đã có thể
thắng.
|
I tried to wipe the shit away, flicking it onto the wooden floor. I could
hear Mother singing softly to Russell, and I imagined him cradled in her arms, I prayed
he wouldn’t fall
asleep. A few minutes later my luck ran out.
Still smiling, Mother returned to her conquest. She
grabbed me by the
back of the neck and led me to the kitchen. There, spread out on the counter top, was
another full diaper. The smell turned my stomach. “Now, you are going to eat it!”
she said.
Mother had the same look in her eyes that she had the day
she wanted me to
lie on top of the gas stove back at the house.
|
Tôi cố lau sạch phân dính trên mặt mình, phân còn vung vẩy
cả trên sàn nhà gỗ. Tôi nghe thấy tiếng mẹ khe khẽ hát ru Russell ngủ, và tôi có thê
tưởng tượng thằng
bé được ôm ấp thế nào trong vòng tay của mẹ. Nhưng chỉ ít phút sau, bùa hộ mệnh của tôi cũng đã
say giấc.
Miệng vẫn mỉm cười, mẹ quay trở lại trò vui của mình. Bà
tóm lấy cổ tôi và lôi tôi vào nhà bếp. Trên bàn ăn là một cái tã khác đầy phân. Cái
mùi của nó làm tôi muốn
nôn mửa.
- Bây giờ thì mày hãy ăn cho hết đi! – Mẹ ra lệnh.
Đôi mắt của mẹ lúc này ánh lên những tia nhìn hằn học và
hả hê hệt như lúc bà bắt tôi leo lên cái bếp lò đang phừng phực lửa ngày trước.
|
Without moving my head, I moved my eyes, searching for the daisycolored clock that I knew was
on the wall. A few seconds later, I realized the clock was behind me. Without the
clock, I felt
helpless. I knew I needed to lock my concentration on something, in order to keep any
kind of control of the situation. Before I could find the clock, Mother’s hands
seized my neck. Again she repeated, “Eat it!”
|
Không dám xoay đầu, tôi chỉ đảo mắt tìm chiếc đồng hồ màu vàng hoa
cúc mà tôi biết chắc rằng nó nằm đâu đó trên tường. Sau vài giây, tôi nhận ra chiếc đồng hồ
nằm trên bức
tường ở phía sau lưng. Nếu không có nó, tôi sẽ cảm thấy bất lực. Tôi biết là mình cần phải tập trung
tinh thần vào một vật gì đó, để có thể nắm được quyền kiểm soát cho tình thế hiện tại. Nhưng
trước khi tôi kịp nhìn thấy chiếc đồng hồ, thì mẹ đã chộp lấy cổ tôi. Bà nghiến răng
lặp lại những từ một:
- Ăn đi!
|
I held my breath. The smell was overpowering. I tried to focus on
the top corner of the diaper.
Seconds seemed like hours. Mother must have known my plan. She slammed my face into the
diaper and rubbed it from side to side.
I anticipated her move. As I felt my head being forced
down, I closed my
eyes tightly and clamped my mouth shut. My nose struck first. A warm sensation
oozed from my nostrils. I tried to stop the blood from escaping by breathing in. I
snorted bits of defecation back up my nose with the blood. I threw my hands on the counter top and tried to pull
myself out of her grip. I twisted from side to side with all my strength, but she was
too powerful.
|
Tôi nín thở. Cái mùi của nó thật quá sức tưởng tượng. Tôi
cố tập trung vào phần đầu là phần sạch nhất của cái tã. Thời gian như kéo dài hàng
thế kỷ.
Mẹ ắt hẳn đã biết được kế hoạch của tôi. Mẹ ụp mặt tôi vào
cái tã và chà qua chà lại khuôn mặt tôi trên cái vật bẩn thỉu ấy.
Tôi đoán trước được hành động của mẹ. Khi mẹ vừa dúi đầu
tôi chúi xuống dưới,
tôi liền nhắm chặt mắt và mím chặt miệng lại. Mũi của tôi bị đập mạnh xuống bàn. Một chất gì đó âm
ấm rĩ ra từ mũi tôi. Theo quán tính, tôi hít vào để máu mũi khỏi chảy ra. Thế
là tôi hít phải một ít phân cùng với máu ngược trở lại mũi. Hai tay tôi đập xuống bàn, tôi
cố vùng vẫy để thoát khỏi bàn tay kìm kẹp của mẹ. Tôi cố giãy giụa với tất cả sức lực để
thoát khỏi tấm thân hộ pháp của mẹ, nhưng mẹ quá mạnh.
|
Suddenly Mother let go. “They’re back! They’re back!” she gasped. Mother snatched a wash
cloth from the sink and threw it at me. “Clean the shit off your face,” she bellowed
as she wiped the brown stains from the counter top. I wiped my face the best I could, but not before blowing bits
of defecation from my nose. Moments later, Mother stuffed a piece of napkin up my
bloody nose and ordered
me to sit in the corner. I sat there for the rest of the evening, still smelling traces
of the diaper through my nose.
The family never returned to the Russian River again.
|
Bỗng nhiên mẹ buông tôi ra. - Họ về rồi. Họ về rồi. – Mẹ vừa
nói vừa thở hổn hển. Mẹ quơ lấy cái khăn vắt trên bồn rửa mặt ném cho tôi rồi quát: - Lau
hết phân trên cái mặt gớm ghiếc của mày đi. – Bà gầm lên trong lúc lau chùi mấy bệt
phân nâu lem luốc trên mặt bàn. Tôi dung khăn lau mặt thật kỹ, không quên khịt thật mạnh để lấy hết
chỗ phân trong
mũi ra. Lát sau, mẹ tọng một miếng khăn giấy vào lỗ mũi đang chảy máu của tôi và lệnh cho tôi ngồi
vào góc phòng. Tôi ngồi đó suốt buổi chiều, mũi vẫn còn ngửi thấy thứ mùi kinh
khủng của cái tã.
Từ đó, gia đình tôi chẳng bao giờ quay trở lại Sông Nga
nữa.
|
In September, I returned to school with last year’s
clothes and my old,
rusted, green lunch pail. I was a walking disgrace. Mother packed the same lunch for
me every day: two peanut butter sandwiches and a few limp carrot sticks. Since I
was no longer a
member of the family, I was not allowed to ride to school in the family station
wagon. Mother had me run to school. She knew I would not arrive in time to steal any
food from my
classmates.
|
Tháng Chín, tôi trở lại trường học với bộ quần áo cũ mặc
từ nhiều năm trước và cái hộp cơm màu xanh lá đã rỉ sét. Tôi trở thành một nỗi ô
nhục biết đi trong gia
đình của mình. Ngày nào cũng vậy, mẹ gói cho tôi phần ăn trưa gồm hai lát sandwich phết bơ đậu phộng
và vài mẫu cà rốt bé tẹo. Vì khôngcòn là thành viên trong gia đình nữa, nên
tôi không được phép ngồi cùng xe với mọi người để mẹ chở đi học. Mẹ bắt tôi phải
chạy bộ đến trường. Bà biết rằng làm thế tôi sẽ không đến trường kịp giờ để lấy trộm
thức ăn của các bạn học.
|
At school I was a total outcast. No other kid would have anything to do with me. During the
lunch recesses, I stuffed the sandwiches down my throat as I listened to my former
friends make up songs
about me. “David the Food Thief” and “PelzerSmellzer” were two of the
playground favorites. I had no one to talk to or play with. I felt all alone.
|
Ở trường, tôi là một đứa trẻ bị loại bỏ hoàng toàn khỏi
những cuộc chơi. Chẳng đứa bạn nào chịu nói chuyện hay chơi đùa với tôi cả. Suốt giờ ăn
trưa, tôi ngồi một
mình và cố nuốt trôi từng lát sandwich xuống cổ họng đắng nghét, cảm thấy tủi thân vô cùng khi nghe
mấy đứa bạn cất lời trêu chọc. Bọn bạn vẫn thường xì xào bàn tán hoặc ném vào tôi những cậu
đại loại như: “David, thằng ăn cắp thức ăn” và “Thằng hôi rình”. Không một ai muốn lại
gần tôi, không một ai muốn dính dáng gì đến tôi. Tôi thấy mình sao cô độc quá.
|
At the house, while standing for hours in the garage, I
passed the time by
imagining new ways to feed myself. Father occasionally tried to sneak scraps of food to me,
but with little success. I came to believe if I were to survive, I would have to rely on myself. I had exhausted
all possibilities at school. All the students now hid their lunch pails, or locked them
in the coat closet of the
classroom. The teachers and principal knew me and carefully watched me. I had little
to no chance of stealing anymore food at school.
|
Ở nhà, mỗi khi bị mẹ bắt đứng hàng giờ trong nhà xe, tôi
giết thời gian bằng cách nghĩ ra những cách mới để tìm lấy cái ăn cho mình. Thỉnh
thoảng cha vẫn tìm
cách lén mẹ lấy cho tôi vài mẫu thức ăn, nhưng rất ít khi ông qua được mắt mẹ. Càng ngày tôi càng tin
rằng, nếu muốn sống sót, tôi sẽ phải dựa vào chính mình. Tôi không thể trông mong vào bất kỳ
cơ hội nào để lấy cắp thức ăn ở trường nữa. Tất cả học sinh lúc bấy giờ đều giấu hộp thức ăn
vào tủ riêng và khóa
lại. Còn các thầy cô bộ môn và thầy hiệu trưởng thì đã biết rất rõ về tôi và luôn giám sát tôi cẩn
thận. Hầu như tôi không thể manh nha ý định đánh cắp thức ăn ở trường được
nữa.
|
Finally, I devised a plan that might work. Students were
not allowed to
leave the playground during lunch recess, so nobody would expect me to leave. My idea
was to sneak away from the playground and run to the local grocery store, and steal
cookies, bread, chips
or whatever I could. In my mind, I planned every step of my scheme. When I ran to
school the next morning, I counted every step so I could calculate my pace and later
apply it to my trip
to the store. After a few weeks, I had all the information I needed. The only
thing left was finding the courage to attempt the plan. I knew it w ould take longer
to go from the school
to the store because it was up a hill, so I allowed 15 minutes. Coming back downhill
would be easier, so I allowed 10 minutes. This meant I had only 10 minutes at the store.
|
Sau cùng, tôi cũng đã nghĩ ra được một kế hoạch có vẻ khả
thi. Theo quy định của nhà trường thì vào giờ giải lao buổi trưa, học sinh không
được phép rời khỏi sân
chơi, vì vậy sẽ không ai nghĩ đến việc tôi không có mặt ở đó. Kế hoạch mới của tôi là tôi sẽ lẻn ra
khỏi sân chơi, chạy đến quầy bách hóa trong trường để đánh cắp bánh quy, bánh
mì, bánh khoai tậy hoặc bất cứ thứ gì có thể. Tôi tính toán thật kỹ từng chi tiết cho kế
hoạch đó. Sáng hôm sau, khi chạy bộ đến trường, tôi đếm từng bước chân để có thể
tính toán chính xác thời gian để áp dụng cho kế hoạch nhắm vào quầy bách hóa. Vài tuần
sau đó, tôi đã có được mọi thông tin cần thiết. Điều cuối cùng là phải có đủ dũng khí để
thực hiện kế hoạch
ấy. VÌ quầy bách hóa nằm trên một ngọn đồi nên từ trường học đến đó mất khoảng mười lăm phút,
còn lúc về thì chỉ mất mười phút. Thế nghĩa là tôi chỉ có mười phút tại quầy bách hóa mà
thôi.
|
Each day when I ran to and from school, I tried to run
faster, pounding each
step as if I were a marathon runner. As the days passed and my plan became more
solid, my hunger for food was replaced with daydreaming. I fantasized whenever
performing my chores at
the house. On my hands and knees while scrubbing the bathroom tiles, I imagined I
was the prince in the story “The Prince and the Pauper”. As the Prince, I knew I
could end the charade of acting like a servant any time I wanted. In the basement, I stood perfectly still
with my eyes closed, dreaming I was a comicbook hero. But my daydream was always interrupted by hunger pangs, and
my thoughts soon returned to my plan of stealing food.
|
Hàng ngày, khi chạy từ nhà tới trường rồi từ trường về
nhà, tôi cố gắng chạy nhanh hớn, dậm chân thật mạnh xuống đường như thể mình là một vẫn động viên ma-ra-tông vậy. Từng
ngày trôi qua, kế hoạch của tôi trở nên chặt chẽ hơn. Trong thời gian đó, thính
thoảng cơn đói của tôi lại được thay thế bằng những cơn mộng tưởng. Cứ mỗi lần ở nhà làm
việc là tôi lại mơ màng viển vông. Trong lúc bò lê cọ rửa sàn nhà tắm, tôi cứ
tưởng tượng mình chính là hoàng tử trong câu chuyện “Hoàng tử và Người hành
khất”[6]. Khi đã là hoàng tử, tôi có thể chấm dứt trò chơi mà mình phải đóng vai là
một tên đầy tớ. Mỗi khi bị bắt đứng ở dưới tầng hầm, tôi lại đứng yên bất động với hai mắt
nhắm nghiền, mơ
mộng ra cảnh mình là nhân vật anh hùng trong một câu chuyện nào đó. Nhưng rồi cơn mộng tưởng
sớm bị gián đoạn vì những cơn đói đến cồn cào ruột gan, thế là suy nghĩ của tôi lại nhanh
chóng trở về với kế hoạch ăn cắp thức ăn.
|
Even when I was sure my plan was foolproof, I was too
afraid to put it
into action. During the lunch recess at school, I strolled around the playground making
excuses to myself for my lack of guts to run to the store. I told myself I would get
caught or that my timing calculations were not accurate. All through the argument with myself, my stomach
growled, calling me a “chicken”. Finally, after several days without dinner and only the small leftover portions for
breakfast, I decided to do it.
|
Nhưng do tôi biết chắc kế hoạch của mình là hoàn toàn ngu
ngốc, nên tôi vẫn chưa có đủ can đảm để thực hiện. Suốt giờ nghỉ trưa, tôi cứ lòng
vòng quanh sân
trường, tự trách mình sao không có đủ quyết tâm để chạy thẳng đến quầy bách hóa kia. Rồi tôi tự
nhủ hay là mình đừng nghĩ đến chuyện điên rồ đó nữa, bởi sự tính toán về thời gian có thể
không chính xác và mình sẽ bị bắt gặp. Trong lúc tôi đang phải đấu tranh tư tưởng với
chính mình thì bụng của tôi lại sôi lên cồn cào như thể nó đang giễu tôi là “đồ gà con”.
Cuối cùng, sau nhiều ngày
không đưuọc ăn tối mà chỉ được ném cho mấy mẩu bánh vụn cho bữa sáng, tôi đánh liều tiến
hành kế hoạch của mình.
|
A few moments after the lunch bell rang, I blitzed up the street, away from the school, with my
heart pounding and my lungs bursting for air. I made it to the store in half the time
I allowed myself.
Walking up and down the aisles of the store, I felt as if everybody was staring at me. I
felt as though all the customers were talking about the smelly, ragged child. It was
then that I knew my plan
was doomed because I had not taken into account how I might look to other people.
The more I worried about my appearance, the more my stomach became seized with fear. I froze in the aisle, not knowing
what to do. I slowly began to count the seconds away. I began to think about all the
times I had been
starving. Suddenly without thinking, I grabbed the first thing I saw on the shelf, ran out
of the store and raced back to school. Clutched tightly in my hand was my prize - a box of graham crackers.
|
Hôm ấy, sau khi chuông báo hiệu giờ giải lao buổi trưa vang lên
được vài phút, tôi vội lao xuống đường chạy thật nhanh về phía quầy bách hóa. Tim tôi
đập thình thịch còn miệng thì thở hồng hộc. Tôi đến được quầy bách hóa với khoảng thời
gian chỉ bằng một
nửa so với những gì tôi đã ước tính. Thấp thỏm đi lên đi xuống giữa các lối đi trong quầy để tiện
quan sát, tôi có cảm tưởng như mọi ánh mắt đều đang đổ dồn về phía mình. Tôi có cảm giác như
tất cả những ai đang có mặt tại cửa tiệm lúc đó đều xì xầm bàn tán về tôi - một thằng bé hôi
hám và rách rưới.
Rồi tôi nhận ra kế hoạch của mình có thể sẽ phá sản mất thôi bởi tôi đã không lường trước được bộ dạng
của mình sẽ gây sự chú ý thế nào đến mọi người xung quanh. Tôi càng lo lắng về vẻ ngoài của
mình thì dạ dày của tôi lại càng quặn thắt bởi nỗi sợ hãi. Tôi cứ thế đứng chết trân
ngay lối đi trong quầy, không biết phải làm gì tiếp theo. Tôi vừa nghe rõ nhịp tim đập thình
thịch của mình vừa đếm
từng thời khắc trôi qua. Đầu tôi đặc nghẹt những suy nghĩ. Nghĩ đến những lúc mình bị bỏ đói,
dường như một sự quyết tâm cao độ xâm chiếm lấy tôi. Không còn nao núng trước
những gì đang diễn ra xung quanh, tôi bạo gan thộp lấy cái gói đầu tiên tôi nhìn thấy trên kệ
hàng và chạy nhanh ra khỏi cửa tiệm rồi lao trở về trường học. Người tôi run lên bần
bật vì sợ. Nhưng tôi cũng sung sướng đến bật khóc khi đã nắm chặt trong tay “chiến lợi
phẩm” của mình - một
gói bánh quy Graham [7].
|
As I came near the school I hid my possession under my
shirt, on the side
that didn’t have any holes, as I walked through the schoolyard. Inside, I ditched the
food in the garbage can of the boys’ restroom. Later that afternoon, after making
an excuse to the teacher, I returned to the restroom to devour my prize. I could feel my mouth begin to
water, but my heart sank as I looked into an empty trash can. All my careful plans and
all the pain of
convincing myself that I would eat, were wasted. The custodian had emptied the trash
can before I could slip away to the restroom.
|
Về gần tới trường, tôi giấu gói bánh trong áo sơ mi, bên
phần áo không bị thủng, rồi thản nhiên đi ngang qua sân trường. Sau đó tôi đi thẳng vào
nhà vệ sinh nam và
giấu gói bánh trong thùng rác. Quá trưa hôm đó, sau khi xin phép thầy giáo, tôi trở lại nhà vệ sinh
để thưởng thức chiến lợi phẩm của mình. Chỉ cần nghĩ đến việc được liếm láp
món bánh ngon lành thì nước bọt trong miệng tôi đã ứa ra. Nhưng rồi tim tôi
thắt lại khi trước mắt tôi là một cái thùng rác trống rỗng. Vậy là kế hoạch tỉ mỉ
cùng những công sức khó nhọc của tôi giờ đã trở thành công cốc. Người lao công
đã dọn sạch thùng rác trước khi tôi kịp quay trở lại nhà vệ sinh.
|
That day my plan failed, but on other attempts I was
lucky. Once, I
managed to hide my treasure in my desk in homeroom, only to find on the next day that
I had been transferred to the school across the street. Except for losing the stolen
food, I welcomed the
transfer. Now, I felt I had a new license to steal.
Not only was I able to snitch food from my classmates
again, but I also
sprinted to the grocery store about once a week.
Sometimes at the grocery store, if I felt things weren’t
just right, I didn’t
steal anything. As always, I finally got caught. The manager called Mother. At the
house, I was thrashed relentlessly. Mother knew why I stole food and so did Dad, but she still refused to feed me. The
more I craved food, the more I tried to come up with a better plan to steal it.
|
Ngày hôm ấy, kế hoạch của tôi đã thất bại, nhưng vào những
lần sau đó, tôi đã may
mắn hơn. Có lần tôi giấy chiến lợi phẩm trong ngăn bàn ở phòng điểm danh, để đến sáng hôm sau tôi
lấy nó ra như thể tôi đã mang theo từ nhà đến trường. Lúc đó tôi cảm giác như mình đã được
cấp phép để ăn cắp. Mọi chuyện diễn ra tương đối suôn sẻ.
Tôi không những có thể thỉnh thoảng tiếp tục đánh cắp thức ăn của các bạn
cùng lớp, mà còn có thể chạy hết tốc lực đến quầy bách hóa mỗi tuần một lần để
thó vài món mang về. Mỗi khi đến quầy bách hóa, nếu tôi linh cảm thấy có gì đó không ổn,
tôi sẽ không lấy bất cứ thứ gì cả. Cũng như những lần ăn cắp trước, cuối cùng tôi lại
bị tóm. Ông chủ cửa hàng đã gọi điện báo cho mẹ tôi biết. Khi về nhà, tôi lại nhận những
trận đòn tàn nhẫn của
mẹ. Mẹ thừa hiểu tại sao tôi phải ăn cắp thức ăn, cha tôi cũng vậy, nhưng bà ấy vẫn nhất quyết không
cho tôi ăn. Tôi càng khao khát được ăn thì đầu óc tôi lại càng cố sức nghĩ ra một kế hoạch mới
nào đó hoàn hảo hơn để đạt được điều đó.
|
After dinner, it was Mother’s habit to scrape the
leftovers from the
dinner plates into a small garbage can. Then she would summon me up from the basement,
where I had been standing while the family ate. It was my function to wash the
dishes.
Standing there with my hands in the scalding water, I
could smell the
scraps from dinner in the small garbage can. At first my idea was nauseating, but the
more I thought about it, the better it seemed. It was my only hope for food. I finished
the dishes as
fast as I could and emptied the garbage in the garage. My mouth watered at
the sight of the food, and I gingerly picked the good pieces out while scraping
bits of paper or cigarette butts away, and gobbled the food as fast as I could.
|
Sau bữa ăn tối, mẹ có thói quen gom tất cả phần thức ăn
thừa trên dĩa cho vào một cái thùng rác nhỏ, rồi bà mới cho gọi tôi lên - lúc đó
đang dưới tầng hầm chờ
cả nhà dùng xong bữa. Nhiệm vụ của tôi là rửa hết đống chén đĩa bẩn. Trong lúc đứng ở bồn rửa
chén, tôi có thể ngửi thấy mùi thức ăn thừa mà mẹ đã ném vào thùng rác. Ngay lúc
ấy, một ý nghĩ lóe lên trong đầu khiến tôi muốn nôn ọe, nhưng càng nghĩ và càng tự thuyết phục
mình thì tôi cũng cảm thấy đỡ hơn. Đó chính là hy vọng duy nhất để cái bụng của tôi được no.
Tôi cố rửa xong đống
chén bát càng nhanh càng tốt rồi mang cái thùng rác xuống nhà xe để lục lọi. Vừa nhìn thấy thức
ăn, miệng tôi ứa nước bọt và hai bên quai hàm nhức buốt đến tận mang tai. Tôi vừa gạt giấy và
đầu lọc thuốc lá sang một bên vừa cẩn thận nhặt từng mẫu thức ăn còn nguyên ra khỏi
đám bầy nhầy. Rồi tôi ngấu nghiến hết chỗ thức ăn ấy nhanh đến độ không kịp
thở.
|
As usual, my new plan came to an abrupt halt when Mother caught me in the act. For a few
weeks I quit the garbage routine, but I finally had to return to it, in order to
silence my growling stomach. Once, I ate some leftover pork. Hours later I was bent over in extreme pain. I had
diarrhea for a week. While I was sick, Mother informed me she had purposefully left
the meat in the
refrigerator for two weeks, to spoil before she threw it away.
|
Như một lẽ thường tình, kế hoạch mới của tôi lại đột ngột
bị khựng lại vì bị mẹ bắt gặp. Thế là trong suốt nhiều tuần liền, tôi buộc phải từ bỏ
thói quen ăn đồ ăn
trong thùng rác. Nhưng rồi sau cùng tôi cũng đành đánh bạo lén lút trở về với thói quen cũ để chống
lại những cơn đói đến mờ mắt. Tôi nhớ một lần nọ, tôi đã lục thùng rác để ăn vài miếng thịt
heo thừa. Chỉ vài giờ sau đó, cả người tôi quằn quại vì những cơn đau dữ dội. Tôi bị
tiêu chảy suốt cả tuần. Khi tôi bị bệnh, mẹ mới nói cho tôi biết là bà đã cố tình để
phần thịt heo ấy hai tuần trong tủ lạnh, cho nó bị thối rữa rồi mới ném vào thùng rác.
|
She knew I couldn’t resist stealing it. As time
progressed, Mother had me
bring the garbage can to her so she could inspect it while she lay on the couch. She
never knew that I wrapped food between paper towels and hid them in the bottom of
the can. I knew
she wouldn’t want to get her fingers dirty, digging in the bottom of the trash can, so
my scheme worked for a while.
|
Bà thừa biết tôi sẽ lén moi phần thịt ôi thiu ấy từ thùng rác ra
mà ăn. Thời gian sau đó, cứ sau bữa cơm chiều, mẹ lại bắt tôi khuân cái thùng rác đến
chỗ bà nằm cho bà kiểm tra. Bà không bao giờ biết rằng đối đối phó với chuyện này, tôi đã
gói thức ăn vào
mấy miếng khăn giấy và giấu nó dưới đáy thùng. Tôi biết là mẹ sẽ không muốn bới cái thùng rác lên
để cho những ngón tay của mình bị vấy bẩn, vì vậy âm mưu của tôi cũng hữu dụng được một thời
gian.
|
Mother sensed I was getting food some way, so she began sprinkling ammonia in the trash can.
After that, I gave up on the garbage at the house and focused my sights on finding some other way to get food at school.
After getting caught stealing from other kids’ lunches, my next idea was to rip off
frozen lunches from
the school cafeteria.
|
Dường như mẹ cảm nhận được rằng tôi vẫn có thể lấy được
thức ăn bằng cách nào
đó, thế nên bà bắt đầu tưới dung dịch amoniac vào thùng rác. Từ đó, tôi đành từ bỏ thói quen
moi thức ăn từ thùng rác ở nhà và chỉ tập trung tìm cách để đánh cắp thức ăn ở trường mà thôi.
Từ sau khi tôi bị bắt quả tang đánh cắp thức ăn trưa của các bạn học, ý định tiếp
theo của tôi là sẽ đánh cắp thức ăn đông lạnh trong căng-tin trường học.
|
I timed my restroom break so that the teacher excused me from the classroom just after the
delivery truck dropped off its supply of frozen lunches. I crept into the
cafeteria and snatched a few frozen trays, then I scurried to the restroom. Alone in the restroom, I swallowed the frozen
hot dogs and later tots in huge chunks so fast I almost choked myself in the
process. After filling my stomach I returned to the classroom, feeling proud so I fed myself.
|
Tôi tính toán thời gian để xin phép thầy giáo đi vệ sinh
ngay sau khi chiếc xe tải giao hàng mang đến căng-tin những hộp thức ăn đông lạnh
dành cho bữa trưa.
Sau đó tôi lẻn vào căng-tin và vơ lấy vài hộp thức ăn lạnh rồi chạy thục mạng vào nhà vệ sinh. Ở
trong ấy, tôi ngấu nghiến mấy cây xúc xích đông lạnh và món bánh tater tots [8] với những vốc
thật lớn. Tôi ăn nhanh đến
độ gần như bị mắc nghẹn. Sau khi đã nhét đầy thức ăn vào
bụng, tôi trở lại lớp học, trong lòng thấy vô cùng tự hào vì tôi đã tự kiếm được cái ăn cho
mình.
|
As I ran to the house from school that afternoon, all I
could think about
was stealing food from the cafeteria the next day. Minutes later, Mother changed my
mind. She dragged me into the bathroom and slugged me in the stomach so hard that I
bent over. Pulling
me around to face the toilet, she ordered me to shove my finger down my throat. I
resisted. I tried my old trick of counting to myself, as I stared into the
porcelain toilet bowl, “One … two …” I never made it to three. Mother rammed her finger into my mouth, as if she
wanted to pull my stomach up through my throat. I squirmed in every direction in an
effort to fight her.
She finally let me go, but only when I agreed that I would vomit for her.
|
Buổi chiều hôm ấy, khi đi học về, đầu óc tôi chỉ nghĩ đến
việc ăn cắp thức ăn ở căng tin trường học vào ngày hôm sau mà thôi. Nhưng chỉ vài phút
sau đó, mẹ đã làm
cho mọi dự định của tôi tan tan biến. Bà lôi tôi xềnh xệch vào nhà tắm, ra sức thụi túi bụi vào
bụng tôi khiến tôi oằn người quằn quại vì đau đớn. Rồi bà tiếp tục lôi tôi vào
nhà vệ sinh và bắt tôi phải thọc ngón tay vào trong cổ họng. Tôi không chịu làm
theo. Tôi cố áp dụng chiêu thức cũ là đếm nhẩm, mắt tôi liếc nhìn vào bồn cầu bằng men sứ,
“Một… hai… “ nhưng tôi chẳng bao giờ đếm được đến ba. Mẹ tôi tức mình thọc luôn ngón tay của
bà ấy vào cổ họng
tôi. Tôi oằn người vẫy vùng chỉ mong thoát khỏi tấm thân hộ pháp của bà ấy. Cuối cùng thì bà cũng
buông tha cho tôi, nhưng chỉ là khi tôi chấp nhận sẽ ói ra hết cho bà ấy xem.
|
I knew what was going to happen next. I closed my eyes as chunks of red meat spilled into
the toilet. Mother just stood behind me, with her hands on her hips and said, “I thought
so.
Your Father’s going to hear about this!” I tensed myself
for the volley of
blows that I knew was coming, but nothing happened.
After a few seconds, I spun around to discover that Mother
had left the
bathroom. I knew the episode wasn’t over. Moments later she returned with a small
bowl, ordered me to scoop the partiallydigested food out of the toilet and put it in the
bowl.
Since Father was away shopping at the time, Mother was gathering evidence for his return.
|
Tôi biết chuyện gì sắp sửa xảy ra. Tôi nhắm nghiền mắt lại
mặc cho những thớ
thịt heo đỏ hỏn trôi tuột vào trong bồn cầu. Mẹ đứng sau lưng tôi, tay chống nạnh và nói:
- Tao nghĩ vậy đấy. Cha mày sắp biết hết chuyện này rồi.
Tôi gồng người chờ đợi những cú đấm cú đá mà mẹ sắp dành
cho tôi, nhưng chẳng
có gì xảy ra cả. Vài giây sau, tôi quay người lại và biết mẹ đã ra khỏi nhà tắm. Nhưng tôi biết mọi
chuyện vẫn chưa kết thúc. Vài phút sau mẹ trở lại với một cái tô nhỏ trên tay, bà bắt tôi múc
những mảng thức ăn chưa được tiêu hóa hết trong bồn cầu vào cái tô ấy. Bởi lúc đó cha tôi ra
ngoài mua sắm nên mẹ
làm thế là để giữ lại chứng cứ cho ông xem.
|
Later that night, after I finished all of my evening
chores, Mother had me
stand by the kitchen table while she and Father talked in the bedroom. In front of
me was the bowl of hot dogs that I had vomited.
I couldn’t look at it, so I closed my eyes and tried to imagine myself far away
from the house. A short time later, Mother and Father stormed into the kitchen. “Look
at this, Steve,”
Mother barked, thrusting her finger in the direction of the bowl. “So you think The Boy is
through stealing food, do you?”
|
Đêm hôm đó, sau khi tôi hoàn tất mọi công việc nhà, mẹ bắt
tôi đứng cạnh bàn ăn
trong nhà bếp trong lúc bà nói chuyện với cha tôi trong phòng ngủ. Trước mặt tôi lúc đó là cái tô đựng đầy thứ
thịt mà tôi đã ói ra lúc chiều.
Tôi không thể nhìn vào đó, tôi chỉ biết nhắm mắt lại và
hình dung đến cảnh một ngày nào đó mình sẽ trốn khỏi nhà để đến một nơi thật xa. Một lát
sau, mẹ kéo cha lao
vào nhà bếp.
- Nhìn đây này, Steve! Anh có còn nghĩ rằng thằng nhãi đó
không ăn cắp thức ăn nữa hay không? - Mẹ gào lên, tay chỉ thẳng về phía cái tô.
|
By the look on Father’s face, I could tell he was getting
more and more
tired of the constant “What has The Boy done now” routine. Staring at me, he shook
his head in disapproval and stammered, “Well, Roerva, if you would just let The Boy
have something to
eat.”
A heated battle of words broke out in front of me, and as always, Mother won. “EAT? You want
The Boy to eat, Stephen? Well, The Boy is going to EAT! He can eat this!”
|
Ngước nhìn khuôn mặt của cha lúc ấy, tôi có thể thấy rằng
ông đã ngày càng trở nên
mệt mỏi với cụm từ “Điều thằng đó đã làm” mà mẹ luôn miệng chì chiết. Liếc nhìn tôi, cha lắc
đầu tỏ vẻ không tán thành với mẹ, rồi ông lắp bắp:- Mà Roerva này, nếu có thể
thì em cho thằng bé ăn chút gì đi.
Cha vừa dứt lời, một trận cãi vã nảy lửa đã diễn ra ngay
trước mặt tôi và như mọi khi, mẹ là người chiến thắng.
- ĂN? Anh muốn cho thằng nhãi đó ăn à, Stephen? Được rồi,
nó sẽ được ĂN. Bảo nó ăn
cái này đi!
|
Mother yelled at the top of her lungs, shoving the bowl
towards me and
stomping off to the bedroom.
The kitchen became so quiet I could hear Father’s strained breathing. He gently placed his
hand on my shoulder and said, “Wait here, Tiger. I’ll see what I can do.” He returned a
few minutes
later, after trying to talk Mother out of her demand. By the saddened look on his face, I
knew immediately who won.
|
Mẹ trợn mắt hét lên the thé, hất cái tô về phía tôi rồi
hậm hực bỏ về phòng.
Không khí trong gian bếp trở nên yên lặng như tờ khiến cho
tôi có thể nghe thấy cả
hơi thở nặng nề đầy lo âu của cha. Sau một hồi đắn đo, cha nhẹ nhàng đặt tay lên vai tôi và nói:
- Cứ chờ ở đây, Cọp con. Để xem cha có thể làm được gì
không nhé.
Nói rồi ông bỏ đi. Tôi biết ông đi gặp mẹ để cố thuyết
phục bà đừng bắt tôi làm như thế. Chỉ vài phút sau, cha quay trở lại. Nhìn vẻ mặt buồn
bã của cha, tôi hiểu
ngay chuyện gì sẽ xảy ra.
|
I sat on a chair and picked the clumps of hot dogs out of
the bowl with my
hand. Globs of thick saliva slipped through my fingers, as I dropped it in my
mouth. As I tried to swallow, I began to whimper. I turned to Father, who stood
looking through me with
a drink in his hand. He nodded for me to continue. I couldn’t believe he just stood there as
I ate the revolting
contents of the bowl. At that moment, I knew we were slipping further and further
apart.
|
Tôi ngồn trên một cái ghế và dùng tay với lấy đống tịt
nhểu nhảo kia ra khỏi tô. Cảm giác muốn nôn ọe đã tràn đến cổ họng. Vừa đưa mấy miếng
thịt đã bốc mùi
lên miệng tôi vừa nhắm mắt để cố nuốt cho trôi. Nuốt xong miếng đầu tiên, tôi bật khóc. Tôi quay
sang nhìn cha. Ông đứng đó với ly rượu trong tay, chỉ biết nhìn khi tôi phải
nuốt cái thứ gớm ghiếc ấy vào bụng. Đã thế ông còn nhìn tôi gật đầu như ra hiệu
tôi hãy tiếp tục. Tôi không thể tin là cha chỉ có thể đứng đó nhìn trong lúc tôi
đang phải nuốt lấy mớ thức ăn ghê tởm trong cái tô kia. Chính trong giây phút
đó, tôi biết cha con tôi đang dần rời xa nhau…
|
I tried to swallow without tasting, until I felt a hand
clamp on the back of
my neck. “Chew it!” Mother snarled, “Eat it! Eat it all!” she said, pointing to the
saliva. I sat deeper in my chair. A river of tears rolled down my cheeks. After I had
chewed the mess in the
bowl, I tilted my head back and forced what remained, down my throat. I closed
my eyes and screamed to myself to keep it from coming back up into my mouth. I didn’t open my eyes until I was sure my
stomach wasn’t going to reject my cafeteria meal. When I did open them, I stared
at Father who turned away to avoid my pain. At that moment I hated Mother to no end, but I hated Father even
more. The man who had helped me in the past, just stood like a statue while his son ate something even a dog wouldn’t
touch.
|
Tôi nín thở nuốt trọng để không phải ngửi thấy cái mùi
tanh tưởi ấy, cho đến khi có một bàn tay kẹp chặt lấy cổ tôi từ phía sau:
- Nhai đi. – Mẹ gầm gừ. – Ăn đi! Ăn hết đi!
Mắt bà long lên, tay dúi đầu tôi vào cái tô. Tôi ngồi lọt
thỏm trong cái ghế, nước mắt dầm dề chảy xuống gò má. Sau khi nhai xong đống hỗn độn trong cái tô, tôi ngửa đầu ra sau
để cố ép cho những gì còn lại trong miệng tôi trôi xuống cổ họng. Tôi nhắm
nghiền mắt lại và gào thét với chính mình rằng bằng mọi cách đừng để cho cái thứ
ấy trào ngược trở lên miệng. Mãi cho đến khi tôi chắc chắn mọi thứ đã ổn thì tôi mới dám mở
mắt ra. Tôi nhìn chằm chặp vào cha, ông đang vội quay đi để tránh nhìn thấy nỗi đau đớn của
tôi.
Ngay chính lúc đó, tôi cảm thấy căm ghét mẹ đến tận cùng,
nhưng tôi còn ghét cha nhiều hơn thế gấp trăm vạn lần. Người đàn ông ấy đã từng nhiều lần
tìm cách giúp đỡ
tôi, bênh vực cho tôi, nhưng giờ thì ông chỉ đứng im như một pho tượng khi chứng kiến con trai phải
cho vào miệng một thứ mà ngay cả con chó còn chê.
|
After I finished the bowl of regurgitated hot dogs, Mother returned in her robe and threw a
wad of newspapers at me. She informed me the papers were my blankets, and the floor
under the table was
now my bed. Again I shot a glance at Father, but he acted as though I was not even
in the room. Forcing myself not to cry in front of them, I crawled, completely
dressed, under the table, and covered myself with the newspapers, like a rat in a cage.
|
Sau khi tôi ăn xong phần xúc xích do chính mình ói mửa ra,
mẹ quay trở lại trong
chiếc áo choàng và ném vào người tôi một đống báo. Bà bảo ràng tôi sẽ lấy đống báo đó làm mền đắp, và
sàn nhà phía dưới cái bàn ăn sẽ là giường ngủ của tôi. Tôi lại nhìn về phía cha, nhưng ông ấy
đã làm như thể chẳng hề có tôi ở đó. Tôi cố nén nước mắt, không muốn mình phải khóc
lóc trước mặt hai con người đó. Mặt tôi đột nhiên trở nên biến sắc. Tôi hoàn toàn vô
cảm. Tôi lồm cồm chui
xuống gầm bàn, lấy mấy tờ báo phủ lên người rồi nằm co ro ở đấy. Trông tôi lúc ấy hệt như một
con chuột nhắt bị nhốt vào lồng vậy.
|
For months I slept under the breakfast table next to a box
of kitty litter,
but I soon learned to use the newspapers to my advantage. With the papers wrapped
around me, my body heat kept me warm. Finally, Mother told me that I was no longer privileged enough to sleep
upstairs, so I was banished downstairs to the garage. My bed was now an old army cot.
To stay warm, I
tried to keep my head close to the gas heater. But after a few cold nights, I found
it best to keep my hands clamped under my arms and feet curled towards my buttocks.
Sometimes at night I
would wake up and try to imagine I was a real person, sleeping under a warm electric
blanket, knowing I was safe and that somebody loved me. My imagination worked for
awhile, but the cold
nights always brought me back to my reality. I knew no one could help me. Not my
teachers, my so-called brothers or even Father. I was on my own, and every night
I prayed to God
that I could be strong both in body and soul. In the darkness of the garage, I laid
on the wooden cot and shivered until I fell into a restless sleep.
|
Suốt nhiều tháng liền, tôi ngủ dưới gầm bàn nơi cả nhà tôi
vẫn ngồi ăn sáng, kế bên
là một chiếc hộp lớn làm ổ cho lũ mèo con nhà tôi. Chẳng lâu sau đó, tôi cũng tìm được cách để tận
dụng mớ báo kia. Tôi dùng những tờ báo quấn quanh mình để giữ ấm cho cơ thể. Sau cùng, mẹ
nói với tôi rằng tôi không được phép ngủ ở nhà trên nữa, và thế là tôi bị hất khỏi đó để
trở lại nhà để xe. Chỗ
ngủ của tôi bây giờ là một chiếc giường cũi cũ kỹ. Để giữ ấm, tôi cố gắng áp sát đầu mình vào lò sưởi.
Nhưng sau vài đêm chịu đựng giá lạnh, tôi nhận ra cách tốt nhất để giữ ấm cho mình là nằm kẹp
hai tay vào nách và co quắp hai chân đến tận mông. Thỉnh thoảng khi giật mình tỉnh giấc vào
lúc nửa đêm, tôi cố
gắng hình dung mình là một con người thật sự, được nằm ngủ trong một chiếc chăn điện ấm áp,
được an toàn và được ai đó yêu thương. Đầu óc tôi đắm chìm trong mộng mị được một lúc, rồi thì
đem dài giá lạnh lại mang tôi trở về với thực tại phũ phàng. Tôi biết chẳng ai có
thể giúp được tôi cả. Không phải thầy cô giáo của tôi, không phải những người mà tôi gọi là
anh em, càng không
phải là cha của tôi. Tôi chỉ có thể đứng trên đôi chân của chính mình, và hàng đêm tôi luôn cầu xin
Chúa hãy ban cho tôi sức mạnh cả về tinh thần lẫn thể chất. Trong bóng đêm tĩnh mịch ở nhà
để xe, tôi nằm trên chiếc giường gỗ run rẫy gì lạnh cho đến khi chìm vào giấc ngủ
chập chờn.
|
Once, during my midnight fantasies, I came up with the
idea of begging
for food on my way to school. Even though the after school vomit inspection was
carried out every day when I returned to the house from school, I thought that any food
I ate in the
morning would be digested by the afternoon.
As I began my run to school, I made sure I ran extra fast so I would
have more time for
my hunt for food. I then altered my course – stopping and knocking on doors. I
would ask the lady who answered if she happened to find a lunch box near her house. For the most part, my plan worked.
I could tell by looking at these ladies that they felt sorry for me. Thinking ahead,
I used a fake name so
nobody would know who I really was. For weeks my plan worked, until one day when
I came to the house of a lady who knew Mother. My timetested story, “I lost my
lunch. Could you
make me one?” fell apart. Even before I left her house, I knew she would call
Mother.
|
Một lần nọ, trong cơn mộng mị lúc nửa đêm, tôi chợt nảy ra
ý định đi xin thức ăn trên đường đến trường. Dẫu biết rằng mẹ vẫn liên tục tiến hành những cuộc “sát hạch nôn mửa” mỗi
ngày ngay khi tôi vừa đi học về nhưng tôi nghĩ rằng những thứ tôi ăn vào lúc sáng sẽ được
tiêu hóa vào buổi trưa thôi.
Thế là mỗi sáng khi bắt đầu chạy bộ đến trường, tôi phải
cố gắng chạy hết tốc lực để có thêm nhiều thời gian cho cuộc tìm kiếm thức ăn của mình. Sau
đó tôi còn quyết
định thay đổi kế hoạch, tôi không xin mà sẽ ghé vô bất kỳ ngôi nhà nào trên đường và gõ cửa. Khi có
người ra mở cửa, tôi sẽ vờ hỏi xem họ có tình cờ thấy một cái hộp đựng cơm trưa
nào gần đấy hay không. Những lần như vậy, kế hoạch của tôi tỏ ra rất hữu dụng. Nhìn vẻ
mặt của họ, tôi thấy rõ sự cảm thông sâu sắc mà họ dành cho tôi. Tôi còn lo xa bằng
cách dùng một cái tên giả để không ai biết tôi thật sự là ai. Nhiều tuần lễ trôi qua, kế
hoạch của tôi diễn ra trơn tru, cho đến một ngày kia, tôi gõ cửa một ngôi nhà mà
người phụ nữ ở đó lại là
người quen của mẹ tôi. Câu chuyện “Con làm mất bữa trưa của mình. Cô có thể làm giúp con một
phần ăn khác hay không?” do tôi dựng nên đã đổ vỡ tan tành. Thậm chí trước khi rời khỏi căn
nhà ấy, tôi còn biết thế nào cô ấy cũng gọi cho mẹ tôi.
|
That day at school I prayed for the world to end. As I
fidgeted in the
classroom, I knew Mother was lying on the couch, watching television and getting
more drunk by the hour, while thinking of something hideous to do to me when I arrived
at her house after
school. Running to the house from school that afternoon, my feet felt as though
they were encased in blocks of cement. With every step I prayed that Mother’s
friend had not called her, or had somehow mistaken me for another kid. Above me the skies were blue, and I
could feel the sun’s rays warm my back. As I approached Mother’s house, I looked up
towards the sun,
wondering if I would ever see it again. I carefully cracked the front door open before
slipping inside, and tiptoed down the stairs to the garage.
|
Ngày hôm ấy ở trường học, tôi chỉ biết cầu nguyện sao cho
hôm đó là ngày tận thế
mà thôi. Trong lúc tôi cứ bồn chồn đứng ngồi không yên ở lớp học, thì tôi biết khi ấy ở nhà, mẹ
đang nằm dài trên trường kỷ xem tivi và uống rượu triền miên đồng thời sẽ nghĩ
ra trò gì đó thật kinh tởm để làm với tôi khi tổi trở về ngôi nhà của bà ấy sau
khi tan học. Buổi chiều hôm ấy, khi chạy từ trường về nhà sau giờ học, tôi có
cảm giác chân mình nặng nề như bị dính chặt vào những tảng xi-măng vậy. Cứ sau
mỗi bước đi, tôi lại cầu xin cho người phụ nữ ấy đừng gọi điện cho mẹ tôi, hoặc mong sao cô ấy
nhầm tôi với một đứa trẻ khác. Trên đầu tôi, bầu trời vẫn trong xanh, và sau lưng
tôi mặt trời vẫn chiếu những tia nắng ấm áp. Về đến nhà, tôi nhìn về phía mặt trời và tự hỏi
không biết tôi còn
có thể nhìn thấy ánh dương ấy lần nào nữa hay không. Tôi khẽ mở hé cánh cửa lớn rồi lách vào trong
nhà, nhón gót đi rón rén xuống nhà để xe.
|
I expected Mother to fly down the stairs and beat me on the cement floor any
second. She didn’t come. After changing into my work clothes, I crept upstairs to
the kitchen and began
washing Mother’s lunch dishes. Not knowing where she might be, my ears became radar
antennae, seeking out her exact location. As I washed the dishes, my back became
tense with fear.
My hands shook, and I couldn’t concentrate on my chores. Finally, I heard Mother
come out of her bedroom and walk down the hall towards the kitchen. For a fleeting
moment I looked out of
the window. I could hear the laughter and screams of the children playing. For a
moment I closed my eyes and imagined I was one of them. I felt warm inside. I smiled.
|
Tôi hình dung mẹ sẽ bay ngay xuống cầu thang và đánh tôi
ngã nhào trên nền xi-măng vào bất cứ lúc nào. Thế nhưng tôi chẳng thấy bà ấy đâu. Sau
khi mặc bộ đồ làm
việc nhà vào, tôi lại rón rén đi lên nhà trên, vào bếp và bắt đầu rửa đống chén đĩa mà mẹ đa bày ra vào
buổi trưa. Vì không thể biết được mẹ đang ở đâu nên tai tôi bỗng trở thành cái ăng-ten ra-đa
để dò tìm vị trí của bà. Trong lúc rửa chén, tôi cứ có cảm giác hồi hộp, phập
phồng lo sợ từ phía sau lưng.
Hai tay tôi run rẩy, và tôi không thể tập trung vào công
việc của mình. Cuối cùng, tôi cũng nghe thấy tiếng mẹ bước ra khỏi phòng ngủ, đi qua phòng
lớn để xuống nhà
bếp. Ngay trong khoảnh khắc đó, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi có thể nghe thấy tiếng cười đùa, la
hét cửa bọn trẻ đang nô đùa ngoài ấy. Cũng trong khoảnh khắc ấy, tôi nhắm mắt lại và tưởng
tượng mình là một trong số những đứa trẻ ấy. Tôi thấy lòng mình ấm lại. Tôi mỉm cười.
|
My heart skipped a beat when I felt Mother breathing down my neck. Startled, I dropped a
dish, but before it could hit the floor I snatched it out of the air. “You’re a quick
little shit, aren’t you?” she sneered. “You can run fast and find time to beg for food. Well … we’ll just see
how fast you really are.”
Expecting Mother to bash me, I tensed my body, waiting for
her to strike.
When it didn’t happen, I thought she would leave and return to her TV show, but that
didn’t happen either. Mother remained inches behind me, watching my every move. I could see her reflection in the kitchen
window. Mother saw it too, and smiled back. I nearly peed my pants.
|
Tim tôi đập thình thịch khi cảm nhận rõ hơi thở của mẹ
ngay phía sau lưng mình. Giật mình, tôi đánh rơi một cái đĩa, nhưng trước khi nó rơi
xuống nền nhà, tôi
đã kịp chụp lấy nó.
- Mày cũng nhanh nhỉ, cái đồ thối tha kia? – Bà ấy cười
khinh bỉ. – Mày còn có thể chạy thật nhanh để có thời gian đi xin thức ăn kia mà. Được
thôi… để xem mày
nhanh như thế nào.
Vì nghĩ rằng mẹ sẽ nện cho một trận nên tôi gồng người
chuẩn bị chịu trận, nhưng mẹ không đánh. Tôi lại nghĩ bà ấy sẽ quay trở lại phòng để
tiếp tục xem tivi,
nhưng bà cũng không đi. Mẹ vẫn đứng đấy sau lưng tôi, quan sát nhất của nhất động của tôi. Tôi có thể
nhìn thấy hình ảnh của mẹ phản chiếu trên cửa sổ nhà bếp. Bà ấy cũng thấy và nhếch mép cười.
Nhìn thấy nụ cười của bà, tôi gần như muốn tè vãi cả ra quần.
|
When I finished the dishes, I began cleaning the bathroom. Mother sat on the toilet as I
scoured the bathtub. While I was on my hands and knees scrubbing the tile floor, she
calmly and quietly stood
behind me. I expected her to come around and kick me in the face, but she didn’t. As
I continued my chores, my anxiety grew. I knew Mother was going to beat me, but I
didn’t know how,
when or where. It seemed to take forever for me to finish the bathroom. By the time I
did, my legs and arms were shaking with anticipation. I could not concentrate on
anything but her.
Whenever I found the courage to look up at Mother, she smiled and said, “Faster young
man. You’ll have to move much faster than that.”
|
Rửa chén đĩa xong, tôi tiếp tục cọ rửa nhà tắm. Trong lúc
tôi lau chùi bồn tắm thì mẹ ngồi trên bồn cầu. Khi tôi bò ra chà sàn nhà, bà vẫn lặng
im ngồi đấy quan sát
tôi từ phía sau. Tôi cứ nghĩ rằng bà sẽ đi vòng lên phía trước rồi đá vào mặt tôi, nhưng bà ấy đã
không làm như thế. Tôi vẫn tiếp tục công việc của mình, nỗi lo sợ trong tôi mỗi
lúc một lớn dần lên. Tôi biết mẹ sắp đánh như thế nào, khi nào đánh và đánh ở đâu. Tôi có cảm
giác như công việc chà rửa nhà tắm này dường như kéo dài vô tận. Tôi làm việc mà chân tay cứ
ở trong tư thế
đề phòng. Tôi không thể tập trung vào bất cứ điều gì khác ngoài mẹ. Sau khi lấy hết can đảm, tôi
ngẩng lên nhìn bà, bà lại nhếch mép cười và nói:
- Nhanh nữa lên nào thằng nhóc. Mày sẽ còn phải làm nhanh
hơn thế này nữa đấy.
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn