MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Friday, December 6, 2013

The Bear is Back: Russia Returns to Vietnam ‘Gấu’ Nga quay trở lại Việt Nam

The Bear is Back: Russia Returns to Vietnam
‘Gấu’ Nga quay trở lại Việt Nam


By Carl Thayer
The Diplomat
November 26, 2013
Carl Thayer,
The Diplomat
26/11/2013

A visit to Vietnam by Vladimir Putin is just the latest sign of the former allies’ growing ties.

Chuyến viếng thăm Việt Nam của Vladimir Putin chỉ là dấu hiệu mới nhất về mối quan hệ đang phát triển các của hai đồng minh cũ .

President Vladimir Putin paid a whirlwind one-day visit to Hanoi on November 12 to advance the comprehensive strategic partnership reached with Vietnam last year. This was Putin’s third visit to Vietnam and his second since assuming the office of President of the Russian Federation.

Vào ngày 12 tháng Mười một vừa qua, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã có chuyến thăm tới Hà Nội để thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam được hai nước thành lập vào năm ngoái. Đây là chuyến thăm thứ ba của Putin tới Việt Nam và thứ hai kể từ khi ông trở lại Văn phòng Tổng thống Liên bang Nga.


Putin met Vietnam’s top three leaders, Prime Minister Nguyen Tan Dung, President Truong Tan Sang and party Secretary General Nguyen Phu Trong. At the conclusion of his visit it was announced that seventeen bilateral agreements had been reached, including five in the oil, gas and energy sectors. These agreements were a reflection of the broad-based nature of bilateral relations developed ten years after the collapse of the Soviet Union.
Putin đã gặp ba lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam – Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Kết thúc chuyến thăm, hai bên đã đạt được sự đồng thuận, kí kết tổng cộng mười bảy hiệp định song phương, trong đó có năm văn bản được kí kết ở các lĩnh vực dầu khí và năng lượng. Các thỏa thuận này phản ánh những dấu hiệu khá tích cực trên các lĩnh vực khác nhau giữa mối quan hệ hai nước kể từ sau Liên Xô cũ sụp đổ.

In March 2001, the Russian Federation became Vietnam’s first strategic partner. At that time the two sides mapped out eight major areas of cooperation:  political-diplomatic, oil and gas, hydro power and nuclear energy, trade and investment, science and technology, education and training, culture and tourism, military equipment, and technology.


Vào tháng Ba năm 2001, Liên bang Nga đã trở thành đối tác chiến lược đầu tiên của Việt Nam. Tại thời điểm đó, hai bên đã vạch ra tám lĩnh vực hợp tác chính giữa hai nước: Chính trị – ngoại giao, dầu khí, thủy điện, năng lượng hạt nhân, thương mại và đầu tư, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và du lịch, công nghệ và thiết bị quân sự.

Vietnam’s armed forces — air defense air force, navy, armor and artillery corps — are dependent on Soviet-era spare parts and equipment and badly in need of modernization. Between 1993 and 2000, Russia sold Vietnam twelve Su-27SK and Su-27UB Flanker jet aircraft, two missile attack corvettes, four radar systems, and other military equipment.

Lực lượng vũ trang của Việt Nam – các binh chủng không quân phòng không, hải quân, thiết giáp và pháo binh - phụ thuộc vào phụ tùng thiết bị thời Xô Viết, và rất cần hiện đại hóa. Từ năm 1993 đến năm 2000, Nga đã bán Việt Nam mười hai Su-27SK và Su- 27UB máy bay phản lực Flanker, hai tàu hộ tống tên lửa tấn công, bốn hệ thống radar và các thiết bị quân sự khác .

Between 2001 and 2008 bilateral relations were constrained by the poor state of the Russian economy; consequently the strategic partnership had very thin underpinnings. Since 2008 Russia regained political stability and its economy has been bolstered by the development of oil and gas reserves. Russia sought to exploit the market opportunities in fast growing Vietnam and the transport links between Vietnam and the Russian Far East.

Giữa năm 2001 và 2008, quan hệ song phương giữa hai nước bị hạn chế do nền kinh tế Nga đang trong giai đoạn đi xuống, và trong thực tế thì mối quan hệ đối tác chiến lược Việt – Nga có nền tảng khá mỏng. Từ năm 2008, Nga đã lấy lại sự ổn định nền kinh tế và chính trị của mình bởi sự gia tăng trữ lượng dầu khí và khí đốt. Nga đã tìm kiếm các cơ hội phát triển thị trường ở Việt Nam và thúc đẩy liên kết giao thông vận tải giữa Việt Nam và vùng Viễn Đông của Nga.

Article 8 of the agreement on strategic partnership specified that, “The two parties will strengthen their cooperation in military supplies to meet Vietnam’s and Russia’s security demands and not to oppose any third country.”

Điều 8 của Hiệp định về đối tác chiến lược đã xác định rặng, “Hai bên sẽ tăng cường hợp tác trong lĩnh vực thiết bị khí tài quân sự để đáp ứng nhu cầu cần thiết của Việt Nam và Liên bang Nga mà không liên quan đến nước thứ ba”.

Russian arms sales to Vietnam soon became a significant component of the strategic partnership.
Between 2008 and 2012, the Vietnam People’s Army Navy took delivery of two Gepard-class guided missile frigates and four Svetlyak-class fast patrol boats. The navy also procured 40 Yakhont/SS-N-26 and 400 Kh-35 Uran/SS-N-25 anti-ship missiles.
In 2009, Vietnam signed a contract for the purchase of six advanced Project 636 Varshavyanka (Kilo-class) conventional submarines.

Việc giao dịch vũ khí – khí tài quân sự giữa Việt Nam và Nga đã sớm trở thành phần quan trọng trong quan hệ đối tác chiến lược. Từ năm 2008 đến năm 2012, Hải quân Quân đội nhân Dân Việt Nam đã nhận bàn giao hai tàu khu trục tên lửa dẫn Gepard và 4 tàu tuần tra nhanh loại Svetlyak. Ngoài ra, Hải quân cũng mua 40 tên lửa Yakhont/SS-N-26 và 400 tên lửa Kh-35 Uran/SS-N-25 chống tàu. Trong năm 2009, Việt Nam đã ký hợp đồng mua 6 tàu ngầm 636 Varshavyanka (Kilo) hiện đại do Nga sản xuất.


Vietnam’s air defense air-force took delivery of twenty Su-30MK2V combat aircraft armed with Kh-59MK anti-ship cruise missiles, 100 R-73 (AA-11 Archer) short-range air-to-air missiles, 200 9M311/SA-19 Grison surface-to-air missiles, two batteries of S-300PMU-1 surface-to-air systems, four Kolchnya air defense search radars and three VERA passive radio locators. Vietnam also took delivery of two batteries of the K-300P Bastion coastal defense missiles.

Về lực lượng không quân và phòng không không quân, Việt Nam cũng đã nhận 20 máy bay chiến đấu Su-30MK2V trang bị tên lửa hành trình chống tàu Kh-59MK, 100 tên lửa không đối không tầm ngắn 100 R-73 (AA- 11 Archer), 200 tên lửa đất đối không 9M311/SA-19 Grison, hai tổ hợp tên lửa S-300PMU, 4 hệ thống ra-đa phòng không Kolchnya và ba bộ định vị vô tuyến thụ động Vera. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã nhận hai tổ hợp lên lửa phòng thủ bờ biển K-300P Bastion.


On July 27, 2012, Presidents Putin and Sang met in the resort city of Sochi and adopted a Joint Statement raising their bilateral relations to a comprehensive strategic partnership. Russian arms sales and service contracts to Vietnam now became the most significant component of their bilateral relations.

Ngày 27 tháng 7 năm 2012, Tổng thống Putin và Chủ tịch Sang đã gặp nhau tại thành phố nghỉ mát Sochi và thông qua một Tuyên bố chung nâng quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược toàn diện. Việc Nga bán vũ khí và hợp đồng dịch vụ với Việt Nam hiện nay đã trở thành thành tố quan trọng nhất của quan hệ song phương của hai nước.
Since 2012, Vietnam has placed an order for twelve more Su-30MK2s aircraft and two Gepard 3.9-class frigates configured for anti-submarine warfare. Russia also was given the contract to construct a military ship maintenance and repair facility at Cam Ranh Bay.


Từ năm 2012, Việt Nam đã đặt hàng hơn 12 máy bay Su-30MK2s và hai tàu khu trục nhỏ lớp Gepard 3.9 dành cho công tác chiến đấu chống tàu ngầm. Nga cũng đã nhận hợp đồng xây dựng cơ sở quân sự bảo trì và sửa chữa tàu tại Vịnh Cam Ranh.

On the eve of Putin’s November visit to Vietnam, Russia loaded Vietnam’s first Kilo-class submarine on a transporter for delivery to Vietnam and announced it would hand over a submarine crew training center that it was building in Cam Ranh Bay in January 2014.


Vào đêm trước chuyến viếng thăm của ông Putin tới Việt Nam. Nga đã tải tàu ngầm Kilo đầu tiên mà Việt Nam đặt mua để giao cho nước này. Nga cũng tuyên bố sẽ bàn giao một trung tâm đào tạo phi hành đoàn tàu ngầm, dự kiến sẽ được xây dựng trong khu vực Vịnh Cam Ranh vào tháng Giêng năm 2014.


At the conclusion of Putin’s visit this month, a Joint Statement was issued that briefly mentioned an agreement on defense cooperation had been reached without providing any details. Media reports and other official statements indicated that Russia would be heavily involved in servicing armaments and military equipment that it sold to Vietnam, and transferring military technology for licensed co-production. For example, it is likely that Vietnam and Russia will co-produce the Uran (SS-N-25 Switchblade) anti-ship cruise missile.




Vào lúc kết thúc chuyến viếng thăm của ông Putin trong tháng này, một Tuyên bố Chung được đưa ra đề cập đến thỏa thuận về hợp tác quốc phòng đã đạt được mà không được tiết lộ cho giới báo chí. Phương tiện truyền thông và báo chí chỉ ra rằng, Nga sẽ tập trung vào việc cung cấp, phát triển vũ khí và thiết bị quân sự mà đã bán cho Việt Nam. Ngoài ra, Nga cũng sẽ chuyển giao công nghệ quân sự cho Việt Nam để có thể cùng Việt Nam hợp tác sản xuất. Ví dụ, Việt Nam và Nga sẽ hợp tác sản xuất tên lửa hành trình chống tàu Uran (SS-N-25 Switchblade).


In an interview on November 9, on the eve of President Putin’s arrival, President Sang called for the two countries to “raise military cooperation to a higher plane.” In order “to create a new breakthrough” in the comprehensive strategic partnership, Sang also proposed “joint venture production, in research, in setting up service centers and after sales service as well as in exports to third countries.”

Trong bài trả lời phỏng vấn ngày mùng 9 tháng Mười một, đêm trước khi Putin sang thăm Việt Nam, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang kêu gọi hai nước “tăng cường hợp tác quân sự, nâng lên tầm cao mới”. Để tạo ra “các bước đột phá mới“ trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, hai nước cũng cần “hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, liên doanh sản xuất, nghiên cứu, thiết lập các trung tâm dịch vụ, dịch vụ bán hàng và xuất khẩu sang các nước khác”.


President Putin, in a statement issued prior to his arrival in Hanoi, noted that, “military and technical co-operation has taken a totally new dimension. It is no longer limited to export supplies, steps are being taken to launch the licensed production of advanced military equipment with the assistance of Russian companies in Vietnam.”


Tổng thống Putin, trong một tuyên bố đưa ra trước khi đến Hà Nội, cũng đã lưu ý rằng “quân sự và hợp tác kỹ thuật giữa hai nước đã được thực hiện theo chiều hướng hoàn toàn mới. Nó không còn giới hạn trong xuất khẩu vật tư, hai nước đang thực hiện những bước cần thiết để khởi động việc sản xuất thiết bị quân sự tân tiến với sự hỗ trợ của các công ty Nga tại Việt Nam”.


Russia is currently pressing Vietnam to give it exclusive access to the military ship repair, maintenance and logistics facilities being constructed at Cam Ran Bay.


Nga cũng đang hối thúc Việt Nam tạo điều kiện để Moscow xây dựng một trung tâm hậu cần dành cho việc sửa chữa, bảo trì các thiết bị quân sự và tàu biển.


Current and projected Vietnamese military acquisitions have generated a pressing need for appropriate maintenance, repair and training services that only Russian defense enterprises can provide. In addition, Russia has offered to expand the number of billets at its military academies to train Vietnamese military personnel.


Quân đội Việt Nam đang ngày càng được hiện đại hóa, tạo ra một nhu cầu cấp bách trong việc sửa chữa, đào tạo chuyên môn sâu – những điều mà các doanh nghiệp quốc phòng Nga có thể cung cấp. Ngoài ra, Nga cũng đã yêu cầu nâng cấp các cơ sở học viện quân sự để có thể đào tạo ra các chuyên gia quân sự tại Viêt Nam.


Australian Admiral James Goldrick (retired) recently noted with respect to Vietnam’s purchase of six Kilo-class submarines that “the Vietnamese are trying to do something very quickly that no navy in recent times has managed successfully on such a scale from such a limited base.” He concluded, “the new boats may have significant numbers of Russians on board for years to come.… Russian experts will certainly be need ashore.”

Cựu Đô đốc Úc James Goldrick đã có những ghi nhận liên quan đến việc mua 6 chiếc tàu ngầm lớp Kilo như sau, “Việt Nam đang cố gắng làm những điều mà không có lực lượng hải quân nào có thể thực hiện những việc tương tự trong thời gian gần đây, nhất là với một cơ sở khá khiêm tốn của Việt Nam ở thời điểm hiện tại“. Ông kết luận, “trong thời gian tới, số lượng tàu chiến được chuyển giao sẽ tăng cao… và các chuyên gia Nga chắc chắn sẽ phải lên bờ”.

In sum, “the bear” is coming back to Vietnam. In the coming years, Russian companies will assist Vietnam in servicing and maintaining the high end military platforms, equipment and armaments that it has purchased from Russia. Russian defense companies will assist Vietnam in co-producing a variety of missiles and armaments that will be fitted to its new air and sea platforms. And Russian military personnel and other specialists will assist Vietnam in developing its submarine fleet.


Tóm lại, “gấu tuyết” đã trở lại Việt Nam. Trong những năm tới, các công ty Nga sẽ hỗ trợ Việt Nam trong việc phục vụ và duy trì những trang thiết bị quân sự hiện tại mà Việt Nam đã mua từ Nga. Các công ty quốc phòng của Nga sẽ hỗ trợ Việt nam trong việc hợp tác sản xuất các loại tên lửa và vũ khí phòng không và đường biển trong thời gian tới. Các nhân viên cũng như các chuyên gia của Nga cũng sẽ giúp Việt Nam trong việc vận hành và đào tạo hạm đội tàu ngầm.


Russian military facilities at Cam Ranh Bay also can be expected to resupply and repair Russian Navy ships in transit from the Far East to the Gulf of Aden and back. As the November 14 Joint Statement revealed, Russian-Vietnamese oil and gas joint ventures will continue to explore and produce hydrocarbons on Vietnam’s continental shelf. Russia and Vietnam therefore will have congruent interests in peace and stability in the South China Sea.

Các cơ sở quân sự được xây dựng tại Vịnh Cam Ranh có thể dự kiến sẽ là nơi tiếp tế và sửa chữa tàu hải quân của Nga trên đường từ VIễn Đông đến Vịnh Aden và ngược lại. Như Tuyên bố Chung ngày 14 tháng Mười một tiết lộ, liên doanh dầu khí Việt Nam – Nga sẽ tiếp tục thăm dò và sản xuất khí đốt hydrocarbon trên thềm lục địa Việt Nam. Nga và Việt Nam do đó sẽ có lợi ích đồng dạng trong việc duy trì hòa bình và ổn định tại khu vực Biển Đông.





Translated by Huệ Đăng




http://thediplomat.com/2013/11/the-bear-is-back-russia-returns-to-vietnam/

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn