|
|
Why the Poor Need
Property Rights
|
Tại sao người nghèo
lại cần quyền sở hữu
|
|
|
James Peron
FEE,
OCTOBER 01, 2002
|
James Peron
FEE,
01/10/2002
|
Early in the morning the streets below my flat would
become a beehive of activity. Small stands were scattered everywhere,
cramming every available inch of sidewalk. Small bundles of bananas, packets
of tomatoes, or potatoes were for sale. Newspaper vendors grabbed the busy
corners. Hawkers with every imaginable product had set up business.
|
Ngay từ sáng sớm những dãy phố bên dưới căn phòng của tôi
đã hoạt động nhộn nhịp như một tổ ong. Những quầy hàng nhỏ bé nằm rải rác
khắp nơi, chen nhau trong từng khoảng trống trên vỉa hè. Những rổ chuối nhỏ,
những túi khoai tây hay cà chua được bày bán khắp nơi. Những người bán báo
bám lấy từng góc phố đông đúc. Những người bán hàng rong với mọi thứ sản phẩm
có thể tưởng tượng được tiến hành công việc làm ăn của mình.
|
As the day waned the activity didn’t cease, though it did
slow down. The vendors of vegetables went home. Now the streets were perfumed
with the aroma of boerewors (sausage) on the grill. Walking down the streets
well after dark, I was surrounded by food vendors hoping to cash in with
those looking for a late-night snack.
|
Chiều tà, hoạt động có giảm đi nhưng không chấm dứt hẳn.
Những người bán rau đã trở về nhà. Bây giờ phố xá sặc mùi xúc xích nướng. Đi
dọc phố sau khi trời đã tối được một lúc, tôi bị những người bán thức ăn vây
quanh, họ hi vọng bán món hàng của mình cho những người tìm món ăn nhẹ vào
buổi tối.
|
These vendors are among the first memories I have of
living in Africa. Not only was I in Africa, I was in the most densely
populated area on the entire continent–the Hillbrow section of Johannesburg.
Those vendors were a key element of the life in Hillbrow. Some even say they
were responsible for its demise. Today Hillbrow is a slum, filled with prostitutes,
drug pushers, illegal aliens, and rundown buildings. But just ten years ago
it was the center for the chic of Johannesburg.
|
Những người bán hàng này là những thứ đầu tiên tôi nhớ lại
khi rời châu Phi. Tôi không chỉ ở châu Phi, tôi đã ở trong những khu vực đông
dân nhất trên lục địa này – đấy là khu Hillbrow ở Johannesburg. Những người
bán hàng rong là thành phần chủ yếu của đời sống ở Hillbrow. Một số người
thậm chí còn nói rằng chính họ làm cho nó suy sụp. Hiện nay Hillbrow là một
khu ổ chuột, đầy gái điếm, bọn buôn bán ma túy, người nước ngoài rất đáng ngờ
và những ngôi nhà đổ nát. Thế mà mới mười năn trước nó chính là trung tâm
thời trang của Johannesburg.
|
The hawkers were blamed for much of the demise because
their stands were run down. Each day they left behind growing piles of
rubbish and rotting food. Just walking down the sidewalk became impossible as
each square foot was crammed with more and more hawkers as the weeks went by.
|
Những người bán hàng rong bị lên án là nguyên nhân của sự
suy sụp vì hàng quán của họ chiếm hết vỉa hè. Mỗi ngày những đống rác và thức
ăn thiu thối mà họ bỏ lại càng cao thêm mãi lên. Không thể đi bộ trên vỉa hè
vì tuần nào cũng có thêm những người bán hàng rong mới chen chúc nhau ở đó.
|
The honorable attempt to make a living had become a
nuisance. As the politics of South Africa changed, government enforcement of
hawking regulations changed. At first the new government attempted to curry
favor with the hawkers and no regulations were enforced. As time went by the
central business district became a no-go area. The luxurious Carlton Hotel
closed its doors and 50 floors of hotel rooms now sit empty. Even the
Johannesburg Stock Exchange fled Johannesburg for the cleaner affluence of
Sandton. Where I once walked well past midnight I refuse to enter in broad
daylight. As the inner city crumbled the government fluctuated between strict
enforcement and no enforcement of the hawking laws.
|
Cố gắng rất đáng trân trọng trong việc kiếm sống của người
này lại trở thành khó chịu đối với người khác. Khi đời sống chính trị ở Nam
Phi thay đổi, việc thực thi quy định của chính phủ về bán hàng rong cũng thay
đổi theo. Thời gian đầu chính phủ mới tìm cách bợ đỡ những người bán hàng
rong và không đưa ra quy định nào hết. Nhưng sau một thời gian, khu phố buôn
bán trung tạm trở thành nơi không thể đi lại được nữa. Khách sạn sang trọng
tên là Carlton Hotel đóng cửa và phòng nghỉ của cái khách sạn 50 tầng này
đành bỏ không. Thậm chí thị trường chứng khoán Johannesburg cũng chạy sang
khu vực thịnh vượng và sạch sẽ hơn của Sandton. Tôi sẽ không dám đi vào ban
ngày nơi tôi từng một lần đi qua vào lúc nửa đêm. Khi khu vực trung tâm suy
sụp, chính phủ lúng túng không biết nên nghiêm khắc hay không cần thực thi
luật lệ về bán hàng rong nữa.
|
But whatever sins are ascribed to the hawkers, can you
really fault them? In a nation of over 40 million, less than 25 percent are
employed–a problem exacerbated by new labor laws. Sidewalks were designed for
pedestrians not for street trading. Yet without street trading, the hawkers’
children would go hungry.
|
Nhưng dù người ta có gán cho những người bán hàng rong
những tội lỗi gì đi nữa thì bạn có thật sự phê phán họ hay không? Trong một
đất nước với trên 40 triệu dân, mà chỉ có dưới 25% người có việc làm thì luật
lao động mới chỉ làm cho vấn đề trầm trọng thêm mà thôi. Vỉa hè là để dành
cho người đi bộ chứ không phải cho hàng quán. Nhưng không có hàng quán thì
con em những người bán hàng rong sẽ bị đói.
|
Anger would flare up over the hawkers, and to this day the
conflict continues, since even now the sidewalks are considered public
property or a commons. Economists have written of the “tragedy of the
commons,” and this is just one more example of how communally owned property
is overexploited in ways that end up counterproductive for just about
everyone.
|
Sự giận dữ sẽ còn tiếp tục đổ lên đầu lên cổ những người
bán hàng rong, và hiện nay cuộc xung đột vẫn còn tiếp tục vì ngay cả bây giờ
vỉa hè vẫn được coi là tài sản công cộng hay là “của chung”. Các nhà kinh tế
học đã và đang viết về “bi kịch của tài sản chung” và đây là một ví dụ nữa
của việc tài sản chung bị bóc lột một cách quá mức, đến nỗi trở thành có hại
cho tất cả mọi người.
|
Even the litter problem is a problem of common ownership.
Economist Walter Block has noted that litter is something that takes place
only on public property. Sure, trash is thrown down on private property open
to public use–places like shopping malls, ballparks, and movie theaters. But
in those venues the owners, instead of sending police out to give tickets to
litterers, send out cleaners. Cleaning is just part of doing business.
|
Ngay cả vấn đề rác cũng là vấn đề của sở hữu chung. Nhà
kinh tế học Walter Block đã từng nhận xét rằng vứt rác chỉ xảy ra ở những nơi
thuộc tài sản công mà thôi. Chắc chắn là rác rưởi thường bị ném vào những chỗ
thuộc tài sản riêng nhưng được mở ra cho mọi người cùng sử dụng – đấy là
những chỗ như siêu thị, sân thể thao, rạp chiếu phim. Nhưng ở những chỗ đó,
người chủ sở hữu không gọi cảnh sát tới phạt, mà đưa người tới dọn dẹp. Dọn
dẹp là một phần của việc kinh doanh.
|
But the world of street trading lacks property rights, and
that brings a plethora of problems. The traders have no property right to
their stands and know that they may be evicted at any moment. Periodically
battalions of police sweep down on them and confiscate their goods and their
stands. As a result, the traders never bother investing in decent trading
stands. Any old piece of cardboard on the ground will do. Anything else would
represent an investment they couldn’t afford to lose.
|
Nhưng thế giới của hàng rong lại không có quyền sở hữu, và
vì vậy mà mới có nhiều vấn đề. Người buôn bán không có quyền sở hữu chỗ đặt
quầy hàng và biết rằng họ có thể bị đuổi đi bất cứ lúc nào. Thỉnh thoảng lại
có một đội cảnh sát tới đuổi, tịch thu hàng hóa và tịch thu cả hàng quán nữa.
Kết quả là người bán hàng không quan tâm tới việc đầu tư vào hàng quán. Chỉ cần
môt tấm bìa các tông trải ngay trên nền đất cũng xong. Thêm nữa, sẽ trở thành
khoản đầu tư mà họ không thể kham nổi vì sợ mất.
|
Hernando de Soto noticed the same problem with street
traders in Peru. He wrote: “The threat of eviction always hangs over street
vendors, especially when there is traffic congestion or growing pressure from
residents. Practically speaking, this rules out any long-term investment in
improving the location, forcing the vendors to keep selling from barrows
rather than from stalls made with proper building materials and equipped with
running water, electricity, refrigeration, storage, display space, or any of
the other facilities that permit the supply of a steady volume of
merchandise. The installation of such improvements as toilets, parking lots,
or gardens would be impracticable.”1
|
Hernando de Soto cũng nhận thấy vấn đề tương tự như thế ở
những người bán hàng rong ở Peru. Ông viết như sau: “Nguy cơ bị đuổi luôn
luôn đe dọa những người bán hàng rong, nhất là khi bị tắc đường hay dưới áp
lực của người dân sống trong khu vực. Nói một cách thực tế, điều đó ngăn chặn
mọi ý định đầu tư dài hạn nhằm cải thiện khu vực, buộc những người bán hàng
rong tiếp tục sử dụng những chiếc xe đẩy chứ không làm hàng quán bằng vật
liệu xây dựng, có điện, nước, tủ lạnh, kho và những vật dụng khác đủ chứa số
hàng hóa cần thiết. Xây dựng những tiện nghi như toilet, chỗ để xe hay vườn
cây sẽ là việc làm không thiết thực”1
|
One solution for the conflict that arises when competing
interests attempt to grab a commons is privatization. As I have pointed out
before, the only alternative is the use of authoritarian measures, such as
police enforcement, fines, and confiscations.2
|
Giải pháp cho cuộc xung đột khi những quyền lợi cạnh tranh
với nhau có ý định chộp giật những tài sản thuộc quyền sở hữu chung là tư
nhân hóa. Như tôi đã nói bên trên, giải pháp thay thế còn lại duy nhất là
những biện pháp có tính độc đoán: công an, phạt và tịch thu.2
|
Property Works
In one area of Johannesburg the private solution has been
tried and is working. Private management districts have been created by
business owners in attempts to solve the problems. One such district is just
down the road from me, the Rosebank Management District (RBMD).
|
Quyền sở hữu có tác
dụng
Trong một khu vực ở Johannesburg, biện pháp tư hữu đã được
đem ra thử nghiệm và có tác dụng. Các chủ doanh nghiệp tư nhân đã thành lập
những khu vực quản lí tư nhân nhằm giải quyết những vấn đề phát sinh. Một khu
vực như thế nằm ngay trên con đường trước khu nhà tôi, gọi là Ban quản lí
Rosebank (RBMD).
|
There was a hawker problem there. A small stretch of Craddock
Avenue runs between the Mall of Rosebank and a few smaller malls across the
road. Some 140 hawkers crammed into this two-block area. Attempts to restrict
the amount of sidewalk used were fruitless since once the enforcement
stopped, hawkers would capture as much space as possible for themselves.
Pedestrians were often forced to walk in the street. Just one person stopping
to look at a curio for sale would block the walking space that was left. Each
hawker, acting in his own rational self-interest, had engaged in behavior
that collectively was detrimental–all because no one had a right to the
property he was using.
|
Ở đây cũng có vấn đề hàng rong. Một đoạn phố nhỏ tên là
Craddock chạy giữa siêu thị Rosebank và một vài cửa hàng nhỏ ở bên kia đường.
Khoảng 140 người bán hàng rong chen chúc trong khu vực này. Mọi cố gắng nhằm
ngăn chặn việc chiếm đoạt vỉa hè đều không đem lại kết quả vì khi lực lượng
cưỡng chế vừa ra đi là những người bán hàng rong lại chiếm lấy càng nhiều chỗ
càng tốt. Người đi bộ nhiều khi buộc phải bước xuống đường. Chỉ cần một người
dừng lại để xem món đồ là lối đi đã không còn. Mỗi người bán hàng rong, trong
khi hành động vì lợi ích cá nhân của mình, lại có những hành vi mà tất cả đều
bị thiệt hại – tất cả, bởi vì không người nào có quyền sở hữu cái tài sản mà
người đó đang sử dụng.
|
The RBMD had a solution. First, the street itself was ceded
to it. The street was closed off to through traffic. Second, most of the
street was turned into an outdoor area for the public. A two-story market for
street traders was built and a private flea-market firm was hired to run the
premises. Some 60 street traders were then chosen to occupy the building at
minimal rent. Just below the building, where the hawkers used to trade, the
RBMD has traditional African dancers putting on regular shows. Restaurants in
the area have tables outside. The district, which was starting to run down,
has become a major tourist attraction.
|
RBMD có giải pháp. Thứ nhất, dãy phố được nhượng lại cho
họ. Con phố bị đóng cửa, không cho xe chạy qua nữa. Thứ hai, hầu như toàn bộ
dãy phố được biến thành khu vực ngoài trời cho công chúng sử dụng. Một khu
chợ hai tầng được xây dựng cho những người bán hàng rong và một công ty quản
lí được thuê để cai quản công việc. Khoảng 60 người bán hàng rong được chọn
vào bán trong tòa nhà này với khoản phí tối thiểu. Ngay bên dưới tòa nhà, nơi
những người bán hàng rong từng sử dụng làm chỗ bán hàng, được RBMD dùng làm
nơi biểu diễn của các diễn viên múa truyền thống. Các khách sạn ở đây đặt cả
bàn ra ngoài vỉa hè. Khu vực từng xuýt bị lụn bại lại trở thành nơi thu hút khách
du lịch.
|
The RBMD also hired a team of security guards and
cleaners. With improved security, shoppers, formal traders, and hawkers
benefit. In addition, the city no longer has to worry about cleaning up, as
the RBMD takes care of that as well.
|
RBMD còn thuê cả đội bảo vệ và vệ sinh viên nữa. An ninh
được cải thiện, cả người mua, người bán hàng có môn bài và cả những người bán
hàng rong đều được lợi. Ngoài ra, thành phố không còn phải lo dọn dẹp nữa vì
RBMD đã quan tâm tới chuyện này rồi.
|
Previously, conflict was inevitable, because clashing incentives
were allowed to operate. Once the informal traders were brought into a market
system with property rights, formal and informal traders could cooperate for
mutual benefit.
|
Trước đây, xung đột là không tránh khỏi. Nhưng khi những
người bán hàng không có môn bài được đưa vào hệ thống thị trường với quyền sở
hữu thì những người bán hàng có môn bài và không có môn bài có thể hợp tác
với nhau vì quyền lợi chung.
|
Another way to end the commons is the creation of
street-trading stands. Here specific sites are established, and traders who
operate there are given ownership of the stand itself. By granting a property
right in the land they are using anyway, the city can create a new set of
incentives for street traders.
|
Một cách nữa là dựng những quầy hàng trên hè phố. Người ta
dành ra những khu vực riêng và người bán hàng được giao quyền sở hữu quầy
hàng đó. Bằng cách bảo đảm cho người ta quyền sở hữu khu đất mà đằng nào
người ta cũng sử dụng, thành phố có thể động viên những người bán hàng rong.
|
Under current law, each stand represents dead capital: its
value can’t be used properly because it lacks legal recognition. Throughout
the Third World, as de Soto has so aptly pointed out in The Mystery of
Capital, there exists vast amounts of dead capital.3 Informal
housing without title, underground businesses, street traders–all represent a
portion of the Third World’s dead capital. Legal recognition alone would
create vast amounts of wealth almost over night, wealth the poor could tap
into for expansion and to create further wealth.
|
Theo luật hiện hành, quầy hàng là vốn chết: giá trị của nó
không được sử dụng một cách đúng đắn vì không được pháp luật công nhận. Trong
các nước thuộc thế giới thứ III, như de Soto đã chỉ rõ trong tác phẩm Bí ẩn
của vốn (The Mystery of Capital), có một số lớn vốn chết.4 Nhà
chưa có quyền sở hữu, doanh nghiệp ngầm, những người bán hàng rong – tất cả
đều là một phần vốn chết của thế giới thứ III. Chỉ cần công nhận về mặt pháp
lí là một số tài sản khá lớn đã được hình thành chỉ sau một đêm, đấy là số
tài sản mà người nghèo có thể sử dụng để mở rộng và tạo thêm tài sản mới.
|
Transferable Sites
A property-rights system allows transfer of sites. Current
trading regulations amount to a law of capture. A trader can use a site
provided he has grabbed it before other traders do so. But transferring sites
under such a system can be difficult, since the traders have no property
rights. This creates economic stagnation and makes it difficult for street
traders to take advantage of an evolving marketplace. It will quickly become
apparent that not all sites have equal economic value for all traders. If
traders have property rights, they will be able to arrange site usage
according to economic value. Some sites will increase in value, and just as
formal businesses sort themselves out according to profitability in a
specific location, the same thing will happen with these street traders as
well. In Peru, de Soto discovered that extralegal systems of property
ownership eventually evolved allowing vendors to sell specific sites. And
like all products, the sites varied in price.
|
Vị trí có thể sang
nhượng
Quyền sở hữu tạo điều kiện cho người ta sang nhượng các vị
trí. Những quy định về buôn bán hiện hành chẳng khác gì luật ăn cướp. Người
bán hàng có thể sử dụng vị trí với điều kiện là người đó giành được nó trước
khi những người khác kịp làm như thế. Nhưng với hệ thống pháp luật như thế,
chuyển giao vị trí là việc khó khăn vì người bán hàng không có quyền sở hữu.
Điều đó làm cho kinh tế trì trệ và những người bán hàng khó lợi dụng được ưu
thế của vị trí buôn bán. Điều này là rõ ràng bởi vì không phải tất cả mọi chỗ
đều có giá trị kinh tế như nhau cho tất cả những người bán hàng. Nếu những
người bán hàng có quyền sở hữu thì họ sẽ có thể thu xếp việc sử dụng vị trí
phù hợp với giá trị kinh tế cả nó. Giá trị một số vị trí sẽ tăng, những người
bán hàng có lợi nhuận cao nhờ vị trí đặc thù, người bán hàng rong cũng thế. Ở
Peru, de Soto phát hiện ra rằng quyền sở hữu bên ngoài hệ thống pháp luật
hiện hành tạo điều kiện cho những người bán hàng rong bán vị trí của họ. Và
cũng giống như mọi hàng hóa khác, vị trí cũng có giá khác nhau.
|
Flexibility in usage could also mean that one vendor might
use a site in the morning while a different vendor uses it in the afternoon.
Exactly such flexibility was noted among the informal traders by de Soto. He
writes:
|
Tính linh hoạt trong sử dụng còn có nghĩa là một người có
thể sử dụng vị trí vào buổi sáng, còn người khác thì sử dụng vào buổi chiều.
De Soto đã nhận thấy hiện tượng như thế, ông viết:
|
It is not unusual, for instance, to see the pitch occupied
by the breakfast seller in the early morning hours who then, around 9 or 10
in the morning, makes way for the juice seller who, at midday, makes way for
the lunch seller who, after four in the afternoon, is followed by the vendor
of herbal remedies, who later gives way to the vendor of Chinese food, who
stays until the end of the day. These shifts enable a single barrow to
operate like a large store, maximizing its commercial value. On their own,
the different vendors offer only a small range of goods and services. When
proximity does not operate satisfactorily, they try to improve it by
establishing shifts, adapting the barrow’s use to the different demands of
consumers as they arise in the course of the day, thus exploiting the
location’s commercial value around the clock.4
|
Thí dụ, không có gì bất thường khi thấy một chỗ mà buổi
sáng có người bán đồ điểm tâm, khoảng 9 hay 10 giờ thì lại có người bán nước
ngọt, rồi đến trưa thì nhường cho người bán cơm trưa, sau đó, khoảng 4 giờ
chiều lại được thay bằng người bán thuốc làm bằng thảo mộc, rồi đến tối lại
được thay bằng người bán các món ăn Trung Hoa. Việc quay vòng như thế có thể
biến một cái xe đẩy thành một tiệm lớn, góp phần tối đa hóa giá trị của nó.
Tự mình, những người bán hàng khác nhau này chỉ cung cấp được một ít loại
hàng hóa và dịch vụ. Nếu bán mãi một vài thứ không hiệu quả thì họ sẽ cải
thiện vị trí bằng cách xoay vòng, làm cho cái xe đẩy đáp ứng được nhu cầu
khác nhau của người tiêu dùng suốt cả ngày, tức là tận dụng được giá trị
thương mại của vị trí suốt hai mươi bốn giờ một ngày”4
|
The creation of property rights will also change the
behavior of street traders. It gives them new incentives to improve their
businesses. It allows for investment that is currently discouraged. And it
permits the transfer of business rights. Such a system of property rights
will help move informal traders into the formal arena. Instead of being a
dead end, street trading could become the incubator for vibrant, growing
businesses. An entire class of entrepreneurs could be created, with all the
benefits such individuals bestow on society.
|
Việc thiết lập quyền sở hữu còn làm thay đổi cả hành vi
của những người bán hàng rong. Nó khuyến khích người ta cải thiện công việc
kinh doanh của chính họ. Nó tạo điều kiện cho người ta đầu tư. Nó cho phép
người ta chuyển nhượng quyền kinh doanh. Hệ thống quyền sở hữu như thế giúp
biến những người bán hàng không có môn bài thành khu vực có môn bài. Buôn bán
trên đường phố có thể trở thành nơi ươm mầm cho những doanh nghiệp có khả
năng tăng trưởng và đầy sức sống. Cả một tầng lớp doanh nhân có thể được hình
thành, với tất cả những lợi ích mà họ có thể cống hiến cho xã hội.
|
A property-rights approach induces not only greater flexibility
but also more efficient policing of trading areas. Local management districts
know their areas. They know who should or should not be on a specific site.
They are aware when a trader is causing problems for other traders and who is
responsible for refuse problems. So they are better able to micromanage
specific street locations. A mega-city with millions of people and tens of
thousands of streets can’t possibly compete in flexibility with such
localized management.
|
Tiếp cận bằng quyền sở hữu đem lại không chỉ sự uyển
chuyển mà còn hiệu quả hơn trong việc giữ gìn trật tự trong khu vực buôn bán.
Ban quản lí tại chỗ biết rõ khu vực của mình. Họ biết ai cần hay ai không cần
có mặt tại vị trí nào. Họ còn biết ngay khi người bán hàng này gây khó khăn
cho người bán hàng kia và ai là người chịu trách nhiệm giải quyết. Nghĩa là,
họ có khả năng quản lí những khu vực nhỏ, đặc thù trên đường phố. Những thành
phố lớn với hàng chục triệu dân và hàng ngàn đường phố không thể cạnh tranh
về mặt uyển chuyển với sự quản lí đã được địa phương hóa như thế.
|
In Lima, Peru, the city government came to recognize that
attempts to ban street trading were useless. The city government then decided
to create specific market locations for street traders. But according to de
Soto, the municipality “did not try to monopolize the building of markets. On
the contrary, with the agreement of the central government, it exempted
anyone interested in building such markets from paying taxes and even fees
for building permits, and it even established more favorable rules for
vendors’ organizations.” The result was that between 1964 and 1970 informal
traders “built four markets for each market built by the state.”5
|
Ở Lima, Peru, chính quyền thành phố đã phải công nhận rằng
cấm buôn bán trên hè phố là việc làm vô ích. Sau đó, chính quyền thành phố
quyết định tạo ra những khu chợ cho người bán hàng rong. Nhưng theo de Soto,
chính quyền thành phố “không tìm cách giữ độc quyền trong việc xây chợ. Ngược
lại, được sự đồng ý của chính quyền trung ương, những người muốn xây chợ còn
được miễn thuế, thậm chí miễn cả phí xin phép xây dựng nữa, chính quyền thậm
chí còn đưa ra những luật lệ có lợi cho các tổ chức của người buôn bán”. Kết
quả là từ năm 1964 đến năm 1970, “hễ nhà nước xây một chợ thì những người
buôn bán không có môn bài xây được bốn cái”.5
|
Street traders represent the beginning of what de Soto
calls “a long march” to capitalism. When hampered and harassed by government,
the natural evolution of property rights is prevented. The result is decline
and decay. But when, instead of controlling, government acts as a protector
of property rights, then street trading is the first step toward prosperity.
|
Những người bán hàng rong đại diện cho cái mà de Soto gọi
là “cuộc trường chinh” tới chủ nghĩa tư bản. Nếu bị chính quyền cản trở và
quấy rầy thì quyền sở hữu không thể phát triển được. Kết quả sẽ là suy sụp và
đổ nát. Nhưng nếu thay vì kiểm soát, chính phủ lại hành động như là người bảo
vệ quyền sở hữu thì việc buôn bán trên đường phố sẽ là bước khởi đầu trên con
đường dẫn tới thịnh vượng.
|
James
Peron was the president of Laissez Faire Books responsible for reviving LFB.
|
James Peron nguyên là chủ
tịch dự án Laissez Faire Books và biên tập viên tạp chí Laissez Faire!
|
|
Translated by Phạm Nguyên Trường
|
Notes
[1] Hernando de Soto, The Other Path (New York: Harper
& Row, 1989), pp. 66-67.
[2] “Liberty, Property and Crime,” Ideas on Liberty,
November 2001, p. 11.
[3] Hernando de Soto, The Mystery of Capital (New York:
Basic Books, 2000).
[4] Hernando De Soto, The Other Path, p. 67.
[5] Ibid., p. 81.
|
Chú thích:
[1] Hernando de
Soto, Con đường khác (The Other Path), New York: Harper & Row, 1989),
trang 66-67.
[2] Quyền tự do,
quyền sở hữu và tội phạm (Liberty, Property and Crime), Ideas on Liberty,
November 2001, trang 11.
[3] Hernando de
Soto, Bí ẩn của vốn (The Mystery of Capital), New York: Basic Books, 2000.
[4] Hernando de
Soto, Con đường khác (The Other Path), trang 67.
[5] Sách đã dẫn,
trang 81.
|
http://www.thefreemanonline.org/features/why-the-poor-need-property-rights/
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Saturday, February 9, 2013
Why the Poor Need Property Rights Tại sao người nghèo lại cần quyền sở hữu
Labels:
CIVICS-CÔNG DÂN
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn