|
|
China and Cambodia:
With Friends Like These
|
Trung Quốc và
Cam-pu-chia: Bạn bè thế này đây
|
By: Prashanth Parameswaran
|
Prashanth Parameswaran
|
When Chinese President Hu Jintao paid his most recent
state visit to Cambodia in April 2012, both sides agreed to designate 2013
the “China-Cambodia Year of Friendship” in a lavish commemoration of the 55th
anniversary of their relationship (Xinhua, April 2, 2012). Although Cambodia
remains arguably Beijing’s closest ally in Southeast Asia today and there is
plenty to celebrate in the year ahead, several important limits to bilateral
ties could nonetheless pose challenges for both sides in the future.
|
Trong chuyến thăm Campuchia tháng 4/2012 của Chủ tịch
Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, hai bên nhất trí lấy năm 2013 là “Năm Hữu nghị Trung
Quốc-Campuchia” nhân kỷ niệm 55 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai
nước. Mặc dù hiện nay Phnôm Pênh là đồng minh thân thiện nhất của Bắc Kinh ở
khu vực Đông Nam Á và hai bên sẽ có nhiều sự kiện kỷ niệm quan trọng trong
năm 2013, nhưng một số hạn chế trong quan hệ song phương có thể tạo nên những
thách thức cho cả hai bên trong tương lai.
|
Sino-Cambodian relations date back to the days of the
Khmer Empire, which lasted from the 9th to 15th centuries (Global Times,
August 25, 2010). The most famous historical point of the relationship was
during the Yuan Dynasty, when the Chinese envoy Zhou Daguan visited Cambodia
in 1296 and wrote what remains one of the most detailed accounts of the city
of Angkor and Khmer society [1]. Since modern diplomatic relations were
established in 1958, China has backed various players in Cambodia to preserve
its influence there, ranging from ex-King Norodom Sihanouk in the 1960s to
the notorious Khmer Rouge in the 1970s and 1980s and now its current Prime
Minister Hun Sen.
|
Mối quan
hệ giữa Trung Quốc và Campuchia từ thời Vương quốc
Khmer, kéo dài từ
thế kỷ 9 đến thế kỷ 15 (Global Times, ngày
25 tháng 8 năm 2010). Thời điểm lịch sử
nổi tiếng nhất của mối quan hệ này
là vào thời triều đại nhà Nguyên, khi phái
viên Trung Quốc Chu Đạt Quan đã đến
thăm Cam-pu-chia năm 1296 và đã ghi chép lại trong một trong những văn bản còn
lưu lại ngày nay mô tả chi tiết nhất thành phố Angkor và
xã hội Khmer [1].
Kể từ khi quan hệ ngoại giao thời hiện đại được thành lập năm 1958, Trung Quốc đã ủng hộ các nguyên
thủ khác nhau tại Campuchia để duy
trì ảnh hưởng của mình ở đó, từ cựu Quốc vương Norodom Sihanouk trong những năm 1960 Khmer Đỏ khét tiếng trong
những năm 1970 và 1980 và bây giờ Thủ tướng hiện nay của nó Hun Sen
.
|
The latest major turn in Sino-Cambodian relations came in
1997 when Hun Sen ousted Sihanouk’s son, Prince Norodom Ranaridh, and ended a
coalition government in a violent coup. While the international community
condemned the move and isolated Cambodia, China not only recognized the
coup’s result but showered Hun Sen with aid. Since then, Cambodia, still one
of the world’s poorest countries, has welcomed Chinese trade and investment
because it is not tied to good governance reforms championed by the West.
Beijing in turn has viewed Phnom Penh as not only a source of energy and
minerals to fuel its own development, but a useful friend to support its
sovereignty claims against Southeast Asian states; a partner to address
various cross-border issues like narcotics and trafficking; and a crucial
ally to advance its objectives in Southeast Asia and beyond.
|
Bước ngoặt quan trọng và mới nhất trong quan hệ Trung
Quốc-Campuchia diễn ra năm 1997 khi Thủ tướng Campuchia Hun Sen hiện nay lật
đổ con trai của Sihanouk, Hoàng tử Norodom Ranaridh và chấm dứt một chính phủ
liên minh trong một cuộc đảo chính bạo lực. Mặc dù, cộng đồng quốc tế lên án
hành động đó và cô lập Campuchia, nhưng Trung Quốc không những công nhận kết
quả của cuộc đảo chính, mà còn cung cấp viện trợ cho Hun Sen. Từ đỏ, tuy
Campuchia, một trong những nước nghèo nhất thế giới, hoan nghênh các khoản
đầu tư và thương mại của Trung Quốc, bởi vì Hun Sen không muốn tiến hành các
cải cách quản lý hiệu quả của phương Tây. Ngược lại, Bắc Kinh coi Phnôm Pênh
không những là một nguồn cung cấp năng lượng và khoáng sản để đẩy mạnh phát
triển kinh tế cua Trung Quốc mà còn là một nước có ích để hỗ trợ các tuyên bố
chủ quyền của Bắc Kinh chống lại các nước Đông Nam Á. Campuchia còn là một
đối tác để giải quyết các vấn đề qua biên giới khác nhau như ma túy và buôn
lậu, cũng là một đồng minh quan trọng đế thúc đẩy các mục tiêu của Bắc Kinh ở
trong và ngoài Đông Nam Á.
|
China is Cambodia’s largest trading partner and investor,
and its economic footprint has grown rapidly over the past two decades.
Bilateral trade has increased from around $76 million in 1996 to more than
$2.5 billion in 2012, and both countries have vowed to double it by 2017
(Xinhua, December 4, 2012). Between 1994 and 2011, China invested in nearly
400 projects in Cambodia totaling $9 billion dollars—initially in the
manufacturing and garment sectors but increasingly in natural resources and
energy (Xinhua, December 26, 2011). China also has funded upgrades of
airfields and ports that could help it leverage Cambodia’s strategic location
at the heart of Southeast Asia to project power into the Gulf of Thailand and
the Strait of Malacca. Beijing’s economic influence is only set to grow over
the next few years. Earlier this week, two Chinese firms reached a deal to
build a rail line, steel plant and port worth $11 billion by 2016—by far the
biggest ever investments into Cambodia (South China Morning Post, January 3).
|
Trung Quốc là đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất của
Campuchia. Thương mại song phương tăng từ 76 triệu USD năm 1996 lên hơn 2,5
tỷ USD năm 2012 và hai nước tuyên bố sẽ tăng gấp đôi vào năm 2017. Từ năm
1994-2011. Trung Quốc đầu tư gần 400 dự án tại Campuchia với tổng giá trị 8,8
tỷ USD, ban đầu chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và may mặc, nhưng sau đó
tăng cường khai thác tài nguyên thiên nhiên và năng lượng. Trung Quôc cũng
giúp Campuchia nâng cấp các sân bay và bến cảng để nâng cao vị thế chiến lược
ở khu vực Đông Nam Á. Ảnh hưởng kinh tế của Bắc Kinh đối với Phnôm Pênh sẽ
tăng mạnh trong năm tới. Đầu tháng 1/2013, hai công ty Trung Quốc đạt được
thỏa thuận xây dựng một tuyến đường sắt, một nhà máy sản xuất thép và bến
cảng trị giá 11,2 tỷ USD, dự kiến hoàn thành năm 2016 và đây là các khoản đầu
tư lớn nhất từ trước đến nay của Trung Quốc tại Carnpuchia. (Bưu Điện Hoa Nam
Buổi Sáng , ngày 3 tháng 1)
|
The relationship also has expanded into the security
sphere over the last few years. In terms of law enforcement, since a
cooperation agreement was inked in 2008, Yunnan province has given equipment
and technical assistance to Cambodia’s National Authority for Combating Drugs
(NACD) to crack down on drug-trafficking and terrorism along troubled border
areas (Xinhua, January 1). Military-to-military ties also have blossomed, and
Beijing is Cambodia’s largest provider of military aid today. Both sides
signed a military cooperation pact in May 2012 where China agreed to provide
Cambodia with $17 million in military aid and to construct a military
training facility in the country (Xinhua, May 28, 2012). In addition, Beijing
periodically signs off on loans to Phnom Penh for various military equipment
and training programs, including patrol aircraft, military helicopters and a
recent six-week course for Cambodian armed forces to clear landmines (Xinhua,
December 13, 2012).
|
Mấy năm qua, mối quan hệ giữa hai nước cũng phát triển
sang lĩnh vực an ninh, về tăng cường thực thi pháp luật, từ khi hai bên ký
thỏa thuận hợp tác năm 2008, tỉnh Vân Nam đã cung cấp thiết bị và hỗ trợ kỹ
thuật cho Cơ quan phòng chống ma túy Quốc gia (NACD) để ngăn chặn buôn bán ma
túy và khủng bố. Mối quan hệ quân sự cũng phát triển và hiện nay Trung Quốc
là nước viện trợ quân sự lớn nhất của Campuchia. Hai bên đă ký hiệp ước hợp
tác quân sự vào tháng 5/2012, theo đó, Trung Quốc đồng ý viện trợ quân sự cho
Campuchia 20 triệu USD và xây dụng một trường đào tạo quân sự ở nước này.
Ngoài ra, Bắc Kinh cũng cho Phnôm Pênh vay khối lượng tiền lớn với lãi suất
ưu đãi để mua sắm trang thiết bị quân sự khác nhau, kể cả các máy bay tuần
tiễu, máy bay trực thăng quân sự và tổ chức một khóa học kéo dài 6 tuần cho
lực lượng vũ trang Campuchia để tháo gỡ bom mìn.
|
Both sides also have strengthened cultural and
people-to-people ties. Bilateral visits are frequent and increasingly occur
at the state as well as party and provincial levels (Ministry of Foreign
Affairs, August 22, 2011). China is Cambodia’s third biggest tourism market
with around 270,000 Chinese visiting Cambodia in 2011, a number Cambodia
wants to increase to one million by 2020 (Xinhua, December 4, 2012). Mandarin
Chinese is the second most popular language in Cambodia after English, and
Chinese schools are mushrooming nationwide (Radio Free Asia, April 25, 2012;
Xinhua, October 5, 2011). China also invests significantly in emphasizing the
rich history of Sino-Cambodian relations. When Cambodia’s former King Norodom
Sihanouk died in China in October last year, Chinese State Councilor Dai
Bingguo personally escorted the coffin to Cambodia and national flags were
flown at half-mast as they were in Phnom Penh (Xinhua, October 17, 2012).
Sino-Cambodian relations also are facilitated by the country’s Cambodian
Chinese population, one of its largest minority groups prominent in politics
and business.
|
Trung Quốc và Campuchia cũng tăng cường quan hệ văn hóa và
trao đổi con người. Các chuyến thăm song phương cấp nhà nước, đảng và tỉnh
thường xuyên diễn ra. Trung Quốc là thị trường du lịch lớn thứ ba của
Campuchia với khoảng 234.000 lượt người Trung Quốc đến thăm Campuchia.năm
2011. Campuchia dự kiến số lượng khách du lịch Trung Quốc đến Campuchia sẽ
tăng lên 1 triệu người vào năm 2020. Hiện nay, tiếng Quan Thoại là ngôn ngữ
phổ biến thứ hai ở Campuchia sau tiếng Anh và các trường học của người Trung
Quốc đang mọc lên như nấm ở Campuchia. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đầu tư
đáng kể cho lịch sử quan hệ hai nước. Khi cựu Quốc vương Norodom. Sihanouk từ
trần tại Trung Quốc vào tháng 10/2012, ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc đã
hộ tống quan tài về Campuchia và Trung Quốc cũng treo cờ rủ như ở Phnôm Pênh.
Mối quan hệ Trung Quốc-Campuchia được thúc đẩy một phần do dân số người
Campuchia gốc Trung Quốc là một trong những nhóm người thiểu số lớn nhất và
có ảnh hưởng chính trị cũng như kinh doanh tại Campuchia.
|
China has used its growing influence in Cambodia to reap
political benefits, often with pressure and inducements on sensitive issues
perceived to affect its sovereignty. Joint statements between the two
countries boosting cooperation, including the one issued after Chinese
President Hu Jintao’s visit to Cambodia in April 2012, often are accompanied
by reaffirmations of Phnom Penh’s steadfast commitment to the one-China
policy (Xinhua, April 2, 2012). In 2009, despite international furor and some
initial hesitation, Cambodia eventually repatriated 20 asylum-seeking Uighurs
back to China and subsequently was rewarded $1.2 billion in aid one day later
by Beijing. Most recently, Cambodia also was accused of towing Beijing’s line
on territorial disputes with Southeast Asian countries in the South China Sea
during its 2012 ASEAN chairmanship and even sharing internal drafts of
proposed agreements with Chinese interlocutors (“China Pushes on the South
China Sea, ASEAN Unity Collapses,” China Brief, August 3, 2012; Asia Times
Online, July 27, 2012).
|
Trung Quốc sử dụng ảnh hưởng ngày càng tăng ở Campuchia để
đạt được lợi ích chính trị và thường gây sức ép kèm theo các ưu đãi về các
vấn đề nhạy cảm để gây ảnh hưởng chủ quyền của Campuchia. Các tuyên bố chung
giữa 2 nước nhằm thúc đẩy hợp tác, kể cả tuyên bố chung được công bố sau
chuyến thăm Campuchia của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tháng 4/2012 thường kèm theo
điều khoản Campuchia tái khẳng định cam kết với chính sách một nước Trung
Quốc. Năm 2009, bất chấp dư luận quốc tế, Chính phủ Campuchia đã quyết định
hồi hương 20 người tị nạn Duy Ngô Nhĩ về Trung Quốc, sau đó một ngày, Trung
Quốc viện trợ cho Campuchia 1,2 tỷ USD. Gần đây, Campuchia cũng bị tố cáo ủng
hộ quan điểm của Bắc Kinh trong tranh chấp chủ quyền lãnh hải với các nước
Đông Nam Á trên Biển Đông trong thời gian giữ chức Chủ tịch ASEAN năm 2012 và
thậm chí cung cấp cho Bắc Kinh các dự thảo văn kiện thỏa thuận chỉ lưu hành
nội bộ. ("Trung Quốc lấn lướt trên Biển
Đông, Thống nhất ASEAN sụp đổ," Tin Vằn Trung Quốc Giới thiệu tóm tắt, 3/8/2012; Asia Times Online, 27 tháng 7 năm 2012).
|
Despite Beijing’s increasing clout in Cambodia, there are
several limits to the relationship that could pose challenges for both sides.
|
Mặc dù ảnh hướng của Trung Quốc ngày càng lớn tại Campuchia,
nhưng hiện nay quan hệ hai nước đang tồn tại một số hạn chế, từ đó có thể gây
nên những thách thức cho cả hai nước.
|
First, while Phnom Penh certainly is constrained by the
invisible strings attached to Chinese assistance, it has cultivated other
relationships to ensure it does not fall fully into Beijing’s camp. For
instance, U.S.-Cambodian relations have warmed in recent years, and
cooperation proceeds in the form of counterterrorism training, small-scale
joint exercises and assistance via the Lower Mekong Initiative. Balancing
various powers is a strategy that dates back centuries to the Khmer kings,
and Hun Sen is unlikely to abandon this practice because he remembers China’s
own opportunism in Cambodia’s history and remains distrustful of Beijing
(Asia Times Online, July 20, 2011).
|
- Thứ nhất, tuy Campụchia hiện đang bị trói buộc bởi những
sợi dây vô hình của Trung Quốc, nhưng Phnôm Pênh đã phát triển nhiều mối quan
hệ khác để đảm bảo không hoàn toàn lệ thuộc Bắc Kinh. Ví dụ, quan hệ giữa Mỹ
và Campuchia đã được cải thiện trong những năm gần đây thông qua các chương
trình hợp tác và phát triển dưới hình thức huấn luyện chống khủng bố, diễn
tập quân sự chung quy mô nhỏ và viện trợ thông qua Sáng kiến hạ nguồn sông Mê
Công. Hơn nữa, cân bằng quan hệ với các cường quốc khác nhau là chiến lược đã
được các vua chúa Campuchia theo đuổi nhiều thế kỷ và chế độ Hun Sen không
thể từ bò thực tế này bởi vì ông ta biết rõ chủ nghĩa cơ hội của Trung Quốc
trong lịch sử Campuchia và không hoàn toàn tin tưởng Bắc Kinh (Thời báo Châu
Á-Online, July 20, 2011).
.
|
Yet this is still a tricky balance, and it is unclear
whether Cambodia will be able to execute it successfully in the next few
years or whether Beijing will tolerate it. In several cases, such as
Cambodia’s decision to deport the Uighurs in 2009 or its position on the
South China Sea in ASEAN meetings in 2012, Phnom Penh has taken China’s side
(at times with inducements) and has alienated the international community and
its fellow ASEAN brethren. What if Cambodia decided in the future to take a
position not entirely in line with Beijing on a given issue? Would Beijing
condone this, and what would the consequences be? Sino-Cambodian relations
only can mature if Cambodia can exercise its autonomy fully and China learns
to respect it instead of just expecting complete deference in return for its
patronage.
|
Tuy nhiên, đây là sự cân bằng khó khăn và chưa rõ liệu
Campuchia có thể thực hiện thành công sự cân bằng đó trong vài năm tới và
liệu Bắc Kinh có chấp nhận hành động đó không? Trong một số trường hợp, chẳng
hạn Campuchia quyết định trục xuất những người tị nạn Duy Ngô Nhĩ về Trung
Quốc năm 2009 hoặc quan điểm của Phnôm Pênh về Biển Đông trong các hội nghị
ASEAN năm 2012 cho thấy Phnôm Pênh đang ngả theo Trung Quốc, xa lánh cộng
đồng quốc tế và phản bội các nước bạn bè ASEAN. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu
nay mai Campuchia quyết định có quan điểm không phù hợp với Bắc Kinh về vấn
đề biển Đông? Liệu Bắc Kinh có cho phép điều này xảy ra và hậu quả sẽ ra sao?
Thực tế quan hệ Trung Quốc-Campuchia chỉ có thể phát triển nếu Campuchia hoàn
toàn tự chủ và Trung Quốc phải tôn trọng Campuchia thay vì chỉ muốn Phnôm
Pênh kính trọng để đổi lấy sự bảo trợ.
|
Second, China’s influence in Cambodia comes at a domestic
cost. Concerns about corruption, human rights violations and environmental
degradation in Chinese-backed projects are growing louder and stirring up
trouble for Cambodia’s rulers. 4,000 families were evicted from their homes
around Boeung Kak Lake for a development project by Erdos Hongjun Investment
Corporation, a case which has received high-level attention from human rights
groups, ordinary Cambodians and U.S. Secretary of State Hillary Clinton
(Phnom Penh Post, May 28, 2012). In another case, Tianjin Union Development
Group, a Chinese real estate company, has come under scrutiny for
transforming Botom Sakur National Park into a gambling paradise (Jakarta
Globe, March 7, 2012). Both cases have become tied to growing national
agitation over land rights and government inaction, which is expected to be a
hot issue in general elections this July (Phnom Penh Post, June 15, 2012;
Rasmei Kampuchea Daily, November 29, 2012). If domestic opposition to China’s
footprint in Cambodia becomes even louder in succeeding years, it could
trigger tensions within the bilateral relationship or limit prospects for
cooperation.
|
Thứ hai, ảnh hưởng của Trung Quốc tại Campuchia khiến nước
này phải trả giá. Mối lo ngại trước tình trạng tham nhũng, vi phạm nhân quyền
và suy thoái môi trường trong các dự án của Trung Quốc ngày càng gia tăng và
gây nhiều rắc rối cho các nhà lãnh đạo Campuchia. 4.000 gia đình Campuchia bị
xua đuổi khỏi nơi họ sinh sống xung quanh hồ Boeung Kak để nhường đất cho một
dự án phát triển của Công ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư Hồng Tuấn Ordos Nội
Mông – một sự kiện đang thu hút sự chú ý của các tổ chức nhân quyền và người
dân Campuchia. Một trường hợp khác, Tập đoàn Phát triển Liên minh Thiên Tân,
một công ty bất động sản của Trung Quốc, đã nghiên cứu để biến Công viên Quốc
gia Botom Sakur thành một thiên đường cờ bạc. Cả hai trường hợp đều gây nên
làn sóng phản đối ngày càng tăng trên cả nước về quyền sử dụng đất và việc
chính phủ không hành động. Đây sẽ trở thành vấn đề nóng trong cuộc tổng tuyển
cử ở Campuchia vào tháng 7/2013. Nếu dân chúng Campuchia phản đối Trung Quốc
mạnh hơn trong năm bầu cử, điều đó có thể gây căng thẳng cho mối quan hệ song
phương hoặc hạn chế triển vọng hợp tác Trung Quốc-Campuchia trong tương lai.
|
Third, while China’s dominant position in Cambodia is due
in no small part to the regime’s continuity since the 1990s, even Hun Sen
cannot last forever. Judging from his ruling Cambodian People’s Party’s (CPP)
overwhelming victory in last year’s commune elections, his grip on power probably
will be cemented by a landslide victory in upcoming polls (Asahi Shimbun,
June 5, 2012). Whether the 60-year old strongman can rule the country until
age 90 as he says he will, however, is less clear (South China Morning Post,
November 20, 2012). He himself has suggested that health issues may curb the
longevity of his rule (Radio Free Asia, January 21, 2010). Moreover, though
some have suggested Cambodians currently are willing to overlook democracy
for the sake of political stability after years of genocide and civil war,
history offers plenty of cases, including in nearby Myanmar, where
transitions have nonetheless occurred in various forms.
|
- Thứ ba, mặc dù Trung Quốc
thống trị chế độ Hun Sen liên tục từ những năm 1990 đến nay, nhưng bản thân
Hun Sen không thể tồn tại mãi mãi. Đánh giá thắng lợi áp đào của Đảng Nhân
dân Campuchia (CPP) trong cuộc bầu cử cấp xã năm ngoái, việc nắm quyền lực
của ông có thể được củng cố bởi một chiến thắng vang dội trong cuộc bầu cử
sắp tới. (Asahi Shimbun, 5/6/2012). Nhưng liệu ông Hun Sen 60 tuổi mạnh mẻ
này có thể cai trị đất nước đến tuổi 90 như ông tuyên bố hay không? Vừa qua,
Hun Sen cho biết vấn đề sức khỏe có thê hạn chế thời gian nắm quyền của ông. (Đài
Châu Á Tự do, 21/1/2010). Hơn nữa, mặc dù một số người Campuchia cho biết họ
sẵn sàng bỏ qua vấn đề dân chủ vì mục đích ổn định chính trị sau nhiều năm bị
diệt chủng và nội chiến, nhưng lịch sử có nhiều trường hợp chẳng hạn như nước
Mianma láng giềng đã có nhiều chuyển đổi dưới các hình thức khác nhau.
|
In a more democratic environment, there would certainly be
more scrutiny on China’s footprint in Cambodia, and perhaps even a relative
erosion of its influence in favor of other countries to better balance
Cambodia’s foreign policy.
|
Trong một môi trường dân chủ hơn, chắc chắn người
Campuchia sẽ nhận thấy bản chất của Trung Quốc tại Campuchia và chắc chắn
việc xóa bỏ phần nào ảnh hưởng của Bắc Kinh sẽ giúp Phnôm Pênh cân bằng hơn
trong chính sách đối ngoại
|
Short of these limits though, few expect Beijing’s formidable
influence in Cambodia to ebb anytime soon. At least for now, China, which Hun
Sen famously called “the root of everything that is evil in Cambodia” in a
1988 essay, is the source of enough good in the country to be courted rather
than condemned [2].
|
Mặc dù các hạn chế trong quan
hệ Trung Quốc- Campuchia không nhiều, nhưng nhiều nhà phân tích cho rằng ảnh
hưởng của Bắc Kinh tại Campuchia sẽ sớm bị giảm. Tất nhiên ở thời điểm hiện
nay khi Trung Quốc đang là động lực cho sự phát triển ở Campuchia, ông Hun
Sen sẽ ve vãn chứ không lên án Bắc Kinh.
|
Notes:
1. Zhou Daguan, The
Customs of Cambodia, translated by Michael Smithies, Bangkok: The Siam
Society, 2001.
2. Sophie
Richardson, China, Cambodia and the Five Principles of Peaceful Coexistence,
New York: Columbia University Press, 2010, p. 151.
|
|
|
|
http://www.jamestown.org/index.php?id=148
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Tuesday, January 29, 2013
China and Cambodia: With Friends Like These Trung Quốc và Cam-pu-chia: Bạn bè thế này đây
Labels:
ASEAN-ĐÔNG NAM Á,
CHINA2-TRUNG QUỐC
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn