|
|
For China, It’s All
About America
|
Đối với Trung Quốc,
Mỹ là nỗi ám ảnh duy nhất
|
By Michael Auslin
The Diplomat, July 6, 2012
|
Michael Auslin
The Diplomat, 6/72012
|
|
|
After a while, an undertone creeps into discussions with
Chinese counterparts on regional and global issues. Whether meeting with Ministry of Foreign
Affairs officials, academics and policy analysts, or the media, an American
soon begins to sense that part of the conversation is missing. What’s absent is not boilerplate about
values, opportunities, or common interests, but rather a sense of China’s broader
set of relationships. Ultimately, as
one European diplomat put it to me, when it comes to China’s foreign policy,
it’s all about the United States. This
monofocus on America tells us a great deal about China’s worldview, but it
also reveals the degree to which Washington is hampered in forging a better
working relationship with Beijing.
|
Chỉ sau một hồi vào chuyện, một ý nghĩ thầm kín thường lén
vào trong các cuộc đối thoại với các đồng nhiệm Trung Quốc (TQ) về các vấn đề
khu vực và toàn cầu. Dù đó là một cuộc họp với các quan chức Bộ Ngoại giao,
các học giả hay những nhà phân tích chính sách, bất cứ một người Mỹ nào cũng
sớm nhận ra rằng có một điều gì thiếu sót trong cuộc đối thoại. Điều thiếu
sót đó không phải là những thông tin có sẵn về các giá trị xã hội, về cơ hội,
hay lợi ích chung, nhưng nói đúng ra, chúng ta nhận thấy TQ không có được một
chuỗi quan hệ hữu nghị rộng lớn. Rốt cuộc, như một nhà ngoại giao châu Âu đã
diễn tả với tôi, trong chính sách đối ngoại của TQ, Hoa Kỳ đã trở thành mối
bận tâm chủ yếu. Sự tập trung vào một đối tượng duy nhất này (monofocus) giúp
chúng ta hiểu rất nhiều về thế giới quan của TQ, nhưng đồng thời cũng cho
chúng ta thấy mức độ hạn chế của Washington trong việc tạo ra một quan hệ hữu
hiệu hơn với Bắc Kinh.
|
Unlike the United States, which has had a complex, yet
robust set of alliances and more informal partnerships in Asia since the
1950s, China has not formed deep ties with any Asian state. There is no analogue in Chinese foreign
policy to America’s relationship with Japan or its initiatives with
Singapore. While there is always
skepticism abroad about Washington’s true intentions towards it’s Asian
partners, and a resignation about the inherently unequal power relationship
between America and any of its smaller allies, there is also recognition that
the United States usually seeks some type of mutually-beneficial status. Although a superpower (or perhaps because
of it), American diplomats have a basic predisposition towards equality in
their negotiations and agreements. The
U.S. military, for its part, has spent decades helping to train foreign armed
forces, provide humanitarian aid, and of course serve as an ultimate
guarantor of regional stability, at least theoretically.
|
Khác với Hoa Kỳ, là quốc gia luôn luôn có một chuỗi liên
minh mặc dù phức tạp nhưng vững mạnh và các quan hệ đối tác không chính thức
tại châu Á kể từ những năm 1950, TQ chưa thiết lập được những quan hệ sâu sắc
với bất cứ quốc gia châu Á nào. Không có một cái gì trong chính sách đối
ngoại của TQ có thể sánh với quan hệ hữu nghị của Mỹ đối với Nhật Bản hay
những nỗ lực của Mỹ đối với Singapore. Mặc dù người nước ngoài luôn luôn ngờ
vực những ý định đích thực của Washington đối với các quốc gia đối tác tại
châu Á, và đành phải chấp nhận một tương quan quyền lực bất bình đẳng nội tại
giữa Mỹ và bất cứ đồng minh nào nhỏ bé hơn, nhưng người ta cũng phải nhìn
nhận rằng Hoa Kỳ thường tìm kiếm một loại quan hệ dựa vào nguyên tắc hai bên
đều có lợi. Mặc dù là một siêu cường (hay vì uy tín của một siêu cường), các
nhà ngoại giao Mỹ có một thiên hướng cơ bản nhắm tới sự bình đẳng trong các
cuộc đàm phán và các thoả ước của họ. Về phần mình, quân đội Hoa Kỳ đã trải
qua nhiều thập kỷ trợ giúp huấn luyện các quân đội nước ngoài, cấp viện trợ
nhân đạo, và dĩ nhiên đóng vai trò tối hậu là đảm bảo ổn định khu vực, ít ra
trên mặt lý thuyết.
|
China’s foreign policy, at least today, is far
different. Once it may have seen
itself as a co-leader of the global Communist bloc, or as the center of a
Sinic grouping of nations up to the nineteenth century. Now, its foreign gaze is centered squarely
on its relationship with the United States.
Everything else is refracted through that lens. Other relationships are considered for
their utility to China’s goals of furthering its influence and countering
America’s position, both in East Asia and other regions. It is this that colors discussions with
Chinese interlocutors, lending a sense of intellectual vertigo to any
meeting. China, one comes to believe, sees
itself operating in an international vacuum, yet the container enclosing that
vacuum is America. To break the
container is to free China from an artificial constraint, and will allow it
to expand naturally into its surroundings, as a gas does when released from a
vial.
|
Chính sách đối ngoại của TQ, ít ra cho đến nay, là khác xa
với Mỹ. Có một thời, TQ có lẽ đã tự coi mình là một đồng lãnh đạo (co-leader)
của khối cộng sản toàn cầu, hoặc [trước đó] là trung tâm của nhóm các nước
chịu ảnh hưởng Hán mãi cho đến thế kỷ 19. Hiện nay, cái nhìn đối ngoại của TQ
đặt ngay trung tâm của quan hệ Mỹ-Hoa. Mọi thứ khác đều bị khúc xạ qua lăng
kính ấy. Các mối quan hệ quốc tế khác đều được cân nhắc theo lợi ích của
chúng với những mục tiêu của Bắc Kinh trong việc bành trướng ảnh hưởng TQ và
chống lại địa vị của Mỹ, tại Đông Á lẫn các khu vực khác. Chính điều này đã
ảnh hưởng lên các cuộc đối thoại với người TQ, tạo một cảm giác mất thăng
bằng tri thức (intellectual vertigo) cho bất cứ một cuộc họp nào. Người ta đi
đến chỗ phải nghĩ rằng TQ tự thấy mình sinh hoạt trong một khoảng không quốc
tế (international vacuum), nhưng cái bình chứa bao bọc khoảng không ấy là nước
Mỹ. Đánh vỡ cái bình chứa ấy tức là giải thoát TQ khỏi vòng cương tỏa nhân
tạo, và sẽ cho phép nó tự động bành trướng vào các nước chung quanh, như một
chất khí lan rộng khi được tháo ra tự một cái lọ.
|
Such a view, of course, is not to deny that China has functional
relationships with a number of states.
Like any great country, China depends on other nations for markets and
as a source of raw materials. Trade is central to China’s continuing need to
develop its economy, which in turn has provided it with international
influence.
|
Tất nhiên, quan điểm này không hề phủ nhận rằng Trung Quốc
có những mối quan hệ hữu hiệu với một số quốc gia. Như bất cứ một nước lớn
nào, TQ tùy thuộc vào các nước khác để có thị trường và coi chúng như là một
nguồn nguyên liệu thô. Thương mại chiếm một vị trí rất quan trọng cho nhu cầu
phát triển kinh tế liên tục của TQ, và sức mạnh kinh tế lại tạo ảnh hưởng
quốc tế cho TQ.
|
Yet even granting that need for trading partners, when it
comes to forming a picture of its global environment, China’s thinkers and
policymakers seem to naturally subordinate their perception of these
relationships to the political competition with the United States. We can imagine these foreign connections
falling mainly into three categories, differentiated by their role in the
Sino-U.S. competition for regional and global influence. The first category is client states,
primarily North Korea, but also Sudan or until recently Burma. These are
countries dependent on China for critical aid and support, but also ones
directly antagonistic to U.S. interests.
They are thus, in this formulation, “closest” to the U.S.-China
competition, and serve to absorb large amounts of U.S. attention and
planning. Beijing, while it may not control its North Korean clients,
nonetheless recognizes the utility of propping up the Kim regime, as it did
in supplying arms to Sudan’s junta. A
subset of this first category is states that are not clients of China, but
whose opposition to U.S. policies makes them an attractive target for Chinese
support. Iran (whose energy supplies are crucial for China) may play this
role the best, as Beijing’s constant refusal to support significant sanctions
against Tehran has helped drag out the crisis over its nuclear program for
years.
|
Tuy nhiên, dù coi các đối tác thương mại là một nhu cầu,
nhưng khi cần phải vẽ ra một bức tranh môi trường toàn cầu của TQ, các nhà tư
tưởng và các nhà làm chính sách TQ gần như tự động coi những mối quan hệ này
phụ thuộc vào cuộc cạnh tranh chính trị với Hoa Kỳ. Chúng ta có thể mường
tượng những quan hệ đối ngoại này chủ yếu rơi vào ba loại, được phân biệt nhờ
vai trò của chúng trong cuộc cạnh tranh Mỹ-Hoa để giành ảnh hưởng khu vực hay
toàn cầu. Loại thứ nhất là các quốc gia lệ thuộc (client states), chủ yếu là
Bắc Hàn, nhưng cũng có thể là Sudan hoặc cho mãi gần đây, Miến Điện. Đây là
những nước lệ thuộc vào TQ về viện trợ và hậu thuẫn cần thiết, nhưng cũng còn
là những quốc gia trực tiếp chống lại các lợi ích của Mỹ. Như vậy theo công
thức này, những quốc gia lệ thuộc đứng ở “tuyến đầu” trong cuộc cạnh tranh
Mỹ-Hoa, và được sử dụng để lấy mất nhiều quan tâm và năng lượng hoạch định
chính sách của Mỹ. Mặc dù có thể không kiểm soát được các khách hàng Bắc Hàn
của mình, nhưng Bắc Kinh ghi nhận công dụng của việc chống đỡ chế độ Kim, như
trong trường hợp cung cấp vũ khí cho nhóm lãnh đạo Sudan. Một hệ phái của
loại quốc gia thứ nhất này là những quốc gia không lệ thuộc vào TQ, nhưng
việc chống đối các chính sách Mỹ của chúng làm chúng trở thành một mục tiêu
hấp dẫn cho sự hậu thuẫn của TQ. Iran (nước cung cấp năng lượng rất cần thiết
cho TQ) có lẽ đóng vai trò này phù hợp nhất, vì sự từ chối thường xuyên của
Bắc Kinh trong việc hậu thuẫn những biện pháp trừng phạt quan trọng chống lại
Teheran đã giúp kéo dài cuộc khủng hoảng về chương trình hạt nhân của Iran
qua nhiều năm.
|
A second category, and farther from direct U.S. interests,
are those countries with which China is developing particularly close trade
relationships. Obviously, economic
concerns are the major driver here, but there is an element of competition
with the United States that creeps into these arrangements, as well. At one level, China’s pursuit of
low-quality trade agreements (leaving out high standards of workers’ rights,
consumer quality protections, intellectual property rights, etc.), serves as
an alternate vision of trade architecture to those promoted by the United
States. The trade agreements with African
countries are also designed to garner predominant influence for Beijing on
that continent, as is the one with ASEAN that came into force in 2010. There is a strategic element to China’s
trade ties that provides not only the country with economically crucial
markets, but political returns as well.
|
Một loại quốc gia thứ hai, nằm ở một vị trí xa hơn đối với
các lợi ích trực tiếp của Mỹ, là những nước mà TQ đang phát triển những quan
hệ mậu dịch đặc biệt mật thiết. Rõ ràng là, những quan tâm kinh tế là động
lực chính ở đây, nhưng cũng có một yếu tố của sự cạnh tranh với Hoa Kỳ xâm
nhập vào trong những quan hệ kinh tế này. Ở một cấp độ, việc TQ theo đuổi
những hiệp định thương mại thiếu phẩm chất (nghĩa là gạt bỏ các chuẩn mực cao
về quyền công nhân, những biện pháp bảo vệ chất lượng sản phẩm cho giới tiêu
thụ, quyền sở hữu trí tuệ, v.v.) được coi như là một viễn kiến về cấu trúc
mậu dịch thay thế cho những quan điểm mậu dịch mà Hoa Kỳ theo đuổi. Những
hiệp định thương mại với các nước châu Phi cũng được thiết kế để giành ảnh
hưởng to lớn cho Bắc Kinh trên lục địa ấy, cũng như hiệp định mà TQ ký kết
với ASEAN và bắt đầu có hiệu lực vào năm 2010. Có một yếu tố chiến lược đối
với các quan hệ mậu dịch của TQ, những quan hệ không những mang lại cho Bắc
Kinh những thị trường quan trọng về kinh tế, mà cả những thành quả chính trị
nữa.
|
Politically oriented multilateral efforts form the third
category of China’s foreign relations.
Because these are by nature diffuse, and less amenable to the type of
direct influence China can exert in bilateral or even multilateral trade relations,
they are the “farthest” from Beijing’s competition with Washington, but they
are increasingly significant. Beijing
is playing a long game in forums it does not control, such as the East Asian
Summit or ASEAN Regional Forum. While
it encountered significant pushback in 2010 from its more assertive stances,
it still is invested in trying to play a leading role that can shape the
development of these groupings and limit them from highlighting liberal
issues. On the other hand, China
continues to commit to alternate mechanisms of more like-minded states, such
as the largely symbolic Shanghai Cooperation Organization, in order to
provide the fiction of a counterbalance to America’s informal liberal bloc in
Asia.
|
Những nỗ lực đa phương có định hướng chính trị tạo nên
phạm trù thứ ba của các quan hệ đối ngoại của TQ. Vì tự bản chất những quan
hệ này thiếu tập trung và ít chịu loại ảnh hưởng trực tiếp mà TQ có thể áp
đặt trong những quan hệ mậu dịch song phương hay thậm chí đa phương, chúng
nằm ở vị trí “xa nhất” trong cuộc cạnh tranh của Bắc Kinh với Washington,
nhưng những quan hệ này ngày càng có ý nghĩa. Bắc Kinh đang chơi một trò chơi
dài hơi trên những diễn đàn mà nó không kiểm soát được, như Thượng đỉnh Đông
Á hay Diễn đàn khu vực ASEAN. Mặc dù Bắc Kinh gặp phải sự chống đối đáng kể
năm 2010 vì những lập trường quyết đoán của mình, chính phủ TQ vẫn tiếp tục
nỗ lực đóng một vai trò lãnh đạo có thể ảnh hưởng lên sự phát triển của những
nhóm quốc gia này và ngăn cản chúng nêu lên những vấn đề tự do, cởi mở. Mặt
khác, TQ tiếp tục cam kết tôn trọng các cơ cấu thay thế của những quốc gia
gần gũi về ý thức hệ (alternate mechanisms of more like-minded states), chẳng
hạn Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, một tổ chức gần như chỉ có ý nghĩa tượng
trưng, nhằm tạo ra cái ảo tưởng về một lực đối trọng với khối tự do không chính
thức của Mỹ tại châu Á.
|
Yet in none of these three categories is China forging
working relationships based on trust or a sense of truly shared values. That is because each of them (with caveats
for the economic ties) is approached from a utilitarian perspective of their
role in buttressing China’s position relative to the United States. The prism of America plays a dominant role
in shaping China’s external strategy and policymaking. Smaller nations are to be played as pawns
in a larger game, but otherwise dismissed as irrelevant. No concept of equal relations or genuinely
shared interests (other than trade) seems to come into play.
|
Dù vậy, trong cả ba loại quan hệ nói trên, không một nơi
nào TQ tạo được những quan hệ hợp tác hữu hiệu đặt cơ sở trên sự tin cậy lẫn
nhau hay trên ý thức cùng thực tâm chia sẻ những giá trị chung. Sự thể chỉ vì
mỗi một nước (với sự dè dặt về các quan hệ kinh tế) được TQ tiếp cận từ một
góc nhìn thực dụng về vai trò của nước đó trong việc củng cố thế đứng của TQ
đối với Mỹ. Cái lăng kính được dùng để nhìn nước Mỹ đóng một vai trò nổi bật
trong việc hình thành chiến lược đối ngoại và hoạch định chính sách của TQ.
Các nước nhỏ phải được sử dụng như những con tốt trong một ván cờ to lớn hơn,
nếu không chúng sẽ bị coi như vô dụng, như không quan yếu (irrelevant). Không
có một ý thức nào về quan hệ bình đẳng hay thực tình chia sẻ lợi ích chung
(ngoài lợi ích thương mại) có vẻ diễn ra trong chính sách đối ngoại TQ.
|
None of this is to argue that China does not have
legitimate national interests or domestic influences on its foreign
policy. Nor does it downplay the
country’s need for growth and trade relationships that will help develop the
economy. But the expression of these
interests and influences gets twisted up with the monofocus on America.
Certainly that is how Chinese express themselves in private and public
meetings.
|
Điều này không có nghĩa là TQ không có những lợi ích quốc
gia chính đáng hay chịu những ảnh hưởng nội bộ lên chính sách đối ngoại của
mình. Nó cũng không đánh giá thấp nhu cầu tăng trưởng kinh tế và các quan hệ
mậu dịch giúp phát triển kinh tế TQ. Nhưng sự biểu hiện những lợi ích và
những ảnh hưởng này đã trở nên méo mó chỉ vì TQ tập trung duy nhất vào một
mình Hoa Kỳ. Chắc chắn đó là cách người TQ trình bày quan điểm của mình ở
những cuộc họp riêng tư hay công cộng.
|
This complicates U.S.-China relations in unexpected
ways. First, it means that Beijing
will interpret any U.S. policies in the region as aimed at China, in a
mirror-reflection of its own perspective.
No U.S. protestations about broader regional aims, humanitarian or
development goals, or interests in general security are likely to convince
Chinese counterparts. Second,
Beijing’s willingness to use pawns in its game with Washington means that it
will constantly throw up obstacles to regional or global stability. An obstreperous junta makes a perfect foil
to American efforts to promote democracy or focus on economic
development. Finally, China’s focus on
America will continue to be the main reason it concentrates on military
modernization, in order to achieve the ultimate goal of acting unhindered by
U.S. pressure.
|
Điều này hiện làm phức tạp quan hệ Mỹ-Hoa trong những cách
thế không ai ngờ tới. Một là, nó ngụ ý rằng Bắc Kinh sẽ giải thích bất cứ
chính sách nào của Mỹ ở trong khu vực là có mục đích nhắm vào TQ, trong ánh
sáng của một tấm gương phản chiếu quan điểm của Bắc Kinh. Không một tuyên bố
long trọng nào của Mỹ về những mục tiêu rộng lớn trong khu vực, về những mục
đích nhân đạo hay phát triển, hay về những lợi ích an ninh chung có khả năng
thuyết phục được các người đồng nhiệm TQ. Hai là, quyết tâm của Bắc Kinh
trong việc sử dụng những con tốt trong ván cờ với Washington ngụ ý rằng TQ sẽ
thường xuyên ném những vật cản vào an ninh khu vực hay toàn cầu. Chẳng hạn,
một ban lãnh đạo ngang ngược [của một nước nhỏ thân TQ] có thể toàn toàn chặn
đứng những nỗ lực của Mỹ trong việc cổ vũ dân chủ hay tập trung vào phát
triển kinh tế. Sau hết, việc tập trung quan tâm của TQ vào Hoa Kỳ sẽ tiếp tục
là lý do để Bắc Kinh dồn mọi nỗ lực vào việc hiện đại hoá quân đội, nhằm đạt
được mục tiêu nhiên hậu là tự do hành động, không chịu một sức ép nào từ phía
Hoa Kỳ.
|
All this leads to the conclusion that those who seek the
development of a mature working relationship between China and America that
is built on trust are likely to be disappointed. China will continue to bide its time and
would be wise not to antagonize its neighbors. It may work with the United States on lower
order priorities, such as piracy, climate change, and the like. However, until it no longer views the world
through an American prism, it is unlikely to adopt a truly cooperative
attitude that would herald the birth of a new era in Sino-U.S. ties.
|
Tất cả những điều này dẫn đến kết luận là, những người tìm
cách phát triển một quan hệ hợp tác hữu hiệu và chín chắn giữa TQ và Mỹ, một
quan hệ xây dựng trên sự tin cậy lẫn nhau, có thể sẽ thất vọng. TQ sẽ tiếp
tục chờ đợi thời cơ và có đủ khôn ngoan để tránh gây thù hận với các nước
láng giềng. TQ có thể chỉ hợp tác với Hoa Kỳ trên những ưu tiên thấp hơn như
vấn đề cướp biển, thay đổi khí hậu, và các vấn đề tương tự. Tuy nhiên, mãi
cho đến lúc TQ không còn nhìn thế giới qua nỗi ám ảnh về nước Mỹ, TQ không có
khả năng chấp nhận một thái độ thực sự hợp tác, một thái độ báo hiệu sự ra
đời của một kỷ nguyên mới trong quan hệ Mỹ-Hoa.
|
Dr. Michael Auslin is a scholar in Asian and security
studies at the American Enterprise Institute in Washington.
|
Tiến sĩ Michael Auslin là một nhà nghiên cứu các vấn đề
châu Á và an ninh tại Viện nghiên cứu chính sách American Enterprise Institute
tại Washington.
|
|
Translated by Trần Ngọc Cư
|
|
|
http://thediplomat.com/china-power/for-china-its-all-about-america/
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Wednesday, July 11, 2012
For China, It’s All About America Đối với Trung Quốc, Mỹ là nỗi ám ảnh duy nhất
Labels:
CHINA2-TRUNG QUỐC
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn