ПРОГУЛКА С ГОРОДОМ
| DẠO CHƠI VỚI THÀNH PHỐ |
Александр Рыбин | Truyện ngắn: Alexandre Rybin
|
Открываю очередную бутылку. Кажется, пятую за вечер. Вместо обычного пивного запаха из зеленого горлышка выходит город. В тумане и снегу город. Острова, как погоны, на его плечах. "Ну пойдём, " - говорит мне город и по-дружески обнимает за плечи. Идём.
| Tôi mở tiếp một chai bia. Hình như là chai thứ năm trong buổi tối nay. Thay vì cái mùi bia quen thuộc, bước ra từ cái cổ chai xanh lại là cái thành phố. Thành phố trong sương mù và tuyết trắng. Trên hai vai của nó là những hòn đảo, trông tựa những chiếc cầu vai. “Chúng mình đi dạo đi,” – thành phố bảo và thân mật ôm vai tôi. Chúng tôi cùng đi.
|
"Почему так получилось-то?" - спрашивает город и заглядывает в меня тысячами своих глаз, видеокамер и окон. "Может не будем об этом, - отвечаю, - давай возьмём пивка и посидим-помолчим". "Нафиг. Я больше не пью. Хочешь, расскажу, как пропадал в японских лагерях?!". "Не".
| “Sao lại ra nông nổi này?” – thành phố hỏi và nhìn tôi bằng hàng ngàn ánh mắt, máy quay camera và các ô cửa sổ. “Đừng nói về chuyện đó, – tôi trả lời, – ta hãy lấy bia rồi cùng ngồi – im lặng”. “Đủ rồi. Mình không uống nữa. Nếu cậu muốn, mình sẽ kể cậu nghe mình đã rơi vào các trại lính của Nhật như thế nào”. “Không”.
|
"Хочешь, тогда расскажу, как китайцы отравляли меня чумой, а я очищался от заразы дымом костров, в которых сгорала мертвая человечина?" "Мрачно. Надо бы о чем-нибудь радостном. Скоро же весна... набухшая страстями". "Точно. Того и гляди, март навстречу попадется". Спускаемся в подземный переход. На стенах перехода замерли рисунки, вдавились в стены рисунки.
| “Vậy thì mình sẽ kể chuyện những người Tầu đã đầu độc mình bằng vi trùng tả, và mình đã chữa bệnh bằng khói từ đống lửa nướng thịt người chết, thích nghe không?” “Nặng nề lắm. Nên nói về cái gì đó vui hơn. Mùa xuân sắp đến rồi… cây cỏ nẩy mầm”. “Đúng rồi. Hãy chuyển sang hướng đó, tháng ba đến rồi”. Chúng tôi bước xuống một hầm ngầm qua đường cho người đi bộ. Trên các bức tường hai bên là những bức tranh lạnh lẽo, những bức tranh khảm vào tường.
|
"Хм. Надеялся, что буду встречать этот март, - продолжает город, - обнимаясь с девушкой. Она приехала из Петропавловска-Камчатского. Тоненькая, высокая, разговорчивая. Она наобещала, что украсит меня новыми, неповторимыми фасадами. У нее образование архитектора. Приехала в середине прошлого лета..." "Как её звали?"
| “Thế đấy. Mình đã mong là sẽ gặp cái tháng ba này, – thành phố tiếp tục, – khi được ôm một cô gái. Cô ấy đã đến đây từ Petropavlovska-Kamtchatskij. Một cô gái chân dài, nhỏ nhắn, mau miệng. Cô ấy đã hứa hão là sẽ trang trí các mặt tiền của mình cho nó mới mẻ và độc đáo. Cô ấy có bằng kiến trúc sư. Đến đây vào giữa mùa hè năm ngoái…” “Cô ta tên gì?” |
"Считай, что её звали Аля. Она сладостно-бесстыдно раскидалась на одном из моих пляжей. Зажмурилась (город сам зажмурился, остановился, лицо поднял к звездному небу, по губам скользнула улыбка) и... наобещала (город резко открыл глаза, встряхнул головой, быстро зашагал). А я, как-будто не мне через полтора года исполнится сто пятьдесят лет, поверил! (город широко развел руками в стороны, лицо стало обиженным) Пропустил уже таких через себя - не сосчитать! Тут же: повелся потихой.
| “Mọi người gọi cô ấy là Alija. Cô ấy đã nằm thườn thượt trên một bãi tắm của mình, rất tự nhiên và ngon lành. Nheo mắt nhìn (thành phố cũng nheo mắt, ngừng nói, ngẩng mặt nhìn bầu trời đầy sao, nụ cười lướt nhẹ trên đôi môi) và… đã hứa suông (thành phố bỗng mở to đôi mắt, lắc đầu, rồi rảo bước). Còn mình, không biết có đúng không, hình như khoảng một năm rưỡi nữa thì mình tròn một trăm năm mươi tuổi, có tin được không! (thành phố giang rộng hai tay, nét mặt tỏ vẻ bực tức). Ngần ấy thời gian đã trôi qua – tính mà xem! Thế mà: nó đã chầm chậm trôi qua.
|
Думаю, море виновато. Оно тогда особенно ласковым было, расслабляющим. От его ласк появлялось желание довериться кому-нибудь. Доверился, поверил. Отдал за обещание Але многие центральные улицы. Видишь улицу, главную, идущую через моё сердце? Она называлась Американской. В 1873 году ее переименовали в Светланскую. В честь фрегата "Светланка", на котором прибыл ко мне Великий князь Алексей Александрович. Большевики заставили называть улицу - Ленинской, а прилегающие к ней улицы в честь соратников Ленина. Когда все большевики умерли, вернул главной улице прежнее название - Светланская. Аля предложила ей название Алая. Я согласился. Правда. Чего недоверчиво улыбаешься? Попросил даже друзей сделать новые таблички для домов: Алая, дом 1, Алая, дом 2...
| Mình nghĩ là chính biển có lỗi. Lúc đó biển rất dịu dàng, mơn trớn. Sự mơn trớn đó làm cho người ta mong muốn tin vào một ai đó. Mình đã phó thác, đã tin. Đã hứa trao cho Alija nhiều đường phố trung tâm. Cậu có thấy con phố chính chạy qua đúng tâm mình không? Đó là phố Hoa Kỳ. Năm 1873 người ta đổi tên nó là Svetlana. Để kỷ niệm chiến hạm “Svetlanka”, chiến hạm đã chở Đại Đế Aleksej Alekxanđrovitch đến đây. Rồi những người bolsevik lại gọi là phố Lênin, còn những con phố tiếp giáp vời phố này thì được đặt bằng tên của các bạn chiến đấu của Lênin. Khi những người bolsêvik chết hết, mình lại trả cho con phố chính cái tên gọi trước đây – phố Svetlana. Alija đề nghị đặt lại tên nó là phố Alija. Mình đã đồng ý. Đúng thế đấy. Sao cậu lại cười nghi hoặc thế? Thậm chí mình đã bảo bạn bè làm những tấm biển gắn trước các ngôi nhà: Alija, nhà số 1; Alija, nhà số 2…
|
Однако ж, встали колом мои надежды. Аля, после первых холодов, обиделась. Сказала, что я не ценю ее по-настоящему, если способен морозить. В чем же моя вина?! Родители выбрали для меня широту и долготу. Дети за родителей не в ответе. Давно известно. | Thế rồi, những hy vọng của mình đã tan thành mây khói. Sau những trận băng giá đầu tiên, Alija đã hờn giận. Cô ta bảo rằng mình không đánh giá đúng cô ta, cho nên mình gây ra băng giá. Nhưng mình có lỗi gì kia chứ?! Bố mẹ đã chọn cho mình cái vĩ tuyến và kinh tuyến này. Con cái không chịu trách nhiệm về bố mẹ. Xưa nay ai cũng biết thế.
|
Аля обиделась. Улетела на корейском самолете на юг. Вроде в Таиланд улетела". "Грустно. Тоже история не для встречи с весной". "Да. Но позволь закончу. С её отлетом стало у меня на душе зудяще одиноко. Не было её и не было одиночества. Улетела и одиночество появилось. Хоть и много живых людей: внутри, вокруг. Радуются они, восхищаются, теплые от радости, от счастья. А мне одиноко... дурь всякая в голову лезет.
| Alija đã bực tức. Cô ấy bay về phương Nam trên một chiếc máy bay Triều Tiên. Hình như là bay đến Thái Lan.”. “Buồn. Đấy cũng chẳng phải là câu chuyện để đón chào mùa xuân”. “Đúng vậy. Nhưng để mình nói hết. Sự bỏ đi của cô ta làm cho đầu óc mình cứ ong ong cái cảm giác cô đơn. Khi cô ấy chưa đến đây thì sự cô đơn chưa hề có. Cô ấy bay đi và sự cô đơn xuất hiện. Mặc dù vẫn nhộn nhịp bao người: nội thành và ngoại thành. Họ vui vẻ, thỏa mãn, ấm áp vì niềm vui, vì hạnh phúc. Nhưng mình thì thấy cô đơn… cái sự gàn dở thế nào ấy cứ lẩn quất trong đầu.
|
Оттого-то научился у самых своих маргинальных жителей отчаянному пьянству. Пытался очиститься от одиночества алкоголем. Пил без разбору: и дорогие вина, и дешевый портвейн. Дорогие вина воровал с европейских судов, приходивших в мой порт. Бутылки с недопитым портвейном находил на пустынных ночных улицах. Портвейн забывали перепившиеся до беспамятства неформалы.
| Chính vì nó mà mình học được ở chính các cư dân hoang tưởng của mình cái thói nhậu nhẹt say sưa vì thất vọng. Mình định dùng rượu để xua đi nỗi cô đơn. Mình uống mà không cần lựa chọn: từ rượu vang đắt tiền cho đến các thứ rượu hoa quả rẻ tiền. Rượu vang đắt tiền thì lấy cắp trên các tàu biển đến từ châu Âu vào neo đậu tại cảng của mình. Các chai rượu hoa quả uống dở thì mình tìm được trên các con phố đêm hoang vắng. Những chai rượu mà các tay bụi đời bỏ quên khi đã uống đến mê man bất tỉnh.
|
Напивался до масштабных пожаров. Забывал, с какого бока у меня фуникулер. Ха-ха. Наутро обязательно такой туман в голове - вот ты если руку вытянешь, то ладонь уже не увидишь. Сушняк - все водопроводы пересыхали. Горожане очень ругались, из-за отсутствия воды. Устраивали пикеты по этому поводу возле "Серого дома" - городской администрации. Полежу с полчасика-час, послушаю недовольные злобные речи - голова разболится. Снова хватаюсь за бутылку".
| Mình đã uống đến mức hoả hoạn. Uống đến mức quên mất cái tuyến đường sắt trên cao của mình nằm ở phía nào. Ha-ha. Sáng ra thế nào cũng xuất hiện một đám sương mù trong đầu – dày đặc đến nổi có chìa tay ra thì cũng không nhìn thấy bàn tay ở đâu. Hạn hán – tất cả các ống dẫn nước đều khô rang. Cư dân thành phố chửi bới, vì không có nước. Vì việc này người ta bố trí các đội canh phòng cạnh “Nhà Xám” – trụ sở hành chính của thành phố. Mình nằm khoảng một tiếng – một tiếng rưỡi, nghe những lời bất bình giận dữ – và đầu óc tỉnh dần. Lại sực nhớ đến chai rượu”.
|
Мы давно миновали подземный переход. Только сейчас замечаю это - столкнулся плечом с прохожим и огляделся. Мы приближаемся к Амурскому заливу. По льду залива рассыпан горох рыбаков. Толсто одетые фигурки сидят на железных ящиках - там снасти, термосы с чаем, еда, - держат короткие удочки.
| Chúng tôi đã ra khỏi hầm ngầm qua đường từ lâu. Nhưng mãi đến lúc này tôi mới nhận ra điều đó – khi chạm vai người đi đường và ngoái nhìn lại. Chúng tôi đang đến gần vịnh Amur. Tiếng trò chuyện của ngư dân vang ra trên mặt băng của vịnh. Những bóng người với quần áo dày cộp ngồi trên các thùng sắt – giữa các đồ lề, phích nước trà, đồ ăn, – trong tay là những chiếc cần câu ngắn.
|
"У Али главное богатство - выдумки, - продолжает город. - Она предложила: давай у нас будет собственный кит. У всех собаки, кошки, хомячки, а у нас - кит. Я согласился. Рассказал, как в мою бухту Золотой Рог заплывал кит в 1890 году. Моряки с парохода "Геннадий Невельской" жестоко разорвали его спину гарпунами, убили. Пообещал Але, что нашего кита никто не обидит. Океанариум специально построил.
| “Cái tài sản chủ yếu mà Alija có là đầu óc tưởng tượng, – thành phố tiếp tục câu chuyện. – Cô ấy đề nghị: chúng ta hãy tìm nuôi một con cá voi riêng. Mọi người thì nuôi chó, mèo, chuột đồng, còn chúng mình – cá voi. Mình tán thành. Mình đã kể rằng vào năm 1890 có một con cá voi đã bơi vào cái vịnh Sừng Vàng của mình. Các thuỷ thủ trên chiếc tàu “Gennađij Nevelskij” đã giết chết nó bằng một phát lao phóng vào lưng. Mình đã hứa với Alija rằng sẽ không có ai làm hại con cá voi của bọn mình. Mình đã xây dựng một bể nuôi cá chuyên dụng.
|
Еще Аля придумала, чтобы я надел на плечи близлежащие острова, а в своих заброшенных фортах поселил на лето бродячих музыкантов - там прекрасная акустика.
| Alija còn nghĩ ra cái việc là mình cần mang lên vai mấy hòn đảo lân cận, còn trong các đồn bốt bỏ hoang sẽ đưa các nhạc sĩ lang thang đến ở vào mùa hè – nơi đó sẽ là một dàn âm thanh tuyệt vời.
|
Ей нравилось слушать истории моих жителей. У меня много приезжих, раньше некоторые из них жили в далях, о которых Аля знала только из книг и интернета. Летом, к примеру, приехал автостопщик с Крайнего Севера. На Крайнем Севере он работал дежурным по Полярной ночи. Поднимал флаги северных синяний над ночью. Дружил с тундровыми ненцами. Частенько пил чай в их чумах при свете очагов. Его слова до сих пор хранят тепло ненецких очагов.
| Cô ấy thích nghe chuyện từ các cư dân của mình. Chỗ mình có nhiều người từ nơi khác đến, trước kia một số trong bọn họ sống ở những vùng xa xôi, nơi mà Alija chỉ biết đến qua sách báo và internet. Chẳng hạn, có một người từ Bắc Cực đến đây vào mùa hè bằng cách vẫy xe đi nhờ. Ở Bắc Cực ông ấy là trực ban đài quan sát đêm Bắc Cực. Cắm cao các cờ hiệu về ban đêm. Kết bạn với những người Nenet Bắc Cực. Thường ngồi uống trà trong các lều da dưới ánh sáng chập chờn của bếp lửa. Cho đến tận bây giờ trong giọng nói của ông ấy vẫn còn lưu lại hơi ấm từ những bếp lửa của người Nenet.
|
Эххх... Как же я пил, после отлета Али! Забросал пустыми бутылками многие окрестные сопки. Лес поломал - ни один шторм так не бушевал. Сколько витрин перебил, когда ноги подкашивались и падал! Вывески с себя сдирал и дорожные знаки. Нескладно пел на весь полуостров Муравьева-Амурского. Вернее, грохотал жестью крыш - на пение это мало походило".
| Thế đấy… Mình đã uống như vậy đấy sau khi Alija bay đi! Mình đã ném hàng đống những vỏ chai rỗng lên các quả đồi trọc ngoại ô. Rừng tan nát hết – không có một cơn bão nào huỷ hoại được đến thế. Bao nhiêu là quầy hàng đã bị đổ vỡ, khi đôi chân khuỵu xuống và mình gục ngã! Những biển hiệu và những biển chỉ đường bị bóc đi hết. Mình đã hát nghêu ngao trên khắp bán đảo Muraviev-Amur. Nói đúng hơn là mình đã gào lên hệt cái âm thanh của mái tôn – chứ gọi là hát thì chẳng giống tý nào”.
|
Город улыбается. Поправляет пешеходные дорожки на брюках. "Меня военные пытались утихомирить. Ха! Распинал их корабли, серые остроносые, подальше от берега. ОМОН пытался меня задержать, чтобы в отделение отправить. Чтобы проспался и успокоился. Здоровые ребята: в касках, в бронежилетах, с дубинками. Я на них оппозиционеров натравил. Они дрались друг с другом, а я продолжал пить. В общем всё было четко.
| Thành phố mỉm cười. Chỉnh lại các con đường nhỏ dành cho người đi bộ trên chiếc quần dài. Các quân nhân đã định phản đối mình. Hà hà! Mình đã di dời mấy cái tàu thuỷ màu xám với mũi tàu nhọn hoắt của các vị đó, ra xa bờ. Cảnh sát đặc nhiệm đã định bắt mình, để đưa về đồn. Để mình ngủ cho giã rượu và tĩnh tâm lại. Những chàng trai mạnh khoẻ: đội mũ sắt, áo giáp sắt, dùi cui trong tay. Mình xua những người đối lập ra đối phó với các anh chàng này. Họ choảng nhau, còn mình thì tiếp tục nhậu. Nói chung mọi việc đều suôn sẻ.
|
Одно утро, помню, просыпаюсь. Туман, сушняк - как обычно. Вокруг китайцы ходят и по-своему болтают. Ну всё, думаю, захватили. Давно ж ведь хотели. Я им с самого рождения, как кость в горле.
| Mình nhớ, vào một sáng sớm, mình thức dậy. Sương mù, hanh heo – như thường lệ. Chung quanh là những người Tầu đi đi lại lại và xì xồ tiếng Tầu. Thế là hết, mình nghĩ, chúng nó chiếm rồi. Chúng muốn làm việc này từ lâu rồi mà. Đối với chúng thì từ lúc mình sinh ra, như cái xương mắc trong cổ họng.
|
Просто так решил не сдаваться. Хотел устроить им собачье бешенство. Собачатина - для китайцев деликатес. Поверь, это мясо любой китаец предпочтет изюбрятине, или свинине, или курятине какой-нибудь. Собачье бешенство - верный способ прищемить китайские головы, закрывая мою биографию. В 900-ом году, когда появились слухи, что меня оккупирует регулярная китайская армия, собирался подорваться пороховыми складами, как только увижу передовые части китайцев. Молодой еще был. С опытом появилась изощренность... да и похмелье к тому же".
| Thế là mình quyết định đầu hàng. Mình đã muốn truyền bệnh chó dại cho bọn họ. Đối với người Tầu thì thịt chó là món sơn hào hải vị. Hãy tin mình đi, bất cứ người Tầu nào cũng ưa thích thứ thịt này hơn cả mọi thứ thịt khác, dù là thịt nai, hay thịt heo, thịt bò. Bệnh chó dại là phương pháp hữu hiệu để kẹp đầu bọn Tầu, khép lại trang sử của mình. Vào năm 900, khi nghe phong thanh cái tin quân chính qui của Tầu sẽ xâm chiếm, mình đã định cho nổ tung các kho thuốc súng khi nhìn thấy các đội tiền tiêu của quân Tầu. Lúc đó mình còn trẻ. Bằng kinh nghiệm mà có được sự sành sỏi… và cả xốc nổi nữa”.
|
Город закуривает. Выдыхает дым - в дыму половина бухты Золотой Рог.
"Оказалось, что всего лишь большая делегация из провинции Хэйлуцзян приезжала с дружеским визитом. Бомж один объяснил. Рыжебородый - его прозвище. У него правда огненно-рыжая борода. Частенько слоняется у железнодорожного вокзала. Днём. По ночам в карманах у меня шарит.
| Thành phố châm thuốc hút. Thở khói ra – trong đám khói là một nửa vịnh Sừng Vàng.
“Hoá ra chỉ là một đoàn rất đông các đại biểu đến từ tỉnh Hải Lư Giang trong một chuyến thăm hữu nghị. Một tay du thủ du thực đã nói cho mình biết như thế. Biệt danh của hắn là Râu đỏ. Đúng là hắn có bộ râu màu hung hung ánh lửa. Thường lang thang ở nhà ga xe lửa. Vào ban ngày. Ban đêm thì lục lọi các túi của mình.
|
У него, между прочим, очень яркие алкогольные трипы бывают. Однажды Рыжебородый бродил в закоулках улицы Фокина и ему казалось, что случилась ядерная мировая война. Он единственный выжил. Спасся в подземном старинном городе. На Фокина, сам знаешь, закоулки местами узкие, один человек пройдет, стены грязные, грязь копилась годами, на верхних этажах тряпки жильцов развешены, сушатся, неба не видно. Рыжебородому нужно было обязательно найти женщину, чтобы продолжился род человеческий. Его до глубины души оскорбила своим непониманием гламурная девица. Она зашла в закоулок подкраситься".
| Nói thêm là, khi ngấm men rượu hắn thường có những cơn mộng du rất mạch lạc. Có lần Râu đỏ lang thang trong các ngõ cụt ở phố Fokin và cậu ta thấy chiến tranh hạt nhân thế giới đã xảy ra. Cậu ta là người duy nhất sống sót. Thoát chết trong một thành phố ngầm cổ kính. Ở Fokin, như cậu biết đấy, các ngõ cụt đôi chỗ rất hẹp, chỉ một người qua được, hai bên tường rất bẩn, chất bẩn tích tụ năm này qua năm khác, trên các tầng cao dân cư treo quần áo rách rưới, phơi phóng, không còn nhìn thấy bầu trời. Râu đỏ cần phải tìm cho bằng được một người đàn bà, để nhân giống con người. Một cô gái người Glamur do không thấu hiểu đã xúc phạm cậu ta nặng nề. Cô ấy đến cái ngõ cụt đó để tô son trát phấn”.
|
Город громко смеётся. Трясутся несколько многоэтажек в районе "Гнилой угол". Жители, лица их смяты страхом, выбегают из многоэтажек на улицу. Говорят, "Гнилой угол" самое опасное место в случае землетрясения. Грунты там сильно источены водой, поэтому дома могут быстро рухнуть от землетрясения.
| Thành phố bật cười to. Rung động một số nhà cao tầng trong khu “Góc Thối”. Các cư dân, với những khuôn mặt méo mó vì hoảng hốt, từ các nhà cao tầng chạy vội xuống đường. Họ bảo “Góc Thối” là nơi nguy hiểm nhất khi xảy ra động đất. Đất ở đây ngấm đầy nước, bởi vậy các ngôi nhà có thể đổ sụp nhanh chóng do địa chấn.
|
"Но спиться от возникшего в душе одиночества нетрудно, как говорил поэт. Гораздо сложнее заполнить образовавшееся одиночество новыми красками, чувствами, мечтами.
| “Nhưng nghiện rượu do sự cô đơn xuất hiện trong tâm hồn thì rất dễ, có nhà thơ đã nói thế. Phức tạp hơn nhiều là làm sao lấp đầy nỗi cô đơn đó bằng những sắc màu, những cảm xúc, những niềm hy vọng mới.
|
Я назначил финальную пьянку - как назначают генеральное сражение. Собрал многих неформалов, бомжей и сумасшедших. Благо собирать их нетрудно - они предпочитают околачиваться в моем сердце. Наворовал с новопришедших сухогрузов еду и алкоголь. Капитаны сухогрузов засыпали после местную прокуратуру жалобами. Прокуроры и следователи до сих пор барахтаются в тех жалобах - и спасательного круга из виновных им не получить. Ха-ха-ха!
| Mình đã chuẩn bị cho một trận say cuối cùng như chuẩn bị một cuộc tổng tấn công. Mình tập hợp tất cả bọn bụi đời, những tên du thủ du thực và những kẻ mắc bệnh tâm thần lại. Nhờ trời, việc tập hợp đó chẳng mấy khó khăn - bọn nó hầu hết đều tập trung ở trung tâm của mình. Mình đã lấy trộm đồ ăn và rượu từ các tàu chở hàng mới cập bến. Thuyền trưởng các tàu ngủ thiếp đi sau khi kỳ kèo khiếu nại ở trạm kiểm sát địa phương. Cho đến lúc này các kiểm sát viên và người giám sát loay hoay trong mớ đơn khếu nại – và họ chẳng nhận được cái phao cứu sinh nào từ phía bị đơn. Ha-ha-ha!
|
Мы много говорили. Еще больше пили. Чуть-чуть ели. Щедро подкармливали бродячих кошек и собак. Растянули пьяную ночь на два дня. О, сколько идей было предложено. Предлагали вернуться в прошлое и переписать Нерчинский мирный трактат, чтобы я родился в XVIII веке, а то и в XVII. Предлагали отростить мне еще один пригород. Переселить туда аборигенов из Австралии. В Австралии желтые и белые жители по сию пору унижают несчастных аборигенов! Аборигенам избирательное право дали лишь в 1967-ом. Представляешь?! Предлагали... Боже, если бы я выполнил хотя бы четверть предложений, пришлось бы писать новый "Новый Завет".
| Bọn mình nói đủ thứ chuyện. Rồi lại uống tiếp. Chén một ít thức nhắm. Hào phóng ném thức ăn cho lũ mèo và chó thả rông. Đêm nhậu kéo dài hai ngày liền. Ôi, bao nhiêu đề xuất được đưa ra. Bọn họ đề nghị quay trở lại quá khứ và ký lại hiệp ước hoà bình Nertchin, để cho thời điểm ra đời của mình là ở thế kỷ 18, chứ không phải thế kỷ 17. Đề nghị mở rộng thêm cho mình một vùng ngoại ô. Di những người thổ dân Úc đến đó. Cho đến nay ở Úc những người da trắng và da vàng vẫn đang làm nhục các thổ dân bất hạnh! Quyền bầu cử chỉ mới được trao cho thổ dân vào năm 1967. Cậu có tưởng tượng được không?! Họ còn đề nghị… Lạy Chúa, nếu mình thực hiện chỉ một phần tư các đề nghị đó thì cũng đủ để phải viết lại tập mới cho quyển “Di chúc mới”.
|
Город отбрасывает окурок в сторону. Крестится на Покровский собор. Благочестиво сгоняет с его карнизов наглых голубей. Расчесывает Покровский парк, окружающий собор.
| Thành phố ném mẫu thuốc lá hút dở sang một bên. Hướng về phía nhà thờ Pokrovskij làm dấu thánh giá. Chúa lòng lành xua những con chim bồ câu láo xược bay ra từ các mái đua. Làm mượt mà công viên Pokrovskij bao quanh nhà thờ.
|
"Окончание пьянки помнится смутно. Были засасывающе-серые женские глаза... меня больно ударили по мысу Чуркин... жители ругались из окон и швырялись в наш праздник мусором... японец, никогда не учивший русского, вдруг отменно заговорил по-русски... вблизи берега проплывал военный транспорт "Маньчжур", как в 1860-ом... явились проститутки... вот откуда засасывающе-серые женские глаза... видимо, я уснул в бутылке... По крайней мере, очнулся именно в пивной бутылке. И ни души рядом. Меня зачем-то закрыли. Или сам закрылся. Так что, спасибо, что выпустил на волю.
| “Cái kết cục của chầu nhậu say sưa này chỉ có thể nhớ mang máng. Những ánh mắt đàn bà màu tro quyến rũ… họ giần cho mình thật đau ở cái doi đất Tchurkin… cư dân mắng nhiếc mình từ các ô cửa sổ và ném rác rưởi vào cái lễ hội của chúng mình… một người Nhật chưa bao giờ học tiếng Nga bỗng nói tiếng Nga một cách lưu loát… chiến hạm “Mantchjur” bơi ven bờ, như vào năm 1860… những cô gái điếm xuất hiện… đó chính là những ánh mắt đàn bà màu xám tro quyến rũ… hình như, mình đã ngủ thiếp đi trong chai. Đúng là mình đã tỉnh giấc trong chai bia. Và bên cạnh chẳng còn một ai. Người ta trùm kín mình lại. Hay chính mình tự trùm kín cũng nên. Nhờ thế mà, thật cám ơn, mình được tự do.
|
Хм. Скоро утро. Мне надо бежать: подметусь, причешусь, уберусь. Побреюсь. Еще раз спасибо. До встречи".
Город пожимает мне руку. Разворачивается и торопливо шагает в сторону рассвета.
| Ôi. Trời sắp sáng rồi. Mình phải chạy thôi: rửa mặt, chải tóc, trang điểm. Cạo râu. Một lần nữa xin cám ơn. Hẹn gặp lại”.
Thành phố bắt tay tôi. Quay người và bước vội về phía hừng đông.
|
Владивосток, 2009 | Vladivostok, 2009.
|
| Dịch giả: Phan Bạch Châu
|
http://www.netslova.ru/rybin/progulka.html |
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Tuesday, August 30, 2011
ПРОГУЛКА С ГОРОДОМ DẠO CHƠI VỚI THÀNH PHỐ
Labels:
SHORT STORY
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn