MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Wednesday, August 31, 2011

ДЕВУШКА НА БЕРЕГУ МОРЯ CÔ GÁI BÊN BỜ BIỂN


ДЕВУШКА НА БЕРЕГУ МОРЯ
CÔ GÁI BÊN BỜ BIỂN
Рассказ
Александр Рыбин
Truyện ngắn
Alekcandr Rưbin
Девушка сидит на берегу моря.
Cô gái đang ngồi bên bờ biển.
А ведь для того, чтобы изобразить самое незначительное, самое простое действие человека необходимо израсходовать десятки предложений. Целый рассказ или даже роман родится из искреннего желания точно описать лишь одно действие человека. Вот эта девушка, которая сидит на берегу моря: почему она сидит? - тем более на берегу моря. Что она видит? Окружающий мир или свою внутреннюю реальность? Что именно? А море: какого оно цвета? Оно спокойное - штиль или предштормовое - в белых бурунах? Еще: во что одета девушка? Или она обнаженная? На все эти вопросы необходимо ответить, чтобы создать полноценную картину всего лишь одного действия.
Mà thật ra, để hình dung được một hành động đơn giản nhất, bình thường nhất của một con người cũng phải đặt ra hàng chục giả thiết. Một truyện ngắn hoặc có khi là cả một pho tiểu thuyết sẽ ra đời từ cái thành tâm mong muốn mô tả chính xác hành động của một con người. Và kia là cô gái đang ngồi bên bờ biển: tại sao cô ngồi? – mà lại ngồi bên bờ biển. Cô ấy nhìn thấy gì? Thế giới chung quanh hay chỉ là nội tâm mình? Giả thiết nào là đúng? Thế còn biển: biển có màu gì? Biển lặng – dịu êm, hay trước cơn bão tố – cuồn cuộn sóng bạc đầu? Và còn nữa: cô ấy trang phục ra sao? Hay cô ấy khoả thân? Cần phải trả lời tất cả những câu hỏi này để tạo ra một bức tranh đầy đủ, dù chỉ cho một hành động đó thôi.
Начну с того, что назову имя девушки - Алиса. Сидит она на холодных камнях Токаревской кошки, прислонившись спиной к маяку. Токаревская кошка - самая южная часть Владивостока. Полоска песка и камней тянется от полуострова Шкота на пару сотен метров в море - Токаревская кошка. Ширина ее от двух до семи метров. Бывает, что у нее отсутствует ширина - если волны достаточно высокие, то местами заливают кошку. Маяк стоит на краю кошки. Он светит вне зависимости от времени суток.
Xin được bắt đầu từ việc xưng tên cô gái – Alisa. Cô đang ngồi trên những phiến đá mát lạnh trên doi đất Tokarevski, tựa lưng vào cột hải đăng. Doi đất Tokarevski là điểm cực Nam của Vladivostok. Một bãi cát và đá từ bán đảo Skot kéo dài vài trăm mét ra biển – đó là doi đất Tokarevski. Bãi rộng từ hai đến bảy mét. Đôi khi không còn nhìn thấy bãi nếu có sóng đủ lớn làm ngập từng phần doi đất. Ngọn hải đăng nằm sát mép doi đất. Nó chiếu sáng cả ngày lẫn đêm.
Март. 30-ое число. Сильный ветер. Алиса в черной футболке с портретом Че, черной ветровке, потертых голубых джинсах и кедах. Море темно-синее, всклокоченное. Алиса сидит, обняв колени.
Tháng Ba. Ngày 30. Gió mạnh. Alisa mặc áo thể thao màu đen có in ảnh Chê, kính râm đen, quần jean đã sờn, màu xanh nhạt, đi giày bát két. Cô ngồi đó, hai tay bó gối.
Ровно полгода назад она встретила его. Его звали Саша. Как она его ласково называла про себя - не знаю, она никому не рассказывала. Может так и называла - Саша.
Cách đây nửa năm cô đã gặp chàng trai. Tên anh là Xasa. Cô gọi chàng trai bằng cái tên thân mật như thế nào – tôi chẳng biết, cô chẳng kể cho ai cả. Có lẽ cô đã gọi bằng chính cái tên Xasa.
30 сентября прошлого года было солнечным, легким и играло классику американского джаза.
Ngày 30 tháng Chín năm ngoái là một ngày nắng, dịu mát, không gian dìu dặt âm thanh một bản nhạc nhạc jaz Mỹ cổ điển.
С пяти утра у морского вокзала стояла "Diamond Princess" - океанский лайнер. Одно из самых больших судов в мире. В его утробе переваривались сотни пенсионеров-пассажиров. С пяти утра их переваренных и недоваренных лайнер выплевывал в город. Несколько этих плевков попали под ноги Алисы, когда она, после обеда, отправилась в дом-музей Владимира Арсеньева.
Từ 5 giờ sáng, “Diamond Princess” – chiếc tàu khách vượt đại dương – đã đỗ cạnh nhà ga đường biển. Đây là chiếc tàu lớn nhất thế giới. Trong bụng tàu đã tiêu hoá hàng trăm hành khách-hưu trí. Từ 5 giờ sáng chiếc tàu đã khạc nhổ vào thành phố những thứ nó đã tiêu hoá và chưa tiêu hoá hết. Một số bãi đờm này đã vương vãi dưới chân Alisa khi cô đến nhà bảo tàng Vladimir Arsenhiev.
В доме-музее открылась выставка объединения "Юношеский максимализм". "Юношеский максимализм" - старейшее объединение художников в Приморском крае. Стать его членом можно было только после 35 лет. Основное условие членства. Алиса этой детали не знала. На выставке надеялась увидеть именно картины юношей-максималистов: не обязательно что-то внятное, но точно громко кричащее с полотен в мир. А "юношеские максималисты" писали нечто среднее между высохшей паутиной и шариками нафталина.
Tại nhà bảo tàng người ta mở triển lãm của hiệp hội “Chủ nghĩa tối đa trẻ” – một hiệp hội lâu đời nhất của các nghệ sỹ ở miền Duyên hải. Muốn trở thành hội viên của hội chỉ cần trên 35 tuổi. Đó là điều kiện chủ yếu cho hội viên. Alisa chưa biết cái chi tiết này. Đến triển lãm cô hy vọng được xem chính những bức tranh của những người trẻ tuổi theo chủ nghĩa tối đa: không nhất thiết phải rõ ràng mạch lạc, mà chỉ cần từ những tấm toan vang ra tiếng gào thét thật to cho thế giới nghe. Nhưng “những người theo chủ nghĩa tối đa trẻ” đã sáng tác ra thứ gì đó trung dung giữa những tấm mạng nhện khô quắt và những viên bi bằng sáp.
Перед входом в дом-музей Алиса встретила юношу. Он стоял с задумчивым видом перед дверью. Увидев девушку, без здрасьте-извините сказал: "Музейщики закрылись и спрятались". Улыбнулся и добавил: "Я из Томска приехал. Автостопом. Пару месяцев назад".
"Зачем?" - удивилась девушка.
"Интересно тут. Первый раз сюда, на Дальний Восток, приехал. Приехал и мне тут понравилось, решил тут остаться".
Trước lối vào nhà bảo tàng Alisa đã gặp chàng trai. Anh ta đứng trước cửa với vẻ đăm chiêu. Nhìn thấy cô gái, không một lời chào hay xin lỗi, anh ta nói luôn: “Các nhân viên bảo tàng đã đóng cửa và chuồn đi rồi. Anh ta mỉm cười rồi nói thêm: “Mình từ Tomsk đến đây bằng cách vẫy xe dọc đường xin đi nhờ. Cách đây vài tháng”.
“Để làm gì?” – cô gái ngạc nhiên.
“Thấy hay hay. Lần đầu tiên mình đến đây, đến vùng Viễn Đông. Mình đến và thấy thích thú, rồi quyết định lưu lại đây”.
Во, как он легко живет: понравилось - остался, - подумала Алиса, - а как же родители, учеба или работа, как же близкие, там, в Томске? Хотела спросить. Но юноша не позволял ей спрашивать. Говорил и говорил: "Следующим летом поеду на Камчатку или в Китай - на все лето".
Говорил и говорил.
Thế đấy, anh ấy sống nhẹ tênh: thấy thích – và lưu lại, – Alisa nghĩ trong đầu, – còn bố mẹ, học hành hay công việc, rồi những người thân ở đó, ở Tomsk thì sao? Cô định hỏi, nhưng chàng trai không để cô kịp hỏi. Anh ta nói liên hồi: “Hè sang năm mình sẽ đến Kamtchatka hoặc Trung quốc – cả mấy tháng hè”.
Anh ta nói liên hồi.
Алиса только слушалa. Да, жизнь у него интересная: много видел, много знает, много успел уже прочувствовать. Верно для него сама по себе жизнь - чудо. И каждое утро он, видимо, воспринимает, как возвращение в чудо. Хотя может он всего лишь талантливый болтун. Чем, например, докажет, что из Томска приехал автостопом?
Alisa chỉ có nghe. Vâng, anh ấy sống thích thật: thấy nhiều, biết nhiều, chiêm nghiệm được nhiều thứ. Đúng là đối với anh ấy chính cuộc sồng mới là điều kỳ diệu. Và chắc là, anh ấy chào đón mỗi buổi bình minh như là sự trở về của điều kỳ diệu. Nhưng có thể anh ta chỉ là kẻ có tài ba hoa. Chẳng hạn, khi anh ta bảo từ Tomsk đến đây bằng cách vẫy xe đi nhờ?
Юноша говорил и говорил. Наконец, спросил: "Ты зачем сюда пришла?"
"Здесь выставка художников".
"Ммм. А я Арсеньева много читал. Дерсу Узала - герой моего детства. В музее, надеюсь, живет энергетика Арсеньева и его героев".
"Может. В детстве тоже болела Арсеньевым".
Chàng trai cứ nói liên hồi. Cuối cùng, anh ta hỏi: “Em đến đây làm gì thế?”
“Ở đây đang có cuộc triển lãm của các hoạ sỹ”
“À hả. Còn mình, mình đọc nhiều Arsenhiev. Derxu Uzal là nhân vật thời trẻ con của mình. Hy vọng rằng trong bảo tàng này lưu giữ những gì của Arsenhiev và các nhân vật của ông ấy”.
“Có thể như thế. Hồi còn nhỏ em cũng phát ốm vì Arsenhiev”.
"Но закрыто. Ты спешишь?"
"Нет".
"Погуляем? Поговорим про Арсеньева?"
"Давай".
Юноша задавал вопросы. Слушая ответы, выбирал путь.
“Nhưng đóng cửa mất rồi. Em có việc gì vội không?”
“Không”
“Chúng mình đi dạo nhé? Tán chuyện về Arsenhiev nhé ? »
“Thì đi”
Chàng trai đưa ra các câu hỏi. Chọn hướng đi trong khi nghe trả lời.
Нет, Алиса не видела настоящих нанайцев. И удэгейцев не видела. Раньше она жила на юге Приморского края. В деревне, которую основали староверы. Сейчас, правда, староверов в деревне нет. Поразъехались или вымерли. Зато корейцев много. Фиг знает, откуда они: из Северной или из Южной Кореи. Алиса у них не спрашивала. Они стараются сами по себе жить, с русскими не общаться. Хотя по-русски отлично говорят. Ездят, да, куда-то: то ли в Северную, то ли в Южную Корею. К родственникам. Иногда. Ну да, всем известно, что Северная Корея тоталитарная страна, простому туристу туда не попасть.
Không, Alisa chưa bao giờ nhìn thấy người Nanai. Cô cũng chưa thấy người Uđưgay. Trước đây cô sống ở miền nam Duyên hải. Trong cái làng do những tín đồ cựu giáo lập nên. Còn bây giờ thì chẳng còn tín đồ cựu giáo nào. Họ ly tán đi đâu hết hoặc đã chết hết. Nhưng người Triều Tiên thì rất nhiều. Có trời mà biết họ từ đâu đến: từ Bắc hay Nam Triều Tiên. Alisa chưa bao giờ hỏi chuyện họ. Họ sống khép kín, không giao tiếp với người Nga. Mặc dù họ nói tiếng Nga rất tốt. Và thỉnh thoảng họ lại đi xa: hoặc về Bắc, hoặc về Nam Triều Tiên. Về thăm người nhà. Mà mọi người đều biết Bắc Triều Tiên là một nước độc tài, khách du lịch bình thường chẳng ai đến đó.
"О, ты видел "Diamond Princess"? - вставила девушка в диалог и свой вопрос.
"Огромный корабль, который сегодня пришел?"
"Ага".
"Издали видел".
"Идем поближе поразглядываем?"
“Ôi, anh nhìn thấy “Diamond Princess” không? – cô gái hỏi khi đang dở câu chuyện.
“Một con tàu lớn, vừa đến hôm nay à?”
“Đúng thế”.
“Mình đã thấy nó từ đằng xa”.
“Ta đến gần hơn để xem nó chứ?”
После морского вокзала молодые люди зашли на улицу Петра Великого. Там, зажатый между офисами, скромно расположился маленький кинотеатр. Перед его входом на постаментах лежали стволы старинных пушек, черные чугунные. В тот день - надо же - в кинотеатре показывали "Дерсу Узала" - первую советскую экранизацию книг Арсеньева, режиссер Бабаян.
Từ phía sau nhà ga đường biển hai bạn trẻ đi ra phố Petr Vĩ đại. Ở đó, một rạp chiếu phim nhỏ nhoi khiêm tốn nằm khuất giữa các công sở. Phía trước lối vào rạp là các nòng đại bác cổ, bằng gang, màu đen, đặt trên các bệ. Ngày hôm đó, – đúng như mong muốn – trong rạp người ta chiếu bộ phim Derxu Uzal”, phim Xô viết đầu tiên chuyển thể từ các quyển sách của Arsenhiev, do Babayan đạo diễn.
В свете фильма Алиса разглядывала нового знакомого. Тонкие черты лица, длинные волосы вьются на концах, в меру худой. Симпатичный. Пальцы длинные и тонкие - значит творческий человек. Интересно, как его зовут. Прогуляли часа четыре, а так и не представились друг другу. По внешности ему подходит имя Саша.
Qua ánh sáng từ màn ảnh Alisa quan sát người bạn mới. Khuôn mặt xương xương, tóc dài loăn xoăn đoạn cuối, thuộc loại người gầy. Đẹp trai. Các ngón tay dài và thon – có nghĩa là người sáng tạo. Lạ thật, chưa biết tên anh ấy là gì. Đi chơi với nhau suốt bốn giờ mà chưa giới thiệu tên cho nhau biết. Trông vẻ ngoài thì anh chàng thích hợp với cái tên Xasa.
После выхода из кинотеатра, юноша представился. Да, Алиса угадала.
Они расстались в густой тьме, обменявшись номерами телефонов.
Они часто встречались. Расставались, чтобы потом обязательно встретиться снова.
Вместе исходили почти весь город. Теперь почти во всех частях города Алиса натыкалась на воспоминания о Саше.
Sau khi ra khỏi rạp chiếu phim hai bạn trẻ giới thiệu tên cho nhau. Vâng, Alisa đã đoán đúng.
Họ chia tay nhau khi trời đã tối mịt, sau khi trao đổi số điện thoại.
Rồi họ gặp nhau nhiều lần. Chia tay, để rồi sau đó nhất thiết phải gặp lại.
Họ đã cùng nhau dạo khắp thành phố. Giờ đây hầu như mọi nơi trong thành phố đều làm cho Alisa nhớ đến Xasa.
Гуляла по Корейской слободе и непременно с балкона спрыгивало воспоминание о Саше. "Помнишь, - говорило оно, - как он тут восхищался старинной архитектурой? Помнишь, как он гладил именно эти красные шершавые стены? Помнишь, на нем тогда были китайская армейская куртка, зеленые кеды, темно-синие старые джинсы? Помнишь, джинсы были длиннее, чем нужно, и оттого постоянно попадали под пятки кедов, а он их выдергивал и недовольно бубнил?" И еще много-много "помнишь?".
Cô dạo trên phố Tự do Triều Tiên và ngay lập tức hồi ức về Xasa từ trên ban công nhảy xuống. “Bạn còn nhớ chứ, – hồi ức thì thầm, – anh ấy đã ngưỡng mộ kiến trúc cổ như thế nào? Bạn nhớ không anh ấy đã sờ tay lên chính những bức tường đỏ sần sùi này? Bạn nhớ không, lúc đó anh ấy mặc chiếc áo bờ lu dông Armeni Trung quốc sản xuất, đội mũ kepi xanh, quần jean cũ tối màu? Bạn nhớ không, chiếc quần jean dài quá mức cần thiết, và vì vậy cứ vướng vào dưới gót đôi giày bát két, buộc anh ấy cứ phải kéo lên và bực dọc than vãn? Và còn nhiều – nhiều nữa, bạn nhớ chứ?”
Алиса заходила попить чай в кафе "Вишневый сад". Обязательно за ее столик, без разрешения, подсаживалось воспоминание о Саше. "Помнишь, как сидели тут с ним вместе? Помнишь, о чем он шутил? Помнишь, какие книги доставал из своего рюкзака? Помнишь, что он рассказывал о них?"
Alisa ghé vào uống trà ở hiệu cà phê “Vườn lê”. Chẳng cần xin phép, ký ức về Xasa lại trỗi dậy bên chiếc bàn cô ngồi. “Bạn nhớ chứ, lúc đó bạn ngồi cùng với anh ấy? Bạn còn nhớ anh ấy nói đùa gì không? Bạn có nhớ anh ấy đã lôi từ trong ba lô con cóc ra những quyển sách gì không? Bạn có còn nhớ anh ấy đã nói gì về những quyển sách này không?”.
Trên phố biển mang tên Con tàu, một chuỗi dài ký ức về Xasa lại ùa đến.
На Корабельной набережной догоняла целая компания воспоминаний о Саше.
На смотровой площадке - с нее великолепный вид на бухту Золотой Рог - воспоминание о Саше всегда сидело на перилах. Спиной к высоте.
Но море не обнимает ни одну из частей города... ни одну, кроме Токаревской кошки... а море...
Trên đài vọng cảnh – từ đó nhìn thấy một không gian mênh mông trên vịnh Chiếc sừng Vàng – ký ức về Xasa luôn luôn có mặt trên các lan can. Tựa lưng trên cao. Nhưng biển không vươn tới một vùng nào của thành phố… không một vùng nào, trừ doi đất Tokarevski… và biển…
Алисе уже исполнилось пять лет, когда мама отвезла ее к бабушке - во Владивосток. Своё шестое лето она провела в городе, удобно рассевшемся на сопках и погрузившем ноги в море. Море поцеловало сердце и душу девочки. Потом она 12 лет вспомнила тот поцелуй. Мечтала о нём. Вокруг деревни, где Алиса с родителями жила постоянно, тянулись поля и болота. В полях рос исключительно бурьян. По болотам ходить было опасно - их глубины только и ждали чьих-нибудь неосторожных шагов.
Khi Alisa tròn năm tuổi, mẹ đưa cô đến ở với bà – ở Vladivostok. Mùa hè thứ sáu của mình cô sống ở một thành phố, nằm gọn gàng trên các ngọn đồi và vươn chân ra biển. Biển đã hôn lên trái tim và tâm hồn cô bé. Sau đó, đến năm 12 tuổi cô bé lại nhớ đến nụ hôn đó. Cô mơ về nó. Chung quanh cái làng, nơi Alisa cùng bố mẹ sinh sống lâu nay, chỉ có đồng ruộng và đầm lầy. Trên các cánh đồng đa phần là cỏ dại. Đi trên các đầm lầy thật nguy hiểm – độ sâu của chúng như đang chờ chực những bước chân sơ sẩy của ai đó.
Алиса снова чувствовала поцелуй моря, читая книги о рыбах моря, о его загадках, о людях, друживших с ним. Но чтение книг походило на волшебные сны - они заканчивались, приходилось просыпаться в реальность, от которой тошнило слезами.
Alisa lại cảm nhận nụ hôn của biển khi đọc những trang sách về cá biển, về những điều bí ẩn của biển, về những con người đã kết bạn với biển. Nhưng việc đọc sách đã đi vào những giấc mơ thần tiên – giấc mơ tan, phải tỉnh dậy với thực tại, một thực tại đầy nước mắt.
После 11-ого класса выбор Алисы был однозначный - поступление в университет во Владивосток на специальность морская биология. Она поступила. После вступительных экзаменов пообещала морю, что никогда больше с ним не расстанется.
Sau năm học lớp 11 sự lựa chọn của Alisa chỉ có một – thi vào trường đại học tổng hợp ở Vladivostok theo chuyên ngành sinh học biển. Cô đã thi vào. Sau các môn thi nhập trường cô đã hứa với biển rằng sẽ không bao giờ xa rời biển. Bản thân Alisa cũng không tin rằng có người nào đó dịu dàng với cô hơn biển. Xasa đã tỏ ra dịu dàng hơn biển.
Алиса и не верила, что кто-нибудь будет с ней нежнее, чем море. Саша оказался нежнее моря.
Первый раз он поцеловал ее, спустя ровно три недели после встречи у музея. Они сидели на зеленой лавке. На улице Фокина - владивостокский Арбат. Фонари уже горели. Горели уже и фары автомобилей. И окна домов. Горели и глаза Саши. Губы его мягкие, теплые. Алиса долго не отрывала от его губ свои. А после молодые люди гуляли, держась за руки.
Lần đầu tiên anh hôn cô, sau đúng ba tuần kể từ hôm gặp nhau ở bảo tàng. Hai người ngồi trên một chiếc ghế dài màu xanh. Trên phố Phokin – Arbat của Vladivostok. Phố đã lên đèn. Đèn pha ô tô cũng đã bật sáng. Và cửa sổ từ các ngôi nhà. Và cả đôi mắt của Xasa cũng rực sáng. Đôi môi của anh mềm mại và ấm áp. Alisa áp môi mình lên môi anh rất lâu. Rồi sau đó đôi bạn trẻ rảo bước bên nhau, tay trong tay.
Держась за руки, они первый и единственный раз шли на Токаревскую кошку. Шли через плохо освещенные дворы полуострова Шкота. Типовые прямоугольные дворы. Дворы, где горожане гуляли редко, чаще оставляли автомобили на ночь.
Nắm tay nhau, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất hai người đi ra doi đất Tokarevski. Họ đi qua những khoảng sân le lói đèn của bán đảo Skot. Những khoảng sân vuông vức giống nhau. Những khoảng sân mà người trong phố ít khi dạo chơi, ít khi đổ ô tô lại đây vào ban đêm.
За дворами шумело море. Море вязко пахло йодом. Море яростно кусало волнами Токаревскую кошку с западной стороны. С восточной оно было гладко-спокойное. Ветер резкими порывами играл длинными волосами Алисы. Она то и дело убирала волосы с лица.
Sau các khoảng sân này là tiếng biển rì rào. Biển bốc lên mùi iod. Biển giận dữ ném những con sóng lên doi đất Tokarevski từ phía Tây. Còn ở bờ phía Đông biển lại hiền hoà – phẳng lặng. Từng cơn gió mạnh đùa giỡn với mái tóc dài của Alisa. Cô phải đưa tay gỡ tóc vương trên mặt.
Мигающий белый свет маяка медленно приближался. Севернее извивалась змея города. Во тьме она выделялась золотыми и бледно-голубыми точками.
Ánh sáng nhấp nháy của ngọn hải đăng chầm chậm tiến đến gần hơn. Xa hơn nữa về phía Bắc, thành phố uốn mình như một con rắn. Trong bóng đêm hình dạng nó nổi lên nhờ những đốm sáng màu xanh nhạt và màu vàng.
Возле маяка Алиса и Саша молчали, слушали море. Когда над их головами загорался белый свет, они видели, что вода вокруг прозрачная, отчетливо различались крупные и мелкие камни на дне.
Alisa và Xasa lặng im bên cạnh tháp hải đăng, lắng nghe tiếng biển. Khi ánh sáng trắng chiếu toả trên đầu, họ nhìn thấy nước chung quanh trong vắt, có thể nhận ra những viên đá lớn và nhỏ dưới đáy biển.
Алиса подумала, что за стенами маяка должен быть человек - смотритель маяка. Она вообразила его: малорослый, с простым лицом, в широкополой, прорезиненной шляпе, в оранжевом, длиной до пят, непромокаемом плаще, в черных резиновых сапогах. Он неразговорчивый. Но добрый. Если увидит человека больного неуверенностью или грустью, то постарается ему помочь.
Alisa nghĩ rằng sau bức tường của tháp hải đăng thế nào cũng có người – nhân viên trông coi hải đăng. Cô thử hình dung con người đó: thấp bé, nét mặt bình dị, đội mũ lưỡi trai nhựa rộng vành, khoác chiếc áo mưa không thấm nước màu da cam dài đến gót, chân đi ủng cao su đen. Ông ta là người kiệm lời. Nhưng nhân hậu. Nếu gặp người bị tổn thương vì thất vọng hay đau buồn, ông ấy sẽ hết lòng giúp đỡ họ.
Через несколько дней Алиса нарисовала воображаемого смотрителя. Но не показала рисунок Саше. Хотя решила, что обязательно покажет. Когда-нибудь. Она решила, что обязательно расскажет Саше все-все о своей жизни. В кого влюблялась, кто влюблялся в нее. Что такого сделала, о чем до сих пор сожалеет. Обязательно расскажет. Когда-нибудь. Успеет рассказать. Ведь она будет вместе с Сашей Вечно.
Mấy ngày sau Alisa đã vẽ một bức chân dung người gác đèn biển theo trí tưởng tượng của cô. Nhưng cô chưa đưa cho Xasa xem. Mặc dù đã định thế nào cũng sẽ đưa. Vào một dịp nào đó. Cô đã quyết định dứt khoát sẽ kể cho Xasa tất tần tật mọi thứ về cuộc sống của mình. Những việc cô đã làm, những điều cho đến nay còn khiến cô day dứt. Nhất định sẽ kể. Vào một dịp nào đó. Còn kịp để kể. Bởi lẽ cô sẽ cùng với Xasa vĩnh viễn.
Жизнь Саши действительно была чудом. Он не преувеличивал. Он поделился этим чудом с Алисой. За что она ему была бесконечно благодарна. Саша и Алиса и море вместе с ними, и Вечность. Неверное, от жизни большего и не требуется.
Cuộc sống của Xasa thật đúng là diệu kỳ. Anh ấy không phóng đại. Anh ấy chia sẻ cùng Alisa điều kỳ diệu đó. Chính vì vậy cô vô cùng biết ơn anh. Xasa và Alisa, cùng với họ còn có cả biển và sự Trường tồn. Có lẽ không còn đòi hỏi gì nhiều hơn từ cuộc sống này.
Однако, два месяца назад Саша ушел. Ушел в революцию. Он звал Алису с собой. Но какая, к черту, революция?! - здесь море, скоро весна, за ней лето. А летом можно будет путешествовать по диким, не испачканным городской цивилизацией островам, пока оно не закончится. Какая, к черту, революция?! - если в ней нет моря. Он же сам сказал, что в ней нет моря, в ней бурлят реки незнакомых лиц, транспарантов, флагов, громкие отважные слова и опасные поступки. Зачем все это?! Для чего?! Для кого?! Нет-нет-нет. Нечего делать в революции - она безумна, способна погубить себя и всех, кто окажется поблизости. Нет-нет.
Thế mà, cách đây hai tháng Xasa đã ra đi. Đến với cách mạng. Anh ấy đã bảo Alisa đi cùng. Nhưng, quỉ tha ma bắt, cuộc cách mạng nào?! – ở đây có biển, không bao lâu nữa là mùa xuân, sau đó là mùa hè. Và đến hè có thể đi đến các hòn đảo hoang dã, không bị ô nhiễm bởi nền văn minh đô thị, và ở đó cho đến hết hè. Quỉ tha ma bắt, cuộc cách mạng nào thế?! – nếu trong đó không có biển. Chính anh ấy cũng bảo là trong đó không có biển, trong đó cuồn cuộn những dòng sông với những gương mặt xa lạ, những biểu ngữ, những lá cờ, những tiếng hò hét can trường và những hành động liều lĩnh. Để làm gì những thứ đó?! Nhằm mục đích gì?! Phục vụ cho ai?! Không-không-không. Chẳng có việc gì để làm trong cách mạng – nó rất vô nghĩa, nó huỷ hoại bản thân mình và huỷ hoại tất cả những người ở gần nó. Không-không.
Саша ушел. Что-то оскорбительное напоследок сказал. Алиса вытравила из памяти, что именно оскорбительное он сказал. Ведь это он сгоряча. Сам, наверняка, сожалеет о сказанном.
Xasa đã ra đi. Đã nói điều cuối cùng gì đó xúc phạm đến cô. Alisa đã xoá sạch trong đầu chính cái điều xúc phạm anh đã nói ra. Anh ấy bồng bột. Và chắc rằng tự mình cũng sẽ ân hận về điều mình đã nói.
Алиса мучилась без Саши. Вокруг бродили ухажеры. Но они казались тусклыми и скучными в сравнении с ним. В отличие от него, они никогда не путешествовали автостопом. В отличие от него, они относились к жизни, как к принудительной обязанности. Они не писали рассказы. Они боялись заговорить с незнакомыми людьми... они были "не"... а он - "да-да-да"...
Alisa buồn vì vắng Xasa. Chung quanh là những kẻ ve vãn đeo bám. Nhưng cô thấy họ vô vị và chán ngắt so với anh ấy. Khác với anh ấy, họ chưa bao giờ đi chơi xa bằng cách vẫy xe đi nhờ. Khác với anh ấy, họ tiếp nhận cuộc sống như một nghĩa vụ bắt buộc. Họ không viết những truyện ngắn. Họ ngại chuyện trò với những người không quen biết… họ là “không”… còn anh ấy – “vâng-vâng-vâng”…
Когда без Саши становилось особенно мучительно, Алиса твердила себе скороговоркой: "Все равно море по-прежнему со мной. Все равно море по-прежнему со мной".
Khi sự thiếu vắng Xasa dày vò cùng cực, Alisa lại tự nhủ mình: “Dù sao ta vẫn còn có biển. Dù sao biển vẫn ở lại bên ta”.
Если появлялась возможность, то шла на Токаревскую кошку. Там она сидела подолгу, там ей становилось легко и просто. Там море целовало ее, сердце и душу. А море никогда не уйдет от нее. Море с ней будет Вечно. По-настоящему Вечно.
Khi có điều kiện cô lại đến với doi đất Tokarevski. Ở đó cô ngồi rất lâu, ở đó cô cảm thấy nhẹ nhàng và thanh thản. Ở đó biển hôn lên trái tim và tâm hồn cô. Và biển sẽ chẳng bao giờ từ bỏ cô. Biển sẽ cùng cô Trường tồn. Thực sự Trường tồn.
Девушка сидит на берегу моря.
Cô gái đang ngồi bên bờ biển.
Владивосток, 2009
Vladivostok, 2009.

Dịch giả: Phan Bạch Châu

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn