A Dangerous
Escalation in the East China Sea
|
Một sự leo thang nguy hiểm ở biển Hoa Đông
|
Stephanie Kleine-Ahlbrandt, The Wall Street Journal | 5
Jan 2013
|
Stephanie Kleine-Ahlbrandt, The Wall Street Journal | 5
/01/ 2013
|
The territorial dispute in the East China Sea between the
world's second- and third-largest economies entered a disturbing new phase
last month with the first direct involvement of military forces. On Dec. 13,
Japan sent eight F-15 fighter jets after a small Chinese propeller plane that
flew over the disputed Senkaku Islands, called Diaoyu in China. According to
Japan, this was the first Chinese intrusion into its airspace since 1958.
|
Tranh chấp lãnh thổ ở Biển
Hoa Đông giữa các nền kinh tế lớn thứ hai và thứ ba trên thế giới bước
vào giai đoạn quấy nhiễu mới tháng
trước với sự tham gia trực tiếp đầu tiên của các lực lượng quân sự. Vào ngày
13, Nhật Bản gửi tới 8 máy bay chiến đấu F-15 sau khi một chiếc máy bay cánh quạt
nhỏ của Trung Quốc bay trên quần đảo tranh chấp Senkaku, được gọi là Điếu Ngư
ở Trung Quốc. Theo Nhật Bản, đây là đầu tiên Trung Quốc xâm nhập vào
không phận của Nhật kể từ năm 1958.
|
There is far more at stake here than a small cluster of
islands. Crisis mitigation mechanisms need to be urgently reinstated and
communication increased between Beijing and Tokyo to reduce the risks of an
accidental clash or escalation. China's continuous testing of Japan's bottom
line is a dangerous game, and one that could have consequences for the
U.S.-Japan security treaty.
|
Có nhiều rủi ro ở đây hơn là một nhóm nhỏ
các hòn đảo. Cơ chế giảm thiểu khủng hoảng cần được phục hồi khẩn cấp và
thông tin liên lạc phải tăng cường giữa Bắc Kinh và Tokyo để giảm nguy cơ của
một cuộc đụng độ hay leo thang vô tình. Trung Quốc liên tục thử thách đường
giới hạn dưới cùng của Nhật Bản là một trò chơi nguy hiểm, và có thể gây ra
những hậu quả cho hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật.
|
Beijing is bolstering maritime patrols of the disputed
waters in a challenge to Japan's de facto administration. First annexed by
Japan in 1895, the small cluster of islands and barren rocks came under U.S.
control after World War II but reverted back to Japan with the 1971
U.S.-Japan Okinawa Reversion Treaty. They became more desirable a few years
earlier when it was discovered that undersea oil reserves might exist nearby.
Taiwan also claims the islands, but has enjoyed more amicable overall
relations with Japan, and Japan does not officially recognize Taiwan as a
sovereign state.
|
Bắc Kinh đang đẩy mạnh tuần
tra hàng hải trên vùng
biển tranh chấp trong một thách thức đối với việc kiểm soát trên thực tế
của Nhật Bản. Đầu tiên sáp nhập vào Nhật Bản vào năm 1895, các nhóm đảo nhỏ,
và các đá cằn cỗi nằm dưới sự kiểm soát của Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ II,
nhưng được trao trả lại cho Nhật Bản với Hiệp ước trao trả Okinawa Mỹ-Nhật năm
1971. Các đảo đã trở thành cám dỗ hơn nhiều một vài năm trước đó khi người ta
phát hiện ra rằng các mỏ dầu có thể tồn tại ở gần đó. Đài Loan cũng yêu sách
chủ quyến các đảo này, nhưng đã được hưởng mối quan hệ tổng thể thân thiện
hơn với Nhật Bản, và Nhật Bản không chính thức công nhận Đài Loan là một quốc
gia có chủ quyền.
|
The dispute between China and Japan reignited in September
when the Japanese government announced it was finalizing the purchase of
three of the contested islands from a private Japanese owner. The government
did this mainly to keep the islands out of the hands of former Tokyo Mayor
Shintaro Ishihara, a flamboyant nationalist who had announced that the Tokyo
Metropolitan Government would bid on them.
|
Vụ tranh chấp giữa Trung Quốc
và Nhật Bản gây tái
diễn vào tháng Chín khi chính phủ Nhật Bản thông báo đã
hoàn tất việc mua ba trong số các hòn đảo tranh chấp từ một chủ sở hữu tư nhân Nhật Bản.
Chính phủ đã làm điều này chủ yếu là để giữ đảo ra khỏi bàn tay của cựu Thị
trưởng Tokyo Shintaro Ishihara, một người dân tộc chủ nghĩa khoa trương đã
thông báo rằng chính quyền thủ đô Tokyo sẽ bỏ tiền mua chúng.
|
Reacting with a series of what it called "combination
punches," Beijing threatened economic retaliation, launched joint combat
drills by its navy, air force and strategic missile corps, and refused to
attend the annual meetings of the International Monetary Fund and the World
Bank Group hosted by Tokyo in October. At the same time, violent
anti-Japanese protests—the biggest since 2005—broke out across China.
|
Phản ứng với một loạt các cái
gọi là "các cú
đấm kết hợp, Bắc Kinh đe dọa trả đũa kinh tế, đưa ra cuộc tập trận chiến đấu phối hợp gồm lực lượng
hải quân, không quân và quân đoàn tên lửa chiến lược, và từ chối tham dự cuộc
họp thường niên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới tổ chức tại Tokyo trong
tháng Mười. Đồng thời, các cuộc biểu tình bạo lực chống Nhật lớn nhất kể từ
năm 2005 đã nổ ra trên khắp Trung Quốc.
|
China's most significant move was designed to end four
decades of Japan's de facto control of the islands. Beijing announced base
lines to formally demarcate its territorial waters and sent law enforcement
ships into disputed waters. This new strategy is a stark departure from
China's policy under Deng Xiaoping (Beijing's supremo from 1978 to 1992),
which aimed to defer the dispute and seek joint exploitation of resources
with Japan.
|
Động thái quan trọng nhất của
Trung Quốc đã được
thiết kế để kết thúc bốn thập kỷ kiểm soát trên thực tế các hòn đảo của Nhật
Bản. Bắc Kinh tuyên bố các đường căn bản để chính thức phân ranh giới lãnh
hải của họ và đưa tàu thực thi pháp luật vào vùng biển tranh chấp. Chiến lược
mới này là một khởi hành gay gắt rõ rệt từ chính sách của Trung Quốc dưới
thời Đặng Tiểu Bình (lãnh đạo tối cao của Bắc Kinh từ 1978 đến năm 1992),
nhằm mục đích gác lại việc tranh chấp và tìm kiếm khai thác chung các nguồn
lực với Nhật Bản.
|
Deng's decision to put aside this fundamental disagreement
reflected the deep challenges to resolving the issue of island ownership.
Because the dispute is seen in China as related to Japan's imperial
aggression, it awakens historical enmities and inflames Chinese nationalism.
The Communist Party has long used past invasions and nationalism to bolster
its legitimacy, making any negotiations over sovereignty extremely complex.
|
Đặng Tiểu Bình quyết định đặt
sang một bên bất đồng cơ bản này phản ánh những thách thức sâu sắc để giải
quyết vấn đề quyền sở hữu hòn đảo. Bởi vì tranh chấp được thấy ở Trung Quốc
liên quan đến sự xâm lược của đế quốc Nhật Bản, nó đánh thức thù hằn lịch sử
và thổi bung ngọn lửa dân tộc Trung Quốc. Đảng Cộng sản đã sử dụng cuộc xâm
lược trong quá khứ và chủ nghĩa dân tộc để củng cố tính hợp pháp của nó, làm
cho bất kỳ cuộc đàm phán nào về chủ quyền vô cùng phức tạp.
|
At the root of this new flare-up is a changing economic
and power balance in East Asia. Seeing Japan on a downward slide while its
own star is rising, China feels the time is right to stake its ground in the
dispute. International law favors the country that has occupied or taken
measures to exercise sovereignty. These include submitting claims to the
United Nations, naming islands, making maps, conducting law-enforcement
patrols, and eventually building structures and inhabiting islands. China
believes that it has lost out while Japan administered the islands for decades.
|
Gốc rễ của những bùng phát mới
này là một sự cân bằng về kinh tế và quyền lực đã thay đổi trong khu vực Đông
Á. Chứng kiến Nhật Bản đang trên đà tuột dốc trong khi ngôi sao của mình đang
tăng lên, Trung Quốc cảm thấy đây là thời điểm thích hợp để giành thế mạnh
trong cuộc tranh chấp. Luật pháp quốc tế ủng hộ các quốc gia đã chiếm hoặc
thực hiện các biện pháp để thực hiện chủ quyền. Chúng bao gồm các trình tuyên
bố chủ quyền lên Liên Hiệp Quốc, đặt tên đảo, thành lập bản đồ, tiến hành
tuần tra bảo vệ, thực thi pháp luật, và cuối cùng là xây dựng cấu trúc và cư
trú ở đảo. Trung Quốc tin rằng nó đã bị mất mát trong khi Nhật Bản quản lý
các đảo trong nhiều thập kỷ nay.
|
Since Japan's purchase announcement, Beijing has taken
legal and operational measures to strengthen its own hand. It is taking
similar steps to bolster additional sovereignty claims in the South China
Sea, as it clearly desires to become a greater maritime power.
|
Kể từ khi Nhật Bản công bố mua
đảo, Bắc
Kinh đã thực hiện các biện pháp pháp lý và biện pháp hành động để tăng
cường sức mạnh của
mình. Bắc Kinh đang thực hiện các bước tương tự để củng cố thêm tuyên bố chủ quyền
ở Biển Đông, vì rõ ràng TQ mong muốn trở thành một cường quốc hàng hải lớn
hơn.
|
Neither side has a solid legal case. Japan's claim to
sovereignty on the basis of "discovery-occupation" centers on the
assertion that it found no trace of habitation or control when it formally
incorporated the islands in 1895. China claims that historical and legal
evidence shows the islands were discovered, named and used during the Ming
Dynasty (1368-1644), controlled by the Qing Dynasty in 1895, and seized in
the context of Japanese wartime expansion. This, Beijing argues, means they
must be handed over based on the post-World War II peace treaty that binds
Japan to return Chinese territory.
|
Cả hai bên đều không có một
trường hợp pháp lý vững chắc. Tuyên bố chủ quyền của Nhật Bản trên cơ sở của
"khám phá – và làm nghề" tập trung vào khẳng định rằng họ không hề
tìm thấy có dấu vết của nơi cư trú hoặc kiểm soát khi họ chính thức sát nhập
các đảo vào năm 1895. Trung Quốc tuyên bố rằng bằng chứng lịch sử và pháp lý
cho thấy các đảo được phát hiện, được đặt tên và được sử dụng trong triều đại
nhà Minh (1368-1644), được kiểm soát bởi nhà Thanh vào năm 1895, và bị chiếm
đóng trong bối cảnh Nhật Bản mở rộng trong thời gian chiến tranh. Bắc Kinh
lập luận, điều này có nghĩa là họ phải được trao trả dựa trên hiệp ước hòa
bình sau Thế chiến II mà buộc Nhật Bản để trả lại lãnh thổ Trung Quốc.
|
Continued peace in the region hinges upon the two countries
managing their differences. Cooperation on joint resource management in the
East China Sea while setting aside—but not renouncing—maritime claims could
be a practical way to build mutual trust and reap tangible benefits. In 2008,
the two governments came close to such a deal but ultimately failed to
overcome domestic nationalist opposition.
|
Hòa bình tiếp tục trong khu vực phụ thuộc vào cách hai
nước quản lý sự khác biệt của họ. Hợp tác về quản lý tài nguyên hốn hợp ở
Biển Hoa Đông, trong khi gác lại một bên, nhưng không từ bỏ chủ quyền hàng
hải - có thể là một cách thiết thực để
xây dựng lòng tin lẫn nhau và gặt hái những lợi ích hữu hình. Trong năm 2008,
chính phủ hai nước đã đến gần một thỏa thuận như vậy, nhưng cuối cùng không
vượt qua được đối lập dân tộc chủ nghĩa ở trong nước.
|
Before tensions flared, both sides had realized the danger
of maritime accidents and were committed to setting up communications systems
between their defense and law-enforcement bodies. But emotion prevailed over
reason and those talks were abandoned.
|
Trước khi căng thẳng bùng lên,
cả hai bên đã nhận ra sự nguy hiểm của tai nạn hàng hải và cam kết thiết lập
hệ thống thông tin liên lạc giữa và các cơ quan quốc phòng bảo vệ pháp luật của
họ. Nhưng cảm xúc vượt trội lý trí nên những cuộc đàm phán đều đã bị bỏ qua.
|
Both China and Japan have stated that a military conflict
is in no one's interest. That offers hope. Still, preserving peace requires
urgent cooperation to avoid misfires and prevent an accident from escalating
into a skirmish. A joint resource-development agreement would take time to
negotiate, particularly given the steps needed to calm nationalist anger. But
if the two sides are serious about avoiding armed conflict, common ground can
still be found. Both Beijing and Tokyo have new leaders who have an
opportunity to reduce tensions at sea. They should seize it.
|
Cả Trung Quốc và Nhật Bản đều
tuyên bố rằng một cuộc xung đột quân sự là điều không ai mong muốn. Điều đó
cho thấy còn hy vọng. Tuy nhiên, gìn giữ hòa bình đòi hỏi sự hợp tác khẩn cấp
để tránh bế tắc và ngăn ngừa một tai nạn leo thang thành một cuộc giao tranh.
Một thỏa thuận hợp tác phát triển nguồn tài nguyên sẽ mất thời gian để đàm
phán, đặc biệt để tạo các bước cần thiết làm dịu sự cơn giận của chủ nghĩa
dân tộc. Nhưng nếu hai bên nghiêm túc về việc tránh xung đột vũ trang, thì vẫn có thể tìm thấy lập trường chung. Cả Bắc Kinh và Tokyo đều có các nhà lãnh đạo
mới, những người này có một cơ hội để giảm bớt căng thẳng trên biển. Họ phải
nắm bắt nó.
|
Ms. Kleine-Ahlbrandt
is China and Northeast Asia project director for the International Crisis
Group.
The Wall Street
|
Bà Kleine-Ahlbrandt là Trung Quốc và Đông Bắc Á Giám đốc dự án của Nhóm
Khủng hoảng Quốc tế.
The Wall Street |
Journalhttp://www.crisisgroup.org/en/regions/asia/north-east-asia/china/op-eds/kleine-ahlbrandt-dangerous-escalation-east-china-sea.aspx
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Friday, February 22, 2013
A Dangerous Escalation in the East China Sea Một sự leo thang nguy hiểm ở biển Hoa Đông
Labels:
CHINA2-TRUNG QUỐC,
JAPAN-NHẬT BẢN
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn