|
SYMBOLS AND SIGNS
|
BIỂU TƯỢNG VÀ DẤU HIỆU
|
By Vladimir Nabokov
|
Vladimir Nabokov
|
For the fourth time in as many years, they were confronted
with the problem of what birthday present to take to a young man who was
incurably deranged in his mind. Desires he had none. Man-made objects were to
him either hives of evil, vibrant with a malignant activity that he alone
could perceive, or gross comforts for which no use could be found in his
abstract world. After eliminating a number of articles that might offend him
or frighten him (anything in the gadget line, for instance, was taboo), his
parents chose a dainty and innocent trifle—a basket with ten different fruit
jellies in ten little jars.
|
Đây là lần thứ tư sau cũng ngần ấy năm họ đối mặt với vấn
đề: nên mang món quà sinh nhật nào cho chàng trai trẻ đang mắc căn bệnh loạn
trí kinh niên.Cậu chẳng có ham muốn nào. Với cậu
thì những vật thể do con người tạo ra hoặc là những tổ ong quái ác, bần bật
rung cùng một thứ xung động hiểm độc mà cậu không thể nào đơn côi lĩnh hội
được, hoặc là những thứ tiện nghi thô thiển mà cậu không biết sử dụng vào đâu
trong thế giới trừu tượng của mình. Sau khi bỏ qua vài vật phẩm có thể làm cậu khó chịu
hoặc sợ hãi (chẳng hạn bất cứ thứ gì có thể dùng làm dụng cụ cũng bị cấm), bố
mẹ cậu chọn món quà vặt vô hại và ngon lành: một giỏ đựng mười loại mứt trái
cây khác nhau trong mười cái lọ nhỏ.
|
At the time of his birth, they had already been married
for a long time; a score of years had elapsed, and now they were quite old.
Her drab gray hair was pinned up carelessly. She wore cheap black dresses.
Unlike other women of her age (such as Mrs. Sol, their next-door neighbor,
whose face was all pink and mauve with paint and whose hat was a cluster of
brookside flowers), she presented a naked white countenance to the
faultfinding light of spring. Her husband, who in the old country had been a
fairly successful businessman, was now, in New York, wholly dependent on his
brother Isaac, a real American of almost forty years’ standing. They seldom
saw Isaac and had nicknamed him the Prince.
|
Ngày cậu ra đời, họ đã cưới nhau được một thời gian khá
lâu; hai chục năm trôi nhanh, và giờ thì họ đã già lắm rồi. Mái tóc màu nâu
xám của bà đã điểm bạc và được sửa soạn qua quýt. Bà mặc bộ đồ đen rẻ tiền. Không giống những phụ nữ cùng tuổi
(giả dụ như bà Sol, hàng xóm nhà bên cạnh, người có gương mặt hồng và tím hoa
cà do trang điểm, đội chiếc mũ là bó hoa ven suối), bà phơi gương mặt trắng
bợt trần trụi trước ánh sáng nghiệt ngã của ngày xuân.Chồng bà, một doanh
nhân từng khá thành đạt ở đất nước quê hương xưa kia, giờ đây phụ thuộc toàn
bộ vào ông em trai Isaac, một người Mỹ thực thụ với gần bốn mươi năm định cư.
Họ hiếm khi gặp ông ấy và đặt cho ông biệt hiệu “Hoàng tử”.
|
That Friday, their son’s birthday, everything went wrong.
The subway train lost its life current between two stations and for a quarter
of an hour they could hear nothing but the dutiful beating of their hearts
and the rustling of newspapers. The bus they had to take next was late and
kept them waiting a long time on a street corner, and when it did come, it
was crammed with garrulous high-school children. It began to rain as they walked
up the brown path leading to the sanitarium. There they waited again, and
instead of their boy, shuffling into the room, as he usually did (his poor
face sullen, confused, ill-shaven, and blotched with acne), a nurse they knew
and did not care for appeared at last and brightly explained that he had
again attempted to take his life. He was all right, she said, but a visit
from his parents might disturb him. The place was so miserably understaffed,
and things got mislaid or mixed up so easily, that they decided not to leave
their present in the office but to bring it to him next time they came.
|
Thứ sáu ấy, mọi chuyện không đâu vào đâu. Tàu điện ngầm bị
mất điện nguồn giữa hai ga, và trong khoảng một phần tư giờ, người ta chẳng
nghe được gì ngoài tiếng đập mẫn cán của trái tim mình cùng tiếng sột soạt
của những tờ báo. Chiếc xe buýt họ phải đón để đi tiếp đã bắt họ đợi đến hàng thế kỷ, và
khi nó đến thì đã bị nhồi nhét đầy ngộn lũ học sinh trung học mồm mép tía
lia. Trời mưa to khi họ bước theo con đường màu nâu dẫn đến bệnh viện tâm
thần. Ở đó, họ lại
phải chờ đợi, và thay vì cậu con trai lê chân vào phòng như cậu vẫn thường làm
(gương mặt tội nghiệp của cậu lem luốc mụn trứng cá, nham nhở vết râu cạo ẩu,
rầu rĩ, bối rối), một cô y tá họ quen mặt, và chẳng quan tâm đến, cuối cùng
cũng xuất hiện và vui vẻ giải thích rằng cậu lại vừa cố tìm cách kết liễu đời
mình. Cậu đã ổn, cô
nói, nhưng chuyến thăm viếng này có thể quấy rầy cậu. Nơi đây thiếu nhân viên
một cách khủng khiếp, còn đồ đạc rất dễ bị thất lạc hoặc lộn xộn hết cả,
thành thử họ quyết định không để quà lại văn phòng mà mang nó đến cho cậu khi
họ quay lại đây lần sau.
|
Outside the building, she waited for her husband to open
his umbrella and then took his arm. He kept clearing his throat, as he always
did when he was upset. They reached the bus-stop shelter on the other side of
the street and he closed his umbrella. A few feet away, under a swaying and
dripping tree, a tiny unfledged bird was helplessly twitching in a puddle.
|
Bên ngoài tòa
nhà, bà chờ chồng mở
cây dù rồi sau đó khoác tay ông. Ông không ngừng hắng giọng, theo cái kiểu âm
vang đặc biệt như ông vẫn làm mỗi khi phiền muộn. Họ đến trạm chờ xe buýt bên
kia phố và ông xếp dù lại. Vài bước gần đó, dưới cái cây ướt sũng đang đung
đưa, một con chim nhỏ xíu chưa đủ lông đủ cánh, nửa sống nửa chết, đang bất
lực co giật trong vũng nước.
|
During the long ride to the subway station, she and her
husband did not exchange a word, and every time she glanced at his old hands,
clasped and twitching upon the handle of his umbrella, and saw their swollen
veins and brown-spotted skin, she felt the mounting pressure of tears. As she
looked around, trying to hook her mind onto something, it gave her a kind of
soft shock, a mixture of compassion and wonder, to notice that one of the
passengers—a girl with dark hair and grubby red toenails—was weeping on the
shoulder of an older woman. Whom did that woman resemble? She resembled
Rebecca Borisovna, whose daughter had married one of the Soloveichiks—in
Minsk, years ago.
|
Suốt quãng đường dài đến ga tàu điện ngầm, bà với chồng
không trao đổi nửa lời, mỗi khi bà liếc nhìn đôi bàn tay già nua của ông
(tĩnh mạch nổi phồng lên, làn da lốm đốm đồi mồi) đang nắm chặt và co giật
trên cán chiếc dù, bà thấy nước mắt dâng lên và chỉ chực trào ra.
Khi bà nhìn
quanh, cố gắng để tập trung suy nghĩ vào một cái gì đó, nó cho bà một cú sốc
mềm mại, trộn lẫn từ tâm và tự vấn, để ý thấy rằng một trong những hành
khách, một cô gái với mái tóc đen và móng chân màu đỏ bẩn thỉu, đang khóc thút
thít trên vai của một phụ nữ lớn tuổi. Người phụ nữ này giống ai nhỉ? Bà ấy giống
Rebecca Borisovna, mà cô con gái đã kết hôn với một trong những người thuộc
dòng họ Soloveichiks tại Minsk,
cách đây dã nhiều năm
|
The last time the boy had tried to do it, his method had
been, in the doctor’s words, a masterpiece of inventiveness; he would have
succeeded had not an envious fellow-patient thought he was learning to fly
and stopped him just in time. What he had really wanted to do was to tear a
hole in his world and escape. The system of his delusions had been the
subject of an elaborate paper in a scientific monthly, which the doctor at
the sanitarium had given to them to read. But long before that, she and her
husband had puzzled it out for themselves. “Referential mania,” the article
had called it.
|
Lần cuối cùng cậu cố gắng làm chuyện ấy, cách cậu thực
hiện là, theo lời bác sĩ, một kiệt tác sáng tạo. Lẽ ra cậu đã thành công nếu
như một gã bệnh nhân ganh ghét không nghĩ là cậu đang học bay - và ngăn cản
cậu. Việc cậu thật sự muốn làm lại là khoét một lỗ trong thế giới của cậu và
trốn thoát. Hệ hoang tưởng của cậu từng là chủ đề của những bài nghiên cứu
công phu trong nhiều nguyệt san khoa học, nhưng trước đó rất lâu, bà và chồng
đã giải đoán được nó rồi. “Chứng hoang tưởng liên hệ” - Herman Brink đã gọi
nó như vậy.
|
In these very rare cases, the patient imagines that everything
happening around him is a veiled reference to his personality and existence.
He excludes real people from the conspiracy, because he considers himself to
be so much more intelligent than other men. Phenomenal nature shadows him
wherever he goes. Clouds in the staring sky transmit to each other, by means
of slow signs, incredibly detailed information regarding him. His in- most
thoughts are discussed at nightfall, in manual alphabet, by darkly
gesticulating trees. Pebbles or stains or sun flecks form patterns
representing, in some awful way, messages that he must intercept. Everything
is a cipher and of everything he is the theme. All around him, there are
spies. Some of them are detached observers, like glass surfaces and still
pools; others, such as coats in store windows, are prejudiced witnesses,
lynchers at heart; others, again (running water, storms), are hysterical to
the point of insanity, have a distorted opinion of him, and grotesquely
misinterpret his actions. He must be always on his guard and devote every
minute and module of life to the decoding of the undulation of things. The
very air he exhales is indexed and filed away. If only the interest he
provokes were limited to his immediate surroundings, but, alas, it is not!
With distance, the torrents of wild scandal increase in volume and
volubility. The silhouettes of his blood corpuscles, magnified a million
times, flit over vast plains; and still farther away, great mountains of
unbearable solidity and height sum up, in terms of granite and groaning firs,
the ultimate truth of his being.
|
Trong những ca rất hiếm gặp này thì bệnh nhân hình dung
rằng tất tần tật mọi thứ xảy ra xung quanh hắn đều chứa đựng những ám chỉ úp
úp mở mở tới cá nhân hắn cùng sự hiện hữu của hắn. Bệnh nhân loại trừ người
thật ra khỏi âm mưu - do hắn tự coi mình là thông minh hơn rất nhiều so với
những người khác. Thiên nhiên diệu kỳ bí mật theo dõi hắn dù hắn có đi bất cứ nơi đâu.
Những đám mây trên bầu trời đăm đắm truyền cho nhau, bằng những dấu hiệu chậm
rãi, các thông tin cặn kẽ đến mức không thể tin nổi về hắn. Lúc màn đêm buông xuống, lũ cây
cối khoa chân múa tay đầy vẻ ám muội, theo những mẫu tự cử chỉ, luận bàn về
những suy nghĩ thầm kín nhất của hắn. Sỏi đá hay vết bẩn hay đốm nắng tạo
hình các mẫu hoa văn miêu tả theo cách thức khủng khiếp nào đó những thông
điệp mà hắn buộc phải chặn được. Vạn vật là mật mã và hắn là chủ đề của vạn vật. Vài
điệp viên là những kẻ theo dõi khách quan, ví dụ như các mặt kính và những
vũng nước phẳng lặng; bọn khác, chẳng hạn những chiếc áo khoác trong khoang
tủ kính bày hàng, là những chứng nhân đầy định kiến, những đao phủ máu lạnh;
những kẻ khác nữa (nước chảy, bão dông) thì cuồng loạn đến mức điên dại, có
quan điểm méo mó về hắn và hiểu nhầm một cách lố bịch về các hành vi của hắn. Hắn lúc nào cũng phải cảnh giác đề
phòng và dâng hiến từng phút từng mẩu đời mình cho việc giải mã những gợn
sóng của vạn vật. Chính thứ không khí hắn thở cũng được lập chỉ mục và lưu
trữ lại. Phải chi những mối quan tâm được hắn khơi lên chỉ giới hạn trong
vùng môi trường ngay xung quanh hắn thì cũng không sao - nhưng, than ôi,
chuyện không phải như vậy! Càng xa cách, những luồng đơm đặt man dại càng
tăng âm lượng và dung lượng. Hình bóng những hồng huyết cầu của hắn, được khuếch đại
lên hàng triệu lần, bay lượn trên những bình nguyên mênh mông; và xa hơn nữa,
những ngọn núi khổng lồ cao ngất và vững chắc đến không thể chịu nổi đang đúc
kết lại, theo thuật ngữ của đá hoa cương và những cây linh sam rên rỉ, chân
lý tối thượng về sự tồn tại của hắn.
|
When they emerged from the thunder and foul air of the
subway, the last dregs of the day were mixed with the street lights. She
wanted to buy some fish for supper, so she handed him the basket of jelly
jars, telling him to go home. Accordingly, he returned to their tenement
house, walked up to the third landing, and then remembered he had given her
his keys earlier in the day.
|
Lúc họ trồi lên được khỏi tiếng sấm sét và bầu không khí
hôi hám ở đường tàu điện ngầm, những dư tàn còn sót lại của ngày đang hòa lẫn
với ánh đèn đường. Bà muốn mua ít cá cho bữa tối nên bà đưa ông cái giỏ đựng
những lọ mứt, bảo ông đi về nhà. Ông đang bước lên chiếu nghỉ thứ ba của cầu thang
thì chợt nhớ ra ông đã đưa bà cầm chùm chìa khóa của ông vào lúc đầu ngày.
|
In silence he sat down on the steps and in silence rose
when, some ten minutes later, she came trudging heavily up the stairs,
smiling wanly and shaking her head in deprecation of her silliness. They
entered their two-room flat and he at once went to the mirror. Straining the
corners of his mouth apart by means of his thumbs, with a horrible, mask-like
grimace, he removed his new, hopelessly uncomfortable dental plate. He read
his Russian-language newspaper while she laid the table. Still reading, he
ate the pale victuals that needed no teeth. She knew his moods and was also
silent.
|
Ông lặng lẽ ngồi trên những bậc thang và lặng lẽ nhổm dậy
khi khoảng chục phút sau bà về, nặng nề lê bước lên gác, cười thiểu não, lắc
lắc đầu phê phán sự ngờ nghệch của mình. Họ bước vào căn hộ hai buồng của họ
và ngay lập tức ông đi về phía chiếc gương. Vừa kéo hai khóe miệng mình banh
ra bằng các ngón tay cái với vẻ mặt nhăn nhó như chiếc mặt nạ khủng khiếp,
ông vừa tháo hàm răng giả mới tinh bất tiện đến tuyệt vọng và ngắt đứt những
chiếc nanh nước dãi dài thượt nối kết ông với nó. Ông đọc tờ báo tiếng Nga trong lúc
bà bày biện bàn ăn. Vẫn không ngừng đọc, ông nuốt những món ăn nhợt nhạt
không cần đến răng. Bà hiểu tâm trạng ông và cũng lặng thinh.
|
When he had gone to bed, she remained in the living room
with her pack of soiled playing cards and her old photograph albums. Across
the narrow courtyard, where the rain tinkled in the dark against some ash
cans, windows were blandly alight, and in one of them a black-trousered man,
with his hands clasped under his head and his elbows raised, could he seen
lying supine on an untidy bed. She pulled the blind down and examined the
photographs. As a baby, he looked more surprised than most babies. A
photograph of a German maid they had had in Leipzig and her fat-faced fiancé
fell out of a fold of the album. She turned the pages of the book: Minsk, the
Revolution, Leipzig, Berlin, Leipzig again, a slanting house front, badly out
of focus. Here was the boy when he was four years old, in a park, shyly, with
puckered forehead, looking away from an eager squirrel, as he would have from
any other stranger. Here was Aunt Rosa, a fussy, angular, wild-eyed old lady,
who had lived in a tremulous world of bad news, bankruptcies, train
accidents, and cancerous growths until the Germans put her to death, together
with all the people she had worried about.
|
Khi ông đã đi nằm, bà vẫn còn ở lại trong phòng khách với
bộ bài tây nhem nhuốc và những cuốn album cũ kỹ. Bên kia cái sân hẹp nơi mưa
rơi lanh tanh trong bóng tối lên những thùng đựng tro méo mó, các cửa sổ ngời
sáng dịu êm và qua một trong số chúng có thể nhìn thấy một người đàn ông mặc
quần đen với hai khuỷu tay để trần giơ lên cao đang nằm ngửa trên chiếc
giường bừa bộn. Bà kéo rèm cửa xuống và ngắm nghía những tấm ảnh. Lúc còn bé, nhìn cậu
có vẻ ngạc nhiên hơn phần lớn những đứa trẻ khác. Từ nếp gấp trong cuốn
album, cô hầu người Đức họ từng thuê ở Leipzig và vị hôn phu mặt bệu của cô
rơi ra ngoài. Minsk, Cách mạng, Leipzig, Berlin, Leipzig, mặt tiền một ngôi nhà xiêu
vẹo mất nét tệ hại. Bốn tuổi, trong công viên: đăm chiêu, bẽn lẽn, với cái
trán nhăn, đưa mắt ngó lơ con sóc háo hức, hệt như cậu vẫn lảng tránh bất cứ
thứ gì khác lạ. Dì Rosa, một bà già nhặng xị, gầy giơ xương, mắt dài dại, sống trong
một thế giới run rẩy rặt những tin xấu, nào phá sản, nào tai nạn tàu xe, nào
sự bùng phát bệnh ung thư - cho đến khi bọn Đức lùa dì vào cõi chết, cùng lúc
với tất cả những người mà dì vẫn lo lắng.
|
The boy, aged six—that was when he drew wonderful birds
with human hands and feet, and suffered from insomnia like a grown-up man.
His cousin, now a famous chess player. The boy again, aged about eight,
already hard to understand, afraid of the wallpaper in the passage, afraid of
a certain picture in a book, which merely showed an idyllic landscape with
rocks on a hillside and an old cart wheel hanging from the one branch of a
leafless tree. Here he was at ten—the year they left Europe. She remembered
the shame, the pity, the humiliating difficulties of the journey, and the
ugly, vicious, backward children he was with in the special school where he
had been placed after they arrived in America. And then came a time in his
life, coinciding with a long convalescence after pneumonia, when those little
phobias of his, which his parents had stubbornly regarded as the
eccentricities of a prodigiously gifted child, hardened, as it were, into a
dense tangle of logically interacting illusions, making them totally
inaccessible to normal minds.
|
Sáu tuổi - đó là khi cậu vẽ những con chim phi thường với
đôi tay và đôi chân người phàm, và chịu đựng chứng mất ngủ như một gã đàn ông
trưởng thành. Anh họ cậu, giờ là kỳ thủ nổi tiếng. Lại là cậu, khoảng tám tuổi, đã
khó hiểu, sợ giấy dán tường hành lang, sợ một bức tranh nào đó trong cuốn
sách đơn thuần cho người ta thấy phong cảnh đồng quê với những khối đá trên
sườn đồi và chiếc bánh xe thồ cũ kỹ treo trên cành một cái cây trụi lá. Mười tuổi: năm họ rời khỏi châu
Âu. Nỗi hổ thẹn, lòng trắc ẩn, cảnh túng bấn nhục nhã, những đứa trẻ cá biệt,
xấu xí, hư hỏng mà cậu phải học cùng tại cái trường đặc biệt ấy. Và rồi thời gian ấy trong đời cậu
đến cùng lúc với thời kỳ dưỡng bệnh kéo dài sau khi bị viêm phổi, lúc những
ám ảnh bé bỏng ấy của cậu, những ám ảnh mà cha mẹ cậu cứ ngoan cố xem như
tính lập dị của một đứa trẻ thiên tài phi thường, kết lại, có thể nói là
thành mớ bùng nhùng chặt cứng những ảo giác tương tác logic, làm cho cậu hoàn
toàn không thể tiếp cận được tới lý tính thông thường.
|
All this, and much more, she had accepted, for, after all,
living does mean accepting the loss of one joy after another, not even joys
in her case, mere possibilities of improvement. She thought of the recurrent
waves of pain that for some reason or other she and her husband had had to
endure; of the in visible giants hurting her boy in some unimaginable
fashion; of the incalculable amount of tenderness contained in the world; of
the fate of this tenderness, which is either crushed or wasted, or
transformed into madness; of neglected children humming to themselves in
unswept corners; of beautiful weeds that cannot hide from the farmer.
|
Bà chấp nhận tất cả những chuyện này, và cả nhiều chuyện
khác nữa. Bởi lẽ rốt cuộc thì sống nghĩa là chấp nhận đánh mất hết niềm vui
này đến niềm vui khác, thậm chí trong cảnh của bà thì đến niềm vui cũng chẳng
có, mà chỉ là những triển vọng sáng sủa hơn thôi. Bà nghĩ về những đợt đau nhức liên
miên do nguyên nhân nào chẳng rõ mà bà và chồng đang phải chịu đựng; về những
quái vật khổng lồ vô hình vẫn hành hạ con trai bà theo những cách thức nào đó
không thể tưởng tượng nổi; về sự mong manh nhiều không đếm xuể trên Trái đất
này; về định mệnh của những mong manh ấy, những thứ sẽ bị nghiền nát hoặc bị
quăng đi, hoặc bị làm cho biến thành điên loạn; về những đứa trẻ bị bỏ rơi ư
ử tự hát cho mình nghe ở những góc phố không ai quét dọn; về những cây cỏ dại
tuyệt đẹp không giấu được mình khỏi bác nông dân và phải bất lực dõi theo
bóng dáng gù như khỉ của bác bỏ lại những bông hoa xơ xác theo những bước
chân, tựa như bóng tối hắc ám gớm guốc đang tiến đến gần.
|
It was nearly midnight when, from the living room, she
heard her husband moan, and presently he staggered in, wearing over his
nightgown the old overcoat with the astrakhan collar that he much preferred
to his nice blue bathrobe.
|
Đã quá nửa đêm khi, từ phòng khách, bà nghe thấy chồng
mình rên rẩm, và ngay sau đó ông loạng choạng bước vào, khoác ra ngoài bộ đồ
ngủ của mình một cái áo choàng cũ cổ lông cừu non mà ông vẫn ưng hơn chiếc áo
choàng tắm màu xanh lam rất đẹp.
|
“I can’t sleep!” he cried.
“Why can’t you sleep?” she asked. “You were so tired.”
“I can’t sleep because I am dying,” he said, and lay down
on the couch.
“Is it your stomach? Do you want me to call Dr. Solov?”
“No doctors, no doctors,” he moaned. “To the devil with
doctors! We must get him out of there quick. Otherwise, we’ll be
responsible…. Responsible!” He hurled himself into a sitting position, both
feet on the floor, thumping his forehead with his clenched fist.
“All right,” she said quietly. “We will bring him home
tomorrow morning.”
“I would like some tea,” said her husband and went out to
the bathroom.
|
“Anh không
thể nào ngủ được!” - ông than vãn.
“Sao vậy? - bà hỏi - Sao anh lại không ngủ được? Anh mệt
thế cơ mà”.
“Anh không thể ngủ được vì anh đang hấp hối” - ông nói và
nằm xuống đivăng.
“Có phải do dạ dày không? Anh có muốn em gọi cho bác sĩ
Solov không?”.
“Không cần bác sĩ đâu, không cần bác sĩ - ông rên rẩm -
Quỷ tha ma bắt bọn bác sĩ đi! Ta phải nhanh chóng mang nó ra khỏi nơi đó. Nếu
không thì ta sẽ phải chịu trách nhiệm... Phải chịu trách nhiệm!”. Ông nhắc
lại và lật người qua tư thế ngồi, hai chân đặt trên sàn nhà, đấm bàn tay nắm
chặt lên trán mình.
“Được rồi - bà khe khẽ nói - Sáng mai ta sẽ đưa nó về
nhà”.
“Anh muốn uống chút trà” - chồng bà nói và lánh mình vào
phòng tắm.
|
Bending with difficulty, she retrieved some playing cards
and a photograph or two that had slipped to the floor—the knave of hearts,
the nine of spades, the ace of spades, the maid Elsa and her bestial beau. He
returned in high spirits, saying in a loud voice, “I have it all figured out.
We will give him the bedroom. Each of us will spend part of the night near
him and the other part on this couch. We will have the doctor see him at
least twice a week. It does not matter what the Prince says. He won’t have
much to say anyway, because it will come out cheaper.”
|
Khó nhọc cúi người xuống, bà gom lại mấy lá bài và vài tấm
ảnh bị tuột xuống sàn nhà - cây bồi cơ, cây chín pích, cây xì pích, cô hầu
Elsa cùng với gã trai đỏm đáng dâm đãng của ả. Ông vừa quay lại với tâm trạng
phấn khích, vừa nói lớn tiếng: “Anh đã tính xong hết rồi. Ta sẽ nhường phòng ngủ
cho nó. Mỗi người chúng ta sẽ qua một phần đêm bên cạnh nó và phần còn lại
trên chiếc đivăng này. Thay phiên nhau. Ta sẽ nhờ bác sĩ thăm nom nó ít nhất
là hai lần mỗi tuần. Kệ cho Hoàng tử nói gì thì nói. Dẫu sao thì ông ấy cũng
chẳng kêu ca gì đâu, bởi sẽ đỡ tốn tiền hơn”.
|
The telephone rang. It was an unusual hour for it to ring.
He stood in the middle of the room, groping with his foot for one slipper
that had come off, and childishly, toothlessly, gaped at his wife. Since she
knew more English than he, she always attended to the calls.
”Can I speak to Charlie?” a girl’s dull little voice said
to her now.
“What number do you want? . . . No. You have the wrong
number.”
She put the receiver down gently and her hand went to her
heart. “It frightened me,” she said.
He smiled a quick smile and immediately resumed his
excited monologue. They would fetch him as soon as it was day. For his own
protection, they would keep all the knives in a locked drawer. Even at his
worst, he presented no danger to other people.
The telephone rang a second time.
The same toneless, anxious young voice asked for Charlie.
“You have the incorrect number. I will tell you what you
are doing. You are turning the letter ‘o’ instead of the zero.” She hung up
again.
|
Điện thoại đổ chuông. Thường nó chẳng bao giờ đổ chuông
vào giờ này. Chiếc dép lê chân trái của ông tuột đâu mất và ông mò mẫm tìm nó
bằng gót và ngón chân trong lúc đứng ngay giữa phòng, há cái miệng không răng
về phía vợ một cách rất trẻ con. Do bà thạo tiếng Anh hơn ông nên bà là người
trả lời điện thoại.
“Có thể cho tôi nói chuyện với Charlie được không ạ? -
giọng nhỏ nhẹ buồn buồn của cô gái nào đó nói với bà.
“Cô muốn gọi số nào thế? Không phải. Cô gọi nhầm số rồi”.
Bà nhẹ nhàng đặt ống nghe xuống và đặt tay lên trái tim
già mệt mỏi. “Nó làm em sợ quá” - bà bảo.
Ông nở nụ cười mau lẹ và ngay lập tức tiếp tục bài độc
thoại sôi nổi của mình. Họ sẽ đưa cậu về ngay khi ngày mới đến. Dao sẽ phải
được cất vào ngăn kéo khóa kín. Thậm chí trong trạng thái tồi tệ nhất thì cậu
cũng sẽ không làm hại được người khác.
Điện thoại lại đổ chuông lần thứ hai. Vẫn giọng nói trẻ
trung, bồn chồn, buồn bã ấy xin gặp Charlie.
“Cô gọi nhầm số rồi. Tôi sẽ chỉ cho cô biết cô đang làm
gì. Cô quay nhầm chữ O thay vì số không đấy”.
|
They sat down to their unexpected, festive midnight tea.
He sipped noisily; his face was flushed; every now and then he raised his
glass with a circular motion, so as to make the sugar dissolve more
thoroughly. The vein on the side of his bald head stood out conspicuously,
and silvery bristles showed on his chin. The birthday present stood on the
table. While she poured him another glass of tea, he put on his spectacles
and reëxamined with pleasure the luminous yellow, green, and red little jars.
His clumsy, moist lips spelled out their eloquent labels—apricot, grape,
beach plum, quince. He had got to crab apple when the telephone rang again.
|
Họ ngồi xuống thưởng thức bữa tiệc trà đột xuất giữa đêm
của họ. Món quà sinh nhật nằm trên bàn. Ông sụp soạp nhấp, mặt ông đỏ bừng,
thỉnh thoảng ông lại nâng tách trà lên lắc tròn để cho đường tan ra kỹ hơn.
Tĩnh mạch trên một bên cái đầu hói của ông, nơi có vết bớt lớn, nổi lên rõ
mồn một và mặc dù ông mới cạo sáng nay, những sợi râu bạc hiện ra trên cằm
ông. Trong lúc bà
rót cho ông tách trà khác, ông đeo kính lên khoan khoái ngắm nghía những
chiếc lọ nhỏ tỏa ánh sáng vàng, lục và đỏ. Đôi môi ướt, vụng về của ông đánh
vần các nhãn hiệu sặc sỡ của chúng - mơ, nho, mận biển, mộc qua. Đúng lúc ông
cầm đến lọ táo dại thì điện thoại lại đổ chuông.
|
|
Biểu Tượng và dấu hiệu là một trong những truyện ngắn được đánh giá là xuất
sắc nhất của Vladimir Nabokov - nhà văn Mỹ gốc Nga, tác giả Lolita. Tác phẩm
được viết bằng tiếng Anh và xuất bản lần đầu vào ngày 15-5-1948 trên tờ The
New Yorker (*).
|
|
Translated
by THIÊN LƯƠNG
|
http://www.newyorker.com/magazine/1948/05/15/symbols-and-signs
|
|
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn