|
The Pentagon Papers
UNITED STATES – VIETNAM RELATIONS 1945-1967
Volume 1
|
Giải mật Hồ sơ Lầu Năm Góc
QUAN HỀ MỸ - VIỆT 1945-1967
Phần I
|
Chapter I, "Background to the Crisis, 1940-50,"
|
Chương 1 “Bối cảnh khủng hoảng, 1940-50”
|
|
translated by Nguyễn Quốc Vĩ
|
|
|
INDOCHINA IN U.S. WARTIME POLICY, 1941-1945
|
ĐÔNG DƯƠNG TRONG CHÍNH SÁCH THỜI CHIẾN CỦA MỸ, 1940-1950
|
Summary
Significant misunderstanding has
developed concerning U.S. policy towards Indochina in the decade of World War
II and its aftermath. A number of historians have held that anti-colonialism
governed U.S. policy and actions up until 1950, when containment of communism
supervened. For example, Bernard Fall (e.g. in his 1967 postmortem book, Last
Reflections on a War) categorized American policy toward Indochina in six
periods: "(1) Anti-Vichy, 1940-1945; (2) Pro-Viet Minh, 1945-1946; (3)
Non-involvement, 1946-June 1950; (4) Pro-French, 1950-July 1954; (5)
Non-military involvement, 1954-November 1961; (6) Direct and full
involvement, 1961- ." Commenting that the first four periods are those
"least known even to the specialist," Fall developed the thesis
that President Roosevelt was determined "to eliminate the French from
Indochina at all costs," and had pressured the Allies to establish an
international trusteeship to administer Indochina until the nations there
were ready to assume full independence.
This obdurate anti-colonialism, in
Fall's view, led to cold refusal of American aid for French resistance
fighters, and to a policy of promoting Ho Chi Minh and the Viet Minh as the
alternative to restoring the French bonds. But, the argument goes, Roosevelt
died, and principle faded; by late 1946, anti-colonialism mutated into
neutrality. According to Fall: "Whether this was due to a deliberate
policy in Washington or, conversely, to an absence of policy, is not quite
clear. . . .
|
Tóm lược
Đã có những sai lầm đáng kể trong
chính sách của Mỹ đối với Đông Dương trong thập niên Thế Chiến II và những hậu
quả gây nên bởi chúng. Một số sử gia đã ghi nhận rằng chính việc chống chủ
nghĩa thực dân đã điều khiển các chính sách và hành động của Mỹ cho đến năm
1950, khi việc ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản trở thành chủ đạo. Ví dụ, Bernard
Fall (trong cuốn sách phát hành năm 1967, sau khi ông qua đời mang tựa “Những suy ngẫm cuối cho một cuộc chiến”
ông phân loại chính sách của Mỹ đối với Đông Dương gồm sáu giai đoạn:
"(1) Chống-Vichy, 1940-1945; (2) Ủng hộ-Việt Minh, 1945-1946; (3) không
can thiệp từ 1946 đến tháng 6 năm 1950; (4) Ủng hộ Pháp, 1950 - Tháng 7 năm
1954; (5) can thiệp dân sự: 1954 - tháng 11 năm 1961; (6) can thiệp trực tiếp
và toàn diện 1961. Bình luận rằng “bốn giai đoạn đầu tiên là những giai đoạn
mà ít người kể cả những chuyên gia biết đến”, Fall còn đưa ra luận thuyết rằng
Tổng thống Roosevelt đã xác định là “phải loại bỏ người Pháp khỏi Đông Dương
bằng mọi giá” và đã làm áp lực trên Đồng Minh ủy thác việc quản trị Đông
Dương cho một tổ chức Quốc Tế cho đến khi các quốc gia ở đó (Việt, Miên, Lào)
sẳn sàng hoàn toàn chịu trách nhiệm về nền Độc Lập của mình. Thái độ chống Thực
Dân một cách ngoan cố này, theo ông Fall, là đã đưa đến việc lạnh nhạt từ chối
giúp đỡ phe kháng chiến Việt Nam chống Pháp và [từ chối] một đường lối nhằm
nâng đỡ Hồ Chí Minh và Việt Minh như là một giải pháp để thay thế cho việc
tái lập gông cùm của Pháp. Tuy nhiên, trong khi những lý lẽ đang diễn biến
thì Roosevelt qua đời, và ý chính đó trở nên mờ nhạt; vào cuối năm 1946, ý đồ
chống chủ nghĩa Thực Dân đã đột biến thành toan tính trung lập hóa Đông
Dương. Theo Fall, có thể “đây là một chính sách có chủ ý và ngược lại cũng có
thể vì sự thiếu vắng một chính sách rõ ràng về Đông Dương vào lúc đó. Việc
này quả thật không rõ lắm.
|
The United States, preoccupied in
Europe, ceased to be a diplomatic factor in Indochina until the outbreak of
the Korean War." In 1950, anti-communism asserted itself, and in a
remarkable volte-face, the United States threw its economic and military
resources behind France in its war against the Viet Minh. Other commentators,
conversely-prominent among them, the historians of the Viet Minh-have
described U.S. policy as consistently condoning and assisting the
reimposition of French colonial power in Indochina, with a concomitant
disregard for the nationalist aspirations of the Vietnamese.
Neither interpretation squares
with the record; the United States was less concerned over Indochina, and
less purposeful than either assumes. Ambivalence characterized U.S. policy
during World War 11, and was the root of much subsequent misunderstanding. On
the one hand, the U.S. repeatedly reassured the French that its colonial
possessions would be returned to it after the war. On the other band, the
U.S. broadly committed itself in the Atlantic Charter to support national
self-determination, and President Roosevelt personally and vehemently
advocated independence for Indochina. F.D.R. regarded Indochina as a flagrant
example of onerous colonialism which should be turned over to a trusteeship
rather than returned to France. The President discussed this proposal with
the Allies at the Cairo, Teheran, and Yalta Conferences and received the
endorsement of Chiang Kai-shek and Stalin; Prime Minister Churchill demurred.
At one point, Fall reports, the President offered General de Gaulle Filipino
advisers to help France establish a "more progressive policy in
Indochina"--which offer the General received in "Pensive
Silence."
|
Hoa Kỳ, bận tâm về Âu Châu, đã
ngưng không coi Đông Dương là một yếu tố ngoại giao cho đến khi chiến tranh
Triều Tiên bùng nổ”. Năm 1950, đường lối chống cộng sản đã được khẳng định,
và nó như một cú trở mặt xuay chiều đáng lưu ý. Hoa Kỳ tung những nguồn lực
kinh tế và quân sự vào giúp Pháp trong cuộc chiến chống lại Việt Minh – Nhiều
nhà bình luận, nổi bật trong số đó là các sử gia Việt Minh - đã mô tả chính
sách của Mỹ là liên tục dung túng và trợ giúp Pháp tái lập nền đô hộ của họ tại
Đông Dương đồng thời bất chấp nguyện vọng của dân tộc Việt Nam.
Chẳng có ý kiến nào trên đây thật
sự chính xác với tài liệu ghi chép: [đơn thuần] là Hoa Kỳ rất ít quan tâm đến
Đông Dương, ít có chủ tâm hơn là giả sử như thế. Tính bất nhất chính là đặc
trưng của Hoa Kỳ về đường lối trong Thế Chiến II và đó là nguồn gốc của nhiều
sự hiểu lầm tiếp theo sau đó. Một mặt người Mỹ đã nhiều lần lập đi lập lại với
Pháp là tài sản của họ (ở ĐD) sau chiến tranh sẽ được trao trả lại cho họ. Một
mặt khác Hoa Kỳ lại công khai ủng hộ Hiến Chương Đại Tây Dương về quyền Dân Tộc
Tự Quyết và cá nhân TT Roosevelt đã cực lực cỗ võ cho một Đông Dương độc lập.
TT Roosevelt đã xem Đông Dương là một thí dụ rõ ràng nhất là phải thay thế
cái chủ nghĩa Thực Dân xấu xa bằng một Cơ Quan quốc tế được ủy nhiệm để quản
lý, thay vì giao nó lại cho Pháp. TT Roosevelt đã thảo luận đề nghị trên với
Đồng Minh ở Cairo, Teheran, ở Hội Nghị Yalta và đã được sự đồng ý của Tưởng
Giới Thạch và Stalin; Thủ Tướng Churchill thì còn do dự.
Tại một thời điểm, theo nghiên cứu
của Fall, Tổng Thống đã đề nghị với tướng De Gaulle là hãy nhờ những cố vấn
người Phi Luật Tân giúp Pháp xây dựng một chính sách "tiến bộ hơn ở Đông
Dương "- Tướng Degaulle nghe đề nghị và " im lặng trầm ngâm "
tiếp theo đó.
|
Ultimately, U.S. Policy was governed
neither by the principle s of the Atlantic Charter, nor by the President's
anti-colonialism but by the dictates of military strategy and by British
intransigence on the colonial issue. The United States, concentrating its
forces against Japan, accepted British military primacy in Southeast Asia,
and divided Indochina at 16th parallel between the British and the Chinese
for the purposes of occupation. . U.S. commanders serving with the British
and Chinese, while instructed to avoid ostensible alignment with the French,
were permitted to conduct operations in Indochina which did not detract from
the campaign against Japan. Consistent with F.D.R.'s guidance, U.S. did
provide modest aid to French--and Viet Minh--resistance forces in Vietnam
after March, 1945, but refused to provide shipping to move Free French troops
there. Pressed by both the British and the French for clarification U.S.
intentions regarding the political status of Indochina, F.D.R- maintained
that "it is a matter for postwar."
|
Cuối cùng, chính sách của Mỹ không
được dẫn dắt bởi các nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương, cũng không phải
quyết sách chống chủ nghĩa thực dân của Tổng thống, nhưng lại do mệnh lệnh của
chiến lược quân sự, và thái độ cố chấp của người Anh trên vấn đề thuộc địa.
Hoa Kỳ, vì đang tập trung lực lượng của mình trong cuộc chiến với Nhật, nên
phải chấp nhận vai trò chủ đạo của quân đội Anh ở Đông Nam Á, chia Đông Dương
làm hai tại vĩ tuyến 16 mục đích để người Anh (phía Nam) và người Trung Hoa
(phía Bắc) chiếm đóng. Bộ Tư Lệnh Mỹ phối hợp với Anh và Trung Hoa, họ được lệnh
tránh gây cái nhìn lẫn lộn là đứng chung phe với Pháp, nhưng đồng thời lại
cho phép tiến hành các hoạt động ở Đông Dương trong các chiến dịch đánh Nhật.
Xuất phát từ đường lối của TT Roosevelt, Hoa Kỳ đã cung cấp một số viện trợ
khiêm tốn cho Pháp và cả Việt Minh - lực lượng kháng chiến ở Việt Nam sau
tháng ba năm 1945, nhưng từ chối cung cấp phương tiện chuyển vận cho quân đội
Pháp “tự do” [để phân biệt với chính quyền Vichy theo Đức ở Pháp]. Bị cả Anh
và Pháp ép phải làm rõ ý định của Mỹ liên quan đến chính trị của Đông Dương,
F.D.R. đã bảo lưu ý kiến và cho rằng "đó là vấn đề sau chiến
tranh."
|
The President's trusteeship
concept foundered as early as March 1943, when the U.S. discovered that the
British, concerned over possible prejudice to Commonwealth policy, proved to
be unwilling to join in any declaration on trusteeships, and indeed any
statement endorsing national independence which went beyond the Atlantic
Charter's vague "respect the right of all peoples to choose the form of
government under which they will live." So sensitive were the British on
this point that the Dumbarton Oaks Conference of 1944, at which the blueprint
for the postwar international system was negotiated, skirted the colonial
issue, and avoided trusteeships altogether. At each key decisional point at
which the President could have influenced the course of events toward
trusteeship--in relations with the U.K., in casting the United Nations
Charter, in instructions to allied commanders--he declined to do so; hence,
despite his lip service to trusteeship and anti-colonialism, F.D.R. in fact
assigned to Indochina a status correlative to Burma, Malaya, Singapore and
Indonesia: free territory to be reconquered and returned to its former
owners. Non-intervention by the U.S. on behalf of the Vietnamese was
tantamount to acceptance of the French return. On April 3, 1945, with
President Roosevelt's approval, Secretary of State Stettinius issued a
statement that, as a result of the Yalta talks, the U.S. would look to
trusteeship as a postwar arrangement only for "territories taken from
the enemy," and for "territories as might voluntarily be placed
under trusteeship." By context, and by the Secretary of State's
subsequent interpretation, Indochina fell into the latter category.
Trusteeship status for Indochina became, then, a matter for French
determination.
|
Khái niệm về ủy thác (trusteeship)
của Tổng thống thành hình sớm khoảng tháng Ba năm 1943, khi Mỹ phát hiện ra rằng
người Anh lo ngại chính sách về Khối Thịnh Vượng Chung [Commonwealth] của họ
có thể bị ảnh hưởng, nên đã không muốn tham gia trong bất kỳ tuyên bố nào
trên “trusteeships”, và thay vào đó đã coi mọi tuyên bố ủng hộ độc lập dân tộc
là vượt quá lời lẽ mơ hồ của Hiến chương Đại Tây Dương là "tôn trọng quyền
của tất cả các dân tộc để lựa chọn hình thức của chính phủ theo đó họ sẽ sống”.
Vấn đê quá nhạy cảm đến nỗi người Anh, trong Hội Nghị Dumbarton Oaks năm 1944
nhằm đàm phán các kế hoạch chi tiết cho các nước trên Thế Giới sau chiến
tranh, đã luồn lách trong vấn đề thuộc địa, và đồng thời tránh được chuyện “ủy
thác”. Vào những lúc chính phải làm quyết định, những lúc mà Tổng thống đã có
thể có ảnh hưởng đến quá trình các sự việc liên quan đến sự ủy nhiệm – trong
quan hệ với Anh, trong khung của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, trong việc chỉ đạo
các chỉ huy Đồng Minh – nhưng ông đã tránh không làm như vậy; vì thế, mặc dù
trên đầu lưỡi là ủng hộ chuyện ủy thác và chống chủ nghĩa thực dân, trong thực
tế TT Roosevelt đã đưa Đông Dương vào một tình trạng tương xứng với Myanmar,
Malaysia, Singapore và Indonesia là những vùng đất bỏ hoang được tự do chinh
phục và giao hoàn lại cho kẻ đã chinh phục nó trước đây. Chính sách “không
can thiệp” vào Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận sự trở lại Pháp.
Vào ngày 03 tháng Tư năm 1945, được Tổng thống Roosevelt phê duyệt, Bộ Trưởng
Ngoại Giao Mỹ Stettinius ban hành một tuyên bố, như là kết quả của cuộc đàm
phán Yalta [Pháp không được mời], Mỹ sẽ xem xét việc ủy thác chỉ sau chiến tranh
[chấm dứt] trên những "vùng lãnh thổ lấy lại từ kẻ thù," và những
"vùng lãnh thổ có thể tự nguyện được đặt dưới sự ủy thác". Theo nội
dung bản Tuyên Bố, và theo những văn bản giải thích tiếp theo của Bộ Ngoại
Giao Mỹ, Đông Dương rơi vào loại thứ hai này. Mang tư cách bị “ủy thác”, Đông
Dương sau đó đã trở thành một việc do Pháp quyết định.
|
Shortly following President
Truman's entry into office, the U.S. assured France that it had never
questioned, "even by implication, French sovereignty over Indo-China."
The U.S. policy was to press France for progressive measures in Indochina,
but to expect France to decide when its peoples would be ready for
independence; "such decisions would preclude the establishment of a
trusteeship in Indochina except with the consent of the French
Government." These guidelines, established by June, 1945--before the end
of the war—remained fundamental to U.S. policy.
|
Một thời gian ngắn sau khi Tổng thống
Truman nhậm chức. Hoa Kỳ đảm bảo với Pháp là sẽ không bao giờ đặt câu hỏi
"thậm chí chỉ là ám chỉ” đến chủ quyền của Pháp tại Đông Dương. “Chính
sách của Hoa Kỳ là thúc đẩy Pháp thực hiện những đường lối tiến bộ với các nước
Đông Dương nhưng chờ đợi việc Pháp định rõ khi nào thì các nước đó sẳn sàng
thành những nước Độc Lập. Quyết định đó phải được minh định trước khi sự ủy
nhiệm quản lý Đông Dương được hình thành, và với sự đồng ý của Chính phủ
Pháp". Những hướng dẫn này được thành lập vào tháng Sáu 1945 - trước khi
chiến tranh kết thúc – trở thành nét cơ bản cho các chính sách của Mỹ về sau
này.
|
With British cooperation, French
military forces were reestablished in South Vietnam in September, 1945. The
U.S. expressed dismay at the outbreak of guerrilla warfare which followed,
and pointed out that while it had no intention of opposing the
reestablishment of French control, "it is not the policy of this
government to assist the French to reestablish their control over Indochina
by force, and the willingness of the U.S. to see French control reestablished
assumes that [the] French claim to have the support of the population in
Indochina is borne out by future events." Through the fall and winter of
1945-1946, the U.S. received a series of requests from Ho Chi Minh for
intervention in Vietnam; these were, on the record, unanswered. However, the
U.S. steadfastly refused to assist the French military effort, e.g.,
forbidding American flag vessels to carry troops or war materiel to Vietnam.
On March 6, 1946, the French and Ho signed an Accord in which Ho acceded to
French reentry into North Vietnam in return for recognition of the DRV as a
"Free State," part of the French Union. As of April 1946, allied
occupation of Indochina was officially terminated, and the U.S. acknowledged
to France that all of Indochina had reverted to French control. Thereafter,
the problems of U.S. policy toward Vietnam were dealt with in the context of
the U.S. relationship with France.
U.S. NEUTRALITY IN THE FRANCO-VIET
MINH WAR, 1946-1949
|
Với hổ trợ của Anh, lực lượng quân
sự Pháp đã tái chiếm miền Nam Việt Nam vào tháng Chín năm 1945. Hoa Kỳ bày tỏ
thất vọng về việc chiến tranh du kích đã bùng nổ sau đó trong khi đó vẫn
không có ý định phản đối việc tái chiếm của Pháp. "chính sách của chính
phủ này là không hỗ trợ người Pháp chiếm lại Đông Dương bằng vũ lực và mong
muốn của Hoa Kỳ là thấy việc tái lập của Pháp sẽ được thành hình trên cơ sở
như Pháp đã tuyên bố là có sự đồng ý của nhân dân các nước Đông Dương trong
những chuyễn biến tương lai”. Hoa Kỳ, suốt mùa Thu và mùa Đông năm 1945-46,
đã nhiều lần nhận được yêu cầu của Hồ Chí Minh gửi đến, muốn Hoa Kỳ can thiệp
vào Việt Nam nhưng theo tài liệu ghi lại, Hoa Kỳ đã không có một trả lời nào.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã dứt khoát từ chối việc hổ trợ quân đội Pháp, thí dụ như
cấm các tầu treo cờ Hoa kỳ được xử dụng vào việc chuyên chở quân lính và khí
cụ chiến tranh đến Việt Nam. Ngày 6 tháng 3, 1946 Pháp và Hồ Chí Minh ký kết
một Hiệp ước cho phép Pháp được vào miền Bắc Việt Nam, đổi lại Pháp công nhận
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia độc lập nằm trong khối Liên Hiệp
Pháp. Đến tháng 6 năm 1946, việc chiếm đóng Việt Nam bởi các nước Đồng Minh
chính thức chấm dứt, và Hoa Kỳ đã công nhận với Pháp rằng tất cả Đông Dương
đã trở lại trong vòng kiểm soát của Pháp. Từ đó trở đi, các chính sách của
Hoa Kỳ trên mọi vấn đề với Việt Nam đã được xử lý trong bối cảnh mối quan hệ
của Hoa Kỳ với Pháp. (Tab 1)
|
In late 1946, the Franco-Viet Minh
War began in earnest. A chart (pp. 37 ff) summarizes the principal events in
the relations between France and Vietnam, 1946-1949, describing the
milestones along the route by which France, on the one hand, failed to reach
any lasting accommodation with Ho Chi Minh, and, on the other hand, erected
the "Bao Dai solution" in its stead. The U.S. during these years
continued to regard the conflict as fundamentally a matter for French
resolution. The U.S. in its representations to France deplored the prospect
of protracted war, and urged meaningful concessions to Vietnamese
nationalism. However, the U.S., deterred by the history of Ho's communist
affiliation, always stopped short of endorsing Ho Chi Minh or the Viet Minh.
Accordingly, U.S. policy gravitated with that of France toward the Bao Dai
solution. At no point was the U.S. prepared to adopt an openly
interventionist course. To have done so would have clashed with the expressed
British view that Indochina was an exclusively French concern, and played
into the hands of France's extremist political parties of both the Right and
the Left. The U.S. was particularly apprehensive lest by intervening it
strengthen the political position of French Communists. Beginning in 1946 and
1947, France and Britain were moving toward an anti-Soviet alliance in Europe
and the U.S. was reluctant to press a potentially divisive policy. The U.S.
[words illegible] Vietnamese nationalism relatively insignificant compared
with European economic recovery and collective security from communist
domination.
|
Vào cuối năm 1946, chiến tranh
Pháp-Việt Minh đã bắt đầu một cách nghiêm trọng. Một biểu đồ (trang A37 ff)
tóm lược các biến cố chính liên quan tới Pháp và Việt Nam trong những năm
1946-1949, trình bày lại diễn tiến các sự kiện quan trọng suốt con đường mà
Pháp, một mặt, không đạt được bất kỳ thỏa thuận nào lâu dài với Hồ Chí Minh,
và, mặt khác, xây dựng con bài "Bảo Đại” như một giải pháp thay thế.
Trong những năm này Hoa Kỳ tiếp tục coi cuộc xung đột cơ bản vẫn là một vấn đề
do Pháp phải giải quyết. Hoa Kỳ, thông qua những người đại diện của họ tại
Pháp than phiền về triển vọng của một cuộc chiến tranh kéo dài, và kêu gọi
Pháp nên có những nhượng bộ có ý nghĩa đối với dân Việt. Tuy nhiên, Hoa Kỳ, bị
cản trở bởi quá trình Cộng Sản của Hồ Chí Minh, luôn từ chối ủng hộ Hồ Chí
Minh hoặc Việt Minh. Do đó, chính sách của Mỹ bị xoáy vòng vào giải pháp Bảo
Đại của Pháp. Không có lúc nào [cho thấy] Hoa Kỳ đã sửa soạn một chính sách
can thiệp trực tiếp một cách công khai. Làm như vậy sẽ có đụng chạm với Anh
vì quan điểm của nước này là Đông Dương là độc quyền của Pháp, và là tiếp tay
cho những đảng phái chính trị cực đoan của Pháp cả cánh tả lẫn cánh hữu. Hoa
Kỳ đặc biệt e ngại rằng nếu can thiệp [vào Đông Dương] sẽ tăng cường vị trí
chính trị của Cộng sản Pháp. Hơn nữa, vào những năm 1946, 1947 Pháp và Anh
chuyển hướng thành một liên minh chống Liên Sô ở Âu Châu và Hoa Kỳ ngần ngại
thực hiện một đường lối mà tiềm năng là gây chia rẽ [liên minh này]. Hoa Kỳ
coi số phận Đông Dương là rất nhẹ so với việc phục hồi tái thiết nền kinh tế
của Âu Châu và an ninh chung trước nguy cơ bị Cộng Sản thống trị.
|
It is not as though the U.S. was
not prepared to act in circumstances such as these. For example, in the
1945-1946 dispute over Dutch possessions in Indonesia, the U.S. actively intervened
against its Dutch ally. In this case, however, the intervention was in
concert with the U.K. (which steadfastly refused similar action in Indochina)
and against the Netherlands, a much less significant ally in Europe than
France. In wider company and at projected lower cost, the U.S. could and did
show a determination to act against colonialism.
|
Cũng không phải như đã nghĩ là Hoa
Kỳ không sẵn sàng hành động trong những trường hợp như thế. Thí dụ, trong vụ
tranh chấp 1945-1946 trên thuộc địa của Hà Lan (Dutch) ở Indonesia, Mỹ đã
tích cực can thiệp chống lại đồng minh Hà Lan của mình. Tuy nhiên trong trường
hợp này sự can thiệp được phối hợp chung với Vương quốc Anh (họ kiên định từ
chối một hành động tương tự ở Đông Dương) và chống lại Hà Lan, một đồng minh ở
Âu Châu kém quan trọng hơn so với Pháp. Một phe nhóm lớn hơn [làm bạn với
Indonesia hơn là với Hà Lan] và với chi phí dự kiến thấp hơn, [ở đây]
Mỹ có thể và đã chứng tỏ quyết tâm hành động chống lại chủ nghĩa thực dân.
|
The resultant U.S. policy has most
often been termed "neutrality." It was, however, also consistent
with the policy of deferring to French volition announced by President
Roosevelt's Secretary of State on 3 April 1945. It was a policy characterized
by the same indecision that had marked U.S. wartime policy. Moreover, at the
time, Indochina appeared to many to be one region in the troubled postwar
world in which the U.S. might enjoy the luxury of abstention.
|
Kết quả là chính sách của Hoa Kỳ
thường được đánh đậm với hai chữ “Trung Lập”. Tuy vậy, nó cũng phù hợp với
chính sách trì hoãn của Pháp theo ý muốn công bố bởi Bộ Trưởng Ngoại Giao thời
Tổng thống Roosevelt vài ngày 3 tháng 4 1945. Đó là một chính sách nặng tính
do dự như từng đã xảy ra trong những thời chiến tranh của Mỹ. Hơn nữa, vào thời
điểm đó, dưới mắt nhiều người Đông Dương là một trong những khu vực trên thế
giới sau chiến tranh có những xáo trộn mà Hoa Kỳ có thể tận hưởng sự yên bình
khi tránh xa chúng.
|
In February, 1947, early in the
war, the U.S. Ambassador in Paris was instructed to reassure Premier Ramadier
of the "very friendliest feelings" of the U.S. toward France and
its interest in supporting France in recovering its economic, political and
military strength:
|
Tháng hai 1947, khởi đầu cuộc chiến
(Đông Dương), Đại sứ Hoa Kỳ tại Paris được chỉ thị phải trấn an Thủ Tướng
Pháp Ramadier “những tình cảm thân thiện nhất” dành cho Pháp và quan tâm của
Hoa Kỳ trong việc hỗ trợ Pháp khôi phục lại sức mạnh kinh tế, chính trị và
quân sự.
|
In spite any misunderstanding
which might have arisen in minds French in regard to our position concerning
Indochina they must appreciate that we have fully recognized France's
sovereign position in that area and we do not wish to have it appear that we
are in any way endeavoring undermine that position, and French should know it
is our desire to be helpful and we stand ready assist any appropriate way we
can to find solution for Indochinese problem. At same time we cannot shut our
eyes to fact that there are two sides this problem and that our reports
indicate both a lack French understanding of other side (more in Saigon than
in Paris) and continued existence dangerously Outmoded colonial outlook and
methods in area. Furthermore, there is no escape from fact that trend of
times is to effect that colonial empires in XIX Century sense are rapidly
becoming thing of past. Action Brit in India and Burma and Dutch in Indonesia
are outstanding examples this trend, and French themselves took cognizance of
it both in new Constitution and in their agreements with Vietnam. On other
hand we do not lose sight fact that Ho Chi Minh has direct Communist
connections and it should be obvious that we are not interested in seeing
colonial empire administrations supplanted by philosophy and political
organizations emanating from and controlled by Kremlin. . . .
|
"Mặc dù có thể phát sinh bất
kỳ hiểu lầm nào trong trong tâm trí của người Pháp về thế đứng của chúng tôi
trong vấn đề Đông Dương, họ phải đánh giá cao rằng chúng tôi có đã công nhận
là Pháp có chủ quyền hoàn toàn trong khu vực đó và chúng tôi không mong muốn
xuất hiện những gì được xem là nỗ lực phá hoại vị trí đó của Pháp và Pháp
cũng nên biết mong muốn của chúng tôi là có ích cho Pháp và chúng tôi sẵn
sàng hỗ trợ bất kỳ con đường nào mà chúng ta thấy thích hợp để tìm ra giải
pháp cho vấn đề Đông Dương. Đồng thời chúng tôi không thể nhắm mắt làm ngơ thực
tế là có hai mặt của vấn đề này và các báo cáo của chúng tôi cho thấy một là
sự thiếu hiểu biết của Pháp về phía bên kia (ở Sài Gòn hơn ở Paris) và hai là
cái nguy hiểm của sự tồn tại của một chế độ thuộc địa và các phương pháp đã lỗi
thời của nó trong khu vực. Hơn nữa, cũng không có lối thoát cho một thực tế rằng
xu hướng thời đại đang xảy ra là chủ nghĩa Thực Dân như trong thế kỷ XIX đang
nhanh chóng trở thành chuyện của quá khứ. Hành động của Anh ở Ấn Độ và Miến
Điện và Hà Lan ở Indonesia là những ví dụ nổi bật của khuynh hướng này và
Pháp tự than cũng đã thể hiện rõ điều này cả trong Hiến Pháp và cả trong các
hiệp định với Việt Nam. Mặt khác, chúng ta cũng không mất cái nhìn thực tế rằng
Hồ Chí Minh đã trực tiếp gia nhập Cộng sản và đương nhiên chúng ta không muốn
nhìn thấy chính quyền đế quốc thực dân được thay thế bằng những lý thuyết và
các tổ chức chính trị sinh ra và kiểm soát bởi điện Kremlin...
|
Frankly we have no solution of
problem to suggest. It is basically matter for two parties to work out
themselves and from your reports and those from Indochina we are led to feel
that both parties have endeavored to keep door open to some sort of
settlement. We appreciate fact that Vietnam started present fighting in
Indochina on December 19 and that this action has made it more difficult for
French to adopt a position of generosity and conciliation. Nevertheless we
hope that French will find it possible to be more than generous in trying to
find a solution.
|
Thành thật mà nói, chúng tôi không
có giải pháp cho vấn đề để đề nghị [với Pháp]. Vấn đề cơ bản là hai bên phải
tự giải quyết với nhau và qua các báo cáo của bạn [Pháp] và của những người
Đông Dương, chúng tôi cảm thấy rằng cả hai bên đã cố gắng để giữ cho cánh cửa
mở rộng để giải quyết các vấn đề một cách nào đó. Chúng tôi đánh giá sự kiện
là Việt Nam bắt đầu cuộc chiến hiện nay ở Đông Dương vào ngày 19 và hành động
này quả đã gây khó khăn hơn cho Pháp để thông qua một chính sách cởi mở và
hoà giải. Tuy nhiên chúng tôi hy vọng rằng Pháp sẽ cố gắng bằng mọi cách cởi
mở hơn để tìm ra một giải pháp. "
|
The U.S. anxiously followed the
vacillations of France's policy toward Bao Dai, exhorting the French to
translate the successive "agreements" they contracted with him into
an effective nationalist alternative to Ho Chi Minh and the Viet Minh.
Increasingly, the U.S. sensed that French unwillingness to concede political
power to Vietnamese heightened the possibility of the Franco-Viet Minh
conflict being transformed into a struggle with Soviet imperialism. U.S.
diplomats were instructed to "apply such persuasion and/or pressure as
is best calculated [to] produce desired result [of France's] unequivocally
and promptly approving the principle of Viet independence." France was
notified that the U.S. was willing to extend financial aid to a Vietnamese
government not a French puppet, "but could not give consideration of
altering its present policy in this regard unless real progress [is] made in
reaching non-Communist solution in Indochina based on cooperation of true
nationalists of that country."
|
Hoa Kỳ lo ngại khi thấy Pháp lừng
khừng tiến hành giải pháp Bảo Đại lúc thế này lúc thế kia, đòi hỏi Pháp phải
triển khai những thỏa thuận liên tiếp với ông này [Bảo Đại] thành một giải
pháp hiệu quả để thay thế Hồ Chí Minh và Việt Minh. Càng ngày Hoa Kỳ càng cảm
thấy Pháp không muốn nhượng những quyền lực chính trị cho phía Việt Nam và việc
này sẽ đưa đến chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh, từ đó sẽ biến thành cuộc
chiến với Đế Quốc Liên Sô. Các nhà ngoại giao Mỹ được chỉ thị phải ”thuyết phục
và/ hay áp lực có tính toán một cách tốt nhất để Pháp nhanh chóng công nhận
nguyên tắc một nước Việt Nam độc lập”. Pháp cũng được thông báo là Hoa Kỳ sẽ
viện trợ tài chánh cho một chính phủ không phải là bù nhìn cho Pháp, “nhưng
[Hoa Kỳ] sẽ không tiến hành thay đổi chính sách đang có trừ khi có những tiến
bộ thực sự nhằm đến việc thành lập một chính phủ không Cộng Sản căn cứ trên sự
hợp tác của phe Quốc Gia của nước đó [Việt]”
|
As of 1948, however, the U.S.
remained uncertain that Ho and the Viet Minh were in league with the Kremlin.
A State Department appraisal of Ho Chi Minh in July 1948, indicated that:
|
Năm 1948, tuy nhiên, Mỹ vẫn không
chắc chắn rằng Hồ và Việt Minh đã liên minh với điện Kremlin. Bộ Ngoại Giao
thẩm định Hồ Chí Minh trong tháng 7 năm 1948, chỉ ra rằng:
|
|
Listen
Read phonetically
|
1. Depts info indicates that Ho
Chi Minh is Communist. His long and well-known record in Comintern during
twenties and thirties, continuous support by French Communist newspaper
Humanite since 1945, praise given him by Radio Moscow (which for past six
months has been devoting increasing attention to Indochina) and fact he has
been called "leading communist" by recent Russian publications as
well as Daily Worker makes any other conclusion appear to be wishful thinking.
|
”Tin từ Bộ Ngoại Giao chỉ ra rằng
Hồ Chí Minh là Cộng sản. Lý lịch nổi tiếng và lâu năm của ông trong cộng sản
Quốc tế ở độ tuổi hai mươi và ba mươi, là được liên tục hỗ trợ bởi Cộng Sản
Pháp qua báo Nhân Đạo kể từ năm 1945, bởi lời khen ngợi cho ông của Đài phát
thanh Moscow (trong sáu tháng qua đài này đã dành mọi cố gắng để đánh động sự
quan tâm ngày càng tăng đến Đông Dương) và thực tế ông ta đã được gọi là
"cộng sản hàng đầu" trong những ấn phẩm gần đây của Nga cũng như tờ
“Lao Động Hàng Ngày” trong bất kỳ kết luận nào khác đều đã như thể lấy ước muốn
làm sự thực.
|
2. Dept has no evidence of direct
link between Ho and Moscow but assumes it exists, nor is it able evaluate
amount pressure or guidance Moscow exerting. We have impression Ho must be
given or is retaining large degree latitude. Dept considers that USSR
accomplishing its immediate aims in Indochina by (a) pinning down large
numbers of French troops, (b) causing steady drain upon French economy
thereby tending retard recovery and dissipate ECA assistance to France, and
(c) denying to world generally surpluses which Indochina normally has
available thus perpetuating conditions of disorder and shortages which
favorable to growth cornmunism. Furthermore, Ho seems quite capable of
retaining and even strengthening his grip on Indochina with no outside
assistance other than continuing procession of French puppet govts.
|
“Bộ Ngoại Giao không có bằng chứng
nào về sự liên hệ trực tiếp giữa Hồ Chí Minh và Moscow ", nhưng vẫn tin
rằng nó hiện hữu, Bộ cũng không thể đánh giá mức độ ảnh hưởng hay vai trò chỉ
đạo mà Moscow đang áp đặt lên Hồ. Chúng tôi có cảm tưởng là Hồ đã được dành
cho hay đang giữ một vai trò với một biên độ rộng lớn. Bộ cho rằng khi thực
hiện những mục tiêu ngắn hạn ở Đông Dương, Liên Xô đã (a) kềm chân được một số
lượng lớn quân đội Pháp, (b) gây tiêu hao nhanh chóng cho nền kinh tế Pháp do
đó có xu hướng làm chậm sự phục hồi và làm tiêu tan hỗ trợ ECA cho Pháp, và
(c) phủ nhận với Thế Giới về ý tưởng thường cho rằng sự sung túc dư thừa của
Đông Dương là sẵn có, từ đó duy trì những điều kiện của rối loạn và thiếu thốn
thuận lợi cho cộng sản bành trướng. Hơn nữa, Hồ dường như hoàn toàn có khả
năng duy trì và nắm giữ Đông Dương mà không cần có hỗ trợ từ bên ngoài bằng
cách tiếp tục áp lực lên các chính quyền bù nhìn cho Pháp ".
|
In the fall of 1948, the Office of
Intelligence Research in the Department of State conducted a survey of
communist influence in Southeast Asia. Evidence of Kremlin-directed
conspiracy was found in virtually all countries except Vietnam:
|
Vào mùa thu của 1948, Sở Nghiên Cứu
Tình Báo của Bộ Ngoại Giao đã tiến hành một cuộc khảo sát về ảnh hưởng của cộng
sản ở Đông Nam Á và đã có bằng chứng là âm mưu đạo diễn của Kremlin đã được
tìm thấy trong hầu như tất cả các nước ngoại trừ Việt Nam:
|
Since December 19, 1946, there
have been continuous conflicts between French forces and the nationalist
government of Vietnam. This government is a coalition in which avowed
communists hold influential positions. Although the French admit the
influence of this government, they have consistently refused to deal with its
leader, Ho Chi Minh, on the grounds that he is a communist.
|
"Kể từ ngày 19 -12-1946, đã
có những cuộc đụng độ liên tục giữa các lực lượng Pháp và chính phủ dân tộc của
Việt Nam. Chính phủ này là một liên minh trong đó những người cộng sản nắm giữ
các chức vụ quan trọng. Mặc dù Pháp thừa nhận ảnh hưởng của chính phủ này
nhưng họ có nhất quyết không đối thoại với người đứng đầu là Hồ Chí Minh, với
lý do ông này là một người cộng sản.
|
To date the Vietnam press and
radio have not adopted an anti-American position. It is rather the French
colonial press that has been strongly anti-American and has freely accused
the U.S. of imperialism in Indochina to the point of approximating the
official Moscow position. Although the Vietnam radio has been closely watched
for a new position toward the U.S., no change has appeared so far. Nor does
there seem to have been any split within the coalition government of Vietnam.
. . .
|
"Cho đến nay, báo đài Việt
Nam không tỏ ra chống Hoa Kỳ. Trong khi ấy báo chí Pháp ở các thuộc địa lại
quay ra chống Mỹ một cách mạnh mẽ, và thoải mái tố Hoa Kỳ là đế quốc ở Đông
Dương tới mức tưởng chừng như Mỹ được xếp hạng cùng tần số với Moscow. Mặc dù
truyền thông Việt Nam theo dõi chặc chẽ thái độ của Hoa Kỳ nhưng cho đến nay
vẫn chưa có gì thay đổi. Cũng không thấy có sự rạn nứt trong chính phủ liên
hiệp [mặt trận Việt Minh] của Việt Nam …
|
Evaluation. If there is a Moscow
directed conspiracy in Southeast Asia, Indochina is an anomaly so far.
Possible explanations are:
1. No rigid directives have been
issued by Moscow
2. The Vietnam government
considers that it has no rightist elements that must be purged.
3. The Vietnam Communists are not
subservient to the foreign policies pursued by Moscow.
4. A special dispensation for the
Vietnam government has been arranged in Moscow.
Of these possibilities, the first
and fourth seem most likely.
|
"Đánh giá. Nếu Moscow có âm
mưu can thiệp vào khu vực Đông Nam Á thì tình hình ở Đông Dương là một sự bất
thường cho đến nay. Có thể giải thích là:
Không có chỉ thị cứng nhắc được
ban hành bởi Moscow
Chính phủ Việt Nam cho rằng nó
không có thành phần thuộc cánh Hữu cần phải được thanh lọc.
3. Cộng Sản Việt Nam không có lợi
ích gì để theo đuổi các chính sách đối ngoại của Moscow.
4. Một sự miễn trừ đặc biệt nào đó
đã được Moscow dành cho chính phủ Việt Nam
"Trong số này, những khả năng
đầu tiên và thứ tư dường như rất có thể."
(xem Tab 2).
|
ORIGINS OF U.S. INVOLVEMENT IN
VIETNAM
|
NGUỒN GỐC CAN THIỆP CỦA MỸ VÀO VIỆT
NAM
|
The collapse of the Chinese
Nationalist government in 1949 sharpened American apprehensions over
communist expansion in the Far East, and hastened U.S. measures to counter
the threat posed by Mao's China. The U.S. sought to create and employ policy
instruments similar to those it was bringing into play against the Soviets in
Europe: collective security organizations, economic aid, and military
assistance. For example, Congress, in the opening paragraphs of the law it
passed in 1949 to establish the first comprehensive military assistance
program, expressed itself "as favoring the creation by the free
countries and the free peoples of the Far East of a joint organization,
consistent with the Charter of the United Nations, to establish a program of
self-help and mutual cooperation designed to develop their economic and
social well-being, to safeguard basic rights and liberties, and to protect their
security and independence.." But, the negotiating of such an
organization among the disparate powers and political entities of the Far
East was inherently more complex a matter than the North Atlantic Treaty
nations had successfully faced. The U.S. decided that the impetus for
collective security in Asia should come from the Asians, but by late 1949, it
also recognized that action was necessary in Indochina. Thus, in the closing
months of 1949, the course of U.S. policy was set to block further communist expansion
in Asia: by collective security if the Asians were forthcoming; by
collaboration with major European allies and commonwealth nations, if
possible; but bilaterally if necessary. On that policy course lay the Korean
War of 1950-1953, the forming of the Southeast Asia Treaty Organization of
1954, and the progressively deepening U.S. involvement in Vietnam.
|
Sự sụp đổ của chính phủ Trung Hoa
Quốc Gia trong năm 1949 đã đào sâu thêm những lo âu của Hoa Kỳ về viễn ảnh
bành trướng của Cộng Sản trong vùng Viễn Đông, và Hoa Kỳ đẩy nhanh các biện
pháp để chống lại mối đe dọa gây ra bởi Mao ở Trung Quốc. Hoa Kỳ tìm cách xây
dựng và xử dụng các công cụ về chính sách tương tự như những gì đã được đưa
ra để chống Liên Xô ở Âu Châu: tổ chức an ninh chung, viện trợ kinh tế và hổ
trợ quân sự. Thí dụ như Quốc Hội trong đoạn văn mở đầu của Đạo Luật được
thông qua vào năm 1949 liên quan đến chương trình đầu tiên về viện trợ quân sự
đã ghi rằng để “tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập các quốc gia tự do
và các dân tộc tự do trong một định chế liên minh phù hợp với Hiến chương
Liên Hợp Quốc, xây dựng một chương trình hành động tự lực tự cường và hợp tác
lẫn nhau để phát triển kinh tế và xã hội, gìn giữ những quyền căn bản và những
giá trị của Tự Do và cũng để bảo vệ an ninh và độc lập của họ...”. Nhưng việc
đàm phán cho một tổ chức như thế giữa các quyền lực và các tổ chức chính trị
khác nhau của vùng Viễn Đông là một vấn đề vốn có nhiều phức tạp hơn các vấn
đề mà các nước trong khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương đối diện và đã thành
công. Hoa Kỳ khẳng định rằng động lực cho một tổ chức an ninh chung tại Á
Châu là phải do người Á Châu quyết định, nhưng vào cuối năm 1949, họ [Hoa Kỳ]
cũng công nhận rằng hoạt động đó [tổ chức an ninh chung] là cần thiết cho
Đông Dương. Do đó, trong những tháng cuối năm 1949, quá trình diễn biến về
chính sách của Hoa Kỳ đã chung cuộc là nhằm ngăn chặn sự phát triển của cộng
sản ở Á Châu bằng một tổ chức an ninh chung nếu người Á Châu sẳn sàng, hợp
tác với các đồng minh lớn [của Hoa Kỳ] ở Âu Châu và các nước trong Khối Thịnh
Vượng Chung [Commonwealth] nếu có thể, nhưng song phương nếu cần thiết. Chính
sách dựa trên cơ sở cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950-53 đó đã hình thành Hiệp
Ước Liên Phòng Đông Nam Á tổ chức năm 1954 và dần dần sự can thiệp của Hoa Kỳ
vào Việt Nam ngày càng sâu hơn.
|
January and February, 1950, were
pivotal months. The French took the first concrete steps toward transferring
public administration to Bao Dai's State of Vietnam. Ho Chi Minh denied the
legitimacy of the latter, proclaiming the DRV as the "only legal
government of the Vietnam people," and was formally recognized by Peking
and Moscow. On 29 January 1950, the French Nation, Assembly approved
legislation granting autonomy to the State of Vietnam. 0n February 1, 1950,
Secretary of State Acheson made the following public statement:
|
Tháng Giêng và tháng Hai năm 1950
là những tháng quan trọng. Người Pháp đã có những bước cụ thể đầu tiên đối với
việc chuyển giao công quyền cho chính phủ Quốc Gia của Bảo Đại. Hồ Chí Minh
đã phủ nhận tính hợp pháp của chính phủ này và tuyên bố Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa là "chính phủ hợp pháp duy nhất của nhân dân Việt Nam" và được
Bắc Kinh và Moscow chính thức công nhận. Ngày 29 tháng 1 năm 1950 Quốc hội
Pháp đã thông qua Luật Chuyển Giao Quyền Tự Quyết cho Chính phủ Quốc Gia Việt
Nam. Ngày 1 tháng năm 1950 Bộ Trưởng Ngoại Giao [Hoa Kỳ] Acheson đưa ra tuyên
bố công khai sau đây:
|
The recognition by the Kremlin of
Ho Chi Minh's communist movement in Indochina comes as a surprise. The Soviet
acknowledgment of this movement should remove any illusions as to the
"nationalist" nature of Ho Chi Minh's aims and reveals Ho in his
true colors as the mortal enemy of native independence in Indochina.
|
"Việc Kremlin công nhận phong
trào cộng sản Hồ Chí Minh đã xảy ra như một sự bất ngờ. Việc Liên Xô công nhận
phong trào này phải "nên loại bỏ bất cứ ảo tưởng nào về cái gọi là bản
chất "dân tộc" của Hồ Chí Minh và nêu rõ mầu sắc thật sự của Hồ là
kẻ thù sinh tử cho nền Độc Lập của các nước Đông Dương.
|
Although timed in an effort to
cloud the transfer of sovereignty France to the legal Governments of Laos,
Cambodia and Vietnam, we have every reason to believe that those legal
governments will proceed in their development toward stable governments
representing the true nationalist sentiments of more than 20 million peoples
of Indochina.
|
"Mặc dù mất thì giờ trong nỗ
lực bao trùm việc chuyển giao quyền tự quyết từ tay Pháp cho các Chính Phủ hợp
pháp của Lào, Cam-pu-chia và Việt Nam, chúng tôi có mọi lý do để tin rằng những
Chính Phủ hợp pháp này sẽ tiến hành phát triển thành một chính phủ ổn định đại
diện cho chủ nghĩa dân tộc thật sự của hơn 20 triệu nhân dân Đông Dương.
|
French action in transferring
sovereignty to Vietnam, Laos and Cambodia has been in process for some time.
Following French ratification, which is expected within a few days, the way
will be open for recognition of these local governments by the countries of
the world whose policies support the development of genuine national
independence in former colonial areas. . . .
|
Việc chuyển giao chủ quyền cho Việt
Nam, Lào và Cam-pu-chia đã được Pháp tiến hành được một thời gian. Tiếp theo
sự phê chuẩn của [Quốc Hội] Pháp được dự kiến trong vòng một vài ngày, là con đường
rộng mở đưa đển việc công nhận các chính phủ hợp pháp bởi các nước trên Thế
Giới, những nước đã có chính sách hỗ trợ các dân tộc trước đây bị thuộc địa
dược hưởng một nền độc lập chân chính …
|
Formal French ratification of
Vietnamese independence was announced 4 February 1950; on the same date,
President Truman approved U.S. recognition for Bao Dai. French requests for
aid in Indochina followed within a few weeks. On May 8, 1950, the Secretary
of State announced that:
|
Phê chuẩn chính thức của Pháp về nền
Độc Lập cho Việt Nam đã được công bố ngày 02 tháng hai 1950. Trong cùng một
ngày, Tổng thống Truman đã phê duyệt việc Hoa Kỳ công nhận Bảo Đại. Trong mấy
tuần tiếp theo Pháp đưa ra yêu cầu [Hoa Kỳ] viện trợ cho Đông Dương. Ngày 8
tháng năm 1950, Bộ trưởng Ngoại giao thông báo rằng:
|
The United States Government
convinced that neither national independence nor democratic evolution exist
in any area dominated by Soviet imperialism, considers the situation to be
such as to warrant its according economic aid and military equipment to the
Associated State of Indochina and to France in order to assist them in
restoring stability and permitting these states to pursue their peaceful and
democratic development.
|
"Chính phủ Hoa Kỳ nhận thức rằng
không một nền Độc Lập dân tộc, không một nền Dân Chủ nào có thể tồn tại trong
bất kỳ khu vực nào bị chi phối bởi chủ nghĩa đế quốc Liên Xô và từ tình hình
đó phải đảm bảo viện trợ kinh tế và thiết bị quân sự cho Liên Bang Đông Dương
và Pháp, để hỗ trợ họ khôi phục lại sự ổn định và giúp cho các nước này theo
đuổi việc phát triển Đất Nước trong hòa bình và dân chủ."
|
The U.S. thereafter was deeply
involved in the developing war. But it cannot be said that the extension of
aid was a volte-face of U.S. policy precipitated solely by the events of
1950. It appears rather as the denouement of a cohesive progression of U.S.
policy decisions stemming from the 1945 determination that France should
decide the political future of Vietnamese nationalism. Neither the modest
O.S.S. aid to the Viet Minh in 1945, nor the U.S. refusal to abet French
recourse to arms the same year, signaled U.S. backing of Ho Chi Minh. To the
contrary, the U.S. was very wary of Ho, apprehensive lest Paris' imperialism be
succeeded by control from Moscow. Uncertainty characterized the U.S. attitude
toward Ho through 1948, but the U.S. incessantly pressured France to
accommodate "genuine" Vietnamese nationalism and independence. In
early 1950, both the apparent fruition of the Bao Dai solution, and the
patent alignment of the DRV with the USSR and Communist China, impelled the
U.S. to more direct intervention in Vietnam.
|
Từ sau đó, Hoa Kỳ ngày càng tham
gia sâu vào cuộc chiến tranh đang bùng phát nhưng không có thể nói rằng sự mở
rộng viện trợ là một sự quay lưng trở mặt [của Hoa Kỳ] nhanh chóng khi thay
đổi đường lối chỉ bởi vì các biến cố năm 1950. Đúng hơn có lẽ đây là một sự
tháo gỡ của một chuỗi gắn kết bởi các quyết định về đường lối của Mỹ xuất
phát từ việc xác định vào năm 1945 rằng nước Pháp nên quyết định về tương lai
chính trị cho phe Quốc Gia Việt. Chẳng phải vì O.S.S. đã viện trợ ít ỏi cho
Việt Minh năm 1945, cũng chẳng phải việc Mỹ đồng thời từ chối giúp Pháp về
khí tài chiến tranh mà cho rằng Mỹ ủng hộ của Hồ Chí Minh. Trái lại Hoa Kỳ đã
cảnh giác với Hồ và thà rằng chấp nhận chủ nghĩa Thực Dân còn ít sợ hơn là bị
kiểm soát bởi Moscow. Thái độ ngần ngại là thái độ của Hoa Kỳ đối với Hồ suốt
đến năm 1948 nhưng Hoa Kỳ không ngừng gây áp lực để Pháp thích ứng với chủ
nghĩa Quốc Gia "chính hiệu" trong một Việt Nam độc lập. Vào đầu năm
1950, có hai việc, một là giải pháp Bảo Đại có vẻ mang lại kết quả và một là
sự liên kết rõ ràng của Bắc Việt với Liên Xô và Cộng sản Trung Quốc khiến cho
Mỹ can thiệp trực tiếp vào Việt Nam. (Tab 3)
|
(End of Summary)
|
(Hết phần Tóm tắt)
|
|
|
1. INDOCHINA IN U.S. WARTIME POLICY, 1941-1945
|
1 - ĐÔNG DƯƠNG TRONG CHÍNH SÁCH THỜI CHIẾN CỦA MỸ, 1941-1950
|
In the interval between the fall
of France in 1940, and the Pearl Harbor attack in December, 1941, the United
States watched with increasing apprehension the flux of Japanese military
power into Indochina. At first the United States urged Vichy to refuse
Japanese requests for authorization to use bases there, but was unable to
offer more than vague assurances of assistance, such as a State Department
statement to the French Ambassador on 6 August 1940 that:
|
Trong khoảng thời gian giữa sự sụp
đổ của Pháp vào năm 1940, và trận tấn công [của Nhật] vào Trân Châu Cảng vào
tháng Mười Hai năm 1941, Hoa Kỳ đã theo dõi với sự lo ngại ngày càng tăng về
sức mạnh quân sự Nhật đưa vào Đông Dương. Lúc đầu, Hoa Kỳ kêu gọi Vichy từ chối
các yêu cầu cho phép Nhật xử dụng những căn cứ quân sự tại đây [Đông Dương],
nhưng không thể cung cấp gì nhiều hơn là một sự bảo đảm hỗ trợ mơ hồ, chẳng hạn
như một tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ cho Đại sứ Pháp vào ngày 6 tháng Tám
năm 1940 rằng:
|
We have been doing and are doing
everything possible within the framework of our established policies to keep
the situation in the Far East stabilized; that we have been progressively
taking various steps, the effect of which has been to exert economic pressure
on Japan; that our Fleet is now based on Hawaii, and that the course which we
have been following, as indicated above, gives a clear indication of our
intentions and activities for the future.
|
"Chúng tôi đã làm và đang làm
mọi thứ có thể trong khuôn khổ chính sách đã thành lập của chúng tôi để giữ
cho tình hình vùng Viễn Đông ổn định, chúng tôi đã dần dần thực hiện các bước
khác nhau, mục đích là để gây áp lực trên kinh tế Nhật, rằng hạm đội của
chúng tôi đang đồn trú ở Hawaii, và rằng những diễn biến mà chúng tôi đang
theo đuổi, như đã được nêu ra ở trên, là đưa ra một dấu hiệu rõ ràng về ý định
và hành động của chúng tôi trong tương lai. “ (°)
|
The French Ambassador replied
that:
In his opinion the phrase
"within the framework of our established policies." when associated
with the apparent reluctance of the American Government to consider the use
of military force in the Far East at this particular time, to mean that the
United States would not use military or naval force in support of any
position which might be taken to resist the Japanese attempted aggression on
Indochina. The Ambassador [feared] that the French Government would, under
the indicated pressure of the Japanese Government, be forced to accede . . .
|
Đại sứ Pháp trả lời rằng:
"Theo ý kiến của
ông, cụm từ “trong khuôn khổ các chính sách đã thiết lập của chúng tôi” gắn kết
đến sự miễn cưỡng rõ ràng của Chính phủ Mỹ trong việc xem xét việc sử dụng
quân đội ở vùng Viễn Đông cụ thể tại thời điểm này, có nghĩa là rằng Hoa Kỳ sẽ
không sử dụng quân đội hay hải quân nhằm hỗ trợ bất kỳ vị trí nào để chống lại
mọi toan tính xâm lược của Nhật tại Đông Dương. Đại sứ [sợ rằng] rằng Chính
phủ Pháp, dưới áp lực hiển hiện của Chính phủ Nhật, buộc sẽ phải nhượng bộ …”
|
The fears of the French Ambassador
were realized. In 1941, however, Japan went beyond the use of bases to
demands for a presence in Indochina tantamount to occupation. President
Roosevelt himself expressed the heightening U.S. alarm to the Japanese
Ambassador, in a conversation recorded by Acting Secretary of State Welles as
follows:
|
Những lo sợ của Đại sứ Pháp đã
thành sự thật. Trong năm 1941, tuy nhiên, Nhật đã vượt qua việc sử dụng các
căn cứ và đưa ra đòi hỏi một sự hiện diện tương đương để chiếm đóng ở Đông
Dương. Tổng thống Roosevelt đã bày tỏ sự cảnh báo cao độ của Mỹ đến Đại sứ Nhật,
trong một cuộc hội thoại được ghi lại bởi Quyền Bộ Trưởng Ngoại Giao Welles
như sau:
|
The President then went on to say
that this new move by Japan in Indochina created an exceedingly serious
problem for the United States . . . the cost of any military occupation is
tremendous and the occupation itself is not conducive to the production by
civilians in occupied countries of food supplies and new materials of the
character required by Japan. Had Japan undertaken to obtain the supplies she
required from Indochina in a peaceful way, she not only would have obtained
larger quantities of such supplies, but would have obtained them with
complete security and without the draining expense of a military occupation.
Furthermore, from the military standpoint, the President said, surely the
Japanese Government could not have in reality the slightest belief that
China, Great Britain, the Netherlands or the United States had any
territorial designs on Indochina nor were in the slightest degree providing
any real threats of aggression against Japan. This Government, consequently,
could only assume that the occupation of Indochina was being undertaken by
Japan for the purpose of further offense and this created a situation which
necessarily must give the United States the most serious disquiet . . .
|
“Rồi Tổng Thống đã tiến tới nói rằng
hành động này của Nhật đã tạo ra một vấn đề bức xúc cho Hoa Kỳ … giá phải trả
cho một cuộc chiếm đóng bằng quân sự là khổng lồ và tự nó không thể tạo thuận
lợi cho dân chúng trong vùng bị chiếm đóng trong việc sản xuất thực phẩm và
nguyên liệu theo như Nhật đòi hỏi. Ngay cả khi Nhật có được các nguồn tiếp liệu
tại Đông Dương một cách hòa bình, chẳng những họ muốn có được một số lượng lớn
về tiếp liệu [thực phẩm và nguyên liệu], họ cũng muốn có được các thứ trong
tình cảnh hoàn toàn an ninh và không phải kéo theo những chi phí cho một quân
đội chiếm đóng. Hơn nữa, trên quan điểm quân sự, Tổng Thống nói, trong thưc tế
chắc chắn Chính phủ Nhật không thể không có chút ý nghĩ rằng Trung Quốc, Anh,
Hà Lan hay Hoa Kỳ đều có những ý đồ về lãnh thổ ở Đông Dương mà [cho rằng]
không thể có mối đe dọa nào, dù nhỏ bé nhất, là Nhật sẽ bị tấn công. Do đó
chính phủ này chỉ có thể giả định rằng việc Nhật chiếm đóng Đông Dương là có
mục đich mở rộng bành trướng [việc chiếm đóng] và điều này nhất thiết đã tạo
ra một mối quan tâm đặc biệt nghiêm trọng cho Hoa Kỳ …
|
. . . The President stated that if
the Japanese Government would refrain from occupying Indochina with its
military and naval forces, or, had such steps actually been commenced, if the
Japanese Government would withdraw such forces, the President could assure
the Japanese Government that he would do everything within his power to
obtain from the Governments of China, Great Britain, the Netherlands, and of
course the United States itself a binding and solemn declaration, provided
Japan would undertake the same commitment, to regard Indochina as a neutralized
country in the same way in which Switzerland had up to now been regarded by
the powers as a neutralized country. He stated that this would imply that
none of the powers concerned would undertake any military act of aggression
against Indochina and would remain in control of the territory and would not
be confronted with attempts to dislodge them on the part of de Gaullist or
Free French agents or forces.
|
“…Tổng thống tuyên bố rằng Chính
phủ Nhật phải ngưng không được chiếm đóng Đông Dương bằng quân đội và hải
quân, hoặc nếu thực sự đã có những khởi sự được bắt đầu, nếu chính phủ Nhật
ngưng và rút hết các lực lượng này, Tổng thống có thể đảm bảo với chính phủ Nhật
rằng ông sẽ làm tất cả mọi thứ trong quyền hạn của mình để có được từ các
chính phủ Trung Quốc, Anh, Hoà Lan, và tất nhiên cả chính Hoa Kỳ cùng ra một
tuyên bố long trọng và có tính ràng buộc ký với Nhật cùng cam kết, coi Đông
Dương là một quốc gia trung lập cùng một cách thức như nước Thụy Sĩ mà các cường
quốc đã công nhận là quốc gia Trung Lập. Ông cũng nói rằng điều này ngụ ý rằng
không ai trong số các cường quốc có liên quan được có bất cứ bất kỳ hành động
quân sự nào nhằm xâm lược Đông Dương hay duy trì việc kiểm soát lãnh thổ này
và sẽ không có những cố gắng nhằm đánh đuổi những người Gaullist hoặc lực lượng
Pháp Tự Do trên phần đất của họ [tóm lại là Nhật phải rút đi và tình trạng
statu quo: Pháp vẫn chiếm đóng Đông Dương]. (°)
|
|
(°) Bản ghi nhớ lời trao đổi giữa Sumner Welles, Bộ Trưởng Ngoại Giao
ngày 24 tháng 7 năm 1941; đề nghị của Tổng thống cho [Đông Dương] trung lập
được trao cho Nhật trong một ghi chú ngày 08 tháng tám 1941.
|
The same date, Secretary of State
Cordell Hull instructed Sumner Welles to see the Japanese Ambassador, and Make
clear the fact that the occupation of Indochina by Japan possibly means one
further important step to seizing control of the South Sea area, including
trade routes of supreme importance to the United States controlling such
products as rubber, tin and other commodities. This was of vital concern to
the United States. The Secretary said that if we did not bring out this point
our people will not understand the significance of this movement into
Indochina. The Secretary mentioned another point to be stressed: there is no
theory on which Indochina could be flooded with armed forces, aircraft, et
cetera, for the defense of Japan. The only alternative is that this venture
into Indochina has a close relation to the South Sea area and its value for
offense against that area.
|
Cùng ngày, Bộ Trưởng Ngoại Giao
Cordell Hull chỉ thị Sumner Welles gặp Đại sứ Nhật, và “Làm rõ sự kiện Nhật
chiếm đóng Đông Dương có thể là một bước quan trọng trong việc kiểm soát khu
vực biển miền Nam [Biển Đông], bao gồm các tuyến đường thương mại tối quan trọng
của Hoa Kỳ để kiểm soát các sản phẩm như cao su, thiếc và những nguyên vật liệu
khác. Đây là vấn đề sống còn của Hoa Kỳ. Bộ Trưởng cho rằng, nếu chúng ta
không đưa vấn đề này ra vào thời điểm này thì người của chúng ta sẽ không hiểu
được ý nghĩa những chuyển động này ở Đông Dương. Bộ Trưởng cũng nhấn mạnh
trên một điểm khác: không có một lý thuyết nào mà Đông Dương có thể bị tràn
ngập các lực lượng vũ trang, máy bay, vân vân, cho việc phòng thủ của Nhật.
Thay vào đó, [cái lý thuyết] duy nhất liên quan đến Đông Dương là mối quan hệ
cận kề của nó với vùng biển Nam và giá trị [chiến lược] của nó đối với những
hành vi xâm lược nhằm vào nó [Đông Dương] ". (°)
|
|
(°) Bản ghi nhớ bởi Cecil W. Gray, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, 24
Tháng 7, 1942.
|
In a press statement of 2 August
1941, Acting Secretary of State Welles deplored Japan's "expansionist
aims" and impugned Vichy:
Under these circumstances, this
Government is impelled to question whether the French Government at Vichy in
fact proposes to maintain its declared policy to preserve for the French
people the territories both at home and abroad which have long been under
French sovereignty.
|
Trong một thông cáo báo chí ngày
02 Tháng 8 năm 1941, Bộ Trưởng Ngoại Giao Welles lên án "các mục tiêu
bành trướng" của Nhật và công kích Vichy:
"Trong hoàn cảnh này, chính
phủ này [Hoa Kỳ] bị thúc đẩy để đặt câu hỏi liệu chính phủ Pháp của Vichy
trong thực tế đã đề xuất chưa việc duy trì một chính sách công khai nhằm bảo
vệ cho nhân dân Pháp các vùng lãnh thổ cả trong và ngoài nước từ lâu đã thuộc
chủ quyền của Pháp.
|
This Government, mindful of its
traditional friendship for France, has deeply sympathized with the desire of
the French people to maintain their territories and to preserve them intact.
In its relations with the French Government at Vichy and with-the local
French authorities in French territories, the United States will be governed
by the manifest effectiveness with which those authorities endeavor to
protect these territories from domination and control by those powers which
are seeking to extend their rule by force and conquest, or by the threat
thereof.
|
"Chính phủ này, vững tâm với
tình hữu nghị truyền thống với Pháp, đã vô cùng thông cảm với mong muốn của
nhân dân Pháp là duy trì và bảo quản nguyên vẹn lãnh thổ của họ. Trong quan hệ
với chính phủ Pháp Vichy và với các nhà chức trách địa phương trong lãnh thổ
Pháp, Hoa Kỳ sẽ điều chỉnh [chính sách] qua những kết quả mà những nhà chức
trách đã nỗ lực thực hiện để bảo vệ các vùng lãnh thổ này từ sự thống trị và
kiểm soát của những cường quốc đang tìm kiếm cách mở rộng vùng cai trị của họ
bằng vũ lực và chinh phục, hay bằng sự đe dọa. "
|
On the eve of Pearl Harbor, as
part of the U.S. attempt to obtain Japanese consent to a non-aggression pact,
the U.S. again proposed neutralization of Indochina in return for Japanese
withdrawal. The events of 7 December 1941 put the question of the future of
Indochina in the wholly different context of U.S. strategy for fighting World
War 11.
|
Vào đêm trước của trận Trân Châu Cảng,
như là một phần của nỗ lực để được Nhật đồng ý cho một hiệp ước không xâm lược,
Mỹ một lần nữa đề nghị trung lập hóa Đông Dương để đổi lại việc Nhật rút khỏi
nơi đó. Những biến cố ngày 07 tháng 12 năm 1941 đặt vấn đề tương lai của Đông
Dương vào toàn bộ một bối cảnh hoàn toàn khác những chiến lược của Mỹ trong
chiến tranh thế giới thứ II.
|
A. ROOSEVELT'S TRUSTEESHIP CONCEPT
U.S. policy toward Indochina
during World War 11 was ambivalent. On the one hand, the U.S. appeared to
support Free French claims to all of France's overseas dominions. The U.S.
early in the war repeatedly expressed or implied to the French an intention
to restore to France its overseas empire after the war. These U.S.
commitments included the August 2, 1941, official statement on the
Franco-Japanese agreement; a December, 1941, Presidential letter to P6tain; a
March 2, 1942, statement on New Caledonia; a note to the French Ambassador of
April 13, 1942; Presidential statements and messages at the time of the North
Africa invasion; the Clark-Darlan Agreement of November 22, 1942; and a
letter of the same month from the President's Personal Representative to
General Henri Giraud, which included the following reassurance:
|
A. KHÁI NIỆM ỦY TRị CỦA ROOSEVELT
Chính sách của Mỹ về Đông Dương
trong Thế Chiến II là rõ ràng. Một mặt, Mỹ hiển nhiên ủng hộ việc Pháp Tự Do
tuyên bố rằng mọi thuộc địa của Pháp là thuộc họ. Đầu thời kỳ chiến tranh Mỹ
đã nhiều lần bày tỏ hoặc ám chỉ ý định sẽ giúp Pháp khôi phục lại đế chế của
Pháp ở nước ngoài sau khi chiến tranh. Những cam kết của Hoa Kỳ gồm tuyên bố
chính thức về thỏa thuận Pháp-Nhật ngày 2 Tháng Tám, 1941; thư của Tổng thống
gửi cho [Thống Chế] Petain tháng Mười Hai, năm 1941; tuyên bố về Tân Đảo [New
Caledonia] ngày 02 tháng 3 năm 1942 ; một ghi nhớ với Đại sứ Pháp ngày 13
Tháng Tư, 1942; những thông báo của phủ Tổng Thống và thông tin trao đổi tại
thời điểm vào cuộc xâm lược vào Bắc Phi [của Đức, Ý], Hiệp định Clark -
Darlan vào ngày 22 tháng 10 năm 1942; và một lá thư cùng tháng của phái viên
của Tổng Thống viết gửi cho Tướng Henri Giraud, trong đó bao gồm sự đảm bảo
sau đây:
|
. . . The restoration of France to
full independence, in all the greatness and vastness which it possessed
before the war in Europe as well as overseas, is one of the war aims of the
United Nations. It is thoroughly understood that French sovereignty will be
re-established as soon as possible throughout all the territory, metropolitan
or colonial, over which flew the French flag in 1939.
|
“…Phục hồi hoàn toàn nền độc lập
trong vĩ đại và vinh quang mà Pháp đã sở hữu trước khi có cuộc chiến ở Âu
Châu cũng như ở các nước khác là một trong những mục đích chiến tranh mà Liên
Hợp Quốc nhắm đến. Liên Hiệp Quốc hoàn toàn hiểu rằng chủ quyền của Pháp sẽ
được phục hồi càng sớm càng tốt, trên toàn lãnh thổ, đô thị hoặc thuộc địa mà
ở đó lá cờ Pháp tung bay vào năm 1939. "
|
On the other hand, in the Atlantic
Charter and other pronouncements the U.S. proclaimed support for national
self-determination and independence. Moreover, the President of the United
States, especially distressed at the Vichy "sell-out" to Japan in
Indochina, often cited French rule there as a flagrant example of onerous and
exploitative colonialism, and talked of his determination to turn Indochina
over to an international trusteeship after the war. In early 1944, Lord
Halifax, the British Ambassador in Washin-ton, called on Secretary of State
Hull to inquire whether the President's "rather definite"
statements "that Indochina should be taken away from the French and put
under an international trusteeship"-made to "Turks, Egyptians and
perhaps others" during his trip to Cairo and Teheran-represented
"final conclusions in view of the fact that they would soon get back to
the French (The French marked well the President's views-in fact as France
withdrew from Vietnam in 1956, its Foreign Minister recalled Roosevelt's
assuring the Sultan of Morocco that his sympathies lay with colonial peoples
struggling for independence. Lord Halifax later recorded that:
|
Mặt khác, trong Hiến chương Đại
Tây Dương và các tuyên bố khác Mỹ tuyên bố hỗ trợ cho quyền tự quyết và độc lập
quốc gia. Hơn nữa, Tổng Thống Hoa Kỳ, đặc biệt là bị đau khổ về chuyện Vichy
đã "bán đứng" Đông Dương cho Nhật, thường trích dẫn việc Pháp cai
trị ở đó là một ví dụ trắng trợn của đàn áp và bóc lột của chủ nghĩa thực
dân, và nói về quyết tâm của mình đưa Đông Dương vào dưới một ủy thác quốc tế
sau chiến tranh. Đầu năm 1944, ngài Halifax, Đại sứ Anh tại Washington, gọi
điện cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Hull hỏi thăm để tìm hiểu liệu thông báo của Tổng
thống "đã là chung cuộc", “là Đông Dương phải lấy lại từ tay Pháp
và đặt dưới một ủy thác quốc tế như việc đã làm cho Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và có
lẽ cả những nước khác” trong chuyến đi Cairo và Teheran của ông – là tiêu biểu
cho "kết luận cuối cùng dựa trên thực tế mà họ sẽ sớm trả lời cho người
Pháp.. " 2/ (Pháp ghi nhận rõ ràng quan điểm của Tổng thống - trong thực
tế Pháp đã rút khỏi Việt Nam vào 1956, Ngoại trưởng nhắc lại việc Roosevelt
đã khẳng định với Sultan của Ma-rốc về sự đồng cảm của mình về sự đấu tranh
cho độc lập của các dân tộc thuộc địa. 3/). Ngài Halifax sau đó ghi lại rằng:
|
The President was one of the
people who used conversation as others of us use a first draft on paper . . .
a method of trying out an idea. If it does not go well, you can modify it or
drop it as you will. Nobody thinks anything of it if you do this with a paper
draft; but if you do it with conversation, people say that you have changed
your mind, that "you never knew where you have him," and so on.
But in response to a memorandum
from Secretary of State Hull putting the question of Indochina to F.D.R., and
reminding the President of the numerous U.S. commitments to restoration of
the French empire, Roosevelt replied (on January 24, 1944), that:
|
"Tổng thống là một trong những
người, trong những buổi thảo luận, hay phát họa một bản dự thảo đầu tiên trên
giấy... một phương pháp nhằm ghi ra một ý tưởng. Nếu nó không chạy "Nè,
bạn có thể sửa đổi nó hoặc vứt nó đi. Không ai nghĩ gì khác nếu các bạn làm
điều ấy, nhưng nếu bạn làm điều đó với thảo luận, người ta sẽ nói rằng bạn đã
thay đổi ý kiến, là ‘bạn không bao giờ biết bạn đã thuyết phục anh ta’, và cứ
như thế." Nhưng phản ứng với một bản ghi nhớ của Bộ Trưởng Ngoại Giao
Hull đặt câu hỏi về Đông Dương với FDR, và những nhắc nhở Tổng Thống Mỹ về rất
nhiều cam kết phục hồi cho đế chế Pháp, Roosevelt trả lời (ngày 24 Tháng 1
năm 1944) rằng:
|
I saw Halifax last week and told
him quite frankly that it was perfectly true that I had, for over a year,
expressed the opinion that Indo-China should not go back to France but that
it should be administered by an international trusteeship. France has had the
country-thirty million inhabitants for nearly one hundred years, and the
people are worse off than they were at the beginning.
|
"Tôi gặp Halifax tuần trước
và nói với ông khá thẳng thắn rằng nó hoàn toàn đúng sự thật rằng tôi đã có,
trong hơn một năm, ý kiến rằng Đông Dương không nên quay trở
lại dưới sự cai trị của Pháp mà nó phải được quản lý bởi một ủy thác quốc tế.
Pháp là nước đã có – 30 triệu người gần cả 100 năm, và nay dân tình lại tồi tệ
hơn lúc đầu.
|
As a matter of interest, I am
wholeheartedly supported in this view by Generalissimo Chiang Kai-shek and by
Marshal Stalin. I see no reason to play in with the British Foreign Office in
this matter. The only reason they seem to oppose it is that they fear the
effect it would have on their own possessions and those of the Dutch. They
have never liked the idea of trusteeship because it is, in some instances,
aimed at future independence. This is true in the case of Indo-China.
|
“Trên quan điểm quyền lợi, tôi hết
lòng hỗ trợ ý này bằng cách ủng hộ Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch và Thống Chế
Stalin. Tôi thấy không có lý do để tranh đua với Bộ Ngoại giao Anh về vấn đề
này. Dường như lý do duy nhất mà họ chống lại là họ sợ nó [Đông Dương độc lập]
sẽ ảnh hưởng trên tài sản [thuộc địa] riêng của họ và Hà Lan. Họ đã không bao
giờ thích ý tưởng của ủy thác bởi vì, trong một số trường hợp, là nhằm mục
đích độc lập trong tương lai. Điều này đúng trong trường hợp của Đông Dương.
|
Each case must, of course, stand
on its own feet, but the case of IndoChina is perfectly clear. France has
milked it for one hundred years. The people of Indo-China are entitled to
something better than that.
|
"Mỗi trường hợp, tất nhiên, sẽ
đứng trên chính đôi chân của của nó, nhưng trường hợp của Đông Dương là hoàn
toàn rõ ràng. Pháp đã vắt sữa 100 năm. Người dân Đông Dương có quyền được hưởng
một cái gì đó tốt hơn thế. ".
|
1. Military Strategy Pre-eminent
Throughout the year 1944, the
President held to his views, and consistent with them, proscribed U.S. aid to
resistance groups-including French groups-in Indochina. But the war in the
Asian theaters moved rapidly, and the center of gravity of the American
effort began to shift northward toward Japan. The question of U.S. strategy
in Southeast Asia then came to the fore. At the Second Quebec Conference
(September, 1944), the U.S. refused British offers of naval assistance
against Japan because Admiral King believed "the best occupation for any
available British forces would be to re-take Singapore, and to assist the
Dutch in recovering the East Indies," and because he suspected that the
offer 11 was perhaps not unconnected with a desire for United States help in
clearing the Japanese out of the Malay States and Netherlands East
Indies." Admiral King's suspicions were not well-founded, at least
insofar as Churchill's strategic thought was concerned. The Prime Minister
was evidently as unwilling to invite an active American role in the
liberation of Southeast Asia as the U.S. was to undertake same; as early as
February, 1944, Churchill wrote that:
|
1. Chiến lược quân sự chiếm ưu thế
Trong suốt năm 1944, Tổng Thống bảo
lưu quan điểm, và từ những quan điểm đó, đã cấm Hoa Kỳ viện trợ cho các nhóm
kháng chiến - bao gồm cả các nhóm Pháp - ở Đông Dương. Nhưng cuộc chiến trong
chiến trường Âu Châu chuyển động nhanh chóng, và lực hấp dẫn trung tâm của nỗ
lực của Mỹ bắt đầu chuyển về phía Bắc, cận kề với Nhật. Vấn đề chiến lược của
Mỹ ở Đông Nam Á sau đó đã trở nên nổi bật. Tại Hội nghị Quebec lần thứ hai
(tháng 9 năm 1944), Mỹ từ chối đề nghị hỗ trợ của hải quân Anh nhằm chống lại
Nhật vì Đô đốc King tin rằng "việc xử dụng tốt nhất bất kỳ lực lương Anh
nào là để tái chiếm Singapore, và hỗ trợ người Hà Lan trong việc khôi phục
vùng Đông Ấn ", và vì ông nghi ngờ rằng “việc hổ trợ là không dính dáng
đến nổ lực của Mỹ là quét sạch Nhật ra khỏi Mã Lai Á và vùng Đông Ấn Hà
Lan." 6/ Những nghi ngại của Đô đốc King là không có cơ sở vững chắc ít
nhất là trong chừng mực liên hệ đến tư tưởng chiến lược của Churchill. Hiển
nhiên Thủ tướng không muốn mời Mỹ vào một vai trò tích cực trong việc giải
phóng các nước Đông Nam Á cũng như việc Mỹ phải làm chuyện đó [một mình]; sớm
vào tháng Hai năm 1944, Churchill đã viết:
|
A decision to act as a subsidiary force under the Americans in the
Pacific raises difficult political questions about the future of our Malayan
possessions. If the Japanese should withdraw from them or make peace as the
result of the main American thrust, the United States Government would after
the victory feel greatly strengthened in its view that all possessions in the
East Indian Archipelago should be placed under some international body upon
which the United States would exercise a decisive concern.
|
Quyết định hành động như một lực lượng phụ thuộc cho quân đội Mỹ ở
Thái Bình Dương đặt ra những câu hỏi chính trị khó khăn về trong tương lai
tài sản [thuộc địa] của chúng tôi ở Mã Lai. Nếu Nhật rút khỏi nơi đây hay làm
cho nó được hòa bình là kết quả chính nhờ lực đẩy của Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ
sau khi chiến thắng sẽ cảm thấy quan điểm của mình được tăng thêm nhiều phần
uy tín rằng tất cả các thuộc địa trong quần đảo Đông Ấn phải được đặt dưới một
loại cơ quan quốc tế mà Hoa Kỳ có thể có những quan tâm có tính quyết định
lên đó.
|
The future of Commonwealth
territories in Southeast Asia stimulated intense British interest in American
intentions for French colonies there. In November and December of 1944, the
British expressed to the United States, both in London and in Washington,
their concern "that the United States apparently has not yet determined
upon its policy toward Indochina." The head of the Far Eastern
Department in the British Foreign Office told the U.S. Ambassador that:
|
Tương lai của các vùng lãnh thổ của
khối Thịnh Vượng Chung trong khu vực Đông Nam Á kích thích nỗi quan tâm cao độ
của Anh về ý định của Mỹ về thuộc địa của Pháp. Trong tháng mười một và tháng
mười hai năm 1954, người Anh bày tỏ với Hoa Kỳ, cả ở hai nơi London và
Washington, mối quan tâm của họ "là Hoa Kỳ dường như vẫn chưa xác định
chính sách của mình đối với Đông Dương. 8/) Người đứng đầu Cục Viễn Đông của
Bộ Ngoại Giao Anh nói với Đại sứ U. S. rằng:
|
It would be difficult to deny
French participation in the liberation of Indochina in light of the
increasing strength of the French Government in world affairs, and that,
unless a policy to be followed toward Indochina is mutually agreed between
our two governments, circumstances may arise at any moment which will place
our two governments in a very awkward situation.
|
Thật khó từ chối sự tham gia của
Pháp trong việc giải phóng Đông Dương dưới ánh sáng của sức mạnh ngày càng
tăng của Chính phủ Pháp trong các vấn đề thế giới, và điều đó, trừ khi một
chính sách về Đông Dương đã được thoả thuận giữa hai chính phủ của chúng tôi,
nhiều tình thế có thể phát sinh bất cứ lúc nào để đặt hai chính phủ của chúng
tôi vào những tình huống rất khó xử.
|
President Roosevelt, however,
refused to define his position further, notifying Secretary of State
Stettinius on January 1, 1945:
|
Tổng thống Roosevelt, tuy nhiên, vẫn
từ chối xác định vị trí của mình xa hơn nữa, thông báo cho Bộ Trưởng Ngoại
Giao Stettinius vào 1 tháng 1 năm 1945:
|
I still do not want to get mixed up in any Indo-China decision. It is
a matter for postwar.. . . I do not want to get mixed up in any military
effort toward the liberation of Indo-China from the Japanese.--You can tell
Halifax that I made this very clear to Mr. Churchill. From both the military
and civil point of view, action at this time is premature.
|
Tôi vẫn không muốn trộn lộn trong bất kỳ quyết định nào về Đông Dương.
Đây là một vấn đề sau chiến tranh … Tôi không muốn có sự trộn lộn trong bất kỳ
nỗ lực quân sự nào trong việc giải phóng Đông Dương khỏi Nhật.-- Ông có thể
nói với Halifax là tôi đã thông đạt điều này rất rõ ràng với ông Churchill. Từ
cả trên hai quan điểm quân sự và dân sự, hành động vào thời điểm này là quá sớm.
|
However, the U.S. Joint Chiefs of
Staff were concurrently planning the removal of American armed forces from
Southeast Asia. In response to approaches from French and Dutch officials
requesting aid in expelling Japan from their former colonial territories, the
U.S. informed them that:
|
Mặc dầu vậy, Bộ Tổng Tham Mưu Mỹ
(US Joint Chiefs of Staff) vẫn đồng thời lập kế hoạch rút bỏ các lực lượng vũ
trang Mỹ trong khu vực Đông Nam Á. Trả lời cho những lần mà Pháp và Hà Lan tiếp
cận nhằm xin Mỹ giúp đánh đuổi Nhật khỏi các vùng thuộc địa cũ của họ, Mỹ
thông báo họ rằng:
|
All our available forces were committed to fighting the Japanese
elsewhere in the Pacific, and Indochina and the East Indies were therefore
not included within the sphere of interest of the American Chiefs of Staff.
|
Tất cả các lực lượng hiện có của chúng tôi đã dành để chiến đấu với Nhật
tại những nơi khác ở Thái Bình Dương và do đó Đông Dương và Đông Ấn không nằm
trong lĩnh vực quan tâm của Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ.
|
American willingness to forego
further operations in Southeast Asia led to a directive to Admiral Lord
Mountbatten, Supreme Commander in that theater, to liberate Malaya without
U.S. assistance. After the Yalta Conference (February, 1945), U.S. commanders
in the Pacific were informed that the U.S. planned to turn over to the
British responsibility for operations in the Netherlands East Indies and New
Guinea. The President, however, agreed to permit such U.S. military
operations in Indochina as avoided "alignments with the French,"
and detraction from the U.S. military campaign against Japan. The latter
stricture precluded, in the U.S. view, the U.S. cooperation with the French
at Mountbatten's headquarters, or the furnishing of ships to carry Free
French forces to Indochina to undertake its liberation. This U.S. position
came under particularly severe French criticism after 11 March 1945, when the
Japanese overturned the Vichy regime in Vietnam, and prompted the Emperor Bao
Dai to declare Vietnam unified and independent of France under Japanese
protection. On 16 March 1945, a protest from General de Gaulle led to the
following exchange between the Secretary of State and the President:
|
Khi các Lãnh Đạo của Đồng Minh gặp
nhau tại Malta vào cuối tháng Giêng năm 1945, Mỹ sẵn sàng từ bỏ các hoạt động
hơn nữa trong khu vực Đông Nam Á đưa đến chỉ thị cho Đô đốc King Mountbatten,
Tư Lệnh Tối Cao Chiến Trường, giải phóng Mã Lai Á mà không có Hoa Kỳ hỗ trợ.
12/ Sau Hội nghị Yalta (tháng Hai, năm 1945), chỉ huy Mỹ tại Thái Bình Dương
đã được thông báo rằng Hoa Kỳ có kế hoạch chuyển giao các hoạt động ở Đông Ấn
Hà Lan và New Guinea cho Anh chịu trách nhiệm. Tổng Thống, tuy nhiên, đã đồng
ý cho phép các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ ở Đông Dương nhưng tránh "đứng
chung tuyến với Pháp" và tránh các tai tiếng từ các chiến dịch quân sự của
Mỹ chống Nhật. 13 / chỉ trích này đã loại trừ, trong quan điểm của Mỹ, sự hợp
tác của Mỹ với Pháp tại Tổng Hành Dinh của Mountbatten, hay [loại trừ] việc
cung cấp tàu để chuyển vận miễn phí các lực lượng Pháp đến Đông Dương để thực
hiện giải phóng nơi này. Thế đứng này của Mỹ đã bị Pháp chỉ trích đặc biệt
nghiêm trọng sau ngày 11 tháng 3 năm 1945, khi Nhật lật đổ chế độ Vichy tại
Việt Nam, và Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố Việt Nam thống nhất và độc lập, tách rời
khỏi Pháp và dưới sự bảo hộ của Nhật. Ngày 16 tháng Ba 1945, từ một phản
kháng của Tướng De Gaulle đã dẫn đến những trao đổi sau đây giữa Bộ Trưởng
Ngoại Giao và Tổng Thống:
|
DEPARTMENT OF STATE
Washington
March 16, 1945
MEMORANDUM FOR THE PRESIDENT
Subject: Indo-China.
Communications have been received
from the Provisional Government of the French Republic asking for:
(1)Assistance for the resistance
groups now fighting the Japanese in Indo-China.
(2) Conclusion of a civil affairs
agreement covering possible future operations in Indo-China.
These memoranda have been referred
to the Joint Chiefs of Staff in order to obtain their views concerning the
military aspects of the problems, and I shall communicate with you further on
the subject upon receipt of the Joint Chiefs' reply.
Attached herewith is the text of a
recent telegram from Ambassador Caffery describing his conversation with
General de Gaulle on the subject of Indo-China. From this telegram and de
Gaulle's speech of March 14, it appears that this Government may be made to
appear responsible for the weakness of the resistance to Japan in Indo-China.
The British may likewise be expected to encourage this view. It seems to me
that without prejudicing in any way our position regarding the future of
Indo-China we can combat this trend by making public [material illegible] a
suggested statement, subject to your approval, by the State Department.
/s/ E. R. Stettinius, Jr.
Enclosures:
1. Proposed Statement.
2. Copy of telegram from
Ambassador Caffery [not included here]
|
Bộ Ngoại giao
Washington
- March 16, năm 1945
BẢN GHI NHỚ GỬI TỔNG THỐNG
Chủ đề: Đông Dương.
Thư đã nhận được từ Chính phủ lâm
thời của nước Cộng hoà Pháp yêu cầu:
(1) Hỗ trợ các nhóm kháng chiến
đang chiến đấu chống Nhật ở Đông Dương.
(2) Một thỏa thuận kết luận về các
vấn đề dân sự bao gồm các hoạt động có thể có ở Đông Dương trong tương lai.
Những biên bản ghi nhớ đã được gửi
đến Bộ Tổng Tham Mưu để có được quan điểm của họ về khía cạnh quân sự trên
các vấn đề, và tôi sẽ liên lạc với bạn thêm về đề tài này sau khi nhận được
trả lời họ.
Kèm theo thư này là nội dung một
điện tín gần đây từ Đại sứ Caffery mô tả cuộc trò chuyện với tướng De Gaulle
về chủ đề Đông Dương. Từ điện tín này và bài phát biểu của De Gaulle ngày 14
tháng 3, dường như Chính phủ này phải chịu trách nhiệm về sự yếu kém của cuộc
kháng chiến chống Nhật ở Đông Dương. Ngược lại có thể chờ đợi là người Anh sẽ
khuyến khích quan điểm này. Đối với tôi, có lẽ, nếu không có bất kỳ gì có thể
làm phương hại đến thế đứng của chúng ta về tương lai của Đông Dương, chúng
ta có thể chống lại xu hướng này bằng cách công khai đưa ra mong muốn hỗ trợ
của chúng ta tùy theo tình thế đòi hỏi và tùy theo những kế hoạch mà chúng ta
đã cam kết trong khu vực Thái Bình Dương. Để kết thúc tôi đính kèm một bản thảo
đề nghị bảng tuyên bố công khai, tùy Tổng Thống chấp thuận, qua Bộ Ngoại
Giao.
/s/ E. R. Stettinius) Jr.
Đính kèm:
bản Tuyên Bố đề nghị
Bản sao điện tín của Đại sứ
Caffery [không kèm ở đây]
|
[Enclosure 1]
PROPOSED STATEMENT
The action of the Japanese Government in tearing away the veil with
which it for so long attempted to cloak its domination of Indo-China is a
direct consequence of the ever-mounting pressure which our arms are applying
to the Japanese Empire. It is a link in the chain of events which began so
disastrously in the summer of 1941 with the Franco-Japanese agreement for the
"common defense" of Indo-China. It is clear that this latest step
in the Japanese program will in the long run prove to be of no avail.
|
[Đính kèm 1]
BẢN TUYÊN BỐ [ĐỀ NGHỊ]
Các hành động của Chính phủ Nhật làm xé toang tấm mạng mà họ đã cố gắng
che mặt quá lâu để dấu sự thống trị của họ trên Đông Dương là một hệ quả trực
tiếp của áp lực quân sự của chúng tôi tung ra từ trước đến nay lên đế quốc Nhật.
Nó là một chuỗi liên kết các sự kiện bắt đầu từ mùa hè thảm khốc năm 1941 với
hiệp định "phòng thủ chung" Pháp-Nhật ở Đông Dương. Rõ ràng đây là
bước đi mới nhất trong toan tính của Nhật mà về lâu dài sẽ được chứng minh là
không có giá trị.
|
The Provisional Government of the French Republic has requested armed
assistance for those who are resisting the Japanese forces in Indo-China. In
accordance with its constant desire to aid all those who are willing to take
up arms
Background to the Conflict, 1940-1950 against our common enemies, this
Government will do all it can to be of assistance in the present situation,
consistent with plans to which it is already committed and with the
operations now taking place in the Pacific. It goes without saying that all
this country's available resources are being devoted to the defeat of our
enemies and they will continue to be employed in the manner best calculated
to hasten their downfall.
|
Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp đã yêu cầu hỗ trợ vũ trang cho những
người đang chống lại các lực lượng Nhật tại Đông Dương. Trung thành với ý muốn
liên tục là hỗ trợ tất cả những người sẵn sàng cầm vũ khí chống lại kẻ thù
chung của chúng ta, chính phủ này sẽ làm tất cả những gì có thể được để hổ trợ
trong tình huống hiện nay, phù hợp với kế hoạch mà chúng tôi đã cam kết và
[phù hợp] với các chiến dịch đang diễn ra ở Thái Bình Dương. Cũng nói thêm rằng
các nguồn vật lực sẵn có của đất nước này sẽ dành cho việc đánh bại của kẻ
thù của chúng ta và chúng sẽ tiếp tục được sử dụng theo tính toán tốt nhất để
đẩy nhanh sự sụp đổ của họ [Nhật].
|
[Response]
THE WHITE HOUSE
Washington
March 17, 1945
MEMORANDUM FOR
The Secretary of State
By direction of the President, there is returned herewith Secretary of
State Memorandum of 16 March, subject Indo-China, which includes a proposed
statement on the Japanese action in Indo-China.
The President is of the opinion that it is inadvisable at the present
time to issue the proposed statement.
/s/ William D. Leahy
|
[Trả lời]
Tòa Bạch Ốc
Washington - March 17, năm 1945
BẢN GHI NHỚ
Gửi Bộ Ngoại Giao
Chỉ đạo của Tổng Thống, để trả lời cho bản ghi nhớ của Bộ Ngoại Giao
ngày 16 tháng Ba, về chủ đề Đông Dương, trong đó bao gồm một tuyên bố đề xuất
trên những hoạt động của Nhật ở Đông Dương. Tổng thống có ý kiến rằng vào thời điểm hiện tại việc phổ biến bản Tuyên Bố theo như đề xuất
là không thích hợp..
/s/ William D. Leahy [ký tên]
|
The French were also actively
pressuring the President and his key advisors through military channels.
Admiral Leahy reported that, following Yalta:
The French representatives in
Washington resumed their frequent calls to my office after our return from
the Crimea. They labeled most of their requests "urgent." They
wanted to participate in the combined intelligence group then studying German
industrial and scientific secrets; to exchange information between the
American command in China and the French forces in Indo-China; and to get
agreement in principle to utilizing the French naval and military forces in
the war against Japan (the latter would assist in returning Indo-China to
French control and give France a right to participate in lend-lease
assistance after the defeat of Germany.)
|
Pháp đã tích cực gây sức ép với Tổng
thống và các cố vấn chính thông qua các kênh quân sự. Đô đốc Leahy báo cáo rằng,
sau [hội nghị] Yalta:
“Các đại diện Pháp ở Washington tiếp
tục thường xuyên gọi đến văn phòng của tôi sau khi chúng tôi trở về từ
Crimea. Họ gọi hầu hết các yêu cầu của họ là "khẩn cấp" Họ muốn
tham gia trong nhóm tình báo chung sau đó là lo nghiên cứu về những bí mật
công nghiệp và khoa học của Đức, việc trao đổi thông tin giữa Bộ Tư Lệnh Mỹ ở
Trung Quốc và các lực lượng Pháp ở Đông Dương và nhằm đạt một thỏa thuận về
nguyên tắc về việc sử dụng Hải Quân và quân đội Pháp trong cuộc chiến chống lại
Nhật ( họ [Hải Quân và quân đội Pháp] sẽ hỗ trợ Pháp lấy lại quyền kiểm soát
Đông Dương và cho Pháp quyền tham gia vào thoả ước thuê mượn vũ khí
[lend-lease assistance] sau khi Đức bại trận)
|
Most of the time I could only tell
them that I had no useful information as to when and where we might make use
of French assistance in the Pacific.
However, we did attempt to give a
helping hand to the French resistance groups in Indo-China. Vice Admiral
Fenard called me on March 18 to say that planes from our 14th Air Force in
China were loaded with relief supplies for the undergrounders but could not
start without authority from Washington. I immediately contacted General
Handy and told him of the President's agreement that American aid to the
Indo-China resistance groups might be given provided it involved no
interference with our operations against Japan.
|
“Hầu hết trọng mọi lần tôi chỉ có
thể nói với họ rằng tôi đã không có những thông tin về khi nào và ở đâu chúng
ta có thể xử dụng sự hổ trợ của Pháp ở Thái Bình Dương
“Tuy nhiên, chúng tôi đã cố gắng
giang tay giúp đỡ nhóm kháng chiến chống Pháp ở Đông Dương. Phó Đô Đốc Fenard
gọi điện cho tôi vào ngày 18 tháng 3 nói rằng máy bay từ Không Đoàn số 14 của
chúng tôi ở Trung Quốc đã được nạp với hàng cứu trợ cho phe kháng chiến bí mật
nhưng không thể bắt đầu mà không có sự đồng ý từ Washington. Tôi ngay lập tức
liên lạc với Tướng Handy và nói với ông rằng Tổng thống Mỹ đã thỏa thuận viện
trợ cho nhóm kháng chiến Đông Dương miễn là việc này không đụng chạm đến hoạt
động chống Nhật của chúng ta.
|
2. Failure of the Trusteeship Proposal
In the meantime, the President's
concept of postwar trusteeship status for dependent territories as an
intermediate step toward autonomy had undergone study by several
interdepartmental and international groups, but had fared poorly. In
deference to British sensibilities, the United States had originally sought
only a declaration from the colonial powers setting forth their intention to
liberate their dependencies and to provide tutelage in self-government for
subject peoples. Such a declaration would have been consistent with the
Atlantic Charter of 1941 in which the U.S. and the U.K. jointly agreed that,
among the "common principles ... on which they base their hopes for a
better future for the world," it was their policy that:
|
Sự thất bại của đề xuất Ủy Trị
Trong khi chờ đợi, khái niệm “ủy
trị“của Tổng thống áp dụng trong thời hậu chiến cho các thuộc địa như là một
bước trung gian để đi đến quyền tự chủ đã đươc một số tổ chức liên bộ ngành
và các nhóm quốc tế nghiên cứu, khái niệm này đã ở trong tình trạng yếu kém.
Ngại động chạm đến nhạy cảm của Anh, Hoa Kỳ ban đầu chỉ muốn tìm một tuyên bố
từ các cường quốc thực dân đưa ra ý định trả lại tự do cho các thuộc địa và
đưa ra sự giám hộ trên các chính phủ tự trị của nhân dân sở tại. Một tuyên bố
như vậy sẽ phù hợp với Hiến chương Đại Tây Dương năm 1941, trong đó Mỹ và Anh
cùng đồng ý, một trong những "nguyên tắc chung mà trên cơ sở đó họ hy vọng
một tương lai tốt đẹp hơn cho thế giới", nó là chính sách của họ rằng:
|
... they respect the right of all
peoples to choose the form of govern1 ment under which they will live; and
they wish to see sovereign rights and \ selfgovernment restored to those who
have been forcibly deprived of \ them. . . .
In November, 1942, Secretary Hull
submitted to the President a proposed draft US-UK declaration entitled
"The Atlantic Charter and National Independence," which the
President approved. Before this draft could be broached to the British,
however, they submitted a counter-proposal, a statement emphasizing the
responsibility of "parent" powers for developing native self-government,
and avoiding endorsement of trusteeships. Subsequent Anglo-American discussions
in March 1943 addressed both drafts, but foundered on Foreign Secretary
Eden's opposition. Secretary Hull reported in his memoirs that Eden could not
believe that the word "independence" would be interpreted to the
satisfaction of all governments:
|
“…họ [Anh và Mỹ] tôn trọng quyền lựa
chọn hình thức chính phủ của tất cả các dân tộc, theo đó họ [dân] sẽ sống; và
họ [Anh và Mỹ] muốn thấy chủ quyền và chính phủ tự quyết được khôi phục lại
cho những người trước đây đã bị tước đoạt …” 16/
Tháng năm 1942, Ngoại trưởng Hull
đã đệ trình cho Tổng Thống đề xuất một dự thảo Mỹ-Anh có tựa là "Hiến
chương Đại Tây Dương và Độc Lập Quốc Gia", và đã đã được Tổng Thống phê
duyệt. Trước khi dự thảo này có thể gửi cho người Anh, tuy nhiên, họ [Anh] đã
đệ trình một phản đề nghị nhấn mạnh trách nhiệm quyền hạn của "cha mẹ"
trên sự thành hình của các chính phủ bản địa để tránh việc chấp nhận việc “Ủy
Trị”. Sau đó vào tháng 3 năm 1943 thảo luận giữa Anh-Mỹ đã giải quyết cả hai
dự thảo, nhưng chìm vào sự phản đối của Ngoại trưởng Eden. Ngoại trưởng Hull
viết lại trong hồi ký của mình rằng Eden không thể tin rằng danh từ "độc
lập" sẽ được giải thích với sự hài lòng của tất cả các chính phủ:
|
. . . the Foreign Secretary said
that, to be perfectly frank, he had to say that he did not like our draft
very much. He said it was the word "independence" that troubled
him, he had to think of the British Empire system, which was built on the basis
of Dominion and colonial status.
|
“…Bộ trưởng Ngoại giao cho biết rằng,
để được hoàn toàn thẳng thắn, ông đã nói rằng ông đã rất không ưa dự thảo của
chúng ta. Ông cho biết là từ "độc lập" gây khó khăn cho ông, ông đã
suy nghĩ về hệ thống Đế quốc Anh, được xây dựng trên cơ sở của Dominion và
quy chế thuộc địa.
|
|
[từ “Dominion” là chỉ các nước độc lập nằm trong Liên Hiệp Anh như
Canada, Australia, New Zealand, Newfoundland, Liên bang Nam Phi, và Ireland]
|
He pointed out that under the
British Empire system there were varying degrees of self-government, running
from the Dominions through the colonial establishments which had in some
cases, like Malta, completely self-government, to backward areas that were
never likely to have their own government. He added that Australia and New
Zealand also had colonial possessions that they would be unwilling to remove
from their supervisory jurisdiction.
|
“Ông chỉ ra trong Đế Quốc Anh có mức
độ khác nhau của chính phủ tự quyết, từ Dominions đến các thuộc địa đó trong
một số trường hợp, như Malta, hoàn toàn tự trị, cho đến các khu vực lạc hậu
không bao giờ có thể có chính phủ riêng của họ. Phải nói thêm rằng Australia
và New Zealand cũng có thuộc địa và họ sẽ không sẵn sàng để loại bỏ quyền
giám sát của họ.”
|
U.S. inability to work out a
common policy with the U.K. also precluded meaningful discussion, let alone
agreement, on the colonial issue at the Dumbarton Oaks Conversations in 1944.
Through March, 1945, the issue was further occluded by debates within the
U.S. Government over the postwar status of Pacific islands captured from the
Japanese: in general, the War and Navy Departments advocated their retention
under U.S. control as military bases, while State and other departments
advocated an international trusteeship.
|
Mỹ bất lực trong việc đưa ra một
chính sách chung với Anh, hơn nữa cũng bị loại khỏi những cuộc thảo luận có ý
nghĩa, đã bỏ qua một bên thỏa thuận về vấn đề thuộc địa cho Hội Nghị
Dumbarton Oaks Conversations năm 1944. 18 / Suốt tháng ba năm 1945, vấn đề đã
được tiếp tục hút vào các cuộc tranh luận trong Chính phủ Mỹ về qui chế sau
chiến tranh của các đảo ở Thái Bình Dương chiếm được từ Nhật; nói chung, Bộ
Chiến tranh và Bộ Hải quân ủng hộ việc Mỹ duy trì sự kiểm soát - như căn cứ
quân sự, trong khi Bộ Ngoại Giao và các bộ khác ủng hộ một ủy trị quốc tế.
|
3. Decision on Indochina Left to France
Secretary of State Stettinius,
with the approval of President Roosevelt, issued a statement on April 3,
1945, declaring that, as a result of international discussions at Yalta on
the concept of trusteeship, the United States felt that the postwar
trusteeship structure:
Background to the Conflict,
1940-1950 15
. . . should be designed to permit
the placing under it of the territories mandated after the last war, and such
territories taken from the enemy in this war as might be agreed upon at a
later date, and also such other territories as might be voluntarily placed
under trusteeship.
Indochina thus seemed relegated to
French volition.
Nonetheless, as of President Roosevelt's
death on April 12, 1945, U.S. policy toward the colonial possessions of its
allies, and toward Indochina in particular, was in disarray:
|
3. Quyết định về Đông Dương được dành cho Pháp
Bộ trưởng Ngoại giao Stettinius, với
sự chấp thuận của Tổng thống Roosevelt đã đưa ra một tuyên bố vào ngày 03
Tháng Tư 1945, như là kết quả của các cuộc thảo luận quốc tế tại Yalta về
khái niệm ủy thác, Hoa Kỳ cảm thấy rằng sau chiến tranh cấu trúc ủy thác như:
“…nên được thiết kế để cho phép đặt
các vùng lãnh thổ dưới sự uỷ trị sau cuộc chiến vừa qua, và những lãnh thổ
chiếm lại từ kẻ thù trong cuộc chiến này để thỏa thuận có thể được đồng ý một
ngày nào đó, và [thiết kế] sao cho các vùng lãnh thổ đó có thể tự nguyện đặt
dưới sự ủy trị.” 19/
Từ đó Đông Dương dường như đã giao
lại cho Pháp quyết định.
Tuy nhiên, cái chết của Tổng thống
Roosevelt vào ngày 12 Tháng Tư năm 1945, chính sách của Mỹ đối về thuộc địa của
các Đồng Minh, và đối với Đông Dương nói riêng là trong tình trạng lộn xộn:
|
- The British remained apprehensive
that there might be a continued U.S. search for a trusteeship formula which
might impinge on the Commonwealth.
- The French were restive over
continued U.S. refusal to provide strategic transport for their forces,
resentful over the paucity of U.S. support for French
forces in Indochina, and deeply
suspicious that the United States — possibly in concert with the Chinese — intended
to block their regaining control of Vietnam, Laos and Cambodia.
|
- Anh vẫn còn e ngại rằng Mỹ có thể
đang tiếp tục tìm kiếm một công thức ủy trị khác có thể ảnh hưởng đến Khối Thịnh
Vượng Chung
- Người Pháp đã bất ổn về việc Mỹ
liên tục từ chối cung cấp việc vận chuyển chiến lược cho các lực lượng của họ,
bực bội về hỗ trợ ít ỏi của Mỹ cho các lực lượng Pháp ở Đông Dương, và ngờ vực
sâu sắc rằng Hoa Kỳ - có thể đang bắt tay với Trung Hoa - dự định ngăn cản việc
[Pháp] duy trì quyền kiểm soát trên Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia.
|
B. TRUMAN AND THE OCCUPATION OF INDOCHINA, 1945
Within a month of President
Truman's entry into office, the French raised the subject of Indochina at the
United Nations Conference at San Francisco. Secretary of State Stettinius
reported the following conversation to Washington:
|
B TRUMAN VÀ VIỆC CHIỀM ĐÓNG ĐÔNG DƯƠNG NĂM 1945
Trong vòng một tháng kể từ ngày nhậm
chức của Tổng Thống Truman, Pháp đã nêu lên vấn đề Đông Dương tại Hội nghị
Liên Hợp Quốc tại San Francisco. Bộ Trưởng Ngoại Giao Stettinius ghi lại sau
đây cuộc trò chuyện với Washington:
|
. . . Indo-China came up in a
recent conversation I had with Bidault and Bonnet. The latter remarked that
the French Government interprets [Under Secretary of State] Welles' statement
of 1942 concerning the restoration of French sovereignty over the French
Empire as including IndoChina, the press continues to imply that a special
status will be reserved for this colonial area. It was made quite clear to
Bidault that the record I is entirely innocent of any official statement of
this government questioning, even by implication, French sovereignty over
Indo-China. Certain elements of American public opinion, however, condemned
French govern-
mental policies and practices in
Indo-China. Bidault seemed relieved and has no doubt cabled Paris that he
received renewed assurances of our recognition of French sovereignty over
that area.
|
“…Đông Dương đã được đề cập trong
một cuộc trò chuyện gần đây của tôi với Bidault và Bonnet. Ông này [Bonnet]
này nhận xét rằng mặc dù Chính phủ Pháp đã giải thích tuyên bố của [Phó Bộ
Trưởng Ngoại Giao] Welles năm 1942 liên quan đến việc tái lập chủ quyền của
Pháp trên Đế Quốc Pháp là bao gồm cả Đông Dương, báo chí vẫn tiếp tục ngụ ý rằng
một địa vị đặc biệt sẽ được dành riêng cho khu vực thuộc địa này. Điều khá rõ
ràng đối với Bidault đây là một ghi nhận hoàn toàn ngây thơ về bất kỳ tuyên bố
chính thức nào về câu hỏi này cho chính phủ, thậm chí là ngụ ý, về chủ quyền
Pháp đối với Đông Dương. Tuy nhiên, một vài thành phần trong công luận Mỹ lên
án chính sách và những hành xử của Pháp ở Đông Dương. Bidault dường như đã nhẹ
lòng và chắc chắn đã điện về Paris là ông ta đã nhận được tái cam kết của
chúng ta về chủ quyền của Pháp trên với khu vực đó.”
|
In early June 1945, the Department
of State instructed the United States Ambassador to China on the
deliberations in progress within the U.S. Government and its discussions with
allies on U.S. policy toward Indochina. He was informed that at San
Francisco:
|
Đầu tháng Sáu năm 1945, Bộ Ngoại
Giao hướng dẫn Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc về những thảo luận đang tiến hành
trong nội bộ Chính phủ Hoa Kỳ và các cuộc thảo luận với Đồng Minh về chính
sách của Mỹ đối với Đông Dương. Ông đã thông báo tại San Francisco như sau:
|
... the American delegation has
insisted upon the necessity of providing for a progressive measure of
self-government for all dependent peoples looking toward their eventual
independence or incorporation in some form of federation according to
circumstances and the ability of the peoples to assume these
responsibilities. Such decisions would preclude the establishment of a
trusteeship in Indochina except with the consent of the French Government.
The latter seems unlikely. Nevertheless it is the President's intention at
some appropriate time to ask that the French Government give some positive
indication of its intentions in regard to the establishment of civil
liberties and increasing measures of self-government in Indochina before
formulating further declarations of policy in this respect.
The United Nations Charter (June
26, 1945) contained a "Declaration Regarding Non-Self-Governing
Territories":
|
“…phái đoàn Mỹ đã nhấn mạnh sự cần
thiết dần dần đưa ra biện pháp nhằm thành lập các chính phủ tự trị cho tất cả
các dân tộc thuộc địa để cuối cùng hướng tới nền độc lập của họ hoặc kết hợp
trong một hình thức liên bang nào đó tùy hoàn cảnh và khả năng của các dân tộc
này trong việc gánh lấy trách nhiệm của mình. Những quyết định như thế sẽ cản
trở việc thành lập một ủy trị cho Đông Dương trừ phi có sự đồng ý của Chính
phủ Pháp. Việc đấy [ủy trị] dường như không thể thành hình. Tuy nhiên, nó là
ý định của Tổng thống tại một số thời điểm thích hợp để yêu cầu Chính phủ
Pháp cung cấp cho một số dấu hiệu tích cực về ý định của mình liên quan đến
việc thành lập các quyền tự do dân sự và việc tăng cường các biện pháp nhằm
trao quyền tự trị cho Đông Dương trước khi đưa ra thêm những tuyên bố về
chính sách [Mỹ] trong lĩnh vực này…”
Hiến chương Liên Hợp Quốc (ngày 26
tháng 6 năm 1945) có một "Tuyên bố" liên quan đến vùng lãnh thổ
không có chính phủ tự trị ":
|
Article 73
Members of the United Nations which have or assume responsibilities
for the administration of territories whose peoples have not yet attained a
full measure of self-government recognize the principle that the interests of
the inhabitants of these territories are paramount, and accept as a sacred
trust the obligation to promote to the utmost, within the system of
international peace and security established by the present Charter, the
well-being of the inhabitants of these territories, and, to this end:
a. to ensure, with due respect for the culture of the peoples
concerned, their political, economic, social, and educational advancement,
their just treatment, and their protection against abuses;
b. to develop self-government, to take due account of the political
aspirations of the peoples, and to assist them in the progressive development
of their free political institutions, according to the particular
circumstances of each territory and its peoples and their varying stages of
advancement; . . .
|
Điều 73
“Các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã có hoặc chịu trách nhiệm chính
quyền trên các vùng lãnh thổ mà dân chúng ở đó chưa có được một chính phủ đầy
đủ, công nhận nguyên tắc là lợi ích của dân chúng trong các vùng lãnh thổ này
là tối quan trọng, và chấp nhận trong một sự tin cậy thiêng liêng nghĩa vụ
phát huy tối đa, trong hệ thống hòa bình và an ninh quốc tế xác lập bởi Hiến
Chương hiện nay, hạnh phúc cho cư dân sống trong những vùng lãnh thổ này, và
để thực hiện điều đó:
a. đảm bảo, trong sự tôn trọng văn hóa của các dân tộc liên quan, nền
chính trị, kinh tế, xã hội và tiến trình giáo dục của họ, đối xử họ xứng
đáng, và bảo vệ họ chống lại mọi hà hiếp lạm dụng;
b. để xây dựng một chính phủ tự chủ, để tôn trọng nguyện vọng chính trị
các dân tộc, và để hỗ trợ họ trong việc xây dựng các định chế chính trị tự do
tùy hoàn cảnh đặc biệt của mỗi lãnh thổ và nhân dân ở đó và tùy các giai đoạn
khác nhau trong tiến trình xây dựng …
|
Again, however, military
considerations governed U.S. policy in Indochina. President Truman replied to
General de Gaulle's repeated offers for aid in Indochina with statements to
the effect that it was his policy to leave such matters to his military
commanders. At the Potsdam Conference (July, 1945), the Combined Chiefs of
Staff decided that Indochina south of latitude 16° North was to be included
in the Southeast Asia Command under Admiral Mountbatten, Based on this
decision, instructions were issued that Japanese forces located north of that
line would surrender to Generalissimo Chiang Kai-shek, and those to the south
to Admiral Lord Mountbatten; pursuant to these instructions, Chinese forces
entered Tonkin in September, 1945, while a small British task force landed at
Saigon. Political difficulties materialized almost immediately, for while the
Chinese were prepared to accept the Vietnamese government they found in power
in Hanoi, the British refused to do likewise in Saigon, and deferred to the
French there from the outset.
|
Một lần nữa, tuy nhiên, những cân
nhắc quân sự lại chi phối chính sách của Mỹ ở Đông Dương. Tổng thống Truman
trả lời Tướng de Gaulle về những đề nghị lặp đi lặp lại là hổ trợ Đông Dương
bằng những phát biểu cho thấy chính sách của ông là giao những vấn đề đó cho
các tư lệnh quân sự của mình. Tại Hội nghị Potsdam (năm 1945), bộ Chỉ Huy Đồng
Minh đã quyết định giao Đông Dương từ phía nam vĩ độ 16 Bắc cho Bộ Chỉ Huy
Đông Nam Á dưới lệnh của Đô đốc Mountbatten. 23/ Trên cơ sở này quyết định,
các hướng dẫn được ban hành là các lực lượng Nhật nằm ở phía bắc của vĩ độ đó
sẽ đầu hàng cho Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch, và [các lực lượng Nhật ] ở
phía nam [đầu hàng] cho Đô đốc Lord Mountbatten. Theo hướng dẫn, lực lượng
Trung Quốc vào Bắc Kỳ vào tháng Chín năm 1945, trong khi một lực lượng đặc
nhiệm nhỏ của Anh đã hạ cánh xuống Sài Gòn. Khó khăn chính trị thành hình gần
như ngay lập tức, trong khi Trung Quốc đã chuẩn bị để gặp và chấp nhận chính
phủ Việt Nam đang nắm quyền ở Hà Nội, thì Anh từ chối làm như vậy ở Sài Gòn,
và đã giao lại cho Pháp ngay từ đầu.
|
There is no evidence that serious
concern developed in Washington at the swiftly unfolding events in Indochina.
In mid-August, Vietnamese resistance forces of the Viet Minh, under Ho Chi
Minh, had seized power in Hanoi and shortly thereafter demanded and received
the abdication of the Japanese puppet, Emperor Bao Dai. On V-J Day, September
2nd, Ho Chi Minh had proclaimed in Hanoi the establishment of the Democratic
Republic of Vietnam (DRV). The DRV ruled as the only civil government in all
of Vietnam for a period of about 20 days. On 23 September 1945, with the
knowledge of the British Commander in Saigon, French forces overthrew the
local DRV government, and declared French authority restored in Cochinchina.
Guerrilla war began around Saigon. Although American OSS representatives were
present in both Hanoi and Saigon and ostensibly supported the Viet Minh, the
United States took no official position regarding either the DRV, or the
French and British actions in South Vietnam. In October, 1945, the United
States stated its policy in the following terms :
|
Không có dấu hiệu gì cho thấy mối
quan tâm nghiêm trọng đã được nở ra ở Washington sau các sự kiện diễn đã xảy
ra nhanh chóng ở Đông Dương. Vào giữa tháng Tám, lực lượng kháng chiến Việt
Minh, dưới Hồ Chí Minh, đã nắm quyền tại Hà Nội và ngay sau đó yêu cầu và nhận
được sự thoái vị của con rối của Nhật, Hoàng đế Bảo Đại. Ngày V-J [Chiến Thắng]
02 tháng 9, Hồ Chí Minh, đã tuyên bố tại Hà Nội thành lập nước Việt Nam Cộng
hoà Dân chủ. VNDCCH cai trị như là một chính phủ dân sự trên toàn Việt Nam chỉ
vỏn vẹn trong một thời gian khoảng 20 ngày. Ngày 23 Tháng Chín, 1945, với sự
hay biết của Tư lệnh Anh ở Sài Gòn, các lực lượng Pháp đã lật đổ chính quyền
địa phương VNDCCH, và tuyên bố quyền lực của Pháp được phục hồi tại Nam Kỳ.
Chiến tranh du kích đã khởi sự chung quanh Sài Gòn. Mặc dù đại diện OSS của Mỹ
có mặt ở cả Hà Nội và Sài Gòn và có vẻ như ủng hộ Việt Minh, Hoa Kỳ đã không
lấy một thái độ chính thức nào liên quan VNDCCH, hay cả đến các hành động
Pháp và Anh tại miền Nam Việt Nam Vào tháng mười, năm 1945, Hoa Kỳ công bố
chính sách của họ những điểm sau đây:
|
US has no thought of opposing the
reestablishment of French control in Indochina and no official statement by
US GOVT has questioned even by implication French sovereignty over Indochina.
However, it is not the policy of this GOVT to assist the French to
reestablish their control over Indo-china by force and the willingness of the
US to see French control reestablished assumes that French claim to have the
support of the population of Indochina is borne out by future events.
|
Mỹ không có ý chống đối việc tái lập
quyền kiểm soát Đông Dương của Pháp và không có tuyên bố chính thức nào của
chính phủ Hoa Kỳ đặt câu hỏi ngay cả trên định nghĩa chủ quyền Pháp trên Đông
Dương. Tuy nhiên, không phải chính sách của chính phủ này là hỗ trợ người
Pháp để thiết lập lại quyền kiểm soát của họ trên Đông Dương bằng vũ lực và
mong muốn của Hoa Kỳ là được xem việc Pháp tái lập quyền kiểm soát trên giả định
rằng như Pháp đã tự nhận là đã có được sự hổ trợ của dân chúng Đông Dương là
phát sinh ra bởi những biến cố tương lai.
|
French statements to the U.S.
looked for an early end to the hostilities, and spoke reassuringly of reforms
and liberality. In November, Jean Chauvel, Secretary-General to the French
Minister for Foreign Affairs, told the U.S. Ambassador that :
When the trouble with the
Annamites broke out de Gaulle had been urged by the French Mission in India
to make some sort of policy statement announcing France's intention to adopt
a far-reaching progressive policy designed to give the native population much
greater authority, responsibility and representation in govt. De Gaulle
considered the idea but rejected it because in the state of disorder
prevailing in Indochina he believed that no such policy could be implemented
pending restoration of French authority and would therefore just be
considered by everyone as "merely more fine words." Furthermore de
Gaulle and the Foreign Minister believe that the present situation is still
so confused and they have so little information really reliable on the
overall Indochina picture that such plans and thoughts as they held
heretofore may have to be very thoroughly revised in the light of recent
developments.
|
Những thông báo của Pháp cho Mỹ là
nhằm tìm kiếm một kết thúc sớm các hành động thù địch, và nói một cách khẳng
định về những cải cách và cởi mở. Tháng Mười Một, Jean Chauvel, Bộ Trưởng Ngoại
giao Pháp, nói với Đại sứ Mỹ rằng:
“Khi những rắc rối với người Việt
nổ ra [tướng] De Gaulle đã được Phái đoàn Pháp ở Ấn Độ thúc giục phải thực hiện
một chính sách nào đó để công bố ý định của Pháp là sẽ đưa ra một chính sách
có ảnh hưởng sâu rộng được thiết kế để mang đến cho các dân tộc bản xứ có nhiều
quyền tự trị, nhiều trách nhiệm hơn và có đại diện trong chính phủ. De Gaulle
xem xét ý tưởng nhưng bác bỏ nó bởi vì trong tình trạng rối loạn là phổ biến ở
Đông Dương, ông tin rằng không chính sách nào như vậy có thể được thực hiện
trước khi thẩm quyền của Pháp được phục hồi và do đó chỉ được mọi người xem
"chỉ là những danh từ hoa mỹ”. Hơn nữa De Gaulle và Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao tin rằng tình hình hiện nay là vẫn còn lộn xộn và họ có quá ít thông tin
thực sự đáng tin cậy về hình ảnh tổng thể của Đông Dương. Vi thế những kế hoạch
và suy nghĩ như họ đã nắm cho đến nay có thể phải xem lại kỷ lưỡng dưới ánh
sáng của những biến chuyển mới đây.
|
Despite the fact that the French
do not feel that they can as yet make any general statements outlining
specific future plans for Indochina, Chauvel says that they hope "very
soon" to put into operation in certain areas programs including local
elections which will be designed to grant much greater authority and greater
voice in affairs to the natives. This he said would be a much better
indication of the sincerity of French intentions than any policy statement. .
. . The French hope soon to negotiate an agreement with [the King of
Cambodia] which will result in the granting of much greater responsibility
and authority to the Cambodians. He mentioned specifically that there would
be many more natives integrated into the local administrative services and it
was also hoped that local elections could soon be held. The French he said intend
to follow the same procedure in Laos when the situation permits and
eventually also in Annam and Tonkin. When order is restored throughout
Indochina and agreements have been reached with the individual states Chauvel
said the French intend to embody the results of these separate agreements
into a general program for all of Indochina.
|
"Mặc dù thực tế là người Pháp
không cảm thấy rằng họ chưa có thể đưa ra bất kỳ phác thảo cụ thể nào cho kế
hoạch tương lai cho Đông Dương, Chauvel nói rằng họ hy vọng sẽ 'sớm' đưa vào
hành động trong một vài lãnh vực gồm cả việc bầu cử địa phương, theo đó [bầu
cử]sẽ được thiết kế nhằm mang đến nhiều quyền hạn và tiếng nói lớn hơn trong
các vấn đề của người bản xứ. Điều này ông cho biết sẽ là một dấu hiệu tốt hơn
về sự chân thành của Pháp hơn bất kỳ tuyên bố chính sách nào... Hy vọng của
Pháp là sớm có đàm phán một thỏa thuận với vua của Cam-pu-chia kết quả là sẽ
cho nhiều trách nhiệm lớn hơn đối với nhân dân Cambodia. Ông đã đặc biệt đề cập
là sẽ có nhiều người địa phương hơn nữa vào các cơ quan hành chánh địa phương
và cũng hy vọng rằng các cuộc bầu cử địa phương sẽ sớm được tổ chức. Ông nói
người Pháp có ý định áp dụng các bước đi tương tự ở Lào khi tình hình cho
phép và cuối cùng là cho An Nam và Bắc Kỳ. Sau khi trật tự được khôi phục
trong toàn Đông Dương và các thoả thuận riêng đã đạt được với các nước,
Chauvel nói rằng ý định của Pháp là thể hiện kết quả của những thỏa thuận
riêng đó vào chung một chương trình cho toàn Đông Dương.”
|
From the autumn of 1945 through
the autumn of 1946, the United States received a series of communications
from Ho Chi Minh depicting calamitous conditions in Vietnam, invoking the
principles proclaimed in the Atlantic Charter and in the Charter of the
United Nations, and pleading for U.S. recognition of the independence of the
DRV, or — as a last resort — trusteeship for Vietnam under the United Nations.
But while the U.S. took no action on Ho's requests, it was also unwilling to
aid the French. On January 15, 1946, the Secretary of War was advised by the
Department of State that it was contrary to U.S. policy to "employ
American flag vessels or aircraft to transport troops of any nationality to
or from the Netherlands East Indies or French Indochina, nor to permit use of
such craft to carry arms, ammunition or military equipment to these
areas."
|
Từ mùa thu năm 1945 qua đến mùa
thu năm 1946, Hoa Kỳ đã nhận được một loạt các thư tín từ Hồ Chí Minh mô tả
điều kiện tệ hại ở Việt Nam, nêu lên các nguyên tắc công bố trong Hiến chương
Đại Tây Dương và Hiến chương Liên Hợp Quốc, và xin Mỹ công nhận nền độc lập của
nước VNDCCH, hoặc - như một phương sách cuối cùng - ủy trị Việt Nam cho Liên
hợp quốc. Nhưng trong khi Mỹ đã không hành động theo yêu cầu của Hồ Chí Minh,
[Mỹ] cũng không muốn hỗ trợ người Pháp. Ngày 15 tháng 1 năm 1946, Bộ Trưởng
Chiến tranh đã được thông báo của Bộ Ngoại giao rằng việc "sử dụng các
tàu mang cờ Mỹ hoặc máy bay để vận chuyển quân đội của bất kỳ quốc tịch nào
đi hoặc từ Đông Ấn Hà Lan hoặc Đông Dương thuộc Pháp, hay dùng những phương
tiện đó để chuyển vân vũ khí, đạn dược, thiết bị quân sự đến các khu vực này
là trái với chính sách của Mỹ”
|
However, the British arranged for
the transport of additional French troops to Indochina, bilaterally agreed
with the French for the latter to assume British occupation responsibilities,
and signed a pact on 9 October, 1945, giving "full recognition to French
rights" in Indochina.
|
|
French troops began arriving in
Saigon that month, and subsequently the British turned over to them some 800
U.S. Lend-Lease jeeps and, trucks. President Truman approved the latter transaction
on the grounds that removing the equipment would be impracticable.
|
Pháp bắt đầu đổ bộ vào Sài Gòn
trong tháng đó, và tiếp theo người Anh giao lại cho họ khoảng 800 xe jeep và
xe tải [của Mỹ cho Anh “thuê-mượn”]. Tổng thống Truman đã phê duyệt giao dịch
này với lý do là việc lấy lại các thiết bị này là không khả thi.
|
The fighting between the French
and the Vietnamese which began in South Vietnam with the 23 September, 1945,
French coup d'etat, spread from Saigon throughout Cochinchina, and to
southern Annam. By the end of January, 1946, it was wholly a French affair,
for by that time the British withdrawal was complete; on 4 March, 1946,
Admiral Lord Mountbatten deactivated Indochina as territory under the Allied
Southeast Asia Command, thereby transferring all control to French authorities.
From French headquarters, via Radio Saigon, came f announcements that a
military "mopping-up" campaign was in progress, but pacification
was virtually complete; "Burthese reports of success were typically A
interspersed with such items as the following:
|
Các cuộc giao tranh giữa Pháp và
Việt Nam bắt đầu ở miền Nam Việt Nam với cuộc đảo chính Pháp [bởi Nhật] ngày
23 tháng 9, 1945, lan tràn từ Sài Gòn ra khắp Nam Kỳ, và miền nam An Nam
[Trung Kỳ thuộc Triều Đình Huế]. Đến cuối tháng Giêng năm 1946, toàn bộ mọi
chuyện là do Pháp lo, bởi thời điểm đó việc Anh rút quân đã hoàn tất, ngày 4
tháng Ba, năm 1946, Đô đốc Lord Mountbatten cắt Đông Dương ra khỏi lãnh thổ
thuộc Bộ Tư Lệnh Đồng Minh ở Đông Nam Á, do đó đã chuyển tất cả việc cai trị
cho nhà chức trách Pháp. 30/ Bộ Tư Lệnh Pháp, thông qua Đài phát thanh Sài
Gòn, đã thông báo rằng một chiến dịch quân sự nhằm “quét dọn” đang được tiến
hành, nhưng việc bình định hầu như đã hoàn tất, nhưng các báo cáo thành công
này thường xen kẽ với những chuyện như sau:
|
20 March 1946:
Rebel bands are still (wreaking
destruction) in the areas south of Saigon. These bands are quite large, some
numbering as many as 1,000 men. Concentrations of these bands are to be found
... in the villages. Some have turned north in an attempt to disrupt
(communications) in the Camau Peninsula, northeast of Batri and in the
general area south of (Nha Trang). In the area south of Cholon and in the
north of the Plaine des Jenes region, several bands have taken refuge. . . .
|
“20 tháng 3 1946:
“Nhiều nhóm kháng chiến vẫn còn
đánh phá các vùng phía Nam Sài Gòn. Những nhóm nổi dậy này là khá lớn, một số
nhóm có khoảng 1.000 người. Các nhóm nổi dậy này thường thấy tập trung trong
các làng mạc. Một số đã chuyển về phía bắc trong nỗ lực phá vỡ (giao thông) ở
bán đảo Cà Mau, phía đông bắc Ba Tri và các khu vực nói chung phía Nam (Nha
Trang). Trong vùng phía Nam Chợ Lớn và ở phía bắc đồng bằng Bãi Sậy [Plaine
des Joncs], một số nhóm nổi dậy đã trú đóng tại đó …”
|
21 March 1946:
The following communique was
issued by the High Commissioner for Indochina this morning: "Rebel
activities have increased in the Bien Hoa area, on both banks of the river
Dong Nai. A French convoy has been attacked on the road between Bien Hoa and
Tan Uyen where a land mine had been laid by the rebels.
"In the (Baclo) area,
northwest of Saigon, a number of pirates have been captured in the course of
a clean-up raid. Among the captured men are five Japanese deserters. The dead
bodies of three Japanese, including an officer, have been found at the point
where the operation was carried out.
"A French detachment was
ambushed at (San Jay), south Annam. The detachment, nevertheless, succeeded
in carrying out its mission. Several aggressions by rebel parties are
reported along the coastal road."
|
21 tháng 3 1946:
Thông cáo sau đây đã được ban hành
bởi Cao ủy Đông Dương sáng nay:
Hoạt động nổi dậy có tăng lên
trong khu vực Biên Hòa trên cả hai bờ sông Đồng Nai. Một đoàn xe Pháp đã bị tấn
công trên đường giữa Biên Hòa và Tân Uyên, nơi một quả mìn đã được đặt bởi
phiến quân.
“Trong khu vực (Bac Lo) phía tây bắc
của Sài Gòn một số cướp biển đã bị bắt giữ trong quá trình một cuộc đột kích
càn quét. Trong số những người bị bắt có năm lính đào ngũ của Nhật. Ba xác chết
Nhật trong đó có một sĩ quan đã được tìm thấy tại điểm mà cuộc hành quân đã xảy
ra.
“Một phân đội Pháp bị phục kích tại
(San Jay) phía nam An Nam. Mặc dù vậy, phân đội vẫn thành công trong việc thực
hiện nhiệm vụ của mình. Nhiều cuộc tấn công của phe nổi dậy được báo cáo là xảy
ra dọc theo tuyến đường ven biển”
|
Violence abated in South Vietnam
somewhat as Franco-DRV negotiations proceeded in spring, 1946, but in the
meantime, French forces moved into further confrontation with Vietnamese
"rebels" in Tonkin. In February, 1946, a French task force prepared
to force landings at Haiphong, but was forestalled by diplomatic maneuver. A
Franco-Chinese agreement of 28 February 1946 provided that the Chinese would
turn over their responsibilities in northern Indochina to the French on 31
March 1946.
On March 6, 1946, a French-DRV
accord was reached in the following terms:
|
Bạo lực dịu đi phần nào ở miền Nam
Việt Nam khi các cuộc đàm phán Pháp-VNDCCH tiến hành vào mùa xuân 1946 nhưng
trong khi đó lực lượng Pháp chuyển sang đối đầu mạnh hơn với “kháng chiến” Việt
Nam tại Bắc Kỳ. Trong tháng hai năm 1946, một lực lượng đặc nhiệm Pháp đã chuẩn
bị đổ bộ vào Hải Phòng nhưng đã bị ngưng trệ vì các chuyển động ngoại giao. Một
thỏa thuận Pháp-Trung Quốc ngày 28 Tháng Hai năm 1946 đồng ý là Trung Quốc sẽ
bàn giao trách nhiệm của họ ở miền Bắc Đông Dương cho Pháp ngày 31 tháng 3
năm 1946. 32/
Ngày 19 tháng 3 năm 1946, một thỏa
ước Pháp-VNDCCH đã được ký kết với các điều khoản như sau:
|
1. The French Government recognizes the Vietnamese Republic as a Free
State having its own Government, its own Parliament, its own Army and its own
Finances, forming part of the Indochinese Federation and of , the French
Union. In that which concerns the reuniting of the three "Anna! mite
Regions" [Cochinchina, Annam, Tonkin] the French Government j pledges
itself to ratify the decisions taken by the populations consulted by )
referendum.
2. The Vietnamese Government declares itself ready to welcome amicably
the French Army when, conforming to international agreements, it relieves the
Chinese Troops. A Supplementary Accord, attached to the present Preliminary
Agreement, will estabhsh the means by which the relief operations will be
carried out.
3. The stipulations formulated above will immediately enter into
force. Immediately after the exchange of signatures, each of the High
Contracting Parties will take all measures necessary to stop hostilities in
the field, to maintain the troops in their respective positions, and to
create the favorable atmosphere necessary to the immediate opening of
friendly and sincere negotiations. These negotiations will deal particularly
with:
|
1. Chính phủ Pháp công nhận Cộng Hòa Việt Nam như là một nhà nước tự
do có Chính phủ riêng, Quốc hội riêng, quân đội riêng và tài chính riêng, trở
thành một phần của Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp. Liên quan đến việc
hợp nhất ba Kỳ [Cochinchina, Annam, Tonkin] – [tức Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ]
Chính phủ Pháp cam kết phê chuẩn những quyết định của dân chúng qua trưng cầu
dân ý”
2. Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng đón tiếp một cách hữu nghị
quân đội Pháp trong khi, theo những thỏa thuận quốc tế họ thay thế quân Trung
Quốc. Một Hiệp Định Bổ Sung được thêm vào Hiệp Định Sơ Bộ sẽ thiết lập các
phương cách mà các hoạt động cứu trợ sẽ được thực hiện
3. Những điều khoản thiết lập ở trên sẽ có hiệu lực ngay lập tức. Lập
tức ngay sau khi chữ ký được trao đổi, thẩm quyền ký kết cao nhất của mỗi bên
sẽ thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết để chấm dứt thù địch ở các nơi và
giữ quân đội mỗi bên yên trong vị trí của mình và tạo bầu không khí thuận lợi
cần thiết để mở ngay lập tức các cuộc đàm phán thân thiện và chân thành. Các
cuộc đàm phán này sẽ đặc biệt giải quyết:
|
a. diplomatic relations of Viet-nam with Foreign States
b. the future law of Indochina
c. French interests, economic and cultural, in Viet-nam. Hanoi, Saigon
or Paris may be chosen as the seat of the conference.
DONE AT HANOI, the 6th of March 1946
Signed: Sainteny
Signed: Ho-chi Minh and Vu Hong Khanh
|
a. quan hệ ngoại giao Việt Nam với nước ngoài
b Luật Pháp tương lai của Đông Dương
c. Quyền lợi, kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt-nam.
Hanoi, Saigon hay Paris có thể được lựa chọn làm nơi diễn ra Hội nghị
Làm tại Hà Nội, ngày 6 tháng 3 năm 1946
Ký tên:: Sainteny
Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh
|
French forces quickly exercise
their prerogative, occupying Hanoi on 18 March 1946, and negotiations opened
in Dalat in April.
Hence, as of April 10, 1946,
allied occupation in Indochina was officially over, and French forces were positioned
in all of Vietnam's major cities; the problems of U.S. policy toward Vietnam
then shifted from the context of wartime strategy to the arena of the U.S.
relationship with France.
|
Lực lượng Pháp đã nhanh chóng thực
hiện đặc quyền của họ, chiếm Hà Nội vào ngày 18 tháng 3 năm 1946, và các cuộc
đàm phán mở tại Đà Lạt vào tháng Tư. 34/
Do đó, ngày 10 tháng Tư năm 1946,
việc Đồng Minh chiếm đóng Đông Dương được coi như chấm dứt, và các lực lượng
Pháp chiếm đóng tất cả các thành phố lớn ở Việt Nam, các vấn đề trong chính
sách của Mỹ đối với Việt Nam sau đó đã chuyển từ bối cảnh một chính sách
trong chiến tranh sang phạm vi mối quan hệ Mỹ và Pháp.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn