MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Wednesday, August 17, 2011

METASPHYSICS OF LOVE Arthur Schopenhauer SIÊU HÌNH TÌNH YÊU


METASPHYSICS OF LOVE

Arthur Schopenhauer

SIÊU HÌNH TÌNH YÊU

Arthur Schopenhauer

Métaphysique de I’amour

Bản dịch của Hoàng Thiên Nguyễn.

We are accustomed to see poets principally occupied with describing the love of the sexes. This, as a rule, is the leading idea of every dramatic work, be it tragic or comic, romantic or classic, Indian or European. It in no less degree constitutes the greater part of both lyric and epic poetry, especially if in these we include the host of romances which have been produced every year for centuries in every civilised country in Europe as regularly as the fruits of the earth. All these works are nothing more than many-sided, short, or long descriptions of the passion in question. Moreover, the most successful delineations of love, such, for example, as Romeo and Juliet, La Nouvelle Héloise, and Werther, have attained immortal fame. Rochefoucauld says that love may be compared to a ghost since it is something we talk about but have never seen, and Lichtenberg, in his essay Ueber die Macht der Liebe, disputes and denies its reality and naturalness — but both are in the wrong. For if it were foreign to and contradicted human nature — in other words, if it were merely an imaginary caricature, it would not have been depicted with such zeal by the poets of all ages, or accepted by mankind with an unaltered interest; for anything artistically beautiful cannot exist without truth.

Người ta có thói coi các nhà thơ nhất thiết chỉ lo mô tả ái tình. Ái tình thường là đề tài chính của mọi vở kịch, cổ điển cũng như lãng mạn, Ấn như Âu; đồng thời nó cũng vẫn là chất liệu của phần lớn thi ca trữ tình và hùng tráng; chưa hết, ngoài thi ca còn hàng đống tiểu thuyết mà tại mọi xứ văn minh ở Âu, và từ bao thế kỉ nay, mỗi năm sản xuất đều đều cũng như hoa quả của trái đất. Tất cả các tác phẩm ấy xét cho cùng đều chẳng qua chỉ là những sự diễn tả, hoặc sơ sài, hoặc tỉ mỉ, về cái đam mê mà chúng ta đề cập đến đây. Lại nữa các mô tả thành công nhất về cái này, chẳng hạn như Roméo và Juliette, laNouvelle Héloise, Werther, đều trở thành bất hủ. La Rochefoucauld[14] cho rằng ái tình đam mê cũng chẳng khác gì ma, ai ai cũng nói đến, nhưng chẳng ai thấy; và Lichtenberg [15] cũng vậy, trong tập khảo luận về sức mạnh của ái tình, ông cũng phủ nhận và bác bỏ cái thực tính của đam mê này cùng sự phù hợp của nó với thiên nhiên: nhưng đó là một sự lầm lẫn lớn. Vì một cái gì xa lạ và trái với bản chất con người, tức là một sản phẩm kỳ cục riêng của tư tưởng, không thể nào lại đời đời được thiên tài thi ca không ngớt mô tả, và lại được nhân loại tiếp đón với một lòng ái mộ không bao giờ khô cạn; vì không có chân lý không thể có thẩm mỹ:

“Rien n’est beau que le vrai; le vrai seul est aimable.”— BOIL.

Không gì đẹp bằng cái thật: chỉ cái thật mới đáng yêu. Boileau[16]

Experience, although not that of everyday, verifies that that which as a rule begins only as a strong and yet controllable inclination, may develop, under certain conditions, into a passion, the ardour of which surpasses that of every other. It will ignore all considerations, overcome all kinds of obstacles with incredible strength and persistence. A man, in order to have his love gratified, will unhesitatingly risk his life; in fact, if his love is absolutely rejected, he will sacrifice his life into the bargain. The Werthers and Jacopo Ortis do not only exist in romances; Europe produces every year at least half-a-dozen like them: sed ignotis perierunt mortibus illi : for their sufferings are chronicled by the writer of official registers or by the reporters of newspapers. Indeed, readers of the police news in English and French newspapers will confirm what I have said.

Kinh nghiệm cũng lại xác nhận, nếu không thông thường, thì ít ra cũng chắc chắn, rằng một khuynh hướng mà thường chỉ diễn ra với một cường độ khả dĩ còn kiềm chế được, có thể, trong vài trường hợp, gia tăng đến mức trở thành một đam mê mãnh liệt vượt hẳn mọi đam mê khác; lúc đó nó vứt bỏ mọi suy xét và vượt qua mọi trở ngại với một nghị lực và một sự bền bỉ, ngoài sự tưởng tượng, đến nỗi, để thỏa mãn nó, người ta liều mạng, và còn thí bỏ mạng mình một các khinh miệt, một khi sự thỏa mãn vẫn bị từ khước. Các Werther và Jacques Ortis[17] chẳng phải chỉ có trong tiểu thuyết, mà trái lại, hàng năm ở bên Âu còn thấy ít ra cũng nửa tá: sed ignotis perierunt morlibus illi (nhưng họ đã chết trong tăm tối), vì cái nỗi khổ đau của họ chả được ai ghi chép ngoài người biên tập biên bản hành chính hay phóng viên nhà báo. Nhưng những ai hay đọc các tin cảnh sát trên báo hàng ngày của Anh hay Pháp hẳn chứng nhận rằng tôi nói đúng.

Love drives a still greater number of people into the lunatic asylum. There is a case of some sort every year of two lovers committing suicide together because material circumstances happen to be unfavourable to their union. By the way, I cannot understand how it is that such people, who are confident of each other’s love, and expect to find their greatest happiness in the enjoyment of it, do not avoid taking extreme steps, and prefer suffering every discomfort to sacrificing with their lives a happiness which is greater than any other they can conceive. As far as lesser phases and passages of love are concerned, all of us have them daily before our eyes, and, if we are not old, the most of us in our hearts.

Tuy nhiên số người mà tình lụy đưa đến nhà thương điên còn đông hơn nữa. Sau hết, hàng nằm người ta còn chứng kiến bao nhiêu cặp trai gái tự tử vì tình duyên trắc trở, vì hoàn cảnh éo le; quả thật tôi không tài nào hiểu nổi là những người, khi yêu và biết chắc mình được yêu và hi vọng được hưởng ở tình yêu ấy một hạnh phúc tột độ, lại không thích tìm mọi cách để tránh né các éo le oan trái và chịu đựng mọi đau khổ, thay vì là từ bỏ cùng với đời sống một cái hạnh phúc mà ngoài ra họ không thể thấy có hạnh phúc nào hơn. Nhưng còn về các mức độ thấp hơn cùng các manh ý nhất thời của tình lụy thì hàng ngày chả ai lại không từng mục kích, và nếu như còn trẻ, lại còn thường cảm thấy ngay trong lòng mình.

After what has been brought to mind, one cannot doubt either the reality or importance of love. Instead, therefore, of wondering why a philosopher for once in a way writes on this subject, which has been constantly the theme of poets, rather should one be surprised that love, which always plays such an important rôle in a man’s life, has scarcely ever been considered at all by philosophers, and that it still stands as material for them to make use of.

Do đó, theo như những gì tôi vừa nhắc nhở, người ta không còn có thể nghi ngờ gì về cái thực tính và tầm quan trọng của tình lụy, và vì thế, thay vì ngạc nhiên rằng một nhà triết lại lấy cá đề tài cố hữu kia của các nhà thơ là đề tài của mình, người ta tốt hơn nên ngạc nhiên rằng một đề tài hằng đóng một vai trò quan trọng đến thế trong đời sống con người cho đến nay có thể nói là chưa từng được các triết gia nghiên cứu đến, và đối với chúng ta vẫn còn là một chất liệu mà chưa ai đem phân tích.

Plato has devoted himself more than any one else to the subject of love, especially in the Symposium and the Phaedrus ; what he has said about it, however, comes within the sphere of myth, fable, and raillery, and only applies for the most part to the love of a Greek youth. The little that Rousseau says in his Discours sur l’inégalité is neither true nor satisfactory. Kant’s disquisition on love in the third part of his treatise, Ueber das Gefühl des Schönen und Erhabenen, is very superficial; it shows that he has not thoroughly gone into the subject, and therefore it is somewhat untrue. Finally, Platner’s treatment of it in his Anthropology will be found by every one to be insipid and shallow.

Người từng quan tâm đến nó nhất là Platon, đặc biệt trong cuốn Banquel và Phèdre; Tuy nhiên những điều ông đưa ra mới thuộc địa hạt huyền thoại, hoang đường và bông lơn, và nhất thiết chỉ liên quan đến cái đồng tính luyến ái của Hy Lạp, Chút ít mà Rousseau[18] có nói trong cuốn Luận về bất bình đẳng (Discuors sur l’Inégalité) vừa không đúng vừa thiếu sót. Đoạn của Kant, trong tiết thứ ba luận về “cảm thức cái đẹp và cái cao cả” rất ư phiến diện và có phần sai lạc vì thiếu xét đoán. Sau hết, chắc ai cũng nhận thấy cách thức của Platner bàn về vấn đề trong cuốn Nhân chủng học của ông có phần nhạt nhẽo và kém cỏi.

To amuse the reader, on the other hand, Spinoza’s definition deserves to be quoted because of its exuberant naïveté: Amor est titillatio, concomitante idea causae externae (Eth. iv., prop. 44).

It is not my intention to be either influenced or to contradict what has been written by my predecessors; the subject has forced itself upon me objectively, and has of itself become inseparable from my consideration of the world. Moreover, I shall expect least approval from those people who are for the moment enchained by this passion, and in consequence try to express their exuberant feelings in the most sublime and ethereal images. My view will seem to them too physical, too material, however metaphysical, nay, transcendent it is fundamentally.

Trái lại định nghĩa của Spinoza[19] đáng được đơn cử để mua vui cho khán giả vì tính chất ngớ ngẩn lạ kì của nó như: Amor est titillatino, concomitante idea causae externae (Tình yêu là sự kích thích đồng thời là một ý niệm do bên ngoài phát khởi).

Do đó, tôi cũng phải viện đến các bậc tiền bối, cũng chẳng phải bác bỏ họ; vấn đề đến với tôi một cách khách quan và tự nó đặt mình vào toàn bộ quan niệm của tôi về thế gian. Vả lại, tôi cũng không chờ đợi một sự tán thưởng nào của những người đúng ra đang chìm lặn trong tình lụy và tìm cách đề cao các tình cảm của họ bằng những hình ảnh cao siêu và thanh khiết nhất: với những người này, quan niệm của tôi hẳn có vẻ quá thể xác, quá vật chất, trong khi thật ra nó rất siêu hình, rất siêu việt.

First of all let them take into consideration that the creature whom they are idealising to-day in madrigals and sonnets would have been ignored almost entirely by them if she had been born eighteen years previously.

Trước hết, xin họ biết cho rằng họ chắc không buồn để ý đến cái đối tượng hiện giờ đang gây hứng cho nguồn thơ châm biếm của họ nếu phải như nó được khai sinh mười tám năm về trước.

Every kind of love, however ethereal it may seem to be, springs entirely from the instinct of sex; indeed, it is absolutely this instinct, only in a more definite, specialised, and perhaps, strictly speaking, more individualised form. If, bearing this in mind, one considers the important rôle which love plays in all its phases and degrees, not only in dramas and novels, but also in the real world, where next to one’s love of life it shows itself as the strongest and most active of all motives; if one considers that it constantly occupies half the capacities and thoughts of the younger part of humanity, and is the final goal of almost every human effort; that it influences adversely the most important affairs; that it hourly disturbs the most earnest occupations; that it sometimes deranges even the greatest intellects for a time; that it is not afraid of interrupting the transactions of statesmen or the investigations of men of learning; that it knows how to leave its love-letters and locks of hair in ministerial portfolios and philosophical manuscripts; that it knows equally well how to plan the most complicated and wicked affairs, to dissolve the most important relations, to break the strongest ties; that life, health, riches, rank, and happiness are sometimes sacrificed for its sake; that it makes the otherwise honest, perfidious, and a man who has been hitherto faithful a betrayer, and, altogether, appears as a hostile demon whose object is to overthrow, confuse, and upset everything it comes across: if all this is taken into consideration one will have reason to ask —“Why is there all this noise? Why all this crowding, blustering, anguish, and want? Why should such a trifle play so important a part and create disturbance and confusion in the well-regulated life of mankind?” But to the earnest investigator the spirit of truth gradually unfolds the answer: it is not a trifle one is dealing with; the importance of love is absolutely in keeping with the seriousness and zeal with which it is prosecuted. The ultimate aim of all love-affairs, whether they be of a tragic or comic nature, is really more important than all other aims in human life, and therefore is perfectly deserving of that profound seriousness with which it is pursued.

Thật vậy, mọi loại tình yêu, dù cho đượm vẻ thanh khiết cách mấy, cũng đều bắt rễ từ bản năng chủng tính, và chỉ là một bản năng chủng tính được xác định rõ rệt hơn, chuyên biệt hơn, và nói đúng ra, cá biệt hơn. Biết được cái chân lý này rồi, giờ đây ta hãy nghiên cứu vai trò quan trọng của tình ái trong mọi mức độ và sắc thái của nó, không những trong các vở kịch và các tiểu thuyết, mà còn trong cả đời sống thực tế; ta thấy rằng, cùng với cái ham sống, nó là động cơ mạnh mẽ nhất, quyết liệt nhất, nó luôn luôn thu hút được sự đóng góp bằng nửa năng lực và tư tưởng của thành phần trẻ nhất của nhân loại, nó là mục đích tối hậu của hầu hết các nguyện vọng của con người, nó có ảnh hưởng tai hại đối với các vụ quan trọng nhất, làm gián đoạn bất cứ lúc nào những công cuộc đứng đắn nhất, đôi khi làm bối rối các đầu óc vĩ đại không nhiều thì ít, nham nhở len lỏi vào các cuộc thương lượng của các chính khách cùng các cuộc tìm tòi của các nhà bác học để làm họ rối trí, lại còn dở cả trò luồn các thư tình và mớ tóc vào cặp da tổng trưởng, vào các bản thảo triết học, đã thế còn hàng ngày âm mưu những cuộc xung đột hết sức rối rắm, hết sức trầm trọng, gỡ bỏ những liên hệ quý báu nhất, cắt đứt những sợi ràng buộc bền bỉ nhất, khi thì hy sinh tính mạng và sức khỏe, khi thì hy sinh tiền của, danh vọng và hạnh phúc, thôi thì đủ thứ! Khiến con người xưa nay lương thiện trở thành kẻ bất lương, con người xưa nay chung thủy thành kẻ phản bội, - nghĩa là nói chung hành động chằng khác nào con quỷ thù nghịch, cố làm xáo trộn hết, làm rối loạn hết, làm đổ vỡ hết, - khiến người ta phải thốt lên: tại sao phải ồn ào đến thế? Tại sao phải lăng xăng, hùng hổ, lo âu và khốn khổ đến thế? Tựu trung cũng chỉ là mỗi chàng tìm cho được mỗi nàng: tại sao chuyện nhỏ mọn như thế lại đóng một vai trò quyết định đến thế và không ngớt làm rắc rối, làm xáo trộn hẳn trật tự của nếp sống con người? - Nhưng tinh thần chân lý dần dà đưa lại lời giải đáp cho người dày công tìm kiếm: đây chẳng phải là một chuyện nhỏ mọn; trái lại tầm quan trọng của nó rất tương xứng với sự hao tâm tổn trí mà người ta thường dành cho nó. Cứu cánh tối hậu của mọi chuyện tình, dù sang hay hèn, thật ra vẫn quan trọng hơn mọi mục đích khác của đời sống con người và do đó đáng được mỗi người theo đuổi nó một cách vô cùng thành khẩn.

As a matter of fact, love determines nothing less than the establishment of the next generation. The existence and nature of the dramatis personae who come on to the scene when we have made our exit have been determined by some frivolous love-affair. As the being, the existentia of these future people is conditioned by our instinct of sex in general, so is the nature, the essentia, of these same people conditioned by the selection that the individual makes for his satisfaction, that is to say, by love, and is thereby in every respect irrevocably established. This is the key of the problem. In applying it, we shall understand it more fully if we analyse the various degrees of love, from the most fleeting sensation to the most ardent passion; we shall then see that the difference arises from the degree of individualisation of the choice. All the love-affairs of the present generation taken altogether are accordingly the meditatio compositionis generationis futurae, e qua iterum pendent innumerae generationes of mankind. Love is of such high import, because it has nothing to do with the weal or woe of the present individual, as every other matter has; it has to secure the existence and special nature of the human race in future times; hence the will of the individual appears in a higher aspect as the will of the species; and this it is that gives a pathetic and sublime import to love-affairs, and makes their raptures and troubles transcendent, emotions which poets for centuries have not tired of depicting in a variety of ways. There is no subject that can rouse the same interest as love, since it concerns both the weal and woe of the species, and is related to every other which only concerns the welfare of the individual as body to surface.

Cái được quyết định như thế thật ra chẳng qua chỉ là sự cấu tạo thế hệ sau. Sự hiện diện và bản chất của các diễn viên sẽ lên sân khấu thay ta cũng do các chuyện tình lăng nhăng đó xác định. Cũng như sự hiện diện, cái Hiện hữu, của các nhân vật tương lai hay dở ra sao cũng tùy ở bản năng chủng tính của chung ta nhận xét theo thể thức tổng quát của nó, cũng như yếu tính, cái Tinh túy của họ tùy ở sự lựa chọn của cá nhân trong sự thỏa mãn bản năng ấy, nghĩa là tình ái, và do đó được an bài về mọi mặt. Đó là chìa khóa của vấn đề: ta sẽ biết nó rõ hơn bằng cách dùng nó, khi ta trải qua mọi mức độ của tình cảm yêu đương, từ cái thoáng yêu cho đến cái yêu mãnh liệt đắm đưối, và rồi lúc đó ta sẽ hiểu rằng sở dĩ nó thiên biến vạn hóa cũng vì mức độ lựa chọn thiên biến vạn hóa của từng cá nhân. Vì thế cho nên, đối với toàn thể nhân loại, toàn bộ các vụ tình sử là sự nghiêm trọng suy tư về sự cấu tạo thế hệ tương lai, vì từ thế hệ này sẽ tùy thuộc hằng hà sa số thế hệ khác (meditatio compositionis generationis futurae, e qua iterum pendent innumerae generatines). Do đó, ở đây cũng như ở bất cứ trường hợp nào khác, vấn đề chẳng phải là sự hạnh phúc và sự bất hạnh của các cá nhân, mà là sự sống còn và thể cách đặc biệt của nhân loại mai sau, làm sao cho ý chí cá nhân ở vào mức độ cao nhất nó biểu thị như là ý chí của chủng loại: điều này vô cùng quan trọng và là cái xúc động, cái trác tuyệt của mọi tình sử, là cái tính chất siêu việt của những niềm vui sướng và đau khổ của nó, mà các nhà thơ vạn thuở đến nay hằng không ngới mô tả trong không biết bao nhiêu câu chuyện. Không đề tài nào hấp dẫn bằng đề tài này, vì nó liên quan đến cái sướng cái khổ của chủng loại, và do đó liên quan đến mọi đề tài khác dính líu đến cái hạnh phúc riêng của cá nhân, cũng như vật thể liên quan đến bình diện phẳng vậy.

This is why it is so difficult to make a drama interesting if it possesses no love motive; on the other hand, the subject is never exhausted, although it is constantly being utilised.

Vì thế cho nên, một vở tuồng lại thiếu chuyện tình tứ thì không thể hấp dẫn, và cũng vì thế mà đề tài kia không bao giờ nhàm chán, dù được sử dụng hàng ngày.

What manifests itself in the individual consciousness as instinct of sex in general, without being concentrated on any particular individual, is very plainly in itself, in its generalised form, the will to live. On the other hand, that which appears as instinct of sex directed to a certain individual, is in itself the will to live as a definitely determined individual. In this case the instinct of sex very cleverly wears the mask of objective admiration, although in itself it is a subjective necessity, and is, thereby, deceptive. Nature needs these stratagems in order to accomplish her ends. The purpose of every man in love, however objective and sublime his admiration may appear to be, is to beget a being of a definite nature, and that this is so, is verified by the fact that it is not mutual love but possession that is the essential. Without possession it is no consolation to a man to know that his love is requited. In fact, many a man has shot himself on finding himself in such a position. On the other hand, take a man who is very much in love; if he cannot have his love returned he is content simply with possession. Compulsory marriages and cases of seduction corroborate this, for a man whose love is not returned frequently finds consolation in giving handsome presents to a woman, in spite of her dislike, or making other sacrifices, so that he may buy her favour.

Cái gì biểu lộ trong tâm thức cá nhân như là bản năng chủng tính đơn thần mà không nhắm vào một cá nhân nhất định nào thuộc giới kia, cái đó tức là cái muốn-sống nhận thức ở tự nó và ngoài hiện tượng. Nhưng cái gì mà phát hiện như là bản năng hướng về một cá nhân nhất định, cái đó tức là ý chí sống dưới hình thức một cá nhân được xác định rõ ràng. Nhưng, trong trường hợp này, bản năng chủng tính, dù chỉ là nhu cầu chủ thể đơn thuần, thừa biết cách khoác lấy mặt nạ ái mộ khách quan để lừa bịp tương tri, vì bản chất cần sử dụng đến mánh khóe để đạt đến các cứu cánh của mình. Rằng tuy nhiên, dù cho sự ái mộ kia có khách quan và cao cả đến đâu chăng nữa, ở mỗi tình cảm yêu đương thật ra chỉ có ý định tạo ra một cá nhân mang một bản chất nào đó, điều này được xác nhận ngay từ đầu ở chỗ điều thiết yếu chẳng phải là được yêu lại, mà là chiếm được, nghĩa là được lạc hưởng thể xác. Biết chắc được yêu mà thiếu lạc hưởng thể xác thì cũng chẳng vui gì; có lắm kẻ, trong trường hợp này, đã tự bắn vỡ sọ. Trái lại, một kẻ rất si, nếu không tài nào được yêu, chỉ cần được chiếm, nghĩa là được hưởng lạc thú nhục dục. Chứng minh cho điều này là những cuộc hôn nhân cưỡng ép, là người đàn bà, dù nhê tởm, vẫn bán mình lấy những tặng phẩm quý giá hay vì hy sinh này khác, là những vụ hiếp dâm.

The real aim of the whole of love’s romance, although the persons concerned are unconscious of the fact, is that a particular being may come into the world; and the way and manner in which it is accomplished is a secondary consideration.

Rồi một đứa bé nhất định nào đó được tạo ra, đó mới là cái mục đích thực sự, mặc dầu các đương sự không muốn biết đến, của mọi câu chuyện tình, còn cách thức cùng các phương tiện để đạt đến nó là phụ.

However much those of lofty sentiments, and especially of those in love, may refute the gross realism of my argument, they are nevertheless in the wrong. For is not the aim of definitely determining the individualities of the next generation a much higher and nobler aim than that other, with its exuberant sensations and transcendental soap-bubbles? Among all earthly aims is there one that is either more important or greater? It alone is in keeping with that deep-rooted feeling inseparable from passionate love, with that earnestness with which it appears, and the importance which it attaches to the trifles that come within its sphere. It is only in so far as we regard this end as the real one that the difficulties encountered, the endless troubles and vexations endured, in order to attain the object we love, appear to be in keeping with the matter. For it is the future generation in its entire individual determination which forces itself into existence through the medium of all this strife and trouble. Indeed, the future generation itself is already stirring in the careful, definite, and apparently capricious selection for the satisfaction of the instinct of sex which we call love. That growing affection of two lovers for each other is in reality the will to live of the new being, of which they shall become the parents; indeed, in the meeting of their yearning glances the life of a new being is kindled, and manifests itself as a well-organised individuality of the future.

Dù cho các tâm hồn cao thượng và mẫn cảm, nhất là các tâm hồn đa tình, có phẫn nộ trước tính chất thực tế phũ phàng của quan niệm của tôi đến đâu đi nữa, họ vẫn lầm. Vì sự xác định cho đúng cái thế hệ kế tiếp phải chăng lại không là một cứu cánh cao thượng hơn, cao quý hơn là cái cứu cánh của các tình cảm siêu việt của họ và của các bong bóng xà bông vô hình của họ? Thử hỏi, trong các cứu cánh thế tục, còn có cứu cánh nào lại quan trong hơn, lại vĩ đại hơn? Chỉ có mó mới phù hợp với mức sau của tình yêu say đắm, với thái độ nghiêm trọng của tình yêu ấy, với cái quý giá mà tình yêu ấy gán cho cả những cái vụn vặt liên quan đến mình và quy định mình. Chỉ khi nào ta thừa nhận rằng đó là mục đích thực sự của mình thì các khó khăn, các cố gắng và các đau khổ vô hạn để chiếm được người mình yêu mới có vẻ như thích ứng với tình trạng. Vì chính là thế hệ tương lai với tất cả sự nhất quyết cá biệt của nó đòi được ra đời qua các mưu mô và cố gắng ấy. Phải, nó đã tự bộc lộ ngay trong sự lựa chọn rất ư thận trọng, rất ư chính xác, rất ư bướng bỉnh khi người ta tìm sự thỏa mãn bản năng chủng loại mà người ta gọi là ái tình. Thái độ luyến ái gia tăng của đôi nhân tình thực ra đã là ý chí sống của cá nhân mới mà họ có thể và muốn cấu sinh; hơn nữa, sinh tính mới mẻ của nó đã chớm nở ngay khi bốn mắt giao nhau đầy khát vọng, và tự khẳng định như một cái tính mà trong tương lai sẽ điều hòa và chu đáo.

The lovers have a longing to be really united and made one being, and to live as such for the rest of their lives; and this longing is fulfilled in the children born to them, in whom the qualities inherited from both, but combined and united in one being, are perpetuated. Contrarily, if a man and woman mutually, persistently, and decidedly dislike each other, it indicates that they could only bring into the world a badly organised, discordant, and unhappy being. Therefore much must be attached to Calderon’s words, when he calls the horrible Semiramis a daughter of the air, yet introduces her as a daughter of seduction, after which follows the murder of the husband.

Họ cảm thấy muốn phối hợp thực sự, muốn hòa mình thành một thể độc nhất để rồi chỉ sống trong cái thể ấy, và khát vọng của họ được toại khi cá thể do họ cấu tạo được sinh ra và lưu tồn ở nó các đặc tính di truyền của cả hai người pha trộn và hòa hợp vào một cá nhân duy nhất. Ngược lại, sự thù ghét quyết liệt và dai dẳng giữa một người đàn ông và một cô gái cho thấy rằng kẻ mà họ sinh thành không thể gì khác là một kẻ vô tổ chức, thiếu cân đối nội tâm, khốn khổ. Việc Calderon[20], tuy mệnh danh Sémiramis[21] là con gái của không khí, lại giới thiệu nàng như là kết quả của một vụ hiếp dâm sau đó người chồng bị sát hại, do đó có một ý nghĩa sâu sắc.

Finally, it is the will to live presenting itself in the whole species, which so forcibly and exclusively attracts two individuals of different sex towards each other. This will anticipates in the being, of which they shall become the parents, an objectivation of its nature corresponding to its aims. This individual will inherit the father’s will and character, the mother’s intellect, and the constitution of both. As a rule, however, an individual takes more after the father in shape and the mother in stature, corresponding to the law which applies to the offspring of animals.... It is impossible to explain the individuality of each man, which is quite exceptional and peculiar to him alone; and it is just as impossible to explain the passion of two people for each other, for it is equally individual and uncommon in character; indeed, fundamentally both are one and the same. The former is explicite what the latter was implicite.

Nhưng cái gì rốt cuộc thu hút hai cá thể khác giống vào với nhau một cách hết sức mãnh liệt và độc quyền như thế, đó chính là cái muốn-sống hiện tại trong toàn thể chủng loại, nó thực hiện sẵn trước một cuộc khách thể hóa, bản thể của nó phù hợp với các ý định của nó, vào cái cá nhân mà hai con người kia có thể cấu sinh. Vì cá nhân này sẽ thừa hưởng của cha về ý chí hoặc tính tình, của mẹ về trí tuệ, cả hai về thể chất; tuy nhiên, hình dáng thường thì theo cha, vóc vạc thường thì theo mẹ, phù hợp với định luật thường biểu lộ trong việc lấy giống thú vật buộc rằng với vóc vạc của bào thai là tùy ở vóc vạc của tử cung. Tình yêu đắm đuối đặc biệt và cá biệt của đôi nhân tình cũng khó hiểu như cá tính khác biệt và độc đáo của mỗi người vậy; và xét cho cùng thì vấn đề trong hai trường hợp đều chỉ là một: cá tính thì lồ lộ, tình yêu thì ẩn tàng.

We must consider as the origin of a new individual and true punctum saliens of its life the moment when the parents begin to love each other — to fancy each other, as the English appropriately express it. And, as has been said, in the meeting of their longing glances originates the first germ of a new being, which, indeed, like all germs, is generally crushed out. This new individual is to a certain extent a new (Platonic) Idea; now, as all Ideas strive with the greatest vehemence to enter the phenomenal sphere, and to do this, ardently seize upon the matter which the law of causality distributes among them all, so this particular Idea of a human individuality struggles with the greatest eagerness and vehemence for its realisation in the phenomenal. It is precisely this vehement desire which is the passion of the future parents for one another. Love has countless degrees, and its two extremes may be indicated as [Greek: Aphroditae pandaemos] and [Greek: ourania]; nevertheless, in essentials it is the same everywhere.

Đúng ra phải coi cái lúc mà đôi cha mẹ bắt đầu yêu nhau là lúc chớm nở kì thủy của một cá nhân mới và là điểm lộ (punctum saliens) của đời sống hắn, và như tôi từng nói, chính trong khi bốn mắt giao nhau đầy khát vọng và quyến luyến lấy nhau là khi con người mới nẩy mầm; đành rằng thường thì mầm bị hủy hoại, cũng như tất cả các mầm khác. Cá nhân mới này có thể nói là một ý niệm mới (theo Platon); và cũng như mọi ý niệm đều hung hăng muốn biểu hiện thành một hiện tượng bằng cách bấu víu lấy cái vật chất mà luật nhân quả phân phối giữa chúng, thì cái ý niệm đặc biệt của một cá tính người này cũng thế, cũng muốn biểu hiện mình thành hiện tượng một cách hết sức khao khát và mãnh liệt. Thái độ khao khát và mãnh liệt này, chính là tình yêu đắm đuối của cha mẹ tương lai. Tình yêu này gồm hằng hà sa số mức độ, nhưng tựu chung khi nào cũng là một.

According to the degree, on the other hand, it will be the more powerful the more individualised it is — that is to say, the more the loved individual, by virtue of all her qualities, is exclusively fit to satisfy the lover’s desire and needs determined by her own individuality. If we investigate further we shall understand more clearly what this involves.

Trái lại, về mức độ, tình yêu càng mãnh liệt, nếu càng cá biệt hóa nghĩa là cá nhân được yêu, nhờ ở thể chất và các đặc tính của mình, càng có khả năng độc quyền thỏa mãn khát vọng của tình yêu và nhu cầu mà cá tính riêng biệt của người yêu quy định. Nhưng sau đây chúng ta sẽ nhận định rõ hơn điều này.

All amorous feeling immediately and essentially concentrates itself on health, strength, and beauty, and consequently on youth; because the will above all wishes to exhibit the specific character of the human species as the basis of all individuality. The same applies pretty well to everyday courtship ([Greek: Aphroditae pandaemos]). With this are bound up more special requirements, which we will consider individually later on, and with which, if there is any prospect of gratification, there is an increase of passion. Intense love, however, springs from a fitness of both individualities for each other; so that the will, that is to say the father’s character and the mother’s intellect combined, exactly complete that individual for which the will to live in general (which exhibits itself in the whole species) has a longing — a longing proportionate to this its greatness, and therefore surpassing the measure of a mortal heart; its motives being in a like manner beyond the sphere of the individual intellect. This, then, is the soul of a really great passion. The more perfectly two individuals are fitted for each other in the various respects which we shall consider further on, the stronger will be their passion for each other.

Tình ý trước hết và nhất thiết nhằm vào sức khỏe, sức mạnh và sắc đẹp, do đó cũng nhắm vào tuổi trẻ, bởi vì ý chí trước hết, đòi hỏi biểu thị rõ rệt cái đặc tính của nhân loại như là căn bản cho mọi cá tính; chim chuột lăng nhăng không đòi hỏi thế. Sau đó còn có những đòi hỏi đặc biệt hơn, mà chúng ta sẽ luận kĩ hơn, và càng đòi hỏi, mối tình càng tăng, nếu như cái đòi hỏi ấy thấy có cơ được thỏa mãn. Nhưng các mức độ cao nhất của nó nảy sinh từ sự phù hợp giữa hai cá tính với nhau, và nhờ sự phù hợp này mà ý chí, nghĩa là tính tình của người cha và trí tuệ của người mẹ được phối kết để hoàn thành chính cá nhân kia mà cái muốn-sống tự tại, hiện diện ở toàn thể chủng loại, cảm thấy khát khao; ý muốn càng mạnh thì khát khao càng mạnh và do đó vượt qua các giới hạn của trái tim thông thường, vì chưng duyên cớ của nó vượt qua khả năng của trí tuệ cá nhân. Đó là linh hồn của một tình yêu vĩ đại và chân chính. - Và nếu hai cá nhân càng cân xứng, trên các quan điểm này khác mà chúng ta sẽ bàn đến sau, tình yêu nhau lại càng tha thiết.

As there are not two individuals exactly alike, a particular kind of woman must perfectly correspond with a particular kind of man — always in view of the child that is to be born. Real, passionate love is as rare as the meeting of two people exactly fitted for each other. By the way, it is because there is a possibility of real passionate love in us all that we understand why poets have depicted it in their works.

Vì chưng không thể có hai cá nhân hoàn toàn như nhau, nên phải một người đàn bà hẳn như thế nào mới tương xứng hoàn toàn với một người đàn ông hẳn như thế nào, - dĩ nhiên trên phương diện của kẻ được cấu sinh. Mối tình thực sự tha thiết cũng hiếm có như sự gặp gỡ giữa hai người hoàn toàn tương xứng. Nhưng vì dù sao khả tính của một mối tình như thế vẫn hiện diện ở mọi người, nên ta thông cảm được các mối tình diễn tả trong các thi phẩm.

Because the kernel of passionate love turns on the anticipation of the child to be born and its nature, it is quite possible for friendship, without any admixture of sexual love, to exist between two young, good-looking people of different sex, if there is perfect fitness of temperament and intellectual capacity. In fact, a certain aversion for each other may exist also. The reason of this is that a child begotten by them would physically or mentally have discordant qualities. In short, the child’s existence and nature would not be in harmony with the purposes of the will to live as it presents itself in the species.

Vì chưng tình yêu thực ra quan tâm đến cá thể cần cấu sinh cùng các đặc tính của cá thể ấy, và vì chưng đó là bản chất cốt yếu của nó, nên giữa hai người nam nữ đều trẻ đẹp, vì tâm đầu ý hiệp, vì tính tình tương hợp, có thể có một mối tình bạn, chả cứ phải đến tình dục xác thịt mà có khi họ còn ghê tởm tình dục xác thịt là khác. Chứng minh cho điều này là một đứa trẻ do họ cấu sinh có thể có một bản chất không mấy cân đối về thể xác cũng như tinh thần, nội tâm lại là sự hiện hữu cũng như cấu thể của nó không đáp ứng cái cứu cánh của cái muốn-sống, như được biểu thị ở chủng loại.

In an opposite case, where there is no fitness of disposition, character, and mental capacity, whereby aversion, nay, even enmity for each other exists, it is possible for love to spring up. Love of this kind makes them blind to everything; and if it leads to marriage it is a very unhappy one.

Trong trường hợp trái ngược, nghĩa là khi có sự xung khắc về tình cảm, về tính tình cũng như tư tưởng, đến mức còn thù ghét nhau, tình dục xác thịt tuy nhiên vẫn có thể bộc phát và tồn tại; nếu lại mù quáng bất chấp mọi sự kiện khác, nếu lại còn đi đến hôn nhân thì cuộc hôn nhân sẽ là một oan trái.

And now let us more thoroughly investigate the matter. Egoism is a quality so deeply rooted in every personality that it is on egotistical ends only that one may safely rely in order to rouse the individual to activity.

Giờ ta hãy đi sâu vào vấn đề. - Lòng ích kỉ là một đặc tính thâm sâu đến mức mỗi khi muốn thúc đẩy một cá nhân làm gì, chỉ có đưa ra những mục đích ích kỉ mới chắc chắn thúc đẩy nổi họ.

To be sure, the species has a prior, nearer, and greater claim on the individual than the transient individuality itself; and yet even when the individual makes some sort of conscious sacrifice for the perpetuation and future of the species, the importance of the matter will not be made sufficiently comprehensible to his intellect, which is mainly constituted to regard individual ends.

Đành rằng đối với cá nhân chủng loại có một quyền hành cổ sơ hơn, thiết cận hơn và to lớn hơn là chính cái cá tính mong manh; tuy nhiên khi buộc cá nhân phải hao tâm tổn sức và còn phải hy sinh này khác để bảo tồn và duy trì cấu thể của chủng loại, trí tuệ của nó vốn dĩ chỉ thích ứng với những cứu cánh cá nhân, nên khó mà làm cho nó ý thức được tầm quan trọng của mục tiêu để cho nó hành động sao cho phù hợp với mục tiêu ấy.

Therefore Nature attains her ends by implanting in the individual a certain illusion by which something which is in reality advantageous to the species alone seems to be advantageous to himself; consequently he serves the latter while he imagines he is serving himself. In this process he is carried away by a mere chimera, which floats before him and vanishes again immediately, and as a motive takes the place of reality. This illusion is instinct.

Vì thế cho nên, trong trường hợp này, muốn đạt được mục đích, thiên nhiên chỉ có cách nhồi cho cá nhân một ảo tưởng, theo đó cá nhân sẽ coi như là một điều lợi cho chính mình cái gì thực ra chỉ lợi cho chủng loại; như thế cá nhân sẽ phục vụ cho chủng loại mà tưởng đâu rằng phục vụ quyền lợi của chính mình, và nhờ thế mà một ảo ảnh biến ngay sau đó lại vẫn còn phảng phất trong đầu óc nó và trở thành một duyệ cớ thay thế cho thực tại. Ảo tưởng này là bản năng.

In most instances instinct may be regarded as the sense of the species which presents to the will whatever is of service to the species. But because the will has here become individual it must be deceived in such a manner for it to discern by the sense of the individual what the sense of the species has presented to it; in other words, imagine it is pursuing ends concerning the individual, when in reality it is pursuing merely general ends (using the word general in its strictest sense).

Trong đại đa số các trường hợp, ta phải coi bản năng này như là ý thức chủng loại, nó giới thiệu với ý chí những gì có lợi cho chính nó. Nhưng, vì ở đây ý muốn bị cá biệt, nên nó bị lầm và tri giác qua sự trung gian của cá nhân, những gì mà ý thức chủng loại biểu thị cho nó, và do đó nó tưởng rằng mình theo đuổi các mục đích cá nhân, trong khi chính ra nó chỉ thực hiện những mục đích chủng loại (ở đây chữ này được dùng theo nghĩa đen).

Outward manifestation of instinct can be best observed in animals, where the part it plays is most significant; but it is in ourselves alone that we can get to know its internal process, as of everything internal. It is true, it is thought that man has scarcely any instinct at all, or at any rate has only sufficient instinct when he is born to seek and take his mother’s breast. But as a matter of fact man has a very decided, clear, and yet complicated instinct — namely, for the selection, both earnest and capricious, of another individual, to satisfy his instinct of sex.

Ta thấy rõ được ngoại diện của bản năng hơn ở các thú vật, vì ở thú vật bản năng đóng một vai trò quan trong nhất; nhưng ta chỉ có thể tìm hiểu cơ cấu nội tại của bản năng ở ngay chính ta, cũng như mọi cái nội tại. Chắc ai cũng đồng ý rằng con người hầu như không có bản năng, ngoại trừ bản năng thúc đẩy đứa bé quơ lấy vú mẹ. Nhưng thật ra chúng ta có một bản năng rất chính xác, rất phức tạp là khác, nó điều khiển sự lựa chọn một các hết sức tế nhị, hết sức sang trọng và hết sức bền bỉ một cá nhân khác để thỏa mãn nhu cầu dục tính.

The beauty or ugliness of the other individual has nothing whatever to do with this satisfaction in itself, that is in so far as it is a matter of pleasure based upon a pressing desire of the individual. The regard, however, for this satisfaction, which is so zealously pursued, as well as the careful selection it entails, has obviously nothing to do with the chooser himself, although he fancies that it has. Its real aim is the child to be born, in whom the type of the species is to be preserved in as pure and perfect a form as possible. For instance, different phases of degeneration of the human form are the consequences of a thousand physical accidents and moral delinquencies; and yet the genuine type of the human form is, in all its parts, always restored; further, this is accomplished under the guidance of the sense of beauty, which universally directs the instinct of sex, and without which the satisfaction of the latter would deteriorate to a repulsive necessity. Accordingly, every one in the first place will infinitely prefer and ardently desire those who are most beautiful — in other words, those in whom the character of the species is most purely defined; and in the second, every one will desire in the other individual those perfections which he himself lacks, and he will consider imperfections, which are the reverse of his own, beautiful. This is why little men prefer big women, and fair people like dark, and so on. The ecstasy with which a man is filled at the sight of a beautiful woman, making him imagine that union with her will be the greatest happiness, is simply the sense of the species. The preservation of the type of the species rests on this distinct preference for beauty, and this is why beauty has such power.

Cái xấu hay cái đẹp của cá nhân kia không liên quan gì đến sự thỏa mãn ấy, nghĩa là sự khoái lạc nhục dục dựa vào một nhu cầu khẩn thiết của cá nhân. Tuy nhiên, sự vội vã lo tìm thỏa mãn và sự lựa chọn hết sức ân cần đó quả không liên quan đên kẻ lựa chọn, dù rằng hắn liên quan đến mục đích chính thực, đến cá thể được cấu sinh, cá thể mà ở nó tiêu thức chủng loại phải được lưu tồn sao cho thật thuần túy, thật chính cống. Thật vậy, hình dáng con người có nhiều nét quái dị do các ngẫu nhiên thể chất và các xung khắc tinh thần phát sinh, tuy nhiên tiêu thức thực sự của nó vẫn đầy đủ bộ phận; đó cũng do theo chỉ thị của mỹ cảm nó thường điều khiển bản năng chủng tính, và thiếu nó bản năng này chỉ còn là một nhu cầu ghê tởm. Vì thế cho nên thoạt đầu không ai không thích và thèm muốn một cách háo hức những cá nhân xinh đẹp nhất, nghĩa là những cá nhân mà ở đó nét đặc tính được biểu lộ thuần túy nhất; nhưng sau đó người ta lại đòi hỏi ở cá nhân kia nhất là những nét hoàn hảo mà chính người ta không có; người ta lại thấy là đẹp những khuyết điểm trái ngược với những khuyết điểm của chính mình; vì thế mà chẳng hạn những ông nhỏ thó lại thích các bà đẫy đà, các chàng tóc vàng lại ưa các nàng tóc nâu, v.v... Thái độ ngây ngất choáng váng của một người khi thấy một người đàn bà có vẻ đẹp tương ứng với bản chất của mình và ước ao được vầy duyên cá nước với người ta và cho đó là diễm phúc nhất của đời mình, đúng ra chỉ là ý thức chủng loại vì nhận ra cái dấu hiệu sắc nét của chủng loại nên muốn lưu tồn cái dấu hiệu ấy với người đàn bà kia. Sự bảo tồn tiêu thức đặc biệt dựa vào cái khuynh hướng chuộng mộ cái đẹp này; vì thế cho nên cái khuynh hướng này mới tác động mạnh mẽ như thế. -

We will later on more fully state the considerations which this involves. It is really instinct aiming at what is best in the species which induces a man to choose a beautiful woman, although the man himself imagines that by so doing he is only seeking to increase his own pleasure. As a matter of fact, we have here an instructive solution of the secret nature of all instinct which almost always, as in this case, prompts the individual to look after the welfare of the species. The care with which an insect selects a certain flower or fruit, or piece of flesh, or the way in which the ichneumon seeks the larva of a strange insect so that it may lay its eggs in that particular place only, and to secure which it fears neither labour nor danger, is obviously very analogous to the care with which a man chooses a woman of a definite nature individually suited to him. He strives for her with such ardour that he frequently, in order to attain his object, will sacrifice his happiness in life, in spite of all reason, by a foolish marriage, by some love-affair which costs him his fortune, honour, and life, even by committing crimes. And all this in accordance with the will of nature which is everywhere sovereign, so that he may serve the species in the most efficient manner, although he does so at the expense of the individual.

Rồi đây ta sẽ xem xét những lý do gì đã gợi hứng nó. Vậy cái gì, trong địa hạt này, hướng dẫn con người ta, cái đó đúng là một bản năng nhằm làm lợi cho chủng loại, trong khi con người ta tưởng đâu chỉ tìm gia tăng khoái lạc cho chính mình. - Thật ra đây là những điều chỉ dẫn cho ta biết về yếu tính của mọi bản năng, như trong trường hợp này, khi nào thúc đẩy cá nhân hành động có lợi cho chủng loại. Vì, thử xem một con côn trùng chịu khó đi tìm cho được một loại hoa nào đó, hay loại phân nào đó, hay loại thịt nào đó, hay như con tò vò đi tìm một loại bọ nào đó để đẻ trứng bất chấp hiểm nguy hay khó nhọc, thái độ của nó cũng giống đúc như thái độ của người đàn ông để thỏa mãn bản năng tính dục của mình cố lựa sao cho được một người đàn bà có một bản chất như thế nào đó, một bản chất tương ứng với bản chất mình, và tha thiết đi tìm đến nỗi để đạt mục đích, thường bất chấp mọi lẽ phải trái, lấy cho được để rồi khổ cả một đời, không từ mọi thủ đoạn có thể tiêu tan cả sự nghiệp, danh vọng, đời sống, dám phạm những tội ác như gian dâm và hiếp dâm, - tất cả chỉ vì, chỉ để phục vụ cho chủng loại bằng một cách thích hợp nhất và phù hợp với ý chí ngự trị khắp nơi của thiên nhiên, mặc dù làm thế là tai hại cho cá nhân.

Instinct everywhere works as with the conception of an end, and yet it is entirely without one. Nature implants instinct where the acting individual is not capable of understanding the end, or would be unwilling to pursue it. Consequently, as a rule, it is only given prominently to animals, and in particular to those of the lowest order, which have the least intelligence. But it is only in such a case as the one we are at present considering that it is also given to man, who naturally is capable of understanding the end, but would not pursue it with the necessary zeal — that is to say, he would not pursue it at the cost of his individual welfare. So that here, as in all cases of instinct, truth takes the form of illusion in order to influence the will.... All this, however, on its part throws light upon the instinct of animals.

Thật vậy, đâu đâu bản năng cũng tác động như thể theo khái niệm của một cứu cánh, trong khi khái niệm không hề được đề ra. Khi mà cá nhân tác động không hiểu nổi mục đích của mình hay ngại ngùng theo đuổi mục đích ấy thì thiên nhiên đưa bản năng ra; vì vật mà theo thói thường, bản năng được gán cho các thú vật, nhất là cho các chủng loại thấp kém ít lý trí hơn cả; nhưng bản năng chỉ được gán cho con người trong cái trường hợp hiện đang cứu xét đây thôi, vì con người có thể hiểu mục đích, nhưng không theo đuổi mục đích với một mức tha thiết cần thiết, nghĩa là chưa hy sinh cái hạnh phúc riêng tư của mình. Vì vậy, cũng như mọi bản năng, chân lý ở đây mang hình thức ảo tưởng để ảnh hưởng ý chí… Tuy nhiên, tất cả điều này, về phần mình soi sáng cho các bản năng của động vật.

They, too, are undoubtedly carried away by a kind of illusion, which represents that they are working for their own pleasure, while it is for the species that they are working with such industry and self-denial. The bird builds its nest; the insect seeks a suitable place wherein to lay its eggs, or even hunts for prey, which it dislikes itself, but which must be placed beside the eggs as food for the future larvae; the bee, the wasp, and the ant apply themselves to their skilful building and extremely complex economy. All of them are undoubtedly controlled by an illusion which conceals the service of the species under the mask of an egotistical purpose.

Chúng, chắc chắn mang đi bởi một loại ảo giác, thể hiện rằng chúng đang làm việc cho niềm vui riêng của mình, trong khi không phải vì chủng loại chúng đang làm việc với sự siêng năng quên mình. Chim xây dựng làm tổ, côn trùng tìm kiếm một nơi thích hợp để đẻ trứng, hoặc thậm chí săn mồi, mà nó ghét, nhưng phải được đặt bên cạnh trứng làm thức ăn cho ấu trùng trong tương lai, ong, ong bắp cày, kiến tham gia vào việc xây tổ khéo léo và nền kinh tế vô cùng phức tạp. Tất cả chúng chắc chắn được điều khiển bởi một ảo tưởng che giấu nhiệm vụ của chủng loại dưới mặt nạ của một mục đích tự cao.


Chính một ảo ảnh khoái lạc đã lừa bịp người ta, khiến người ta tưởng rằng mình sẽ tìm thấy trong vòng tay của một người đàn bà mà sắc đẹp làm mình ưa thích, một khoái cảm lớn hơn là trong vòng tay của một người đàn bà khác; hoặc khiến người ta tin chắc rằng sự chiếm được một cá nhân độc nhất, mà chỉ mình chiếm độc quyền, sẽ đưa lai cho mình cái hạnh phúc tột độ. Rồi người ta tưởng đâu rằng mình đang vận dụng hết nỗ lực và hy sinh cho khoái lạc của riêng mình, trong khi tất cả sở dĩ xảy ra cũng chỉ là để lưu tồn tiêu thức bình thường của chủng loại, hoặc còn để cho ra đời một cá tính hoàn toàn xác định mà chỉ có đôi cha mẹ ấy mới cấu sinh được.


Đặc tính của bản năng, nghĩa là một hoạt động hầu như lệ thuộc cho ý niệm về một cứu cánh trong khi cứu cánh thực sự không có, ở đây khẳng định rõ rệt đến nỗi kẻ bị ảo tưởng kia lôi cuốn thường cũng ghê tởm cái mục đích duy nhất lôi kéo nó, tức là sự cấu sinh, và muốn ngăn chặn không cho mục đích thực hiện: điều này được thấy trong tất cả các mối tình thầm lén. Theo đặc tính của tình yêu mô tả trên đây, sau khi đã được thỏa mãn tình yêu, người ta cảm thấy thất vọng lạ lùng và lấy làm lạ là chỉ tìm thấy trong sự chiếm hữu một khách thể mà người ta hằng khát khao thèm muốn chả có gì khác bất cứ mọi sự thỏa mãn tính dục nào, khiến người ta cảm thấy cũng chẳng được thêm gì hơn.

This is probably the only way in which to make the inner or subjective process, from which spring all manifestations of instinct, intelligible to us. The outer or objective process, however, shows in animals strongly controlled by instinct, as insects for instance, a preponderance of the ganglion — i.e., subjective nervous system over the objective or cerebral system. From which it may be concluded that they are controlled not so much by objective and proper apprehension as by subjective ideas, which excite desire and arise through the influence of the ganglionic system upon the brain; accordingly they are moved by a certain illusion....

Đây có lẽ là cách duy nhất để làm cho quá trình nội tại hoặc chủ quan, mà từ đó trổi dậy tất cả các biểu hiện của bản năng, trở nên hiểu được đối với chúng ta. Quá trình bên ngoài hoặc khách quan, tuy vậy, cho thấy ở động vật bị kiểm soát bởi mạnh mẽ bản năng, như côn trùng ví dụ, một ưu thế vượt trội của cavs hạch - tức là hệ thống thần kinh chủ quan so với hệ thống khách quan hay hệ thống não. Từ đó có thể kết luận rằng chúng được kiểm soát không quá nhiều bởi sự e ngại khách quan đúng đắn cũng như bởi các ý tưởng chủ quan mà kích thích ham muốn và phát sinh thông qua các ảnh hưởng của hệ thống hạch lên hệ thống não, phù hợp với việc chúng bị xúc động bởi một ảo tưởng nào đó ...


Thật vậy, cái thèm khát này đối với mọi cái thèm khát khác của người ta cũng như chủng loại đối với cá nhân, do đó cũng như vô tận. Thật ra, sự thỏa mãn chỉ có lợi cho chủng loại, và vì thế không có thâm nhập ý thức của cá nhân vốn dĩ tác động theo ý chí của chủng loại, nên đã phục vụ bằng cách tự hy sinh cho một mục đích chẳng phải là mục đích của chính mình. Vì vậy mà sau khi hoàn tất đại công trình rồi, kẻ yêu cảm thấy mình bị lừa bịp, vì ảo ảnh đã biến mất, cái ảo ảnh nó làm cá nhân thành cái bung xung của chủng loại. Vì thế cho nên Platon đã rất đúng khi ông nói: Voluptas omniun maxime vaniloqua (Khoái lạc là huyễn hoặc hơn hết trong mọi sự).


Đó chắc chắn là con đường huy nhất cho ta nhận thức được quá trình nội tại hay chủ quan nằm tại nguồn các biểu thị của bản năng. Nhưng bề ngoài, hay khách quan, người ta nhận thất ở các con vật sự tuân phục bản năng nhất, một sự ưu thế trội hẳn của hệ thống hạch, tức là thần kinh hệ vốn dĩ chủ quan, đối với hệ thống khách quan hay não; do đó người ta có thể kết luận rằng các thú vật bị hướng dẫn không phải do các thẩm định khách quan và xác đáng, nhưng do các biểu tượng chủ quan phát sinh ra dục vọng, những biểu tượng chủ quan phát sinh do tác động của hệ thống hạch lên óc, do đó, chúng bị một ảo tưởng nào đó chi phối; đó là quá trình sinh lý của mọi bản năng. Để chú giải cho các quan niệm này, tôi xin đề ra một tỷ dụ khác, mặc dầu kém minh xác hơn, về bản năng ở con người; đó là chứng ăn dở ở người đà bà có thai; nguyên nhân của chứng này hầu như vì sự duy dưỡng bào thai, đôi khi đòi hỏi một sự thay đổi đặc biệt hay nhất định nào đó của cái máu huyết mà nó thụ nhận; nên cái thức ăn nó phát sinh ra sự thay đổi ấy tức thời thúc đẩy người đàn bà phải thèm khát nó; ở đây cũng lại là một ảo ảnh phát hiện. Do đó, người đàn bà có hơn người đàn ông một bản năng; vả lại, ở họ, hệ thống hạch cũng phát triển hơn.

The great preponderance of brain in man accounts for his having fewer instincts than the lower order of animals, and for even these few easily being led astray. For instance, the sense of beauty which instinctively guides a man in his selection of a mate is misguided when it degenerates into the proneness to pederasty. Similarly, the blue-bottle (Musca vomitoria ), which instinctively ought to place its eggs in putrified flesh, lays them in the blossom of the Arum dracunculus, because it is misled by the decaying odour of this plant. That an absolutely generic instinct is the foundation of all love of sex may be confirmed by a closer analysis of the subject — an analysis which can hardly be avoided.

Khối óc con người vốn lơn, nên con người có ít bản năng hơn các thú vật và đã thế các bản năng ít ỏi ấy lại dễ lầm lẫn. Vì vậy mà mỹ cảm vốn là bản năng điều khiển sự lựa chọn khi cần thỏa mãn tính dục, có khi lầm đường và trở thành xu hướng đồng tính gian dâm. Trường hợp này cũng tương tự như trường hợp con nhặng xanh (musca vomitoria) thay vì đẻ trứng, theo như bản năng của nó, trên thịt thối lại đẻ trên hoa cây Xác chết (Arum dracunculus) chỉ vì lầm mùi xác chết của giống hoa này. Một cuộc phân tích chính xác hơn về bản năng này, hẳn chứng minh đầy đủ cho các quan niệm bảo rằng nền tảng của mọi cuộc tình ái là một bản năng hoàn toàn hướng về cá thể được cấu sinh, và vì thế, ta không thể không làm cuộc phân tích ấy.

In the first place, a man in love is by nature inclined to be inconstant, while a woman constant. A man’s love perceptibly decreases after a certain period; almost every other woman charms him more than the one he already possesses; he longs for change: while a woman’s love increases from the very moment it is returned. This is because nature aims at the preservation of the species, and consequently at as great an increase in it as possible.... This is why a man is always desiring other women, while a woman always clings to one man; for nature compels her intuitively and unconsciously to take care of the supporter and protector of the future offspring. For this reason conjugal fidelity is artificial with the man but natural to a woman. Hence a woman’s infidelity, looked at objectively on account of the consequences, and subjectively on account of its unnaturalness, is much more unpardonable than a man’s.

Vậy trước hết ta phải nói rằng trên phương diện tình ái, bản chất người đàn ông thiên về bất nhất, bản chất người đàn bà thiên về như nhất. Tình yêu của người đàn ông phai lạt trông thấy ngay từ lúc vừa được thỏa mãn; hầu hết những người đàn bà khác thu hút hắn còn hơn là người đàn bà mà hắn đã chiếm được, và hắn mong được thay đổi. Trái lại, tình yêu của người đàn bà lại gia tăng chính từ lúc ấy. Đó là một hậu quả của ý định của thiên nhiên nhắm vào sự lưu tồn, và do đó vào sự gia tăng chủng loại càng nhiều càng hay. Vì người đàn ông có thể cấu sinh trên hàng trăm đứa con một năm, nếu như đi lại với trên hàng trăm người đàn bà; còn người đàn bà dù có đi lại với bao nhiêu người đàn ông chăng nữa, trong một năm cũng chỉ sinh được một đứa con (không kể sinh đôi). Vì thế cho nên người đàn ông khi nào cũng đi tìm những người đàn bà khác, trong khi người đàn bà lại quyến luyến một người đàn ông duy nhất; vì bản chất tự nhiên thúc đẩy mà chả cần phải suy nghĩ họ phải giữ lấy cho họ cái người nuôi dưỡng và bảo vệ cho dòng giống tương lai. Vì vậy, ở người đàn ông, lòng chung thủy có tính chất giả tạo, ở người đàn bà, là lẽ dĩ nhiên, và cũng vì thế tội ngoại tình ở người đàn bà khó tha thứ hơn ở người đàn ông nhiều, cả về phương diện khách quan, vì các hậu quả của nó, cũng như về phương diện chủ quan, vì nó trái với thiên nhiên.

In order to be quite clear and perfectly convinced that the delight we take in the other sex, however objective it may seem to be, is nevertheless merely instinct disguised, in other words, the sense of the species striving to preserve its type, it will be necessary to investigate more closely the considerations which influence us in this, and go into details, strange as it may seem for these details to figure in a philosophical work. These considerations may be classed in the following way:— Those that immediately concern the type of the species, id est, beauty; those that concern other physical qualities; and finally, those that are merely relative and spring from the necessary correction or neutralisation of the one-sided qualities and abnormities of the two individuals by each other. Let us look at these considerations separately.

Nhưng để cho được đầy đủ và để hoàn toàn tin chắc rằng cái khoái lạc mà giới kia đưa lại, dù cho có vẻ khách quan cách mấy, chẳng qua cũng chỉ là bản năng trá hình, nghĩa là ý thức chủng loại li bải tồn tiêu thức của mình, ta cần cứu xét thật kỹ những điều gì đã hướng dẫn ta về cái khoái lạc ấy và bàn rộng hơn về những điều ấy có gì là đặc biệt; mặc dầu rằng trong một triết phẩm mà lại đề cập đến những điều chuyên biệt như thế. Các điều ấy được phân làm nhiều loại: loại liên quan trực tiếp đến tiêu thức loại thuộc, nghĩa là sắc đẹp, loại liên quan đến các đặc tính tâm linh, sau hết loại liên thuần túy tương đối đáp ứng nhu cầu sửa chữa hay trung hòa các khiếm khuyết hay dị trạng của đôi cá nhân giữa nhau. Ta hãy xem xét chúng một cách tường tận hơn.

The first consideration that influences our choice and feelings is age....

Điều căn bản chi phối sự lựa chọn và khuynh hướng là tuổi tác. Trên tổng quát, ta nghiên cứu những năm bắt đầu có kinh đến năm mãn kinh, và tất nhiên chú trọng nhất đến thời kì từ mười tám đến hai mươi tám. Ngoài tuổi này, không một người đàn bà nào có thể thu hút chúng ta. Một người đàn bà có tuổi, nghĩa là đã mãn kinh, chỉ còn làm ta ghê tởm.

Dù không đẹp, tuổi trẻ khi nào cũng duyên dáng; đẹp mà không còn trẻ cũng hết duyên. - Vì thế cái ý định vô thức hướng dẫn ta hiển nhiên là cái khả năng thụ thai; bởi vậy cho nên người ta mất hết duyên đối với giới kia khi người ta không còn ở vào cái thời kỳ khả dĩ dễ sinh sản và dễ thụ thai.

The second consideration is that of health: a severe illness may alarm us for the time being, but an illness of a chronic nature or even cachexy frightens us away, because it would be transmitted.

- Điều thứ hai là sức khỏe; các chứng bệnh cấp phát chỉ đưa lại một sự biến đổi nhất thời, các chứng bệnh kinh niên thì lâu hơn, còn các chứng bệnh suy nhược thì làm ghê tởm, - vì chúng di truyền lại đứa bé.

The third consideration is the skeleton, since it is the foundation of the type of the species. Next to old age and disease, nothing disgusts us so much as a deformed shape; even the most beautiful face cannot make amends for it — in fact, the ugliest face combined with a well-grown shape is infinitely preferable. Moreover, we are most keenly sensible of every malformation of the skeleton ; as, for instance, a stunted, short-legged form, and the like, or a limping gait when it is not the result of some extraneous accident: while a conspicuously beautiful figure compensates for every defect. It delights us. Further, the great importance which is attached to small feet! This is because the size of the foot is an essential characteristic of the species, for no animal has the tarsus and metatarsus combined so small as man; hence the uprightness of his gait: he is a plantigrade. And Jesus Sirach has said17 (according to the improved translation by Kraus), “A woman that is well grown and has beautiful feet is like pillars of gold in sockets of silver.” The teeth, too, are important, because they are essential for nourishment, and quite peculiarly hereditary.

- Điều thứ ba là xương cốt, vì nó là căn bản của tiêu thức loại thuộc. Sau tuổi tác và bệnh tật, không gì là ta ghê tởm bằng một thân hình xấu xí; dù diện mạo có đẹp cách mấy cũng không bù lại được khuyết điểm này, và người ta thích thà là có thân hình đẹp thì mặt xấu mấy cũng tạm được đi. Hơn nữa ta rất dễ gai mắt trước một vóc vạc so le, chẳng hạn một thân hình cằn cỗi, loắt choắt, cẳng ngắn ngủn, hay khập khiễng khi không phải vì một tai nan ngoại lai. Trái lại, một thân hình tuyệt mỹ có thể bù lại mọi khuyết điểm, ta bị nó quyến rũ. Thiết tưởng ở đây cũng nên nhắc đến điều là người ta rất chú ý đến đôi chân nhỏ, vì không một con vật nào lại có xương cổ chân với xương bàn chân nhỏ như người, điều có liên quan đến thế đứng thẳng: người là một con vật đi bằng bàn chân. Cho nên trong Kinh thánh có nói: “Một người đàn bà có thân hình cân đối và đôi chân đẹp cũng tựa như đôi cột vàng đặt lên bệ bạc!” Răng cũng quan trọng, vì cần thiết cho sự dinh dưỡng và cấu thể của nó lại đặc biệt di truyền.

The fourth consideration is a certain plumpness, in other words, a superabundance of the vegetative function, plasticity.... Hence excessive thinness strikingly repels us.... The last consideration that influences us is a beautiful face. Here, too, the bone parts are taken into account before everything else. So that almost everything depends on a beautiful nose, while a short retroussé one will mar all. A slight upward or downward turn of the nose has often determined the life’s happiness of a great many maidens; and justly so, for the type of the species is at stake.

- Điều thứ tư là da thịt phải đầy đặn đến một mức nào, nghĩa là phải biểu lộ cơ năng dinh dưỡng, phải mềm dẻo; thật vậy, da thịt có thế mới nuôi bào thai được dồi dào, bởi vậy cho nên cái gày đét làm cho ta ghê tởm. Đôi vú nở nang đầy đặn của người đàn bà thu hút nam giới một cách kỳ lạ, vì nó liên quan trực tiếp đến cơ năng sinh sản của người đàn bà, nó hứa hẹn cho hài nhi một sự bú mớm ngon lành. Trái lại, đàn bà phì nộn quá đáng làm ta kinh tởm; nguyên nhân chỉ vì phì nộn là triệu trứng tử cung teo tóp, tức là bất thụ, - điều mà bản năng biết, chứ tri thức không biết. - Mặt đẹp chỉ là điều chót của mấy điều. Ở đây nữa, cái đáng kể trước hết vẫn là những bộ phận xương; cho nên người ta cần trước nhất một cái mũi đẹp: mũi đã ngắn lại xếch là hỏng bét. Sống mũi hơi cong ở trên hay ở dưới từng đưa lại hạnh phúc cho không biết bao nhiêu là thiếu nữ, và đưa lại là đáng, vì đó là điều quan trọng cho tiêu thức loại thuộc.

A small mouth, by means of small maxillae, is very essential, as it is the specific characteristic of the human face as distinguished from the muzzle of the brutes. A receding, as it were, a cut-away chin is particularly repellent, because mentum prominulum is a characteristic belonging exclusively to our species.

Miệng nhỏ, nhờ hàm nhỏ, là đặc nét thiết yếu cho nhân diện khiến nó khác hẳn mõm thú. Cằm lẹm, có thể nói là không cằm, thì thật ghê tởm; bởi vì cằm dô (mentum pominulum) là đặc tính riêng biệt cho chủng loại chúng ta.

Finally, we come to the consideration of beautiful eyes and a beautiful forehead; they depend upon the psychical qualities, and in particular, the intellectual, which are inherited from the mother. The unconscious considerations which, on the other hand, influence women in their choice naturally cannot be so accurately specified. In general, we may say the following:— That the age they prefer is from thirty to thirty-five. For instance, they prefer men of this age to youths, who in reality possess the highest form of human beauty.

Sau hết là vẻ đẹp của mắt và trán; nó liên quan đến các đặc tính tâm linh, và nhất là trí tuệ, và thừa hưởng được ở người mẹ. Dĩ nhiên ta không thể vạch ra cũng rõ ràng được như thế các điều nhận xét vô thức mà sở thích của người đàn bà noi theo. Đại khái ta chỉ biết rằng: đàn bà thích đàn ông từ ba mươi đến ba mươi lăm, mà họ còn đặc biệt đặt lên trên cả thanh niên, mặc dầu thanh niên thật ra là hình ảnh của cái đẹp hoàn hảo nhất của con người.

The reason for this is that they are not guided by taste but by instinct, which recognises in this particular age the acme of generative power. In general, women pay little attention to beauty, that is, to beauty of face; they seem to take it upon themselves alone to endow the child with beauty. It is chiefly the strength of a man and the courage that goes with it that attract them, for both of these promise the generation of robust children and at the same time a brave protector for them. Every physical defect in a man, any deviation from the type, a woman may, with regard to the child, eradicate if she is faultless in these parts herself or excels in a contrary direction. The only exceptions are those qualities which are peculiar to the man, and which, in consequence, a mother cannot bestow on her child; these include the masculine build of the skeleton, breadth of shoulder, small hips, straight legs, strength of muscle, courage, beard, and so on. And so it happens that a woman frequently loves an ugly man, albeit she never loves an unmanly man, because she cannot neutralise his defects.

Lý do là vì họ không phải được điều khiển theo thẩm mỹ, mà theo bản năng nó thừa nhận ở cái tuổi kia là tột độ của năng lực di truyền. Vả lại họ không bận tâm mấy đến sắc đẹp, nhất là sắc đẹp của diện mạo, giống như thể sắc đẹp của đứa con là của riêng phần họ lo liệu. Cái hấp dẫn họ trước hết là sức lực và lòng can đảm đi đôi với sức lực: vì các đặc tính này hứa hẹn cấu sinh những đứa con cường tráng và đồng thời một người bảo vệ dũng cảm cho chúng. Khi thụ thai, người đàn bà có thể hủy bỏ ở đứa trẻ từng khuyết điểm hình thể một của người đàn ông, từng sự chênh lệch một đối với tiêu thức, nhờ ở điều chính họ không có những khuyết điểm ấy, hoặc lại có những khuyết điểm trái ngược. Ngoài khả năng này là những đặc tính riêng biệt của nam giới mà người mẹ do đó không thể truyền cho đứa bé được; chẳng hạn như vóc vạc đàn ông, vai rộng, mông hẹp, chân thẳng, sức mạnh bắp thịt, can đảm, râu ria, v.v... Do đó, đàn bà thường hay yêu những người đàn ông diện mạo xấu xí, nhưng không bao giờ yêu những người đàn ông thiếu các đặc tính hùng dũng; vì họ không thể trung hòa các khiếm khuyết của hạng đàn ông này.

The second class of considerations that are the source of love are those depending on the psychical qualities. Here we shall find that a woman universally is attracted by the qualities of a man’s heart or character, both of which are inherited from the father. It is mainly firmness of will, determination and courage, and may be honesty and goodness of heart too, that win a woman over; while intellectual qualifications exercise no direct or instinctive power over her, for the simple reason that these are not inherited from the father. A lack of intelligence carries no weight with her; in fact, a superabundance of mental power or even genius, as abnormities, might have an unfavourable effect. And so we frequently find a woman preferring a stupid, ugly, and ill-mannered man to one who is well-educated, intellectual, and agreeable. Hence, people of extremely different temperament frequently marry for love — that is to say, he is coarse, strong, and narrow-minded, while she is very sensitive, refined, cultured, and aesthetic, and so on; or he is genial and clever, and she is a goose.

Sic visum Veneri; cui placet impares
Formas atque animos sub juga aënea
Saevo mittere cum joco.

Loại nhận xét thứ hai dùng làm căn bản cho tình yêu là loại liên quan đến các đặc tính tâm linh. Trên quan điểm này, ta nhận thấy rằng đàn bà thường mê đàn ông vì những đức tính tâm hồn và tính tình, những đức tính thừa hưởng được ở người cha. Trước hết, cái quyến rũ người đàn bà là ý chí cương quyết, quyết đoán và can đảm, có lẽ cả lòng ngay thật và lòng nhân từ. Trái lại, các lợi điểm trí tuệ không có hấp lực trực tiếp và bản năng đối với họ, chính vì các lợi điểm này không phải của người cha đưa lại. Gần đàn bà, thiếu thông minh không có hại, mà tài cao trí cả phi thường, hoặc ngay cả thiên tài thường bị họ sẵn sàng ngộ nhận là quái trạng, lại còn gây nhiều bất lợi là đằng khác. Vì vậy mà người ta thường thấy một kẻ xấu xí, ngu đần và thô lỗ, lại có duyên với đàn bà hơn là một người tướng mạo khôi ngô, tài trí và khả ái. Hơn nữa, các cuộc hôn nhân vì tình thường diễn ra giữa những người rất dị biệt về trí tuệ; chẳng hạn người chồng thì cục cằn, vạm vỡ và đần độn, người vợ lại tế nhị, tinh anh, có văn hóa, chuộng đẹp, v.v.., hoặc chàng thì lỗi lạc phi phàm, còn nàng thì khờ dại ngới ngẩn...

Sic visum Veneri, cui placet impares Formas atque animos sub juga aenea Saevo mittere cum joco (Vệ nữ nhận định tư thế rồi buông mình say sưa cuồng loạn sống dưới cái ách thép của những hình thể và tâm hồn ô hợp).

The reason for this is, that she is not influenced by intellectual considerations, but by something entirely different, namely, instinct. Marriage is not regarded as a means for intellectual entertainment, but for the generation of children; it is a union of hearts and not of minds. When a woman says that she has fallen in love with a man’s mind, it is either a vain and ridiculous pretence on her part or the exaggeration of a degenerate being. A man, on the other hand, is not controlled in instinctive love by the qualities of the woman’s character ; this is why so many a Socrates has found his Xantippe, as for instance, Shakespeare, Albrecht Dürer, Byron, and others.

Nguyên nhân là vì ở đây những quan điểm không phải là trí tuệ đã thắng thế, mà đó là những quan điểm bản năng. Trong cuộc hôn nhân, điều đáng kể chẳng phải là nói hay tán khéo, mà là cấu sinh con cái; hôn nhân là sợi dây ràng buộc các con tim, không phải các khối óc. Khi bảo rằng mình mê một người đàn ông tài trí, người đàn bà đã tự phụ rởm, đã tự dối hão, hoặc đó chỉ là sự bồng bột của một kẻ biến tính. - Trái lại, người đàn ông không yêu theo bản năng dựa vào các tính nết của người đàn bà; vì thế mà biết bao nhiêu Socrate đã gặp phải một bà vợ Xanthippe[22], chẳng hạn Shakepeare, Albert Durer, Byron, v.v...

But here we have the influence of intellectual qualities, because they are inherited from the mother; nevertheless their influence is easily overpowered by physical beauty, which concerns more essential points, and therefore has a more direct effect. By the way, it is for this reason that mothers who have either felt or experienced the former influence have their daughters taught the fine arts, languages, etc., so that they may prove more attractive. In this way they hope by artificial means to pad the intellect, just as they do their bust and hips if it is necessary to do so. Let it be understood that here we are simply speaking of that attraction which is absolutely direct and instinctive, and from which springs real love. That an intelligent and educated woman esteems intelligence and brains in a man, and that a man after deliberate reasoning criticises and considers the character of his fianceé, are matters which do not concern our present subject. Such things influence a rational selection in marriage, but they do not control passionate love, which is our matter.

Nhưng ở đây, chính các đặc tính trí tuệ tác động, vì chính tùy thuộc di sản của mẹ; tuy nhiên ảnh hưởng của chúng có phần lùi bước trước ảnh hưởng của sắc đẹp thể xác vốn có liên hệ đến những điểm thiết yếu hơn nên do đó tác động cấp thời hơn. Vì vậy mà các bà mẹ, được thúc đẩy do trực giác hay do kinh nghiệm về ảnh hưởng này, cho con gái học hỏi các ngành mỹ thuật, sinh ngữ, v.v... để thêm phần hấp dẫn trước nhãn quan của đàn ông; họ muốn hỗ trợ trí tuệ bằng những phương tiện giả tạo, cũng như khi cần đến bằng mông bằng vú. - Nên nhớ rằng ở đây chỉ toàn là vấn đề thu hút hoàn toàn cấp thời, hoàn toàn bản năng, phát sinh ra cái tình cảm yêu đương thực thụ. Rằng một người đàn bà khôn ngoan hiểu biết quý chuộng một người đàn ông ở chỗ khôn ngoan hiểu biết, rằng một người đàn ông hay suy nghĩ phải trái để ý nhận xét tính tình của vị hôn thê của mình, cũng chẳng thay đổi gì vấn đề hiện đang bàn đến: các yếu tố này làm căn bản cho một sự lựa chọn phải chăng trong một cuộc hôn nhân, nhưng chẳng phải là căn bản cho tình yêu say đắm vốn là đề tài của chúng ta.

Up to the present I have taken into consideration merely the absolute considerations — id est, such considerations as apply to every one. I now come to the relative considerations, which are individual, because they aim at rectifying the type of the species which is defectively presented and at correcting any deviation from it existing in the person of the chooser himself, and in this way lead back to a pure presentation of the type. Hence each man loves what he himself is deficient in. The choice that is based on relative considerations — that is, has in view the constitution of the individual — is much more certain, decided, and exclusive than the choice that is made after merely absolute considerations; consequently real passionate love will have its origin, as a rule, in these relative considerations, and it will only be the ordinary phases of love that spring from the absolute. So that it is not stereotyped, perfectly beautiful women who are wont to kindle great passions. Before a truly passionate feeling can exist, something is necessary that is perhaps best expressed by a metaphor in chemistry — namely, the two persons must neutralise each other, like acid and alkali to a neutral salt.

Cho đến nay tôi chỉ mới quan tâm đến các điều tuyệt đối, nghĩa là những điều có giá trị cho mọi người; giờ thì tôi đề cập đến những điều tương đối và cá biệt: vì chúng có khuynh hướng sửa chữa các khiếm khuyết cùng các bất thường so với tiêu thức loại thuộc đã có sẵn ở ngay con người của kẻ lựa chọn, và do đó đưa chúng trở lại với sự biểu hiện thuần túy của tiêu thức lí tưởng. Vì thế mà trên phương diện này, người ta ai nấy đều yêu nhưng cái gì mà mình thiếu sót. Vốn khởi sự từ một cấu thể cá nhân và nhắm vào một cấu thể cá nhân, sự lựa chọn dựa trên các điều nhận xét tương đối loại này, được xác định hơn nhiều, quyết liệt hơn nhiều và độc chiếm hơn nhiều là sự lựa chọn phát xuất từ các nhận xét tuyệt đối; tình yêu say đắm thực thụ do đó thường bắt nguồn từ các nhận xét tương đối, và chỉ có tình yêu thông thường vốn dĩ nhẹ nhàng hơn, mới phát xuất từ các nhận xét tuyệt đối. Vì vậy cho nên, thường tình chẳng phải các sắc đẹp đều đặn nhất, hoàn toàn nhất, là những sắc đẹp gây nên tình yêu cuồng si. Muốn phát sinh ra một tình yêu thực sự cuồng si như thế, cần phải có một yếu tố chỉ có thể diễn tả được bằng một ẩn dụ mượn của hóa học là: hai người phải trung hòa lẫn nhau như toan với kiềm trong một muối trung hòa.

Before this can be done the following conditions are essential. In the first place, all sexuality is one-sided. This one-sidedness is more definitely expressed and exists in a higher degree in one person than in another; so that it may be better supplemented and neutralised in each individual by one person than by another of the opposite sex, because the individual requires a one-sidedness opposite to his own in order to complete the type of humanity in the new individual to be generated, to the constitution of which everything tends....

Trước khi điều này có thể được thực hiện các điều kiện rất cần thiết sau. Trước hết, toàn bộ tình dục là phiến diện. Sự phiến diện này được biểu hiện chắc chắn hơn tồn tại ở một mức độ cao hơn ở cá nhân này so với cá nhân người khác, để nó có thể được bổ sung cho tốt hơn, được trung hòa trong mỗi cá nhân bởi một cá nhân khác hơn là một người khác giới, bởi vì cá nhân đòi hỏi một sự phiến diện đối lập với cái riêng của mình để hoàn thành việc sản sinh cá thể mới cho nhân loại theo thể chế mà tất cả mọi thứ có xu hướng tuân thủ ....

The following is necessary for this neutralisation of which we are speaking. The particular degree of his manhood must exactly correspond to the particular degree of her womanhood in order to exactly balance the one-sidedness of each. Hence the most manly man will desire the most womanly woman, and vice versâ, and so each will want the individual that exactly corresponds to him in degree of sex.

Những điều sau đây cần thiết cho sựu trung hòa mà chúng ta đang nói. Mức độ cụ thể của nam tính phải phải tương ứng chính xác với mức độ nữ tính cụ thể để cân bằng chính xác sự phiến diện của mỗi bên. Do đó người đàn ông nam tính nhất sẽ mong muốn người phụ nữ nữ tính nhất, và ngược lại, và thế mỗi người sẽ muốn nhân chính xác tương ứng với anh ta ở mức độ quan hệ tình dục.

Inasmuch as two persons fulfil this necessary relation towards each other, it is instinctively felt by them and is the origin, together with the other relative considerations, of the higher degrees of love. While, therefore, two lovers are pathetically talking about the harmony of their souls, the kernel of the conversation is for the most part the harmony concerning the individual and its perfection, which obviously is of much more importance than the harmony of their souls — which frequently turns out to be a violent discord shortly after marriage.

Vì họ hai người thực hiện mối quan hệ cần thiết này đối với nhau, họ cảm nhận bản năng đó là nguồn gốc, cùng với những cân nhắc tương đối khác của mức độ tình yêu cao hơn. Do đó, trong khi, hai người yêu xúc động nói về sự hài hòa của tâm hồn của họ, thì cốt lõi của câu chuyện phần lớn sự hài hoà liên quan đến nhân và sự hoàn hảo của nó, mà rõ ràng có tầm quan trọng hơn nhiều so với sự hài hòa của tâm hồn của họ - mà ngay ngay sau khi kết hôn thường xuyên hóa ra thành một mối bất hòa bạo lực.


Các nhà sinh lý học được biết vô số các trình độ của các tính tình nam và nữ có trình độ suy đốn đến mức phát sinh hiện tượng ghê tởm là đàn bà biến thành đàn ông, hoặc vươn cao đến mức phát sinh hiện tượng đàn ông hóa thành đàn bà duyên dáng; trong cả hai trường hợp đều có thể đi đến hiện tượng hoàn toàn lưỡng tính, tức là trường hợp những kẻ đứng giữa hai giới, chẳng phải nam cũng chẳng phải nữ, nên không thể sinh sản.

We now come to those other relative considerations which depend on each individual trying to eradicate, through the medium of another, his weaknesses, deficiencies, and deviations from the type, in order that they may not be perpetuated in the child that is to be born or develop into absolute abnormities.

Ngoài ra còn có những điều nhận xét phụ dựa vào sự mong muốn của mỗi người là nhờ người bạn tình của mình mà mình sẽ triệt bỏ được những nhược điểm, khiếm khuyết cùng những lệch lạc của mình đối với tiêu thức loại thuộc, khiến chúng không lưu tồn được ở đứa con mình sẽ sinh ra phát triển đến mức thành những dị trạng.

The weaker a man is in muscular power, the more will he desire a woman who is muscular; and the same thing applies to a woman....

Người đàn ông càng yếu càng tìm những người đàn bà mạnh; người đàn bà cũng thế. Nhưng vốn dĩ trời sinh có một thế lực yếu hơn, nên người đàn bà thường thích những người đàn ông có sức lực rồi dào nhất. - Một điều nhận xét quan trọng nữa là vóc dáng. Đàn ông nhỏ thó thích đàn bà to lớn và ngược lại; và người đàn ông nhỏ thó càng thích người đàn bà to lớn khi bố mình vốn người to lớn nhưng sở dĩ mình nhỏ thó là vì ảnh hưởng mẹ; vì anh ta đã thụ nhận ở bố một bộ máy tuần hoàn và năng lực đủ để cung cấp huyết thống cho một thân hình to lớn; trái lại, nếu như bố anh và ông nội anh lại thó, thì ý thích của anh cũng nhẹ bớt. Sở dĩ đàn ông to lớn không ưa đàn bà to lớn cũng chỉ vì thiên nhiên không muốn có một chủng loại quá lớn, và cứ theo như sức lực mà người đàn bà phải vận dụng thì một chủng loại to lớn quá như thế sẽ yếu đi và không sống lâu được.

Nevertheless, if a big woman choose a big husband, in order, perhaps, to present a better appearance in society, the children, as a rule, suffer for her folly.

Tuy nhiên nếu người đàn bà to lớn lại chọn một ông chồng to lớn để trông cho được vừa đôi phải lứa chẳng hạn, thì theo thường lệ, con cháu sẽ phải chịu lấy các hậu quả của sự ngu xuẩn này.

Again, another very decided consideration is complexion. Blonde people fancy either absolutely dark complexions or brown; but it is rarely the case vice versâ. The reason for it is this: that fair hair and blue eyes are a deviation from the type and almost constitute an abnormity, analogous to white mice, or at any rate white horses. They are not indigenous to any other part of the world but Europe,— not even to the polar regions,— and are obviously of Scandinavian origin.

- Thêm nữa, yếu tố nước da cũng đóng một vai trò quyết định. Tóc vàng tuyệt đối đòi cho được tóc đen hay tóc nâu, nhưng ít khi có trường hợp ngược lại. Chỉ vì tóc vàng và mắt xanh cũng là một biến tính đặc biệt rồi, gần như là một dị trạng cũng giống như di trạng của chuột bạch, hay ít ra cũng như dị trạng tóc bạc. Tóc vàng mắt xanh là đặc tính mà ngoài Âu châu ra, không còn thấy ở một lục địa nào khác, ngay cả vùng lưỡng cực, và là đặc tính phát xuất từ miền Scandinavie.

En passant, it is my conviction that a white skin is not natural to man, and that by nature he has either a black or brown skin like our forefathers, the Hindoos, and that the white man was never originally created by nature; and that, therefore, there is no race of white people, much as it is talked about, but every white man is a bleached one. Driven up into the north, where he was a stranger, and where he existed only like an exotic plant, in need of a hothouse in winter, man in the course of centuries became white. The gipsies, an Indian tribe which emigrated only about four centuries ago, show the transition of the Hindoo’s complexion to ours. In love, therefore, nature strives to return to dark hair and brown eyes, because they are the original type; still, a white skin has become second nature, although not to such an extent as to make the dark skin of the Hindoo repellent to us.

Ở đây tôi xin nói qua một ý kiến của riêng tôi: màu da của con người bản nhiên không phải trắng, mà đen hay nâu, như tổ tiên chúng ta là người Ấn Độ; do đó người ban sơ bản sinh không trắng, vì thế nên không có giống da trắng, dù cho người ta từng nói rất nhiều về giống này: người da trắng chỉ là một giống người da phai. Bị xô đẩy lên miền Bắc vốn dĩ xa lạ với nó, con người sống như cây cỏ lạ, và cũng như cây cỏ lạ cần phải có một nhà kính về mùa đông, nên dần dà với thời gian, con người trắng ra. Các người Tzigane, bộ lạc người Ấn tha hương cầu thực hàng bốn trăm năm nay, cho ta thấy sự chuyển tiếp giữa màu da người Ấn với màu da chúng ta. - Trên địa hạt tình ái, bản chất do đó thiên về tóc sẫm mắt nâu vốn là tiêu thức bản sơ, còn da trắng chỉ là một biến trạng - dù sao cũng chưa đến mức ta không ưa làn da nâu của người Ấn.

Finally, every man tries to find the corrective of his own defects and aberrations in the particular parts of his body, and the more conspicuous the defect is the greater is his determination to correct it. This is why snub-nosed persons find an aquiline nose or a parrot-like face so indescribably pleasing; and the same thing applies to every other part of the body. Men of immoderately long and attenuated build delight in a stunted and short figure. Considerations of temperament also influence a man’s choice. Each prefers a temperament the reverse of his own; but only in so far as his is a decided one. A man who is quite perfect in some respect himself does not, it is true, desire and love imperfection in this particular respect, yet he can be more easily reconciled to it than another man, because he himself saves the children from being very imperfect in this particular. For instance, a man who has a very white skin himself will not dislike a yellowish complexion, while a man who has a yellowish complexion will consider a dazzlingly white skin divinely beautiful. It is rare for a man to fall in love with a positively ugly woman, but when he does, it is because exact harmony in the degree of sex exists between them, and all her abnormities are precisely the opposite to, that is to say, the corrective of his. Love in these circumstances is wont to attain a high degree.

- Sau hết, đối với các bộ phận của thân thể, người ta ai nấy cũng tìm cái gì khả dĩ làm dịu bớt cho bộ phận ấy. Đó là lý do tại sao dân mũi tẹt lại mê mũi nhọn hay mỏ quạ: đối với các bộ phận khác cũng thế cả. Kẻ mình dây chân nghêu, có thể cho một thân hình lùn chùn chụt hay chân tay ngắn ngủn là đẹp hơn. - Yếu tố tính khí cũng tác động y hệt: người ta thích những tính khí tương phản với mình, nhưng đúng ra, chỉ khi nào người ta có một tính khí đặc biệt hẳn. - Người hoàn toàn về một phương diện nào đó có lẽ không thích kẻ lại khiếm khuyết hẳn về phương diện ấy, nhưng lại dễ thích ứng với khiếm khuyết ấy hơn các người khác; thật vậy, chính họ cũng tránh không muốn con cái mình mắc phải khiếm khuyết này. Chẳng hạn người da rất trắng không chê da vàng; nhưng người da vàng lại cho da trắng là tuyệt. Sở dĩ có trường hợp ngoại lệ một người đàn ông lại si mê một người đàn bà mà ai cũng thấy là xấu, cũng vì, khi đã có sự tương hợp đúng mức về chủng tính như đã nói đến ở trên rồi, thì tất cả các dị trạng của người đàn bà kia lại chính cái tương phản, tức là cái làm dịu bớt các dị trạng của họ. Thường thì trong trường hợp này tình yêu đạt đến mức độ cao.

The profoundly earnest way in which we criticise and narrowly consider every part of a woman, while she on her part considers us; the scrupulously careful way we scrutinise, a woman who is beginning to please us; the fickleness of our choice; the strained attention with which a man watches his fiancée; the care he takes not to be deceived in any trait; and the great importance he attaches to every more or less essential trait,— all this is quite in keeping with the importance of the end. For the child that is to be born will have to bear a similar trait through its whole life; for instance, if a woman stoops but a little, it is possible for her son to be inflicted with a hunchback; and so in every other respect. We are not conscious of all this, naturally. On the contrary, each man imagines that his choice is made in the interest of his own pleasure (which, in reality, cannot be interested in it at all); his choice, which we must take for granted is in keeping with his own individuality, is made precisely in the interest of the species, to maintain the type of which as pure as possible is the secret task. In this case the individual unconsciously acts in the interest of something higher, that is, the species. This is why he attaches so much importance to things to which he might, nay, would be otherwise indifferent.

Sở dĩ ta quan sát ngắm nghía thật kỹ càng thận trọng từng bộ phận một cái thân hình của người đàn bà, cũng như họ quan sát ta, sở dĩ ta phê bình gắt gao một người đàn bà mà ta bắt đầu ưng ý, sở dĩ ta nhất quyết một mực tuyển chọn họ, sở dĩ anh chàng chăm chú nhìn vị hôn thê của mình, sở dĩ anh muốn mình không bị lừa về mọi phương diện, sở dĩ anh hết sức quan tâm đến từng khuyết điểm, từng thái quá của các bộ phận thiết yếu, - tất cả cũng chỉ để thích ứng với tầm quan trọng của cứu cánh. Thật vậy, cá thể được cấu sinh sẽ phải mang lấy suốt đời bộ phận này hay bộ phận nọ giống như của cha mẹ nó; chẳng hạn nếu người mẹ dù chỉ hơi có tật, đứa con rất có thể gù lưng, - hay này khác. - Dĩ nhiên ta đâu có ý thức chu đáo đến thế; ai nấy thường chỉ tưởng rằng sở dĩ mình lựa chọn gắt gao như thế là để sướng cái thân mình (thực ra cái sướng này có bận tâm gì đến những cái rắc rối kia), nhưng thật ra mình làm đúng theo sự đòi hỏi của quyền lợi của chủng loại, dựa theo hình thể của chính mình, vì sứ mạng kín của chúng ta là bảo tồn tiêu thức loại thuộc sao cho thật thuần túy. Ở đây vô tình cá nhân đã hành động theo mệnh lệnh của thực tại ở trên mình, tức là chủng loại, - do đó mà nó quý báu những sự vật mà nó, với tư cách là một cá nhân riêng biệt, có thể hoặc lẽ ra chả cần đếm xỉa đến. -

There is something quite singular in the unconsciously serious and critical way two young people of different sex look at each other on meeting for the first time; in the scrutinising and penetrating glances they exchange, in the careful inspection which their various traits undergo. This scrutiny and analysis represent the meditation of the genius of the species on the individual which may be born and the combination of its qualities; and the greatness of their delight in and longing for each other is determined by this meditation. This longing, although it may have become intense, may possibly disappear again if something previously unobserved comes to light. And so the genius of the species meditates concerning the coming race in all who are yet not too old. It is Cupid’s work to fashion this race, and he is always busy, always speculating, always meditating. The affairs of the individual in their whole ephemeral totality are very trivial compared with those of this divinity, which concern the species and the coming race; therefore he is always ready to sacrifice the individual regardlessly.

Ở cái thái độ nghiêm trọng thâm trầm, vô thức của đôi trai gái quan sát nhau buổi ban đầu, ở cái nhìn soi bói như muốn đi sâu vào nhau, ở sự chú ý đến từng ly từng tí một những cái gì là đặc tính của nhau, quả có một cái gì thật là kỳ lạ. Vì sự soi bói quan sát kia chính là sự trầm tư của tinh thần chủng loại về cá thể có thể cấu sinh do sự môi giới của họ về sự sắp xếp các đặc tính của nó. Mức và khao khát giữa đôi bên tùy thuộc vào kết quả của sự soi bói kia. Sau khi lên tới một cường độ đáng kể, khao khát nọ có thể bỗng nhiên lại tắt ngúm, chỉ vì khám phá ra một đặc tính xưa nay chưa được thấy. - Vì vậy cho nên ở mọi người có khả năng cấu sinh, tình thần chủng loại đều trầm tư về thế hệ tới sau. Sự cấu tạo thế hệ này là công trình vĩ đại của thần ái tình không ngừng hoạt động, không ngừng tính toán và sáng chế. Trước một công việc lớn lao như thế, liên quan đến chủng loại và toàn thể các thế hệ tương lai, tất cả các mục tiêu phù du của cá nhân quả thật vụn vặt; vì vậy mà thần ái tình lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh chúng không thương tiếc.

He is related to these ephemeral affairs as an immortal being is to a mortal, and his interests to theirs as infinite to finite. Conscious, therefore, of administering affairs of a higher order than those that concern merely the weal and woe of the individual, he administers them with sublime indifference amid the tumult of war, the bustle of business, or the raging of a plague — indeed, he pursues them into the seclusion of the cloisters.

Vì sự quan hệ giữa thần với chúng là quan hệ giữa một vị bất tử với những kẻ tất tử, sự quan hệ giữa các mối quan tâm của thần với các mối quan tâm của họ ví như vô hạn với hữu hạn. Ý thức được rằng mình phải điều hành những công việc có một tính chất cao cả hơn mọi công việc chỉ liên quan đến an lạc cá nhân, thần tận tụy làm nhiệm vụ với cả một bình thản tối đại, giữa cái ồn ào của chiến tranh, hay trong sự náo nhiệt của công việc, hoặc giữa cái tai họa của ôn dịch, và thừa hành nhiệm vụ ngay cả trong cảnh cô liêu của ni viện.

It has been seen that the intensity of love grows with its individuation; we have shown that two individuals may be so physically constituted, that, in order to restore the best possible type of the species, the one is the special and perfect complement of the other, which, in consequence, exclusively desires it. In a case of this kind, passionate love arises, and as it is bestowed on one object, and one only — that is to say, because it appears in the special service of the species — it immediately assumes a nobler and sublimer nature.

Trên kia, ta đã được thấy rằng, cường độ của ái tình tăng theo mức cá thể hóa của nó, và chứng minh rằng, để sản xuất tiêu thức chủng loại sao cho tốt đẹp hơn cả, giữa bản tính thể chất của hai cá nhân thì bản tính của kẻ này phải bổ thể hoàn toàn đặc biệt và trọn vẹn cho bản tính của kẻ kia, khiến kẻ kia do đó chỉ khao khát có nó mà thôi. Trong trường hợp này, người ta đã thấy biểu lộ một tình yêu nồng nhiệt chả mấy lúc mang một bộ mặt thanh cao hơn vì lẽ nó nhắm vào một đối tượng độc nhất chuyên hữu và do đó tác động theo các chỉ thị đặc biệt của chủng loại.

On the other hand, mere sexual instinct is base, because, without individuation, it is directed to all, and strives to preserve the species merely as regards quantity with little regard for quality. Intense love concentrated on one individual may develop to such a degree, that unless it is gratified all the good things of this world, and even life itself, lose their importance. It then becomes a desire, the intensity of which is like none other; consequently it will make any kind of sacrifice, and should it happen that it cannot be gratified, it may lead to madness or even suicide.

Ngược lại, bản năng tính dục đơn thuần là bỉ lậu, vì nó nhắm vào mọi kẻ bất kể cá nhân hóa, và chỉ có xu hướng bảo tồn chủng loại theo lượng mà không cần đến phẩm. Còn như cá nhân hóa, và cùng với nó là cường độ của tình yêu, có thể đạt đến mức khiến nếu không được hưởng cái lạc thú của tình yêu ấy, tất cả của cải trên thế gian, và ngay cả đời sống, cũng chẳng còn giá trị gì. Và khi đó, người ta chứng kiến một khát vọng càng ngày càng mãnh liệt, mãnh liệt hơn tất cả các nhu cầu khác, sẵn sàng hy sinh hết thảy, và nếu nhất thiết không được thỏa mãn, có thể đưa đến điên cuồng hay tự sát.

Besides these unconscious considerations which are the source of passionate love, there must be still others, which we have not so directly before us. Therefore, we must take it for granted that here there is not only a fitness of constitution but also a special fitness between the man’s will and the woman’s intellect, in consequence of which a perfectly definite individual can be born to them alone, whose existence is contemplated by the genius of the species for reasons to us impenetrable, since they are the very essence of the thing-in-itself. Or more strictly speaking, the will to live desires to objectivise itself in an individual which is precisely determined, and can only be begotten by this particular father and this particular mother.

Những điều vô thức hàm ngụ trong một tình yêu vượt mức như thế hẳn phải mang một tính chất khác với các điều đã được nhận xét trên kia và không biểu lộ cũng rõ ràng như thế. Do đó, ngoài phương diện hình thể ta còn phải giả thiết rằng ý chí của người đàn ông và trí tuệ của người đàn bà cũng phải được đặc biệt thích ứng với nhau để có thể cấu sinh ra một cá nhân duy nhất có đặc tính rõ rệt, một cá nhân mà lúc đó tinh thần chủng loại trù liệu cho hiện hữu, theo những nguyên do có liên hệ đến các vật tự tại mà ta chưa tài nào hiểu nổi. Hay nói đúng hơn: ở đây cái muốn sống đòi hỏi được khách thể hóa thành một cá nhân được xác định rõ rệt, chỉ có thể được sinh ra do người bố ấy và người mẹ ấy.

This metaphysical yearning of the will in itself has immediately, as its sphere of action in the circle of human beings, the hearts of the future parents, who accordingly are seized with this desire. They now fancy that it is for their own sakes they are longing for what at present has purely a metaphysical end, that is to say, for what does not come within the range of things that exist in reality.

Sự đòi hỏi siêu hình này của ý chí tự tại thoạt đầu không có phạm vi hoạt động nào khác trong cái liên tục chủng loại hơn là các trái tim của các bậc cha mẹ tương lai lúc đó bị khát vọng đòi hỏi kia xâm chiếm và tưởng đâu khao khát cho chính mình một cái mà lúc đó mới chỉ có một cứu cánh thuần túy siêu hình, nghĩa là lúc đó nằm ngoài các loạt sự vật thực sự đề ra.


Vậy cái gì hiện ra trong trật tự hiện tượng cũng như mối nhiệt tình thanh cao miệt thị tất cả những gì ngoài nó kia giữa đôi cha mẹ tương lai, đó là cái xu hướng phát sinh từ nguồn gốc uyên nguyên của mọi sinh vật, của cá thể được cấu sinh, lúc đó mới trở thành có thể, muốn ra đời.

In other words, it is the desire of the future individual to enter existence, which has first become possible here, a longing which proceeds from the primary source of all being and exhibits itself in the phenomenal world as the intense love of the future parents for each other, and has little regard for anything outside itself. In fact, love is an illusion like no other; it will induce a man to sacrifice everything he possesses in the world, in order to obtain this woman, who in reality will satisfy him no more than any other. It also ceases to exist when the end, which was in reality metaphysical, has been frustrated perhaps by the woman’s barrenness (which, according to Hufeland, is the result of nineteen accidental defects in the constitution), just as it is frustrated daily in millions of crushed germs in which the same metaphysical life-principle struggles to exist; there is no other consolation in this than that there is an infinity of space, time, and matter, and consequently inexhaustible opportunity, at the service of the will to live.

Thật ra đây là một ảo ảnh có một không hai, thúc đẩy người đàn ông si tình có thể mang hết của cải trên thế gian để đổi lấy sự phối hợp với một người đàn bàn nào đó, - tuy rằng sự phối hợp ấy cũng chẳng đưa lại cho anh ta một lạc thú gì hơn là với một người đàn bà nào khác. Tuy nhiên, sở dĩ không có một mục đích nào khác cũng chỉ vì mối nhiệt tình thanh cao kia cũng bị khoái lạc dập tắt như bất cứ mối nhiệt tình nào, - điều mà các đương sự hết sức kinh ngạc. Mối tình cũng tắt khi, vì người đàn bà không thể sinh nở (theo Hufeland[23] có mười chín tật làm mất sinh nở), nên mục đích thật sự, mục đích siêu hình bị hụt, cũng như hàng ngày nó bị hụt khi hàng triệu triệu tinh trùng bị hủy hoại, vì trong các tinh trùng ấy cũng vẫn đều có cái nguyên lý siêu hình của sự sống, nó khao khát được hiện sinh. Để an ủi, ta chỉ còn biết bảo rằng: cả một không gian, một thời gian, cả một kho vật chất vô tận, được dành cho cái muốn sống sử dụng, tức là cả một cơ hội vô tận để làm lại.

Although this subject has not been treated by Theophrastus Paracelsus, and my entire train of thought is foreign to him, yet it must have presented itself to him, if even in a cursory way, when he gave utterance to the following remarkable words, written in quite a different context and in his usual desultory style: Hi sunt, quos Deus copulavit, ut eam, quae fuit Uriae et David; quamvis ex diametro (sic enim sibi humana mens persuadebat) cum justo et legitimo matrimonio pugnaret hoc... sed propter Salomonem, qui aliunde nasci non potuit, nisi ex Bathseba, conjuncto David semine, quamvis meretrice, conjunxit eos Deus. 18

Théophraste Paracelese là người chưa từng bàn đến đề tài này và không biết gì đến luận điệu của tôi, tuy nhiên cũng đã có lần dù rằng chỉ phớt qua, bất chợt được quan niệm trình bày nơi đây, vì với một lời lẽ khác hẳn và theo lối hành văn bất nhất của ông, ông từng nói lời sau đây, nghĩ cũng hay hay: Hi sunt, quos Deus copulavit, ut eam, quae fuit Uriea et Davit; quamvis ex diametro (sie enim sibi humana mens persuadebat) cum justo et legitimo matrimonio pugnaret hoc... se propter Salomonem, qui aliunde nasci non potuit, nisi ex Bethsabea, conjuncto David semine, quamvis meretrice, conjunxit eos Deus (De vita longa).


(Đó là những kẻ mà Chúa ghép vào với nhau, như người đàn bà ghép cho Urie và cho David. Nhưng, theo đầu óc con người nhận định, sự ghép ấy lại chẳng có gì là một cuộc nhân duyên chính đáng và hợp pháp. Tuy nhiên, vì lẽ Salomon chỉ có thể được sinh ra do Bethsabée thụ thai vì tinh trùng của David, nên Chúa đã phối hợp họ với nhau, mặc dầu như thế là nàng phạm tội ngoại tình[24]).

The yearning of love, the [Greek: himeros], which has been expressed in countless ways and forms by the poets of all ages, without their exhausting the subject or even doing it justice; this longing which makes us imagine that the possession of a certain woman will bring interminable happiness, and the loss of her, unspeakable pain; this longing and this pain do not arise from the needs of an ephemeral individual, but are, on the contrary, the sigh of the spirit of the species, discerning irreparable means of either gaining or losing its ends. It is the species alone that has an interminable existence: hence it is capable of endless desire, endless gratification, and endless pain.

Nỗi sầu tương tư mà các thi sĩ muôn đời không ngớt tả dưới thiên hình vạn trạng vẫn không hết, vẫn chưa đủ nói lên tầm quan trọng của nó, cái nỗi sầu ấy bắt người ta tưởng rằng chiếm được một người đàn bà nhất định nào đó là được hạnh phúc vô biên, và không chiếm được là đau khổ khôn nguôi. Khốn nỗi, cái tương tư ấy, cái đau khổ vì tình ấy lại không thể sống vào các nhu cầu của một cá nhân phù du; trái lại chúng là tiếng thở dài của linh hồn chủng loại, nó thấy đó là một dịp để chiếm được hay làm mất đi một lợi khí không sao thay thế được cho các cứu cánh của nó, nên mới thốt ra một tiếng rền rĩ thê thảm. Chỉ chủng lại mới trường tồn vô tận, nên chỉ có nó mới có được những ước nguyện vô tận, một thỏa mãn vô tận và những đớn đau vô tận.

These, however, are imprisoned in the heart of a mortal; no wonder, therefore, if it seems like to burst, and can find no expression for the announcements of endless joy or endless pain. This it is that forms the substance of all erotic poetry that is sublime in character, which, consequently, soars into transcendent metaphors, surpassing everything earthly. This is the theme of Petrarch, the material for the St. Preuxs, Werthers, and Jacopo Ortis, who otherwise could be neither understood nor explained. This infinite regard is not based on any kind of intellectual, nor, in general, upon any real merits of the beloved one; because the lover frequently does not know her well enough; as was the case with Petrarch.

Nhưng các tình cảm ấy lại bị dồn vào tấm lòng chật hẹp của một kẻ tất tử: nên có gì là lạ khi kẻ này như muốn vỡ tung và không sao tìm ra lời diễn tả cái linh cảm ấy của vui vô tận hay một niềm đau vô tận tràn ngập lòng mình. - Và đó là một đề tài cho toàn thể thi ca hoa tình có tính chất thanh cao, không ngại sử dụng đến cả những ẩn dụ siêu việt, bay lượn trên mọi cái gì gọi là thế tục. Đó là đề tài của Pétrarque, đề tài của những Saint Preux, của những Werther, của những Jacques Ortis, mà nếu không có thế, sẽ không tài nào hiểu hay giải thích nổi. Vì cái giá trị gán cho người yêu không thể căn cứ vào các ưu điểm trí tuệ, hoặc vào ngay cả những ưu điểm cụ thể, thực tế, dù rằng vì chàng không biết rõ người mình yêu: đó là trường hợp của Pétrarque.

It is the spirit of the species alone that can see at a glance of what value the beloved one is to it for its purposes. Moreover, great passions, as a rule, originate at first sight:

“Who ever lov’d, that lov’d not at first sight.”
— SHAKESPEARE, As You Like It, iii. 5.

Chỉ có tinh thần chủng loại mới có thoáng nhìn đã biết được nàng có giá trị gì đối với chàng, nghĩa là đối với các cứu cánh của nó. Vả lại các mối tình đắm đuối thường nảy sinh từ cái nhìn đầu tiên:

Who ever lov’d that lov’d not at first sight?

(Ai yêu mà lại chẳng yêu ngay từ lúc mới thoạt nhìn?) (Shakespeare, As you like it).

Curiously enough, there is a passage touching upon this in Guzmann de Alfarache, a well-known romance written two hundred and fifty years ago by Mateo Aleman: No es necessario para que uno ame, que pase distancia de tiempo, que siga discurso, in haga eleccion, sino que con aquella primera y sola vista, concurran juntamente cierta correspondencia ó consonancia, ó lo que acá solemos vulgarmente decir, una confrontacion de sangre, à que por particular influxo suelen mover las estrellas. (For a man to love there is no need for any length of time to pass for him to weigh considerations or make his choice, but only that a certain correspondence and consonance is encountered on both sides at the first and only glance, or that which is ordinarily called a sympathy of blood, to which a peculiar influence of the stars generally impels.)

Về quan điểm này, đáng kể là đoạn văn sau đây trong cuốn tiểu thuyết Guzman d’Alfarache của Mateo Aleman[25], nổi danh hàng hai trăm năm mươi năm nay: No es necessario, para que uno ame, que pase distancia de tiempo, que siga discurso, ni haga eleccion, sino que con aquella primera y sola vista, concurran juntamente cierta correspondencia ô consonancia, o lo que aca solemos vulgarmente decir, una confrontacion de sangre, à que por particular influxo suelen mover las astrellas. (Khi đã yêu, người ta chả cần phải để lâu, phải suy nghĩ, phải chọn lựa; nhưng ngay từ cái nhìn đầu, nhìn một cái thôi cũng đủ cho hai lòng giao hợp, hay cái mà ta thường gọi là tương cảm máu huyết, một sự tương cảm thường được một sự ảnh hưởng của các sao kích thích).

Accordingly, the loss of the beloved one through a rival, or through death, is the greatest pain of all to those passionately in love; just because it is of a transcendental nature, since it affects him not merely as an individual, but also assails him in his essentia aeterna, in the life of the species, in whose special will and service he was here called. This is why jealousy is so tormenting and bitter, and the giving up of the loved one the greatest of all sacrifices. A hero is ashamed of showing any kind of emotion but that which may be the outcome of love; the reason for this is, that when he is in love it is not he, but the species which is grieving. In Calderon’s Zenobia the Great there is a scene in the second act between Zenobia and Decius where the latter says, Cielos, luego tu me quieres? Perdiera cien mil victorias, Volviérame, etc.

(Heavens! then you love me?

For this I would sacrifice a thousand victories, etc.)

Vì thế cho nên khi mất người yêu, hoặc vì địch thủ hay vì tử thần, đối với kẻ yêu say đắm, đó là một nỗi đau khổ hơn hết, vì là một đau khổ có tính chất siêu việt, ở chỗ không những nó chỉ đập vào cá tính của hắn, mà còn xúc phạm đến cả cái yếu tính vĩnh cửu của hắn, đến sự sinh tồn của chủng loại, của ý chí đặc biệt và của cái mệnh lệnh của ý chí giao phó sứ mạng cho hắn. Vì thế mà khi ghen, người ta đau khổ thật là khủng khiếp và phải chăng cái hy sinh lớn lao nhất là nhường người mình yêu cho kẻ khác. - Kẻ anh hùng cho rên rỉ là xấu hổ, trừ rên rỉ vì tình; vì khi rên rỉ vì tình, không phải họ, mà chính là chủng loại rên rỉ. Trong vở Grande Zénobie của Calderon, vào hồi hai, có một cảnh giữa Zénobie và Décius, trong đó Décius nói:

Cielos, luego tu me quieres?

Perdiera cien mil victorias

Volvierme, etc…

(Trời ơi! Em yêu anh thật sao!

Nếu vậy anh sẽ từ bỏ ngàn chiến thắng,

anh sẽ trở về, v.v…)

In this case honour, which has hitherto outweighed every other interest, is driven out of the field directly love — i.e., the interest of the species — comes into play and discerns something that will be of decided advantage to itself; for the interest of the species, compared with that of the mere individual, however important this may be, is infinitely more important. Honour, duty, and fidelity succumb to it after they have withstood every other temptation — the menace of death even. We find the same going on in private life; for instance, a man has less conscience when in love than in any other circumstances. Conscience is sometimes put on one side even by people who are otherwise honest and straightforward, and infidelity recklessly committed if they are passionately in love — i.e., when the interest of the species has taken possession of them. It would seem, indeed, as if they believed themselves conscious of a greater authority than the interests of individuals could ever confer; this is simply because they are concerned in the interest of the species. Chamfort’s utterance in this respect is remarkable: Quand un homme et une femme ont l’un pour l’autre une passion violente, il me semble toujours que quelque soient les obstacles qui les séparent, un mari, des parens, etc.; les deux amans sont l’un à l’autre, de par la Nature, qu’ils s’appartiennent de droit devin, malgré les lois et les conventions humaines....

Ở đây, danh vọng, cho đến bách chiến bách thắng, đã bị loại ngay khi ái tình, tức là quyền lợi của chủng loại, lâm cuộc và thắng hẳn hoi; vì quyền lợi của chủng loại, so với bất cứ quyền lợi nào khác dù quan trọng mấy đi nữa, cũng vẫn là tối thượng. Riêng đối với nó, danh vọng, bổn phận, thủy chung đều phải nhường bước sau khi đã chống lại mọi cám rỗ khác, kể cả sự đe dọa của thần chết. - Cũng vậy, trong đời sống riêng tư, trên điểm này người ta thường bất chấp lương tâm: đó là trường hợp của những người bình thường chân chính ngay thẳng lại trắng trợn ngoại tình một khi tình yêu say đắm, tức là quyền lợi của chủng loại, đã xâm chiếm họ. Mọi sự diễn ra như thể lúc họ tưởng mình đã ý thức được một cái gì còn chính đáng hơn là cái chính đáng của các quyền lợi cá nhân xưa nay; đó chính là vì họ hành động theo quyền lợi chủng loại. Trên điểm này, Chamfort[26] từng nói một lời đáng kể: khi một người đàn ông và một người đàn bà yêu nhau mãnh liệt, tôi thiết tưởng, dù cho có trở ngại gì ngăn cách đi nữa, chẳng hạn, chồng, cha mẹ, v.v… đôi tình nhân kia vẫn là của nhau, do định luật Thiên nhiên, họ vẫn thuộc về nhau thuận theo lẽ trời, bất chấp các luật lệ và công ước của con người. Những ai phẫn nộ về lời này xin hãy xem lại Thánh Kinh hẳn phải lấy làm lạ rằng Chúa cứu rỗi sẵn sàng tha thứ người đàn bà ngoại tình đến thế nào, vì cho rằng tội lỗi đó nằm sẵn ở trong lòng tất cả những kẻ có mặt.

From this standpoint the greater part of the Decameron seems a mere mocking and jeering on the part of the genius of the species at the rights and interests of the individual which it treads underfoot. Inequality of rank and all similar relations are put on one side with the same indifference and disregarded by the genius of the species, if they thwart the union of two people passionately in love with one another: it pursues its ends pertaining to endless generations, scattering human principles and scruples abroad like chaff.

- Xét theo quan điểm này thì phần lớn vở Decameron chẳng khác gì là một sự diễu cợt và miệt thị ra mặt của tinh thần chủng loại đối với các quyền hạn cùng quyền lợi của các cá nhân mà nó chà đạp. - Khi các vấn đề môn đăng hộ đối, giai cấp chênh lệch, hay những hoàn cảnh éo le tương tự đứng ra ngăn cản sự phối hợp giữa đôi tình nhân yêu nhau tha thiết, tinh thần chủng loại cũng không thèm đếm xủa đến chúng và cho chúng là trò vụn vặt; một khi nó đã theo đuổi những cứu cánh liên quan đến hằng hà thế hệ thì nó đá tung các định chế cùng các cố chấp ấy của con người.

For the same reason, a man will willingly risk every kind of danger, and even become courageous, although he may otherwise be faint-hearted. What a delight we take in watching, either in a play or novel, two young lovers fighting for each other — i.e., for the interest of the species — and their defeat of the old people, who had only in view the welfare of the individual! For the struggling of a pair of lovers seems to us so much more important, delightful, and consequently justifiable than any other, as the species is more important than the individual.

Cũng vì cái lý do sâu sắc ấy mà khi yêu nhau say đắm người ta sẵn sàng mạo hiểm và con người bình thường rất nhút nhát lúc đó cũng đâm ra can đảm. - Trong các vở kịch cũng như tiểu thuyết, ta vẫn chứng kiến một cách khoái trá và thiện cảm những đôi trai gái chiến đấu cho mối tình của họ, nghĩa là cho quyền lợi của chủng loại, và chiến thắng các người già cả chỉ lo cho quyền lợi cá nhân.

Accordingly, we have as the fundamental subject of almost all comedies the genius of the species with its purposes, running counter to the personal interests of the individuals presented, and, in consequence, threatening to undermine their happiness. As a rule it carries out its ends, which, in keeping with true poetic justice, satisfies the spectator, because the latter feels that the purposes of the species widely surpass those of the individual. Hence he is quite consoled when he finally takes leave of the victorious lovers, sharing with them the illusion that they have established their own happiness, while, in truth, they have sacrificed it for the welfare of the species, in opposition to the will of the discreet old people.

Vì cái nguyện vọng của đôi tình nhân đối với chúng ta hình như quan trọng hơn, cao cả hơn và do đó chính đáng hơn mọi cái đứng ra cản trở nó, ngay trong cái phạm vi mà chủng loại đáng kể hơn là cá nhân. Vì vậy, đề tài chính của mọi vở tuồng vẫn là sự can thiệp của tinh thần chủng loại với mọi mục đích của nó, va chạm với các quyền lợi riêng tư của các cá nhân được đề ra và do đó đe dọa phá hoại hạnh phúc của họ. Thường thì nó thắng, và điều này là thỏa mãn người xem vì nó phù hợp với công lý nên thơ, vì họ cảm thấy rằng các cứu cánh của chủng loại quan trọng hơn các cứu cánh của cá nhân nhiều. Vì thế cho nên, khi chung cuộc, trong lòng thư thái, người xem từ giã đôi tình nhân đội vòng chiến thắng, chia sẻ với họ cái ảo tưởng là đã xây dựng hạnh phúc riêng cho họ, trong khi chính ra họ đã hy sinh hạnh phúc của họ cho quyền lợi chủng loại, trái hẳn với ý kiến của các người già cả thấy xa.

It has been attempted in a few out-of-the-way comedies to reverse this state of things and to effect the happiness of the individuals at the cost of the ends of the species; but here the spectator is sensible of the pain inflicted on the genius of the species, and does not find consolation in the advantages that are assured to the individuals.

Two very well-known little pieces occur to me as examples of this kind: La reine de 16 ans, and Le mariage de raison.

In the love-affairs that are treated in tragedies the lovers, as a rule, perish together: the reason for this is that the purposes of the species, whose tools the lovers were, have been frustrated, as, for instance, in Romeo and Juliet, Tancred, Don Carlos, Wallenstein, The Bride of Messina, and so on.

Trong vài vở tuồng đi lệch thường tình, người ta thử đảo ngược tình trạng và đặt ép hạnh phúc trên đầu các cá nhân bất chấp các ý định của chủng loại; thì người xem lại cảm thấy cái đau đớn mà tinh thần chủng loại đang đau, và ấm ức trước cái lợi mang đến cho các cá nhân. Tiêu biểu cho loại này, tôi có vài vở kịch ngắn rất quen thuộc như Nữ hoàng mười sáu (La Reine de seize ans) Môn đăng hộ đối (Le mariage de raison)[27].

Trong các bi kịch diễm tình, đôi tình nhân, vốn dĩ là công cụ của tình thần chủng loại, thường chết đi khi mà các hy vọng của chủng loại bị tiêu tan, chẳng hạn như trong Roméo và Juliette, Tancrède, Don Carlos, La Fiancée de Messine[28] v.v…

A man in love frequently furnishes comic as well as tragic aspects; for being in the possession of the spirit of the species and controlled by it, he no longer belongs to himself, and consequently his line of conduct is not in keeping with that of the individual. It is fundamentally this that in the higher phases of love gives such a poetical and sublime colour, nay, transcendental and hyperphysical turn to a man’s thoughts, whereby he appears to lose sight of his essentially material purpose. He is inspired by the spirit of the species, whose affairs are infinitely more important than any which concern mere individuals, in order to establish by special mandate of this spirit the existence of an indefinitely long posterity with this particular and precisely determined nature, which it can receive only from him as father and his loved one as mother, and which, moreover, as such never comes into existence, while the objectivation of the will to live expressly demands this existence.

Tình cảm của một chàng si thường gây ra trò cười, đôi khi bi đát, trong cả hai trường hợp cũng vì tinh thần chủng loại xâm chiếm hắn, chế ngự hắn và ngăn cản khiến hắn không còn tự thuộc mình nữa; vì thế mà hành động của hắn không còn thích ứng với cá tính của hắn. Trên các cao độ của tình ái, tư tưởng của con người ta khoác một bộ mặt nên thơ và cao cả, và còn có cả chiều hướng siêu việt và siêu vật, nhờ đó con người ta hầu như quên hẳn mục đích thực sự của mình, một mục đích rất ư vật chất; chính ra lúc này, thâm tâm hắn đang bị chi phối do tinh thần chủng loại mà các mục tiêu còn vô cùng quan trọng hơn tất cả các mục tiêu chỉ liên quan đến các cá nhân mà thôi; nhân danh tinh thần chủng loại, con người có nhiệm vụ xây dựng sinh tồn cho cả một dòng dõi dài vô tận, mang cái bản chất được quy định rõ ràng mà nó chỉ có thể tiếp thụ ở người đàn ông đó là cha, và ở người đàn và mà người đàn ông đó yêu quý mẹ, và nếu không thế thì không bao giờ nó lại sinh ra được ở cái đời mà cá thể hóa của ý chí đòi hỏi.

It is the feeling that he is engaged in affairs of such transcendent importance that exalts the lover above everything earthly, nay, indeed, above himself, and gives such a hyperphysical clothing to his physical wishes, that love becomes, even in the life of the most prosaic, a poetical episode; and then the affair often assumes a comical aspect. That mandate of the will which objectifies itself in the species presents itself in the consciousness of the lover under the mask of the anticipation of an infinite happiness, which is to be found in his union with this particular woman.

Cái cảm thức hành động theo các mục đích có một tầm siêu việt như thế là cái nâng cao kẻ si tình lên mức vượt lên trên tất cả những gì là thế tục và vượt ra khỏi cả chính hắn, và khoác một bộ áo hết sức siêu tế của những dục vọng rất vật chất, khiến tình yêu trở thành một chuyện nên thơ ngay cả trong đời sống tầm thường nhất của con người; trong trường hợp này, câu chuyện đôi khi thành hài hước. Cái mệnh lệnh này của ý chí khách thể hóa ở chủng loại hiện ra trong ý thức của kẻ si tình dưới cái mặt nạ dự liệu một hạnh phúc vô biên, mà hắn sẽ được gặp trong sự phối hợp với người đàn bà riêng biệt nào đó.

This illusion to a man deeply in love becomes so dazzling that if it cannot be attained, life itself not only loses all charm, but appears to be so joyless, hollow, and uninteresting as to make him too disgusted with it to be afraid of the terrors of death; this is why he sometimes of his own free will cuts his life short. The will of a man of this kind has become engulfed in that of the species, or the will of the species has obtained so great an ascendency over the will of the individual that if such a man cannot be effective in the manifestation of the first, he disdains to be so in the last.

Ở vào những mức độ cao nhất của tình yêu, cái ảo tưởng này trở thành diễm lệ đến nỗi nếu ta không được đến gần nó, thì ngay cả đời sống cũng mất hết thú vị và từ đó trở đi hầu như trống rỗng quá, ảm đạm quá, vô vị quá, khiến ta chán ngấy đến coi thường cả cái chết; lúc đó người ta đòi tự ý hủy bỏ đời mình. Cái ý chí của một kẻ si tình khi đến thế đã bị lôi cuốn nước xoáy của ý chí chủng loại, hoặc là ý chí chủng loại đã chế ngự ý chí cá nhân đến mức, khi đã không làm lợi được gì cho chủng loại thì ý chí cá nhân cũng không còn buồn làm lợi gì cho mình nữa.

The individual in this case is too weak a vessel to bear the infinite longing of the will of the species concentrated upon a definite object. When this is the case suicide is the result, and sometimes suicide of the two lovers; unless nature, to prevent this, causes insanity, which then enshrouds with its veil the consciousness of so hopeless a condition. The truth of this is confirmed yearly by various cases of this description.

Trong trường hợp này, cá nhân là một cái chậu mong manh quá nên không chứa nổi cái khát vọng vô biên của ý chí nhân loại tập trung vào một đối tượng chính xác. Vì thế mà giải pháp là tự sát, đôi khi cả đôi nhân tình cùng tự sát; trừ phi để cứu mạng, thiên nhiên lại khiến người ta điên, dùng tấm màn điên để bao phủ ý thức kẻ tuyệt vọng. - Không năm nào lại không xảy ra rất nhiều vụ tương tự, xác nhận cho những gì tôi vừa nói là thật.

However, it is not only unrequited love that leads frequently to a tragic end; for requited love more frequently leads to unhappiness than to happiness. This is because its demands often so severely clash with the personal welfare of the lover concerned as to undermine it, since the demands are incompatible with the lover’s other circumstances, and in consequence destroy the plans of life built upon them. Further, love frequently runs counter not only to external circumstances but to the individuality itself, for it may fling itself upon a person who, apart from the relation of sex, may become hateful, despicable, nay, even repulsive. As the will of the species, however, is so very much stronger than that of the individual, the lover shuts his eyes to all objectionable qualities, overlooks everything, ignores all, and unites himself for ever to the object of his passion. He is so completely blinded by this illusion that as soon as the will of the species is accomplished the illusion vanishes and leaves in its place a hateful companion for life.

Nhưng không phải chỉ có tình yêu tha thiết bị cản trở mới đôi khi đi tìm một giải pháp bi đát; ngay cả tình yêu thỏa mãn thường cũng đưa đến tai họa thay vì hạnh phúc. Vì các sự đời hỏi của nó thường xung đột với hạnh phúc riêng tư của đương sự làm hắn hao mòn; thật vậy, các đòi hỏi ấy xung khắc với các điều kiện khác của đời sống hắn và hủy diệt nếp sống xây dựng trên các điều kiện này. Vả lại tình yêu không những xung khắc với hoàn cảnh bên ngoài, mà còn xung khắc với cá tính riêng tư, ở chỗ nó bám lấy những người mà, ngoài sự giao cấu ra, kẻ si tình chỉ còn thấy đáng ghét, đáng khinh, nếu không phải là ghê tởm. Nhưng ý chí chủng loại mạnh hơn ý chí cá nhân quá nhiều đến nỗi kẻ si tình nhắm mắt trước mọi đặc tính làm hắn ghê tởm, để hắn không còn thấy gì, để quên hết, để suốt đời bám lấy vật si mê của mình; cái ảo tưởng ấy làm mù quáng hắn đến chừng nào, và chỉ biến mất ngay khi khát vọng của chủng loại được thỏa mãn, nhưng vẫn để lại một người bạn đời mà mình thù ghét.

From this it is obvious why we often see very intelligent, nay, distinguished men married to dragons and she-devils, and why we cannot understand how it was possible for them to make such a choice. Accordingly, the ancients represented Amor as blind. In fact, it is possible for a lover to clearly recognise and be bitterly conscious of horrid defects in his fiancée’s disposition and character — defects which promise him a life of misery — and yet for him not to be filled with fear:

“I ask not, I care not,
If guilt’s in thy heart;
I know that I love thee,
Whatever thou art.”

Chỉ có điều này mới giải thích được tại sao ta thường thấy có những người rất biết điều, lỗi lạc là khác, lại lấy những quỷ sứ bà chằng, khiến ta không hiểu tại sao họ lại đi chọn những người vợ như vậy. Nên người xưa thường mô tả ái tình như là mù quáng. Hơn thế: một kẻ si tình còn có thể thấy rõ và khổ sở ê chề với các nết xấu không sao chịu nổi về tính khí cũng như tính tình của vị hôn thê của mình mà vẫn không ớn:

Anh chẳng hỏi, anh chẳng cần,

Có gì xấu trong lòng em;

Anh chỉ biết anh yêu em,

Dù em là gì đi nữa.

For, in truth, he is not acting in his own interest but in that of a third person, who has yet to come into existence, albeit he is under the impression that he is acting in his own But it is this very acting in some one else’s interest which is everywhere the stamp of greatness and gives to passionate love the touch of the sublime, making it a worthy subject for the poet. Finally, a man may both love and hate his beloved at the same time. Accordingly, Plato compares a man’s love to the love of a wolf for a sheep. We have an instance of this kind when a passionate lover, in spite of all his exertions and entreaties, cannot obtain a hearing upon any terms.

I love and hate her.”— SHAKESPEARE, Cymb. iii. 5.

Vì xét cho cùng hắn đâu có tìm cái hay cho mình, mà tìm cho một đệ tam nhân, còn được cấu sinh, mặc dù cái ảo tưởng bao lấy hắn khiến hắn tưởng mình chỉ có tìm hạnh phúc cho mình. Nhưng cứ cái điều không theo đuổi hạnh phúc cho riêng mình cũng đã phết cho tình yêu say đắm cái nước sơn cao cả làm nó thành một đối tượng đáng được thi ca tán tụng. - Sau hết, tình yêu còn chịu đựng được cả với cái thù tột độ đối với đối tượng của nó; vì thế cho nên Platon đã từng so sánh nó như tình yêu chó sói đối với cừu cái. Thật vậy, đó là điều xảy ra khi một kẻ si mê không được toại nguyện vì một điều kiện nào đó, bất chấp mọi nỗ lực, mọi van lơn của hắn.

Tôi yêu nàng và tôi ghét nàng

Shakespeare

When hatred is kindled, a man will sometimes go so far as to first kill his beloved and then himself. Examples of this kind are brought before our notice yearly in the newspapers. Therefore Goethe says truly:

“Bei aller verschmähten Liebe, beim höllichen Elemente!
Ich wollt’, ich wüsst’ was ärger’s, das ich fluchen könnte!”

Cái thù ghét người yêu, lúc đó bốc cháy, đôi khi đi xa đến mức hắn giết nàng rồi tự xử lấy mình. Hàng năm thường xảy ra nhiều vụ như thế; cứ xem báo thì biết. Nên lời thơ sau đây của Goethe[29] rất đúng:

Bị mọi tình yêu khinh bỉ, bị cái yếu tố độc địa!

Tôi muốn biết cái gì kinh khủng hơn thế nữa, để nói lên niềm bất hạnh của tôi!

It is in truth no hyperbole on the part of a lover when he calls his beloved’s coldness, or the joy of her vanity, which delights in his suffering, cruelty. For he has come under the influence of an impulse which, akin to the instinct of animals, compels him in spite of all reason to unconditionally pursue his end and discard every other; he cannot give it up. There has not been one but many a Petrarch, who, failing to have his love requited, has been obliged to drag through life as if his feet were either fettered or carried a leaden weight, and give vent to his sighs in a lonely forest; nevertheless there was only one Petrarch who possessed the true poetic instinct, so that Goethe’s beautiful lines are true of him:

“Und wenn der Mensch in seiner Quaal verstummt,
Gab mir ein Gott, zu sagen, wie ich leide.”

Quả thật người ta không thể bảo là khoa đại, khi một kẻ si tình gọi là độc ác cái thái độ lạnh lùng và kiêu hãnh của người mình yêu đang tâm lấy nỗi đau khổ của mình làm trò đùa. Vì hắn bị đặt dưới sự chế ngự của một nhu cầu tương tự như bản năng của côn trùng, buộc hắn phải theo đuổi mục đích, bất chấp mọi lý luận của lý trí và gạt bỏ mọi cái ra sau; hắn không tài nào trốn thoát. Đâu phải chỉ có một, mà vô số Pétrarque, suốt đời lê lết, như đeo một xích sắt, một quả tạ ở chân, một mối tình si không thỏa mãn, thở vắn than dài trong các cánh rừng hoang vu; nhưng chỉ Pétrarque mới có hồn thơ, khiến ta có thể áp dụng cho hắn lời thơ diễm lệ này của Goethe:

Và khi mà con người, trong đau khổ, không nói lên lời

Thì đã có một vị thần nói lên những gì tôi chịu đựng.

As a matter of fact, the genius of the species is at continual warfare with the guardian genius of individuals; it is its pursuer and enemy; it is always ready to relentlessly destroy personal happiness in order to carry out its ends; indeed, the welfare of whole nations has sometimes been sacrificed to its caprice. Shakespeare furnishes us with such an example in Henry VI Part III., Act iii., Scenes 2 and 3. This is because the species, in which lies the germ of our being, has a nearer and prior claim upon us than the individual, so that the affairs of the species are more important than those of the individual. Sensible of this, the ancients personified the genius of the species in Cupid, notwithstanding his having the form of a child, as a hostile and cruel god, and therefore one to be decried as a capricious and despotic demon, and yet lord of both gods and men.

[Greek: Su d’ o theon tyranne k’ anthropon, Eros.]
(Tu, deorum hominumque tyranne, Amor!)

Thật ra, tinh thần chủng loại không ngừng chiến đấu chống lại các thần bảo vệ các cá nhân, là kẻ hành hạ họ, là kẻ thù của họ, lúc nào cũng sẵn sàng thẳng tay tiêu diệt hạnh phúc riêng tư để đạt được các cứu cánh của mình; ngay cả sự an lạc của hàng bao nhiêu quốc gia cũng từng là nhạn nhân của các trái chứng của nó: Shakespeare từng cho ta một tỉ dụ về loại này trong vở Henri IV, phần III, hồi 3, các cảnh 2 và 3. Tất cả những gì xảy ra cũng chỉ vì cái chủng loại mà trong đó bản thân ta đóng rễ đối với ta có một quyền hành mật thiết hơn, lâu đời hơn là nhân và do đó các quyền lợi của nó tất cũng hơn. Chính vì trực giác được chân lý này mà cổ nhân đã nhân cách hóa tinh thần chủng loại dưới hình thức thần ái tình, một thứ thần diện mạo ấu trĩ, mà lại nham hiểm, ác độc, và chính vì thế mà ai ai cũng phỉ nhổ, thứ quỷ bất nhất, chuyên chế, tuy nhiên lại làm chủ các thần cũng như loài người.

Hỡi ái tình, thống trị các thần cũng như loài người!

Murderous darts, blindness, and wings are Cupid’s attributes. The latter signify inconstancy, which as a rule comes with the disillusion following possession.

Because, for instance, love is based on an illusion and represents what is an advantage to the species as an advantage to the individual, the illusion necessarily vanishes directly the end of the species has been attained. The spirit of the species, which for the time being has got the individual into its possession, now frees him again. Deserted by the spirit, he relapses into his original state of narrowness and want; he is surprised to find that after all his lofty, heroic, and endless attempts to further his own pleasure he has obtained but little; and contrary to his expectation, he finds that he is no happier than he was before. He discovers that he has been the dupe of the will of the species. Therefore, as a rule, a Theseus who has been made happy will desert his Ariadne. If Petrarch’s passion had been gratified his song would have become silent from that moment, as that of the birds as soon as the eggs are laid.

Một vũ khí giết người, đôi mắt mù lòa và đôi cánh, đó là những biểu hiện của nó. Đôi cánh tượng trưng cho bất nhất, thường thì chỉ xuất hiện với sự thất vọng, con đẻ của khoái lạc. Thật vậy, vì tình yêu dựa vào cái ảo tưởng nó làm lóng lánh những gì chỉ có giá trị cho chủng loại như một của quý cho cá nhân, nên một khi mục đích đã đạt thì ảo ảnh cũng tiêu tan. Tinh thần chủng loại xâm chiếm cá nhân lúc đó cũng trả lại tự do cho cá nhân. Bị ruồng bỏ, cá nhân lại rơi lại trong các giới hạn và trong sự nghèo nàn cổ sơ của hắn, và lấy làm lạ rằng sau bao nhiêu nỗ lực cao đẹp như thế, anh hùng như thế, phi thường như thế, rút cuộc hắn chỉ còn được hưởng cái gì của một cái thú nhục dục; trái với sự mong mỏi, hắn thấy mình cũng chẳng sung sướng gì hơn trước. Hắn nhận thấy mình đã bị cái ý chí của chủng loại lừa bịp; vì thế cho nên một Thésée khi đã chán chường tất rời bỏ nàng Ariane của mình. Nếu tình yêu của Pétrarque lại được thỏa mãn, thì ngày từ phút đó hắn cũng ngưng tiếng hát, cũng như chim hót khi trứng vừa đẻ xong.

Let it be said in passing that, however much my metaphysics of love may displease those in love, the fundamental truth revealed by me would enable them more effectually than anything else to overcome their passion, if considerations of reason in general could be of any avail. The words of the comic poet of ancient times remain good: Quae res in se neque consilium, neque modum habet ullum, eam consilio regere non potes.

Ở đây, thiết tưởng cũng nên nói qua rằng luận điệu siêu hình tình yêu của tôi hẳn làm phật ý những kẻ không mắc lưới tình yêu, cái chân lý căn bản mà tôi nói ra đáng lẽ phải hơn bất cứ mọi cái gì khác, giúp họ có khả năng chế ngự mọi tình yêu, miễn sao những nhận xét lý trí có một quyền lực gì đối với một tình yêu. Tuy nhiên người ta chắc hẳn lại dựa vào lời nói của nhà hài hước Latinh: “Đó là một cái tự nó chả biết gì là khôn ngoan, là chừng mực; ta không thể dùng khôn ngoan mà trị nó được”.

People who marry for love do so in the interest of the species and not of the individuals.It is true that the persons concerned imagine they are promoting their own happiness; but their real aim, which is one they are unconscious of, is to bring forth an individual which can be begotten by them alone. This purpose having brought them together, they ought henceforth to try and make the best of things. But it very frequently happens that two people who have been brought together by this instinctive illusion, which is the essence of passionate love, are in every other respect temperamentally different. This becomes apparent when the illusion wears off, as it necessarily must.

Các cuộc hôn nhân ái tình đều được kết thúc vì quyền lợi của chủng loại, không phải vì quyền lợi của các cá nhân. Đành rằng các được sự tự dối mình với cá ảo ảnh rằng mình hành động cho hạnh phúc của riêng mình, nhưng chính cái cứu cánh thực sự của họ cũng xa lạ đối với chính họ, vì cứu cánh đó là cấu sinh một cá nhân chỉ có thể cấu sinh được do họ mà thôi. Vì thế họ phải làm sao cho được ý hợp tâm đầu hết sức, một khi cái mục đích ấy đã ràng buộc họ với nhau. Nhưng thường thì các cặp được sắp xếp do cái ảo tưởng bản năng kia vốn dĩ là yếu tính của tình yêu say đắm, lại mang một tính chất bất đồng nhất. Sự bất đồng lại càng bộc lộ khi ảo tưởng tiêu tan, một điều không sao tránh khỏi.

Accordingly, people who marry for love are generally unhappy, for such people look after the welfare of the future generation at the expense of the present. Quien se casa por amores, ha de vivir con dolores (He who marries for love must live in grief), says the Spanish proverb. Marriages de convenance, which are generally arranged by the parents, will turn out the reverse. The considerations in this case which control them, whatever their nature may be, are at any rate real and unable to vanish of themselves. A marriage of this kind attends to the welfare of the present generation to the detriment of the future, it is true; and yet this remains problematical.

Vì vậy mà các cuộc phối hợp vì tình thường có một chung cục không tốt đẹp; vì chúng lo cho thế hệ tương lai mà lơ là với thế hệ hiện sống. Quien se casa por amores, ha de vivir con dolores (Kẻ nào lấy vì yêu, kẻ đó sẽ sống trong đau khổ), một câu phương ngôn Tây Ban Nha nói. - Ngược lại là các cuộc hôn nhân môn đăng hộ đối, thường được cấu kết theo sự lựa chọn của cha mẹ. Các điều nhận xét trong trường hợp này, dù có tính chất gì đi chăng nữa, ít ra cũng thực tế và không thể tự chúng tiêu tán được. Chúng chú trọng vào hạnh phúc của các cá nhân hiện hữu, đành rằng bất lợi cho những kẻ đến sau; và cái hạnh phúc kia dù sao cũng chưa có gì làm chắc.

A man who marries for money, and not for love, lives more in the interest of the individual than in that of the species; a condition exactly opposed to truth; therefore it is unnatural and rouses a certain feeling of contempt. A girl who against the wish of her parents refuses to marry a rich man, still young, and ignores all considerations of convenance, in order to choose another instinctively to her liking, sacrifices her individual welfare to the species. But it is for this very reason that she meets with a certain approval, for she has given preference to what was more important and acted in the spirit of nature (of the species) more exactly; while the parents advised only in the spirit of individual egoism.

Người khi lấy vợ, nghĩ đến tiền hơn là thỏa mãn xu hướng của mình, người đó sống như một cá nhân hơn là một phần tử của chủng loại; nhưng như thế là trái với chân lý, nên có vẻ như trái với thiên nhiên và do đó không khỏi bị người khinh khi. Một thiếu nữ, cưỡng lại ý kiến cha mẹ, từ chối lời cầu hôn của một người giàu có và còn trẻ, gạt bỏ sang một bên mọi nhận xét đăng đối và nhất nhất lựa chọn theo xu hướng bản năng của mình, thiếu nữ đó hy sinh cái lợi cá nhân mình cho cái lợi chủng loại. Nhưng chính vì thế mà người ta không thể không tán thành cô ta; vì cô ta thích cái thiết yếu hơn và đã hành động theo tinh thần thiên nhiên (đúng ra là tinh thần chủng loại), trong khi lời khuyên của cha mẹ đi theo chiều vị kỷ cá nhân.

As the outcome of all this, it seems that to marry means that either the interest of the individual or the interest of the species must suffer. As a rule one or the other is the case, for it is only by the rarest and luckiest accident that convenance and passionate love go hand in hand. The wretched condition of most persons physically, morally, and intellectually may be partly accounted for by the fact that marriages are not generally the result of pure choice and inclination, but of all kinds of external considerations and accidental circumstances. However, if inclination to a certain degree is taken into consideration, as well as convenience, this is as it were a compromise with the genius of the species. As is well known, happy marriages are few and far between, since marriage is intended to have the welfare of the future generation at heart and not the present.

- Xem thế thì hình như, trong một cuộc hôn nhân hoặc là cá nhân, hoặc là quyền lợi chủng loại, phải một đằng bị thiệt. Thường thì như vậy hơn; vì muốn cả đăng đối cả tình yêu cùng đi song song thì quả thật là một sự may mắn hy hữu. Sở dĩ bản chất của đa số nhân loại thật tồi tệ về phương diện thể chất cũng như đạo đức và trí tuệ cũng phần vì người ta lấy nhau, chẳng phải vì lựa chọn và tình yêu không thôi, mà còn theo đủ thứ yếu tố ngoại lai, và trường hợp ngẫu nhiên này khác. Nếu trái lại người ta quan tâm phần nào đến tình yêu thêm vào đăng đối, âu đó cũng là một bổ sung cho tinh thần chủng loại. Ai cũng biết các cuộc hôn nhân hạnh phúc rất hiếm; chính vì yếu tính của hôn nhân là cứu cánh, tối thượng của nó chẳng phải là thế hệ hiện tại, mà là thế hệ tương lai.

However, let me add for the consolation of the more tender-hearted that passionate love is sometimes associated with a feeling of quite another kind — namely, real friendship founded on harmony of sentiment, but this, however, does not exist until the instinct of sex has been extinguished. This friendship will generally spring from the fact that the physical, moral, and intellectual qualities which correspond to and supplement each other in two individuals in love, in respect of the child to be born, will also supplement each other in respect of the individuals themselves as opposite qualities of temperament and intellectual excellence, and thereby establish a harmony of sentiment.

Tuy nhiên, để an ủi những tâm hồn âu yếm yêu đương, ta cần nói thêm rằng đôi khi đi đôi với tình yêu nhục dục đắm đuối còn có một tình cảm mang một nguồn gốc khác hẳn, một tình bạn thực sự xây dựng trên sự hòa hợp giữa hai đầu óc; tuy nhiên thường khi tình cảm ấy chỉ biểu hiện khi ái tình đích danh đã tắt vì đã phỉ nguyện. Thường thì nó nảy sinh khi các đặc tính bổ khuyết và tương đối của hai cá nhân, dù là đặc tính thể chất, tinh thần hay trí tuệ, vốn dĩ khiến ái tình nảy nở, để tạo ra cá thể phải cấu sinh, lại bổ khuyết được nhau về tính tình cũng như trí tuệ và do đó giúp cho hai tâm hồn hòa hợp.

The whole metaphysics of love which has been treated here is closely related to my metaphysics in general, and the light it throws upon this may be said to be as follows.

Toàn thể siêu hình tình yêu được trình bày ở đây triệt để phù hợp với siêu hình của tôi nói chung, và ta có thể tóm tắt như sau những điều nó giúp là sáng tỏ thêm thuyết siêu hình của tôi:

We have seen that a man’s careful choice, developing through innumerable degrees to passionate love, for the satisfaction of his instinct of sex, is based upon the fundamental interest he takes in the constitution of the next generation. This overwhelming interest that he takes verifies two truths which have been already demonstrated.

Ta thấy rằng sự tuyển lựa thận trọng trong việc tìm thỏa mãn dục tính, sự tuyển lựa nó lần lần bước lên hàng vô số cấp bực cho đến cái mức độ của tình yêu say đắm, dựa vào mối quan tâm tỉ mỉ của con người đến sự cấu tạo đặc biệt của cá nhân thế hệ tương lai. Và mối quan tâm tha thiết này xác nhận hai chân lý từng được trình bày trong các chương trước:

First: Man’s immortality, which is perpetuated in the future race. For this interest of so active and zealous a nature, which is neither the result of reflection nor intention, springs from the innermost characteristics and tendencies of our being, could not exist so continuously or exercise such great power over man if the latter were really transitory and if a race really and totally different to himself succeeded him merely in point of time.

1 - Tính chất bất diệt của bản thể tự tại của con người, nó tồn tại trong cái thế hệ tương lai kia. Vì mối quan tâm rất hăng hái và nhiệt thành kia, phát sinh không phải do sự suy tư và cố ý, mà do khát vọng do xu hướng sâu kín nhất của bản thể ta, đã không thể lại bất diệt đến thế và có một quyền lực mạnh mẽ đến thế đối với con người, nếu như con người lại tuyệt đối khả diệt và một thế hệ thực sự và hoàn toàn khác hẳn nó chỉ có việc theo nó trong thời gian.

Second: That his real nature is more closely allied to the species than to the individual. For this interest that he takes in the special nature of the species, which is the source of all love, from the most fleeting emotion to the most serious passion, is in reality the most important affair in each man’s life, the successful or unsuccessful issue of which touches him more nearly than anything else. This is why it has been pre-eminently called the “affair of the heart.” Everything that merely concerns one’s own person is set aside and sacrificed, if the case require it, to this interest when it is of a strong and decided nature. Therefore in this way man proves that he is more interested in the species than in the individual, and that he lives more directly in the interest of the species than in that of the individual.

2 - Rằng bản thể tự tại của con người nằm trong chủng loại hơn là trong cá nhân. Vì mối quan tâm đến bản chất đặc biệt của chủng loại kia, nó là nguồn gốc của mọi cuộc tình duyên, từ cái yêu thoáng cho đến mối tình say đắm nhất, quả thật đối với từng người đều là chuyện quan trọng nhất, nghĩa là chuyện mà thành hay bại đều làm người ta xúc động nhất; nên người ta thích gọi đó là những chuyện tâm tình: mọi quyền lợi liên quan đến con người duy nhất nào đó đều được đặt sau quyền lợi của chủng loại, một khi đã biểu lộ mãnh liệt và cương quyết, và nếu cần, phải được hi sinh cho quyền lợi chủng loại. Như thế, con người chứng tỏ rằng nó coi trọng chủng loại hơn là cá nhân, và nó sống gần chủng loại hơn là cá nhân.

Why, then, is a lover so absolutely devoted to every look and turn of his beloved, and ready to make any kind of sacrifice for her? Because the immortal part of him is yearning for her; it is only the mortal part of him that longs for everything else. That keen and even intense longing for a particular woman is accordingly a direct pledge of the immortality of the essence of our being and of its perpetuity in the species.

- Vậy thì tại sao kẻ si tình lại cứ luẩn quẩn hoàn toàn quy lụy trước mắt người mình yêu, sẵn sàng hy sinh mọi cái? - Vì chính cái phần bất diệt của bản thể hắn mới tha thiết khao khát cô ta, còn lại chỉ là phần tất diệt. – Cái khát vọng mãnh liệt và ngay cả thành khẩn kia nhắm vào một người đàn bà nhất định do đó là một đảm bảo tức thời cho tính chất bất diệt của yếu tính của bản thể chúng ta và cho sự tồn tại của nó trong chủng loại.

To regard this perpetuity as something unimportant and insufficient is an error, arising from the fact that in thinking of the continuity of the species we only think of the future existence of beings similar to ourselves, but in no respect, however, identical with us; and again, starting from knowledge directed towards without, we only grasp the outer form of the species as it presents itself to us, and do not take into consideration its inner nature. It is precisely this inner nature that lies at the foundation of our own consciousness as its kernel, and therefore is more direct than our consciousness itself, and as thing-in-itself exempt from the principium individuationis — is in reality identical and the same in all individuals, whether they exist at the same or at different times.

This, then, is the will to live — that is to say, it is exactly that which so intensely desires both life and continuance, and which accordingly remains unharmed and unaffected by death. Further, its present state cannot be improved, and while there is life it is certain of the unceasing sufferings and death of the individual. The denial of the will to live is reserved to free it from this, as the means by which the individual will breaks away from the stem of the species, and surrenders that existence in it.

Nhưng nếu vậy thì khi coi sự tồn tại đó là một cái không đáng kể và tầm thường tất là một điều nhầm lẫn; sở dĩ có sự nhầm lẫn này là vì, nói đến sự tồn tại của chủng loại, người ta chỉ biết liên tưởng đến sự hiện hữu tương lai của những con người giống nhau, nhưng không đồng nhất với chúng ta; và quan niệm này tự nó lại phát sinh ở điều là, khởi đi từ một kiến thức hướng về các ngoại vật, người ta chỉ quan tâm đến hình thức bên ngoài của chủng loại như ta ý thức bằng trực giác, chứ không quan tâm đến bản thể nội tại của nó. Nhưng chính cái bản tính nội tại ấy mới là cái căn bản, là trung tâm của ý thức của chính chúng ta; do đó nó còn trực tiếp hơn là ý thức, và, vì là vật tự tại, nó không lệ thuộc vào nguyên lý cá nhân. Cái bản tính này thật ra ở mọi cá nhân đều có như nhau, dù họ sống đồng thời hay kế tiếp nhau.

Nó chính là cái ý chí sống, tức là cái gì đòi hỏi rất ư khẩn thiết sự sống và sự sống còn. Cái ý chí ấy được miễn chết; cái chết không động đến nó. Nhưng đồng thời, nó cũng không thể đạt đến một trạng thái tốt đẹp hơn là trạng thái hiện tại của nó; nên cái chời đợi nó với sự sống muôn đời vẫn là sự đau khổ và cái chết dành cho các cá nhân. Chỉ có sự phủ nhận cái muốn sống mới giải thoát nó khỏi đau khổ và chết; có phủ nhận cái muốn sống, ý chí cá nhân mới dứt mình ra khỏi cái gốc chủng loại và từ bỏ mọi hiện hữu trong chủng loại.

We are wanting both in ideas and all data as to what it is after that. We can only indicate it as something which is free to be will to live or not to live. Buddhism distinguishes the latter case by the word Nirvana. It is the point which as such remains for ever impenetrable to all human knowledge.

Muốn hiểu lúc đó nó là gì, ta không đủ sức hiểu, và cũng thiếu hết các dữ kiện liên quan đến nó. Chúng ta chỉ có thể mệnh danh nó như một cái gì có tự do sống hay không có ý chí sống. Trong trường hợp sau, Phật giáo dùng danh từ Niết bàn. Đây là điểm mà kiến thức của con người không tài nào hiểu nổi.

Looking at the turmoil of life from this standpoint we find all occupied with its want and misery, exerting all their strength in order to satisfy its endless needs and avert manifold suffering, without, however, daring to expect anything else in return than merely the preservation of this tormented individual existence for a short span of time. And yet, amid all this turmoil we see a pair of lovers exchanging longing glances — yet why so secretly, timidly, and stealthily? Because these lovers are traitors secretly striving to perpetuate all this misery and turmoil that otherwise would come to a timely end.

Nếu giờ đây (theo cái viễn tưởng của các ý nghĩ cuối này), ta nhìn sâu vào cái náo nhiệt của đời sống, ta thấy mọi con người bị giày vò bởi những đau khổ lo âu của kiếp sống này, ra sức thỏa mãn các nhu cầu vô tận và chống lại muôn điều khổ não, để không mong mỏi gì hơn là bảo tồn cái kiếp sống cá nhân quằn quại trong một thời gian ngắn ngủi. Thế mà giữa cảnh hỗn loạn ấy, ta bắt gặp bốn mắt giao nhau đầy thèm muốn của đôi nhân tình. - Nhưng tại sao lại phải nhìn trộm, sợ sệt, lén lút? - Bởi vì đôi nhân tình kia là những kẻ phản bội thầm lén tìm cách lưu tồn tất cả cái khốn khổ, tất cả các phiền não kia nếu không có họ tất phải chấm dứt; họ muốn ngăn cản không cho chúng dứt; cũng như các kẻ giống họ từng làm trước họ. Nhưng nói vậy là đã đi quá chương này rồi.


SIÊU HÌNH TÌNH YÊU

Luyến ái đam mê: nghề nhân loại!

Cam thân tàn hoại, toại cõi tình!

Yêu yêu trong nẻo lụy hình,

Mong vơi vài khắc một mình một ta.

Tham vấn Arthur Schopenhauer về TÌNH YÊU:

TÌNH YÊU, thử hỏi đâu ra?

Ông Arthur đáp: vốn là bản năng!

Bản năng của cá nhân chăng?

Lắc đầu, ông nói: bản năng chủng loài.

Chủng loài luôn trọng ngày mai,

Cá nhân xây dựng tương lai chủng loài.

Trong ý chí bất kỳ ai,

Chủng loài biểu thị miệt mài thiên thu.

Bản năng vốn dĩ đặc thù,

Cá nhân yêu cứ rối bù ngu ngơ.

Yêu mong thể xác cào quơ

Mất đi ân ái, mù mờ yêu đương.

Đến đây ông mới tỏ tường:

Tình yêu là để tượng mường đứa con!

Đấy là mục đích sống còn,

Chủng loài đắc thắng vẹn tròn mục tiêu.

Cá nhân chỉ biết một điều:

Bản năng sinh nở thuận chiều tự nhiên.

Con là của báu thiêng liêng,

Gắn cha, gắn mẹ, gắn liền tổ tông.

Chủng loài vui sướng thỏa lòng

Bánh xe lạc thú cứ vòng vòng xoay!

Cá nhân đã quá thơ ngây,

Tưởng đâu lạc thú nằm trong tay mình.

Nào ngờ loài chủng vô tình,

Bao nhiêu lợi lạc một mình một say.

Cá nhân còn lại gì đây?

Ngoài chút khoái lạc, song cay vô ngần!

Và ông khoái chí xa gần,

Bao nhiêu lựa chọn hồng trần nhân gian

Làm cho chủng loại không tàn

Làm cho khủng hoảng, bàng hoàng cá nhân.

Nghe thêm? Xin hãy đến gần…


Hoàng Thiên Nguyễn









No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn