Dịch giả Thái Bá Tân vừa gởi tặng bản dịch thơ cổ sau. Xin giới thiệu cùng các bạn. Bản tiếng Nga và tiếng Anh sẽ bổ sung sau. Xin mời thưởng thức.
Nguyen quang
THƠ CỔ BA TƯ
*
THÁI BÁ TÂN
dịch từ tiếng Nga
PHẦN 3TRUYỆN
Lucman da đen, gầy, nhỏ bé,
Nên bị nhầm là một tên nô lệ.
Và rồi ông, một hiền sư tài ba,
Bị lính trói, bắt đem đi xây nhà.
Trong một năm đòn roi ông nếm đủ,
Nhưng đã xây xong ngôi nhà cho chủ.
Còn chủ ông, một ngày nọ vô tình
Nhận ra ông, vội hốt hoảng giật mình
Quì xuống lạy, khóc, van nài tha tội.
Lucman chỉ mỉm cười và nói:
"Cái tham lam, cái tàn ác của ngươi
Và cái nhục của ta, ta nhớ đời.
Nhưng không sao, ta sẽ tha, đừng khóc.
Chính nhờ ngươi ta có thêm bài học:
Ta cũng nuôi một nô lệ trong nhà.
Trước ta từng tàn nhẫn với anh ta.
Nay do biết thế nào là nô lệ,
Ta đối xử với anh ta tử tế."
Ai suốt đời chỉ sung sướng vui chơi,
Sẽ không hiểu cái buồn đau sự đời.
Anh bị vua trách oan, xin hãy nhớ
Để đừng trách người dưới quyền vô cớ.
Chương Năm
VỀ SỰ CAM CHỊU SỐ PHẬN
Đêm khó ngủ, tôi khêu đèn suy nghĩ,
Rồi cao hứng đọc thành thơ, thành ý.
Có anh chàng nghe thấy, đến khen tôi,
Tuy anh ta về thơ phú rất tồi.
Trong mỗi câu, mỗi lời anh ta nói
Đầy ác ý, đầy ghen tuông, giả dối.
"Chao, Saađi, ý tưởng của Saađi,
Như người xưa, thật cao đẹp, thần kỳ!
Chỉ tiếc ông không viết về trận mạc
Như nhà thơ Firđôu
si lỗi lạc".
Anh ta quên rằng xưa nay bao giờ
Tôi cũng yêu hòa bình, yêu thơ.
Trời bắt thế, cái số tôi nó thế,
Nên làm khác, tất nhiên tôi chẳng thể.
Ngay từ bé, tôi dút dát, hiền lành,
Lại ốm yếu nên rất ngại chiếc tranh.
Nhưng nếu cần, để giết thù, như kiếm,
Lưỡi của tôi cũng vô cùng nguy hiểm.
* * *
Ta có thể khôn ngoan hơn người,
Nhưng không thể khôn ngoan hơn trời.
Nếu thượng đế đã đem lòng ghen ghét
Thì không gì cứu được ta thoát chết.
Ai được trời cho sống đến trăm năm,
Thì đừng lo bị chém, cứ yên tâm.
Ta bất lực trước bàn tay số phận.
Hãy đi theo con đường trời định sẵn.
Chương Sáu
VỀ VIỆC BIẾT HÀI LÒNG
VỚI NHỮNG GÌ BÉ NHỎ
TRUYỆN
Có một người yêu thơ tôi, ông ta
Đem tặng tôi chiếc lược quí bằng ngà.
Nhưng một hôm, do bực mình đâu đó,
Chính ông ta đã gọi tôi là chó.
Tôi vội vàng đem lược đến, nói ngay:
"Đây, trả ông chiếc lược khốn kiếp này!"
Tôi nghiêm khắc với bản thân, không thể
Cho phép ai xúc phạm mình như thế.
* * *
Ai tham lam lo làm giàu, người đó
Không tin trời, sẽ bị trời ghét bỏ.
Tốt là ai chăm cuộc sống tinh thần.
Xấu là người chỉ sống để mà ăn.
Mang cái tham trong lòng như đá nặng,
Chim làm sao bay nhanh, cao và thẳng?
Để làm người, điều trước tiên là anh
Phải giết chết chất thú vật trong mình.
Chính vì tham mà chim muông, thú vật
Chui vào bẫy để chờ người đến bắt.
Ai suốt đời luôn yến tiệc no say,
Tâm hồn đói như những người ăn mày.
Sống mà ăn hay ta ăn mà sống?
Bụng căng đầy, trong khi đầu trống rỗng?
Người tham ăn sẽ to béo, nặng nề.
Cái bụng đầy làm đầu óc u mê.
Ở đời này sao chỉ tìm khoái lạc,
Cứ như thể không còn gì hơn, khác.
Tất nhiên ta ai sống chẳng cần ăn,
Nhưng cần hơn là giá trị tinh thần.
TRUYỆN
Có người nọ không hiểu gặp gì oan,
Mà một lần đến gõ cửa nhà quan.
Ông ta lạy như lạy trời, đến nỗi
Anh con trai thấy ngượng ngùng, bèn nói:
"Đức chí tôn ở phía này, sao cha
Phải lạy quan như lạy thánh Alla?"
Chuyện chỉ thế, nhưng qua đây ta thấy
Rằng không phải việc gì, ai cũng lạy.
Một khi anh không tôn trọng chính mình,
Thì làm sao tránh khỏi bị người khinh?
Người bản lĩnh với tâm hồn mạnh mẽ
Sẽ không tự hạ mình làm nô lệ.
Điều thấp hèn anh tránh được hôm nay
Nghĩa là tránh được tai họa sau này.
Giờ hăm hở một vài bông anh nhặt,
Mà không tiếc cả vụ mùa anh mất.
Chương Bảy
VỀ SỰ TU THÂN
Giờ tôi nói về điều khôn, lẽ sống,
Không phải về ngựa đua hay chó giống.
Kẻ thù anh ở ngay trong người anh,
Đừng uổng công lo tìm kiếm xung quanh.
Ai thắng nổi bản thân mình, người ấy
Hơm cả Sham và Rustam lừng lẫy.
Hãy kìm anh bằng cách biết khiêm nhường.
Hãy luôn luôn để lý trí dẫn đường.
Vì tội lỗi, tính tham, lòng ghen tị
Sẽ suốt đời bám theo anh không nghỉ.
Những điều trên tai ác nếu cùng nhau
Tấn công anh thì anh khó đương đầu.
Khi lý trí có bàn tay vững mạnh,
Mọi cái xấu sẽ tìm đường lẩn tránh.
Như lính canh không ngủ, biết canh phòng,
Thì cuối cùng tên trộm phải về không.
Vua bất lực trước những người có tội,
Thì nước vua, vua không cai trị nổi.
Nhưng mà thôi, tất cả những điều này
Không ít người đã nói tới xưa nay.
Tốt hơn hết, ngồi xếp chân lặng lẽ,
Anh sẽ nhận được lời khen thượng đế.
* * *
Hãy cân nhắc mỗi câu từ, đừng vội.
Đừng lên tiếng khi có người đang nói.
Ai lặng im khi người khác lắm lời
Mới thực sự thông minh hơn mọi người.
Trăm mũi tên bắn ra ngoài vô ích,
Không bằng bắn một mũi tên trúng đích.
Đừng bao giờ đơm đặt hại ngầm ai,
Vì nghe đồn: Tường đá cũng có tai!
Trái tim anh như ngôi nhà, hãy nhớ
Đóng chặt cửa, nếu không cần, chớ mở.
TRUYỆN
Vua Takash trong một lần vui vẻ,
Khi trò chuyện với đám người nô lệ,
Ngài vô tình đã buột miệng nói ra
Một đôi điều bí mật của hoàng gia.
Và sau đó, những điều này bí mật
Đã lan truyền khắp nơi trong nháy mắt.
Vua vô cùng tức giận quát: "Lính đâu,
Đem mấy tên nô lệ ấy chém đầu!"
Nhưng một tên liền khóc to thảm thiết
"Không, xin vua hãy tha cho, đừng giết.
Vì chính vua đã nói lộ ra ngoài
Điều không cần phải thổ lộ với ai.
Một khi vua phá vỡ đê như vậy,
Thì làm sao ngăn không cho nước chảy?"
Người coi kho lo canh trộm đêm ngày.
Bí mật anh, anh đừng lộ ai hay.
Hãy im lặng, vì nói thừa, sau đó
Anh sẽ bị miệng người đời làm khổ.
Vì lời anh, như quỉ nhốt trong chai,
Bắt làm sao khi đã thoát ra ngoài?
TRUYỆN
Vua Azad có một người con trai
Không hiểu sao lắm bệnh, ốm kéo dài.
Một người khuyên phóng thích chim, hy vọng
Chim mang lại điều lành cho người sống.
Azat nghe, sai mở hết các lồng,
Chim từng đàn được thả, vút lên không.
Vua chỉ giữ chim họa mi không thả
Vì chim hót nhiều và hay hơn cả.
Sáng hôm sau con vua khỏi, nhìn ra
Thấy họa mi vẫn bị nhốt trong nhà.
"Thật tội nghiệp, hóa ra vì hay hót
Và hót hay mà chính ngươi bị nhốt!"
* * *
Ý nghĩ anh, để nó chín trong đầu.
Nói ra ngoài thường chẳng tốt gì đâu.
Khi tranh luận phải đưa ra chứng cớ.
Gì không biết, hỏi người ta, đừng sợ.
Không thì xin cứ bắt chước Saađi,
Ngồi lắng nghe người khác, chẳng nói gì.
Đừng nghe lời kẻ dèm pha, giả dối,
Và tất nhiên, phải lánh xa tội lỗi.
Trước khi chê những người xung quanh,
Hãy nghiêm khắc ngẫm lại chính mình.
TRUYỆN
Một ông già kể tôi nghe gần đây
Một câu chuyện rất lý thú thế này.
(Những người già thông minh, hiền, khắc khổ.
Tôi sẵn sàng suốt đời nghe chuyện họ).
"Một lần kia, ở Ấn Độ, bỗng nhiên
Tôi đã gặp một thằng mọi da đen.
Hắn cao lớn, da rất đen, xấu xí.
Thật không ngoa khi đem so với quỉ.
Tay hắn ôm một cô gái, và rồi
Cả hai người môi áp chặt vào môi.
Tôi thấy thế, lòng vô cùng tức giận,
Quyết định cứu cô nàng kia khỏi hắn.
Tôi kêu to: "Tên nô lệ đê hèn!"
Rồi vội vàng đánh tên mọi da đen.
Hắn liền chạy, lo thoát thân, tôi nghĩ:
"Ta đã cứu một người từ tay quỉ!"
Nhưng lạ thay, người tôi cứu vừa rồi
Lại bất ngờ túm chặt cánh tay tôi
Và la lớn: "Mày là tên giả dối,
Bán sự thật để mua điều tội lỗi.
Ta đang yêu con người ấy, can gì
Mà mày dùng gậy gộc đánh, xua đi?"
Cô ta khóc, kêu ầm lên, như thể
Tôi, thằng già, giở trò không tử tế.
"Làng nước ôi, bắt lấy hộ. Ông ta
Dám cho tay vào chỗ kín đàn bà!"
Cứ như vậy, cô ta vừa tru tréo
Vừa túm chặt áo quần tôi mà kéo.
Cho tới khi tôi nghĩ: "Đến nước này
Phải bỏ quần mà trốn khỏi nơi đây".
Thế là tôi đành trần truồng tháo chạy.
Quần và áo trong tay cô gái ấy.
Một năm sau, tôi gặp lại cô ta:
Cô đây ư, không còn nhớ tôi à?
Sau lần đó tôi đã thề cương quyết
Không nhúng mũi vào nơi không cần thiết".
Hỡi những người từng trải, tốt, thông minh,
Hãy chăm lo làm việc tốt của mình.
Hãy im lặng. Nếu không im lặng nổi,
Thì hãy nói như Saađi nói.
* * *
Anh gặp ai, dù người tốt hay tồi,
Đừng bao giờ nói xấu, hãy nghe tôi -
Với người ngay, đó là điều tội lỗi,
Còn người gian sẽ thành gian gấp bội.
Một khi anh nói xấu láng giềng mình,
Thì dù đúng, vẫn là điều đáng khinh.
Có một anh nói xấu người đã chết,
Bị ngắt lời bởi một nhà hiền triết:
"Anh im đi, đừng vu cáo người lành.
Đừng bắt tôi phải nghĩ xấu về anh."
Một anh bạn bảo tôi: "Người nói xấu
Còn xấu hơn bọn cướp đường, thảo khấu."
Tôi không hiểu, hỏi vì sao. Anh này
Đáp: "Cướp đường phải cướp đường xưa nay
Vì chúng đói. Còn bọn kia độc ác,
Chỉ ngứa mồm mà vu oan người khác!"
* * *
Hồi còn học ở Nizam, thực tình,
Tôi rất chăm, học đến mức quên mình.
Học ngày đêm, đạt được nhiều tiến bộ.
Tôi còn nhớ, tại cuộc vui nào đó,
Tôi buột mồm: "Anh hàng xóm, than ôi,
Không hiểu sao, đã bắt đầu ghen tôi.
Nghe tôi nói về những điều thông thái,
Anh ta ghen, mặt sưng xì, thật hãi!"
Ông thầy tôi, đúng lúc ấy ngồi bên,
Hỏi: "Làm sao cậu biết người ta ghen,
Khi người ta không nói gì? Sao cậu
Chưa biết chắc đã bắt đầu nói xấu?
Anh ta ghen, trời sẽ phạt anh ta.
Cái thói ấy, cậu hãy nên tránh xa."
* * *
Ở đời này, ba loại người đáng ghét,
Nếu muốn tránh, mọi người cần phải biết.
Đó là vua mà áp bức dân lành,
Vì tham tiền, gây nên họa chiến tranh.
Vua loại đó, tham lam và độc ác,
Sớm hoặc muộn sẽ bị thay vua khác.
Bọn thầy tế là loại xấu thứ hai,
Xấu bên trong mà vờ tốt bên ngoài,
Còn thản nhiên dạy người đời việc đạo.
Phải vạch mặt lũ người này trâng tráo.
Loại thứ ba là trộm cướp, Saađi
Không cần nói cũng biết chúng là gì.
* * *
Anh chồng nghèo có thể sướng như tiên
Nếu cô vợ biết lo, tốt và hiền.
Ai cuộc sống gia đình không lục đục
Và có vợ ít lời là hạnh phúc.
Vợ thông minh, xinh đẹp, lại biết điều
Thì chồng nào ngu ngốc mới không yêu?
Vợ nhân hậu, luôn nói năng lễ phép
Thì vẫn đẹp dù bề ngoài không đẹp.
Ai không may có vợ chẳng ra gì
Thì liệu hồn mà sớm bỏ ra đi.
Thà ngồi tù với hai tay mang xích,
Hơn thấy vợ trong nhà như thù địch.
Ở nhà ai vợ nhăn nhó suốt ngày -
Chẳng bao giờ có hạnh phúc, điều hay.
Vợ anh hư mà anh đành chịu vậy,
Thì anh hãy tô môi son, mặc váy.
Còn một khi ngay cả trước mặt chồng,
Vợ anh cười lơi lả với đàn ông
Và bắt đầu âm mưu điều tội lỗi,
Thì quả tôi không còn gì để nói.
Nhưng Saađi, gặp ai cảnh gia đình
Lắm đau buôn, ngươi cũng hãy làm thinh,
Vì chính ngươi không ít phen khổ sở
Vì tình yêu, và tất nhiên vì vợ.
* * *
Có anh chồng một hôm kêu với bạn:
"Tôi lấy vợ, có gia đình, thật chán.
Phải làm lụng, phải chịu đựng suốt ngày
Như nửa dưới cối xay mì quay tay!"
Một ông già đứng bên nghe, nói khẽ:
"Chỉ có thế thôi ư, anh bạn trẻ?
Làm nửa dưới thật buồn, nhưng anh quên,
Rằng tối đến, anh được làm nửa trên.
Đời là vậy, mà rồi tình cũng vậy,
Sướng và khổ đi kèm nhau, thế đấy.
Anh lấy vợ khổ một tí, chết ai.
Anh tìm đâu hoa hồng không có gai?"
* * *
Một lần kia, đang giữa lúc vui cười,
Tôi nhớ tôi có nhận xét một người
Rằng anh ta có chiếc răng bị gãy.
Một ông già ngồi bên tôi lúc ấy
Đã nhìn tôi nghiêm khắc, nói thế này:
"Anh vừa rồi có nhận xét không hay.
Bao cái đẹp người ta anh chẳng thấy,
Mà đã kịp nhìn ra răng bị gãy".
Khi thấy người vấp ngã giữa đường đi,
Cũng không nên chê trách lắm làm gì
Nếu người ấy, tuy có sai, dại dột,
Nhưng nói chung là thông minh và tốt.
Biết làm sao, không lẽ hái hoa hồng,
Thấy gai nhiều ta lại bỏ? Ồ không.
Người độc ác không thấy công là đẹp,
Mà chỉ thấy chân quá gầy, ngực lép.
Da anh đen cứ lấy phấn mà bôi,
Nhưng gương mờ, gương không sạch đừng soi.
Cứ lặng lẽ tự trách mình, chớ vội
Nhìn người khác để bới tìm tội lỗi.
Tôi ra sao, là người tốt hay tồi,
Chỉ một mình thượng đế biết mà thôi.
Tôi khuyên anh không quan tâm điều đó.
Tự mình tôi gánh chịu điều thua lỗ.
Khi thằng ngu bắt gặp tập thơ này
Và hững hờ lần giở nó trên tay,
Thì tất cả các điều hay, triết lý
Hắn mù tịt, cũng chẳng thèm suy nghĩ,
Hắn chúi đầu tìm bắt lỗi hành văn
Để reo lên đầy thích thú mỗi lần.
Trời sinh ta, những người trần khiêm tốn,
Dở và hay, tốt và tồi lẫn lộn.
Chương Tám
VỀ SỰ BIẾT ƠN
Nói về lòng biết ơn ư? Thiết nghĩ
Không một ai có đủ từ, đủ ý.
Ơn thượng đế, nơi vũ trụ bao la,
Từ hư vô đã sáng tạo nên ta.
Ngài dìu dắt chúng ta đi từ bé,
Cho đôi mắt, cho tâm hồn, sức khỏe.
Anh sinh ra vốn sạch, vậy làm sao
Đừng sơ ý để bụi bẩn bám vào.
Cuộc đời anh như tấm gương bé nhỏ,
Nhớ lau chùi để gương không bị ố.
Anh, hạt cát giữa sa mạc cuộc đời.
Nhờ thượng để anh mới trở thành người.
Anh khổ luyện, thành thông minh, danh giá.
Anh tưởng đấy là do công anh cả?
Không, chúa trời trong mỗi bước ta đi.
Vâng, cả anh, và cả tôi, Saađi.
TRUYỆN
Một hoàng tử trong cuộc đua lần nọ
Vì ngã ngựa, không may thành sái cổ.
Ngã làm sao đến không thể ngoái đầu.
Cổ cứng đờ, xương và thịt đều đau.
Các thầy thuốc đành bó tay, phải đợi
Đến Hy Lạp mời một thầy thuốc tới.
Ông thầy này liền đắp thuốc, nắn xương,
Chẳng bao lâu hoàng tử lại bình thường.
Nhưng hoàng tử, chẳng bao lâu sau đó
Quên người mới giúp mình thôi sái cổ.
Ông định xin hoàng tử một điều gì,
Nhưng phớt lờ, hoàng tử đã quay đi.
Ông xấu hổ, đành cúi đầu bối rối.
Trước khi bỏ đi xa, ông tự hỏi:
"Không được ta cứu chữa, hỏi bây giờ
Hắn dễ dàng dám quay mặt giả làm ngơ?"
Rồi ông gửi cho người vô ân đó
Một gói thuốc, gọi "thuốc tiên, đại bổ".
Hoàng tử tin, uống hết, bỗng bất ngờ
Xương lại đau, và cổ lại cứng đờ.
Hắn sợ hãi, vội tìm ông chữa chạy,
Nhưng tìm mãi mà không sao tìm thấy.
Chương Chín
VỀ SỰ HỐI LỖI VÀ
CON ĐƯỜNG CHÍNH ĐẠI
* * *
Anh đã sống bảy mươi năm rồi nhỉ?
Cuộc đời anh, phải chăng anh để phí?
Bảy mươi năm anh cóp nhặt từng đồng,
Sao bây giờ vẫn túi rỗng, tay không?
Người như anh, ngày Cuối cùng Phán xét,
Sẽ gay đấy, vì chết chưa là hết.
Ai cho nhiều sẽ nhận nhiều sau này.
Ai keo kiệt rồi cuối cùng trắng tay.
Giờ anh mất chỉ năm đồng xu nhỏ,
Mà thấy tiếc, ngủ không ngon, đau khổ.
Anh đã sống bảy mươi năm - khá nhiều!
Nhưng những ngày còn lại được bao nhiêu?
Đừng để phí cuộc đời anh, chắc chắn
Không còn nhiều thời gian mà hối hận.
TRUYỆN
Khi còn trẻ, cứ hàng ngày sáng dậy,
Hẹn hò nhau, chúng tôi vui đâu đấy.
Chiều chúng tôi nghịch ngợm đủ các trò,
Hát rồi cười, rồi ăn uống vô lo.
Trong khi đó, một người đầu bạc trắng
Ngồi cạnh cửa nhà bên, buồn, im lặng.
Trong chúng tôi, một người nói: "Thế nào,
Ông suốt đời định buồn thế hay sao?
Thôi, đứng dậy, hãy quên đi buồn bực,
Hãy nhập bọn chúng tôi, vui thả sức".
Ông già nghe, liền nghiêm nghị chau mày:,
Một lúc sau đã đáp lại thế này:
Hãy nhìn kia, gió xuân đang thổi nhẹ,
Làm chồi non đung đưa, đùa vui vẻ.
Nhưng tiếc thay, cùng một lúc, lá vàng
Rụng trong vườn, nằm dưới đất ngổn ngang.
Ta cũng vậy, nay yếu già sắp chết,
Nhưng có thời trẻ trung, không biết mệt.
Làm sao ta khi tóc bạc thế này
Có thể cùng đám trẻ uống và say?
Lá đã rụng trong vườn ta lạnh lẽo.
Đã đến lúc hoa vườn ta phải héo.
Giờ, than ôi, chỉ cái gậy người già
Là ít nhiều còn chống đỡ đời ta.
Trẻ ăn chơi may còn tha thứ nổi.
Chứ người già ăn chơi là tội lỗi.
* * *
Ta, trần tuc, không người nào sống mãi.
Cả người ác, người công tâm, nhân ái.
Thật đau buồn khi nghĩ: chẳng bao lâu
Ta cũng chết, xác nằm dưới đất sâu.
Tôi còn nhớ một lần đang đào hố
Thì chợt nghe có tiếng ai nói nhỏ:
"Xin anh bạn hãy làm ơn nhẹ tay,
Vì xác tôi đang chôn ở nơi này".
TRUYỆN
Có hai người vốn xích mích từ lâu,
Lớn đến mức đang định ngầm giết nhau,
Thì thần chết bắt một người phải chết,
Làm người kia, tất nhiên, mừng khôn xiết.
Mấy năm sau, một tối nọ, anh ta
Lén thăm mồ đối thủ mé rừng xa.
Anh ta bước vào mồ, chưa hết giận:
"Trời có mắt, thế là ta thoát hắn!
Để ta xem bây giờ ai hơn ai?"
Rồi anh ta hăm hở cậy quan tài.
Nhưng đối thủ mà anh ta nhìn thấy
Nay chỉ còn là nắm xương mục gẫy.
Con người to, mới khỏe mạnh ngày nào
Giờ làm mồi cho giun dế, buồn sao.
Răng bị gãy, miệng há to đầy đất,
Và dòi bọ bám quanh hai hố mắt.
Anh chàng kia đứng lặng, ngẫm về đời,
Bỗng thấy buồn, thậm chí nước mắt rơi.
Rồi sai dựng cho kẻ thù ngôi mộ
Với dòng chữ anh ta đề trên đó:
"Kẻ thù chết, xin chớ vội mừng ngay,
Vì chính anh cũng sẽ chết thế này".
Một hiền triết đang sống gần, nghe thế
Liền quì lạy mà rằng: "Thưa thượng đế,
Với người ấy, ân người thật bao la,
Vì kẻ thù cũng thương xót anh ta"
Chương Mười
LỜI CẦU NGUYỆN, VÀ CŨNG LÀ ĐOẠN KẾT CUỐN SÁCH NÀY
Ôi thượng đế, không xin ngài xá tội,
Con chỉ xin được ngài cho cải hối.
Lỗi lầm con quá lớn, chẳng bao giờ
Mong được ngài tha thứ hoặc làm ngơ.
Người già yếu khi ngã nằm đâu đấy,
Không có người nâng lên, không thể dậy.
Cũng như con, rất già yếu lúc này,
Con cần ngài giúp đỡ, hãy chìa tay.
Con không muốn chức quyền, con mềm yếu,
Con chỉ mong được ngài tha, được hiểu.
Mặc những người không biết, cứ khen con,
Dù trong con nhiều cái xấu đang còn.
Không một ai trên đời này có thể
Che giấu nổi đôi mắt thần thượng đế.
Con thành công khi được hưởng ân ngài.
Nếu bất ngờ ngài bỏ, biết theo ai?
Đây, cuốn sách về quãng đời con sống,
Chắc không ít các điều sai, hư hỏng,
Và tất nhiên, nếu ngài chẳng đỡ đầu,
Thì sách này con phải bỏ từ lâu.
RUMI
Jaladdin Rumi sinh năm 1207 ở thành phố Balkh, trong một gia đình có học nổi tiếng. Bố ông, Bakhaddin Muhamad ibn Hussein là nhân vật có quyền lực trong triều, sau vì bất đồng với vua mà phải ra sống ở nước ngoài, mang Rumi đi theo, lúc ấy mới sáu tuổi, cuối cùng được giữ một chức vụ trong nhà thờ Hồi giáo ở thành phố Kônyô.. Sau khi bố chết, Rumi đảm nhiệm chức này, lúc đã trưởng thành. Từ năm 1244 Rumi dành trọn cuộc đời mình đeo đuổi sufism, một triết lý tín ngưỡng mang tính huyền bí. Điều này ảnh hưởng đến toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông, đặc biệt "Tập thơ lớn về Shams" (Divan -e Shams - e Tabrizi), một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của thơ Ba Tư trữ tình. Những năm cuối đời ông sáng tác bộ "Mathnawi Maanavi" (Mathnawi tinh thần) gồm sáu tập dày mang tính giáo huấn, thần bí và tôn giáo theo tinh thần sufism. Ông mất ở Kônyô tháng Bảy năm 1273. Hiện mộ ông vẫn còn ở đấy và là nơi hành hương của những người yêu văn học. Hơn bảy trăm năm sau, Rumi trở thành nhà thơ nước ngoài được yêu chuộng nhất ở Mỹ.
NGƯỜI NÔNG DÂN VÀ CON SƯ TỬ
Có một con sư tử đói, một lần
Lọt vào chuồng gia súc bác nông dân.
Sư tử bắt và ăn con bò cái
Rồi nằm nghỉ trong chuồng bò thoải mái.
Người nông dân đêm dậy, chẳng thắp đèn
Ra thăm bò, trăng lúc ấy chưa lên.
Trong bóng tối ông vuốt lông sư tử,
Không sợ hãi, không mảy may do dự.
Sư tử nghĩ: "Đúng giống lừa hai chân,
Hắn tưởng ta là bò cái ngu đần.
Nếu có đèn để một lần hắn thấy,
Hắn có dám vuốt ve ta như vậy?
Chỉ cần nhìn đôi nanh sắc của ta
Là hắn sợ đến mắt phải lòi ra".
Một bài học: Trước khi làm gì đó,
Ta phải biết việc mình làm thật rõ.
ÔNG ĐIẾC THĂM NGƯỜI ỐM
Ông hàng xóm của một người ốm nọ
Ốm nhiều ngày, phải nằm yên một chỗ.
Ông ta điếc, nghĩ: Mình điếc, làm sao
Thăm người ốm, phải ăn nói thế nào?
Khó thật đấy, nhưng nhà sau, nhà trước,
Lúc đau ốm không thăm nhau sao được?
Dẫu mình điếc, nhưng không ngốc, ơn trời,
Sẽ nhìn môi mà đoán hiểu, lựa lời.
"Bác cảm thấy thế nào?" mình sẽ hỏi.
"Tôi đỡ hơn", chắc ông ta sẽ nói.
"Tôi rất vui!" mình nói. "Bác ăn gì?"
Ông ta đáp: Ăn cháo hoặc bánh mì.
Mình sẽ nói: "Ăn nữa đi, rất tuyệt.
Thế thầy thuốc là ai, tôi muốn biết?"
Chắc ông ta sẽ nhắc một tên người.
Mình đáp ngay: "Bác phải tạ ơn trời.
Tôi thật sự rất mừng cho bác.
Thầy thuốc này quả tài ba, lỗi lạc".
Chuẩn bị sẵn những câu này ở nhà,
Ông vội vàng sang hàng xóm. Từ xa
Ông lên tiếng và tỏ ra lịch sự:
"Bác thế nào, đã đỡ hơn rồi chứ?"
"Tôi sắp chết," người ốm nói. "Rất may!
Ơn thượng đế ban cho bác điều này".
Nghe nói thế, người ốm lạnh toát người:
"Hắn là thằng hàng xóm xấu nhất đời".
Còn ông điếc thì nhìn môi người khác
Mà đoán hiểu theo ý mình sai lạc.
Một chốc sau ông hỏi: "Bác ăn gì?"
"Ăn thuốc độc." "Thế à? Ăn nữa đi.
Ai chữa bệnh bác chóng lành như vậy?"
"Quỉ Sa-tăng. Cút đi, đừng đứng đấy!"
Ông điếc đáp: "Thế là bác gặp may.
Ít ai giỏi và tốt hơn người này!"
Rồi ông về, rất vui và thỏa mãn
Rằng ông đã chân thành khích lệ bạn.
CHUYỆN CON VOI
Người ta đem voi về từ Ấn Độ,
Trong chuồng tối, cho nhốt riêng một chỗ.
Ai muốn xem phải chi khá nhiều tiền.
Được vào chuồng, nhưng trong chuồng tối đen.
Nghĩa là xem, nhưng không nhìn để thấy,
Mà chỉ sờ bằng tay, ai cũng vậy.
Chưa một ai từng thấy voi xứ này,
Nên mọi người giờ tranh cãi gắt gay.
Một người sờ đúng vòi voi, và nói:
"Voi tròn tròn, dài dài như ống khói!"
Một người khác lại sờ đúng chân voi,
Nên tuyên bố: "Voi giống như cây sồi!"
Người thứ ba sờ tai voi, liền quát:
"Toàn nói láo! Voi có hình chiếc quạt!"
Người thứ tư sờ lưng voi, thở dài:
"Voi trông giống bức tường, thưa các ngài".
Rồi cứ thế, thơ ngây và nhảm nhí,
Họ gọi voi mỗi người theo một ý.
Nếu đơn giản được thấy voi ban ngày
Thì chắc họ chẳng cãi nhau thế này.
CHUYỆN NGƯỜI XĂM MÌNH
Ở xứ nọ có tục lệ khác đời
Là người ta cứ thích xăm đầy người.
Mà đã xăm là rất đau, hẳn thế,
Nhưng lại có những hình xăm đẹp đẽ.
Một anh chàng luôn vỗ ngực ta đây,
Cũng muốn xăm, đến bảo thợ thế này:
"Tôi tuổi hổ, anh xăm cho con hổ,
Thật hung dữ, thật to và thật rõ!"
Người thợ xăm cầm bút bắt đầu xăm.
Anh kia kêu oai oái mỗi lần châm.
"Anh làm gì mà tôi đau nhường ấy?"
"Xăm hình hổ. Ông bảo tôi như vậy".
"Ừ thì xăm, nhưng đang xăm ở đâu?"
"Xăm từ đuôi. Đó là chỗ bắt đầu".
"Xăm đuôi à? Bỏ đi, không cần thiết.
Hổ có đuôi chỉ càng thêm đáng ghét".
Anh thợ xăm lại xăm tiếp, tất nhiên,
Lại thấy đau và anh kia kêu lên:
"Anh đang xăm cái gì? Ôi, đau quá!"
“Xăm đầu hổ. Phải có đầu chứ ạ?"
"Không cần đầu. Đừng xăm nữa. Thôi đi!
Đã có vuốt, hổ cần đầu làm gì?
Xăm cái khác. Đừng châm đau như vậy.
Ôi trời ơi, anh đang xăm gì đấy?"
"Tôi đang xăm lưng con hổ, thưa ông."
"Lưng? Làm gì? Không có lưng được không?"
Anh thợ xăm bực mình, quăng bút nói:
“Hổ không đầu, không đuôi ư? Xin lỗi,
Quả xưa nay chưa ai thấy trên đời.
Chỉ thấy toàn những anh hèn, anh lười.
Ai sợ đau, không kiên trì, sợ khổ,
Thì tốt hơn đừng cầm tinh con hổ".
CHUYỆN NGƯỜI DU MỤC
CÓ CON CHÓ SẮP CHẾT
Có một người du mục trẻ khóc thương
Con chó quí sắp chết đói bên đường.
Một người khách đi ngang qua, nhìn thấy,
Hỏi: "Chuyện gì làm ông buồn như vậy?"
"Con chó này tôi yêu quí từ lâu,
Làm sao tôi không luyến tiếc, buồn rầu?
Nó là bạn, luôn giúp tôi săn thú,
Luôn canh giữ cả đàn cừu cho chủ".
Khách hỏi thêm: "Ông nói rõ xem nào.
Nó bị què hay đau ốm ra sao?"
"Không, không ốm, nó đang nằm chờ chết,
Chỉ vì do đói ăn, do bị mệt".
"Thật đáng buồn. Hãy gắng chịu, Alla
Sẽ giúp ông đưa nó sống về nhà.
Ồ, chiếc túi ông đang đeo trên cổ
Trông khá nặng. Ông đựng gì trong đó?"
"Trong túi ư? Toàn bánh thịt, thức ăn,
Những cái tôi chắc chắn sẽ rất cần".
Khách bỗng hỏi: "Ông nói sao? bánh thịt?
Sao không cho con chó ăn một ít?"
"Cho chó ăn? Nhưng sau đó thì sao?
Hết thức ăn, tôi biết kiếm cách nào?"
Nghe nói vậy, người khách kia liền quát:
"Ông quả đúng là một thằng đốn mạt.
Một thằng keo ngu ngốc, đáng chê cười.
Con chó kia là bạn, cũng như người.
Ông coi trọng miếng ăn hơn nước mắt.
Ông là người đáng khinh và xấu nhất!"
CHUYỆN THẦY NGỮ PHÁP VÀ ÔNG CHÈO ĐÒ
Có một thầy ngữ pháp, lúc sang sông
Hỏi người chèo có biết ngữ pháp không?
Người chèo đáp: "Dạ không". Thầy đắc chí:
"Thế thì nửa đời anh, anh để phí!"
Anh kia nghe, tuy phật ý, bực mình,
Nhưng bề ngoài vẫn vui vẻ làm thinh.
Bỗng bất chợt gió đổi chiều thổi mạnh,
Thuyền lắc lư giữa ào ào sóng đánh.
Người chèo đò lễ phép hỏi: "Thưa ông,
Thuyền sắp chìm, ông có biết bơi không?
Ông quả thật không biết bơi? Tiếc nhỉ.
Thế thì cả đời ông, ông bỏ phí!"
CHUYỆN BỐN CHÀNG ĂN NHO
Không ít khi vì do hiểu lầm nhau
Mà lắm anh phải sứt trán, vêu đầu.
Có bốn chàng bạn thân người Hy Lạp,
Người Ba Tư, Hin-đu và Arab,
Bỗng một hôm, đang đi dạo, bốn chàng
Được ai đó cho một đồng tiền vàng.
Chàng Ba Tư vội kêu lên: "Thật tiện,
Đem ra chợ mua angur mà chén!"
Chàng Hin-đu liền lên tiếng: "Theo tôi,
Mua izum chắc chắn sẽ không tồi".
"Không, không được, - anh chàng người Arab
Liền cắt ngang. - Tôi muốn ăn einab!"
Chàng Hy Lạp thì một mực lắc đầu:
"Tôi muốn ăn staphin từ lâu!"
Và cứ thế, do vì không nhất trí,
Họ cãi nhau rồi đánh nhau loạn xị.
Anh sứt răng, anh sái cổ, rách quần.
Anh gãy sườn, anh vêu trán, què chân...
Họ không biết, cũng chỉ vì ngu dốt,
Cái họ muốn thật ra là một.
CHUYỆN ÔNG GIÀ VÀ THẦY LANG
Một ông già gặp thầy lang, và nói:
"Tôi sổ mũi. Đầu đau không chịu nổi!"
"Đó là do, - thầy lang đáp, - tuổi già."
Ông kia kêu: "Mắt tôi kém, sắp lòa".
"Không khó hiểu: người già ai cũng vây,
Mắt thường đau, thường kèm nhèm, sưng tấy."
"Còn lưng tôi, sao nhức nhối gần đây?"
"Chính tuổi tác đã gây nên điều này."
"Ăn không ngon, lại khó tiêu, chán quá..."
"Vâng, cũng vì do tuổi già đấy ạ."
Tôi ho khan, tức ngực, thật phiền hà..."
"Thì bệnh ho là bệnh của người già.
Ai cũng biết khi tuổi già ập tới
Thì chẳng thiếu bệnh gì, xin cứ đợi."
Ông kia nghe, tức giận quát: “Câm ngay!
Ta không ưa cách chữa bệnh của mày.
Ai dạy mày những lời kia ngu ngốc?
Một thầy lang, nếu thông minh, có học
Sẽ kê đơn bốc thuốc quí chữa lành,
Không như mày, dốt nát, nói loanh quanh..."
"Dạ thưa ông, cả việc ông nóng nảy
Cũng là do tuổi già ông đấy."
CHUYỆN ANH LÍNH CANH
VÀ NGƯỜI SAY RƯỢU
Một tối nọ, đúng nửa đêm, anh lính
Thấy một ngườì đang nằm say bất tỉnh.
Anh ta quát: "Thằng nát rượu, dậy nhanh!"
Anh kia ngáp: "Tôi ngủ, việc gì anh!"
"Mày uống gì mà say sưa đến vậy?"
"Ừ thì bình có gì, tôi uống nấy".
Anh lính gắt: "Mày nói rõ xem nào!"
"Uống cái đựng trong bình! Thì đã sao?"
Anh lính canh và anh chàng say rượu
Cứ hỏi đáp cả giờ mà chẳng hiểu.
Anh ta quát: "Hãy mở miệng nói Ô!"
"Thì Ô hô!, - hắn liền đáp. - Ô hô!"
Mọi người nghe, bèn lắc đầu chán nản:
"Ô, ô hô! nhìn hai anh mà chán!"
Anh lính canh cáu tiết: "Rõ thằng say.
Vào nhà tù! Đừng giả bộ thơ ngây!"
Anh say đáp: "Anh cút đi thì có!"
"Mày - vào tù, và suốt đời ở đó!"
"Ừ thì đi, nhưng đưa tôi đi đâu?
Anh túm tóc thằng tôi, thằng trọc đầu?
Tôi mà tỉnh, mà có nhà tử tế,
Thì tôi ngủ ở nhà, không say thế.
Tôi sẽ là một ông chủ giàu sang
Ngồi bán hàng, nếu tôi có cửa hàng!"
CHUYỆN CON CỪU BỊ MẤT CẮP
Có một người dắt cừu ra chợ bán
Người đi trước, cừu đi sau như bạn.
Chợ nhiều người, và đang giữa đám đông,
Bỗng anh kia thấy dây thừng nhẹ không,
Rồi khẽ giật: Ra dây thừng bị cắt.
Trước còn cừu, nay con cừu đã mất!
Anh ta kêu, anh ta kiếm khắp nơi,
Thật vô ích và cũng thật buồn cười.
Trong khi đó, tên trộm cừu lếu láo
Đứng bên giếng, vờ kêu to, mếu máo.
Anh mất cừu chạy đến hỏi: "Vì sao
Anh kêu khóc? Nói tôi nghe xem nào!"
Tên bợm đáp: "Khổ thân tôi, sơ ý
Tôi để rơi xuống giếng này chiếc ví
Cùng một trăm, một trăm chẵn, đồng vàng
Ai xuống lấy hộ tôi, tôi sẵn sàng
Chia một nửa! Tôi xin thề đúng vậy!"
Anh kia nghĩ: "Một số tiền lớn đấy.
Ta mất cừu, nhưng trời đã giúp ta
Có thừa tiền mua gia súc, xây nhà!"
Rồi hăm hở, anh ta chui xuống giếng.
Còn tên bợm phía trên, cười nửa miệng,
Cuỗm quần áo anh ta, rồi đi ngay,
Để cho đời một bài học thế này:
Đừng nghe ai nói cái gì tin ấy.
Luôn cẩn thận với mọi người, nhớ lấy.
Còn những ai nhẹ dạ, lại tham tiền,
Thì có ngày phải xuống giếng, tất nhiên!
CHUYỆN ANH HỀ LẤY CÔ ĐIẾM LÀM VỢ
Ông hàng xóm bảo anh hề: "Vô cớ,
Sao anh lấy cô đứng đường làm vợ?
Nếu nhờ tôi, chắc tôi đã giúp anh
Lấy được cô gái đẹp, con nhà lành!"
Anh hề đáp: "Thì các ông biết đấy,
Tôi cưới vợ đã chín lần cả thẩy.
Đều những cô rất tử tế, chao ôi,
Thế mà sau thành vợ lại rất tồi,
Toàn lười biếng, toàn lừa chồng, đáng ghét,
Làm tôi khổ. Cứ nhìn tôi thì biết.
Nên bây giờ tôi lấy điếm, biết đâu
Cô ta tốt hơn chín cô vợ đầu.
Tôi trót khổ vì nghe theo lẽ phải.
Giờ tôi thử vận may - làm ngược lại!"
CHUYỆN NGƯỜI SỢ BỊ NHẦM LÀ LỪA
Một anh nọ chạy vào nhà người ta,
Mặt tái nhợt, người run lên. Chủ nhà
Hỏi: "Chuyện gì mà làm anh sợ vậy?
Hãy nhìn kìa, chân tay anh run rẩy."
Người kia đáp: "Vua đang cần nhiều lừa, -
Vua là người rất tàn ác, biết chưa? -
Kia, theo lệnh của vua, trên các phố
Người ta đang săn lùng loài vật đó!"
"Ừ thì vua bắt lừa, đâu phải anh?
Anh là người - cảm ơn thánh lòng lành.
Anh không phải là con lừa, do vậy
Không lo bắt, không việc gì phải chạy!"
"Đành là thế, nhưng đang hăng, than ôi,
Rất có thể người ta bắt cả tôi.
Với tên vua tham lam và độc ác,
Người hay lừa cũng thế thôi, không khác!"
CHUYỆN VUA TERMEZ
BỊ ANH HỀ CHIẾU TƯỚNG
Một anh hề phải chơi cờ hầu vua.
Chơi thế nào lại chiếu tướng, vua thua.
Vua tức giận, ném quân cờ vào mặt:
"Này chiếu tướng! Chơi mà không có mắt!
Đáng lẽ mày không được đi vào đây!"
"Dạ, thưa vua, con xin thua ván này!"
"Được, - vua đáp, - ta chơi thêm ván nữa!"
Anh hề sợ, co người như gặp lửa.
Vốn là người chơi rất kém, đức vua
Tự mình rơi vào chiếu tướng, lại thua
Dù anh hề cố đi sai, đi hớ.
Biết gặp nguy, anh ta liền hoảng sợ
Đắp lên mình nào chăn lớn, chăn con
Và vừa run vừa chuẩn bị ăn đòn.
Vua quát to, ngạc nhiên khi thấy vậy:
"Ê thằng kia, mày làm trò gì đấy?"
"Tâu đức vua rất vĩ đại, thông minh,
Con là dân, con phải biết phận mình.
Con đã đi, chiếu tướng vua, ngu quá.
Giờ đắp chăn, con chờ vua đi ạ!"
CHUYỆN BỌN CƯỚP VÀ HAI ÔNG GIÀ
Có bọn cướp ngoài thảo nguyên nước nọ,
Gây cho dân bao kinh hoàng, đau khổ.
Chúng một hôm vào xóm, xóm lại nghèo,
Chẳng có gì cho chúng cướp, mang theo
Ngoài hai ông nông dân già khốn khổ.
Với một ông, chúng buộc dây vào cổ:
"Giờ phải mang tiền chuộc đến, nếu không
Mày phải chết, xác quạ rỉa ngoài đồng!"
Ông già đáp: "Này các con, xin hỏi,
Giết lão chết thì được gì, ngoài tội?
Lão yếu già, lại tay trắng, ốm đau.
Ai túm tóc thằng ăn mày trọc đầu?"
"Không, chúng tao phải đem mày treo cổ
Để làm gương cho mọi người sau đó, -
Bọn cướp đáp. - Để thằng bạn của mày
Thấy mà sợ, và cho chúng tao hay
Hắn giấu đâu bạc và vàng của hắn."
"Nhưng ông ấy, nói các con đừng giận,
Về khoản nghèo, còn nghèo cả hơn ta.
Xin làm ơn đừng giết hại người già..."
Đúng lúc đó, ông già không bị trói,
Tức là ông thứ hai, liền vội nói:
"Đừng tin hắn! Hắn rất giàu, rất khôn,
Có nhiều vàng và bạc được đem chôn!"
Ông thứ nhất: "Thôi, một khi đã vậy,
Tôi tưởng tôi cũng nghèo như ông ấy.
Nhưng hóa ra không phải thế, bây giờ,
Để về sau khỏi rắc rối, nghi ngờ,
Xin các ông đem ông kia treo cổ,
Rồi vàng đâu, tôi dẫn đường, chỉ chỗ!"
CHUYỆN TRANH CÃI GIỮA
BÒ, CỪU VÀ LẠC ĐÀ
Bò và cừu với lạc đà lần nọ
Đang cùng đi, thấy bên đường bó cỏ.
Bó cỏ non chắc ai đấy để rơi,
Tiếc là ít, không đủ cho ba người.
Cừu lên tiếng: "Chia thế nào được nhỉ?
Đem chia ba để mỗi người một tí?
Ăn không no thêm khó chịu. Hay là
Giờ ta bình: Ai trong số chúng ta
Đáng kính nhất và cũng nhiều tuổi nhất,
Ta sẽ nhường cho một mình ăn tất?
Phải tôn kính người già! - Đức Tiên Tri
Bao đời nay chẳng dạy thế là gì?"
Bò đực đáp mà không cần suy nghĩ:
"Ý kiến này rất hay, tôi đồng ý.
Vậy xin mời, cứ lần lượt chúng ta
Kể về mình, xem ai đúng người già!"
"Tôi, - Cừu nói, - không phải ai cũng biết,
Là con cừu của Tiên Tri Môhamet.
Còn bạn tôi, hai ông bạn biết không,
Được chính ngài Ibrahim cạo lông!"
Bò đực đáp: "Chỉ thế à? Chuyện vặt.
Tôi thực sự mới là người già nhất:
Trên thiên đường từ xa xưa, hàng ngày
Ông Ađam đã đưa tôi đi cày!"
Lạc đà nghe, tuy ngạc nhiên chút đỉnh,
Nhưng bề ngoài vẫn thản nhiên, phớt tỉnh.
Nó lặng lẽ vươn cái cổ rất dài
Lấy bỏ cỏ, rồi vừa nói vừa nhai:
"Rất cỏ thể chuyện hai anh là thật,
Nhưng hiện giờ cổ của tôi dài nhất,
Nên được ăn bó cỏ này, ngoài ra
Tôi chẳng kém hai anh về sự già!"
BA LỜI KHUYÊN CỦA CON CHIM BỊ BẮT
Chuyện kể rằng, không hiểu đúng hay không,
Có con chim bị bắt, nhốt vào lồng.
Nó lên tiếng nói với người bắt nó:
"Thưa ông chủ, tôi gầy gò, bé nhỏ,
Không đáng ông đem giết thịt, trong nhà
Ông có nhiều, nhiều bò béo, lợn gà.
Vậy xin ông hãy thả tôi, bù lại
Tôi cho ông ba lời khuyên thông thái.
Lời thứ nhất tôi sẵn sàng nói ngay,
Cả khi ông còn giữ tôi trên tay.
Hai lời tiếp - sau khi tôi được thả.
Còn sau đó, ba lời khuyên quí giá
Sẽ giúp ông gặp may mắn suốt đời,
Sống hạnh phúc, lại giàu có hơn người.
Xin ông nghe, đây lời khuyên thứ nhất:
"Đừng bao giờ tin ai thề nói thật!"
Ông kia nghe, nhẹ dạ, thả chim bay.
Từ trên cao, nó nói xuống thế này:
"Giờ lời khuyên thứ hai, xin nhớ kỹ,
Rằng cái gì đã qua, dù rất quí,
Đừng khóc than, đừng luyến tiếc làm gì.
Chuyện đã rồi cứ để nó quên đi.
Mà nhân tiện, xin báo ông một việc -
Sau khi nghe, có thể ông sẽ tiếc:
Trong bụng tôi có một viên kim cương,
Nặng một cân, loại quí hiếm khác thường.
Giá mà ông không thả tôi, quả thật,
Thế giới này ông là người giàu nhất!"
Ông kia nghe, tiếc của, một hồi lâu
Hết than khóc lại đấm ngực, ôm đầu.
"Thì tôi đã khuyên rồi, hay ông điếc? -
Con chim nói. - Chuyện đã qua, đừng tiếc.
Tôi cũng khuyên rằng không được tin ai.
Giờ vô ích ông nhăn nhó, thở dài."
"Thôi đành vậy, chỉ vì ta dại dột.
Còn lời khuyên cuối cùng, ngươi nói nốt."
"Hai lời trước hãy giữ lấy cho mình.
Lời khuyên này sẽ giúp ông thông minh:
Đừng phí công dạy khôn cho thằng ngốc,
Như đừng gieo xuống sông mà phí thóc.
Ngọc một cân trong bụng tôi? Thật hay,
Sao ông tin khi tôi bé thế này?
Thôi, cảm ơn ông đã tha. Tạm biệt.
Ông là người thế nào, ông tự biết!"
CHUYỆN HAI CHIẾC TÚI
Giữa sa mạc có một chú lạc đà,
Hai bên hông hai túi lớn bằng da.
Còn vắt vẻo ngồi trên lưng, đang ngủ
Là một người béo và to - ông chủ.
Đến trạm nghỉ, khi nói chuyện với nhau,
Một người hỏi: "Bác chở gì? Đi đâu?"
Ông kia đáp: Túi này toàn hạt dẻ,
Còn túi kia là cát thôi, chỉ thế."
"Bác chở cát? Vì sao? Lạy Alla!"
"Vì sao ư? Cho cân đối thôi mà.
Không thì nặng một bên, đi sao được?"
"Tôi mà bác, tôi chia ngay từ trước,
Chia hạt dẻ thành hai phần bằng nhau.
Hàng sẽ nhẹ, lạc đà đi càng mau!"
Ông chủ hàng nghĩ một hồi, đáp lại:
"Bác quả đúng là một nhà thông thái.
Thế mà tôi chở cát, thật buồn cười.
Nếu bác đi cùng đường thì xin mời,
Con lạc đà của tôi giờ hàng nhẹ,
Có thể chở cả hai đi luôn thể".
Và rồi đi, câu chuyện nở như hoa.
Đường ngắn hơn, đỡ mệt. Chủ lạc đà
Quay sang khách: "Một khi thông thái vậy,
Thì chắc bác là vị quan nào đấy?"
"Tôi mà quan? Tôi nghèo đói xưa nay.
Hãy nhìn xem, áo tôi rách thế này!"
"Chắc tại bác vi hành. Xin hỏi thật:
Bác có bao nhiêu nhà, bao nhiêu đất?"
Ông kia đáp: "Tôi chẳng có cái gì!"
"Bác lại đùa. Bác là một... nói đi,
Một thương gia nước ngoài giàu, giấu mặt?
Bác buôn gì, hàng ở đâu, rẻ đắt?"
"Tôi đã nói, tôi là anh cùng đinh.
Tôi rất nghèo, cái bác bảo thông minh
Xin nói thật, chẳng qua do đói khổ,
Do vất vả kiếm miếng ăn mà có."
Ông kia nghe, tức giận quát: "Hiểu rồi,
Vậy thực tình ông còn ngốc hơn tôi,
Vì thông minh mà nghèo là đại ngốc.
Trong khi đó, tôi giàu dù vô học.
Mời ông xuống, rồi ông đi đường ông,
Tôi đường tôi. Ngay bây giờ, biết không
Tôi cho cát vào túi kia, cứ thế,
Một bên cát và một bên hạt dẻ!"
ÔNG CHỦ CỬA HÀNG VÀ CON VẸT
Ở xứ nọ, một ông chủ cửa hàng
Có con vẹt biết nói, quí như vàng.
Nó nói sõi, nói rất hay, thâm thúy,
Với dáng điệu của một nhà triết lý.
Khách tò mò kéo đến xem, tất nhiên,
Cửa hàng ông cũng thu được thêm tiền.
Con vẹt ấy không đơn thuần biết nói,
Mà còn biết trông cửa hàng rất giỏi.
Nó giúp chủ tính tiền, giúp kiểm tra
Khách mua hàng, cả khi vào, khi ra.
Bỗng một hôm, đang nghỉ trưa, buồn chán,
Nó hứng chí bay một vòng trong quán,
Và làm đổ một bình lớn dầu ăn.
Ông chủ nghe, liền chạy ra, trượt chân
Ngã sóng soài trên sàn nhà ướt nhoét.
Ông tức giận, liền túm ngay con vẹt
Vặt hết lông trên người nó, đáng đời!
Nhưng rồi ông lại đấm ngực kêu trời
Vì từ đấy bỗng nhiên nhà triết lý
Chỉ lặng im, chắc là do phật ý.
Cũng đúng thôi, đang đẹp thế mà rồi
Bị lột truồng quần áo, thật khó coi.
Nó hờ hững, đăm chiêu nhìn ông chủ
Đang hối hận, đang van nài, cay cú.
Ông vung tiền mời thầy thuốc gần xa
Chữa cho vẹt nói trở lại, thế mà
Nó lì lợm, chỉ suốt ngày im lặng,
Còn cửa hàng, không như xưa, rất vắng.
Và cứ thế kéo dài, mấy hôm sau
Có một ông rất bệ vệ, hói đầu
Bước vào quán, con vẹt kia nhìn thấy
Liền nói to: "Sao đầu ông hói vậy?
Hay cũng vì làm đổ dầu, mà ông
Giống như tôi, bị người khác vặt lông?"
*
Chuyện chỉ thế, xin nghe đây bài học:
Với những ai trót không may rụng tóc,
Thì tốt hơn nên đội mũ che đầu,
Đỡ mưa nắng, va phải gì không đau,
Lại đỡ lo bị nghĩ oan, thêm tội.
Chẳng có gì đáng khoe khi đầu hói!
CHUYỆN ÔNG VUA VÀ NÀNG LÊILA
Thấy Lêila 1), vua mỉm cười khinh bỉ:
”Không lẽ cô làm Mêtnun mất trí?
Cô - da đen, nhan sắc loại bình thường.
Người như cô ở đây đầy ngoài đường!”
Lêila đáp: “Vua không yêu sôi nổi
Như Mêtnun, nên tốt hơn đừng nói.
Không phải ai đang thức giữa ban ngày
Cũng biết mình ngủ mê muội xưa nay.
Ai thoát được giấc mơ kinh khủng ấy
Cái cao thượng của tâm hồn mới thấy.
Ai tham lam luôn lo sợ đủ điều,
Không bao giờ biết cái đẹp tình yêu!”
1. Leila và Mêtnun là tên nhân vật nhiều trường ca về tình yêu ở Trung Đông, như Romeo và Juliet ở châu Âu.
CHUYỆN CON RẮN
CỦA ÔNG THÂY CÚNG ẤN ĐỘ
Một tên trộm, vì ngu dốt, tiếc thay,
Đã ăn trộm con rắn của ông này.
Con rắn độc, rắn hổ mang, và nó
Liền cắn chết anh chàng kia xấu số.
Ông thấy cúng khi biết chuyện, gật gù:
Hắn không biết đang trộm gì, thật ngu!
Rồi ông ta ngẩng cao đầu, cầu khẩn,
Mong thượng đế trả cho ông con rắn.
Ông ta nghĩ: “Chuyện này hóa lại hay.
Mình thoát chết nhờ tên kia chết thay,
Vì con rắn nọc quá đầy, và nó
Đã đến lúc phải cắn vào ai đó”.
Thế mới biết ở đời không ít anh
Do hám lợi mà chuốc vạ vào mình!
CHUYỆN CẬU BÉ VÀ LỜI KHÓC CỦA NGƯỜI ĐƯA TANG
Một người nọ, vừa đi sau quan tài,
Vừa than khóc với giọng thật bi ai:
“Ôi mẹ ơi, người ta đang đưa mẹ
Ra nghĩa trang, một nơi buồn, vắng vẻ;
Nơi quanh năm không có ánh mặt trời,
Luôn tối tăm và lạnh lẽo suốt đời;
Nơi ban ngày không bánh mì, buổi tối
Mẹ cũng chẳng có gì ăn, bụng đói;
Nơi xung quanh không hàng xóm, không nhà,
Không quần áo, không cả một tiếng gà.
Ôi mẹ ơi, người ta đang đưa mẹ
Đến một nơi thật đáng buồn, thật tệ...”
Một thằng nhóc đứng cạnh, nghe, cậu ta
Liền vội vã chạy thật nhanh về nhà,
Kêu: “Bố ơi, người ta khiêng người chết
Vào nhà ta, sắp đến rồi, thật khiếp!”
Ông bố quát: “Mày nói nhảm cái gì?
Khiêng người chết vào nhà mình? Cút đi!”
“Không, thật thế, - cậu bé kia lúng búng, -
Nơi người chết được khiêng vào quả đúng
Là nhà ta: nơi không có áo quần,
Không bếp đèn, không nước uống, thức ăn,
Không hàng xóm, không tiếng gà, tăm tối,
Luôn lạnh lẽo và luôn luôn nhịn đói...”
CHUYỆN CON LỪA BỊ BẮT TRỘM
Hãy lắng nghe lời nhắc nhở của tôi,
Cùng lời khuyên quả thật cũng không tồi:
Đừng mù quáng làm theo người, để tránh
Bị cười chê hay rơi vào bất hạnh!
Để chứng minh, tôi xin kể chuyện này,
Chuyện có thật: Một giáo sĩ gần đây
Vào nghỉ đêm ở một tu viện nọ,
Ông giao lừa cho người hầu ở đó,
Không quên dặn cho ăn uống thật no,
Rồi lên giường, ông ngủ, thật vô lo.
Mà lúc đó, cũng trong tu viện ấy
Có mấy kẻ lang thang hay làm bậy.
Chúng đói ăn - mà cái đói xưa nay
Thường dẫn đến rất nhiều điều không hay -
Nên bắt trộm con lừa kia đem bán
Mua rượu thịt cho mình và đãi bạn.
Chúng bảo nhau: “Đúng là đức Alla
Đã ban quà cho tất cả chúng ta!”
Thế là chúng mở tiệc to, thậm chí
Còn mời cả nạn nhân - ông giáo sĩ.
Có thể chúng trêu đùa, có thể không,
Nhưng tất cả rất tử tế với ông.
Đứa mời ngồi, đứa hỏi thăm tên họ,
Đứa còn hôn bàn tay ông khắc khổ.
Đến mức ông quyết định: Đã thế này
Thì phải vui, phải uống đến kỳ say.
Nên ông uống, ông ăn và vui vẻ
Như đám người xung quanh ông cũng thế.
Bỗng một đứa leo lên bàn, hắn ngồi
Và hát vang: “Thế là mất lừa rồi!”
“Mất lừa rồi!” Đám đông reo ấm ĩ,
Trong đó có tiếng reo ông giáo sĩ.
Bữa tiệc vui cũng kết thúc, hôm sau
Ông tỉnh dậy, còn mệt mỏi, đau đầu,
Nhưng phải đi, nên ông ra máng cỏ
Để tìm lừa, nhưng than ôi ở đó
Ông chẳng thấy con lừa quí của ông.
Hỏi anh hầu, anh ta cũng bảo không.
“Sao? Không thấy? Con lừa đâu? - ông hỏi. -
Chính tay tôi giao cho anh, đừng chối”.
“Vâng, thưa ngài, - anh kia đáp - Đêm qua
Chính ngài nói, nói rất to, vang nhà
Rằng con lừa của ngài, vâng, đã mất.
Con tưởng ngài đã cho người ta bắt
Bán lấy tiền ăn uống. Vậy giờ đây
Sao vô cớ ngài trách con chuyện này?”
Ông kia nghe, đành thở dài buồn bã:
Hóa ra mình tự gây nên tai họa”.
Để được ăn mà nhắm mắt theo người
Thật xấu hổ - một bài học nhớ đời!
HAFIZ
Hafiz, tên đầy đủ là Shamsiddin Muhammad ibn Bakhaiddin Hafiz (trong tiếng Anh đôi khi phiên âm thành Hafez), là một trong những nhà thơ lớn Ba Tư, sau này rất nổi tiếng ở châu Âu. Ông sinh khoảng từ năm 1317 đến 1326, tại thành phố Shiraz, Iran. Bố ông là một thương gia. Sau khi bố mất sớm, mặc dù còn là thợ học việc làm bánh mì, ông phải đảm nhận mọi lo toan trong gia đình và luôn sống trong cảnh nghèo đói. Tuy vậy, ông chịu khó học hỏi và nhanh chóng nắm vững những kiến thức cần có thời đó. Ngay từ nhỏ ông đã giỏi làm thơ, sau này được cả thế giới phương Đông tôn làm nhà thơ vĩ đại nhất về hazel, thể thơ tình ngắn, chủ yếu về đề tài tình yêu. Thơ ông còn được ưa chuộng tận đến ngày nay, và hiếm người Iran nào không thuộc lòng một vài bài hazel của ông. Dù nghèo đói, khi đã nổi tiếng, ông vẫn tìm cách từ chối lời mời phục vụ các quan chức địa phương để được sống tự do theo ý mình. Có rất nhiều giai thoại về cuộc đời và sự nghiệp của ông.
Hafiz mất năm 1390 và được chôn cất ở một khu ngoại ô tuyệt đẹp của thành phố Shiraz mà ông nhiều lần ca ngợi trong thơ.
THƠ BỐN CÂU
* * *
Hãy rót rượu cho ta, nào lại đây.
Hãy tránh việc xấu xa, nào lại đây.
Hãy lắng nghe bài thơ ta đang hát.
Đừng nghe bọn gian tà, nào lại đây.
* * *
Mặt em sáng như mặt trời long lanh.
Em xinh đẹp làm say đắm lòng anh.
Dưới cửa sổ nhà em, nơi phố vắng,
Anh đứng chờ, chờ em suốt năm canh.
* * *
Thêm một ngày khi phải sống xa nhau,
Làm đời anh thêm một núi buồn rầu..
Thần số mệnh bảo tôi: "Này Hafiz,
Đừng quấy rầy ta nữa, ích gì đâu!"
* * *
Em chạm vào người anh, anh ngất ngây.
Rồi em xa, anh nhớ em đêm ngày.
Anh đang chết, anh mong em quay lại.
Anh chờ em, nhưng nào em có hay.
* * *
Không ngủ được, lệ ứa đầy hai mắt.
Thiếu tình yêu, suốt đêm nằm dằn vặt.
Em không tin, xin hãy đến cùng anh
Dẫu trong mơ, để biết anh nói thật.
* * *
Anh định kể về ngôi sao xa xôi? - thôi, im đi.
Anh định nói về nỗi đau lòng tôi? - thôi, im đi.
Nỗi lòng tôi xưa nay không người nào chia sẻ.
Một mình đau, một mình chịu mà thôi, - thôi im đi.
* * *
Em hẹn gặp, nhưng than ôi, sau đó
Lại không đến, làm anh buồn, đau khổ.
Cả người anh đang bốc cháy thành tro
Để muôn kiếp vật vờ bay theo gió.
* * *
Tất cả vàng trên đời này không thể
Sánh bằng đôi mắt em khi ngấn lệ.
Mọi niềm vui trái đất bảy nghìn năm
Cũng không bằng bảy ngày em vui vẻ.
* * *
Mới chớm thu, hoa héo rụng, buồn sao.
Đời phù du, không đáng sống chút nào.
Nên hạnh phúc là ai khinh tất cả,
Sáng vào quán uống say, chiều lại vào.
* * *
Hãy mang rượu ra ngồi bên suối vắng,
Quên chuyện cũ, quên cái buồn cay đắng.
Đời chúng ta ngắn ngủi giống loài hoa.
Hãy tạm vui với rượu ngon, ánh nắng.
* * *
Hãy uống rượu từ khi anh còn nhỏ.
Uống cùng những cô nàng xinh, má đỏ.
Bởi đời này là quán rượu tự do,
Nên dại gì ta không say trong đó?
* * *
Không một phút được rời chiếc cốc này.
Mọi vui sướng cuộc đời trong cốc này.
Như cốc môi người yêu anh, nó ngọt,
Nhưng cay đắng cốc đời là cốc này!
* * *
Tôi hủy hoại đời tôi bằng đau khổ.
Lỗi tại trời hay tại tôi điều đó?
Người được tôi tin tưởng lại thành thù.
Vâng, quả thật sống ở đời rất khó.
* * *
Tôi không có bạc vàng hay ruộng đất,
không gì, ngoài buồn đau.
Chưa gặp ai, chưa thấy gì chân thật,
không gì, ngoài buồn đau.
Chưa một ai yêu quí hoặc thương tôi.
Và đời tôi luôn chìm trong nước mắt,
không gì, ngoài buồn đau.
* * *
Anh bảo tôi: "Nghĩ làm gì thêm khổ?
Hãy thả buồn cho bay đi theo gió!"
Nhưng tim tôi, anh bảo phải làm gì?
Cả đại dương ý nghĩ buồn trong đó.
* * *
Nổi nhạc lên! Nếu được, đưa về đây
Người tôi yêu và thương nhớ lâu nay.
Túi tiền tôi, tôi trao anh tất cả -
Tôi chẳng kém Khatam về chuyện này.
* * *
Người thon thẳng, với nụ cười ngất ngây,
Nàng xinh đẹp như vầng dương rạng ngày.
Tôi tặng nàng chiếc khăn, nàng khẽ nói:
“Hẹn gặp chàng trong giấc mơ đêm nay!”
* * *
Thêm một ngày, một gánh nặng buồn đau.
Thêm một ngày, một nỗi khổ xa nhau.
Số Phận nói: “Buồn làm gì, Hafiz.
Ta có cần nước mắt anh đâu!”
* * *
Là kẻ thù người từng thề chung thủy.
Mới thiên thần hôm qua, nay ác quỉ.
Đêm nằm mong làm điều tốt cho đời,
Sáng lại làm không như điều mình nghĩ.
* * *
Hãy chờ đợi Đời mang nhiều cay đắng.
Đừng run sợ, hãy ngẩng đầu đứng thẳng.
Anh dạy: Đen là màu khổ, màu buồn.
Vậy hãy nói: Sao tóc tôi bạc trắng?
* * *
Hãy uống rượu khi còn xuân, uống say,
Với những cô má đỏ, bởi đời này
Là sa mạc đầy hoang tàn, cát bụi.
Sướng là người ngồi trong quán suốt ngày.
* * *
Cả biển rượu luôn bao quanh đời ta,
Hâm trái tim đang nguội lạnh, thế mà
Chính cốc rượu lấy đi bao của cải,
Cho đến khi chẳng còn gì trong nhà.
* * *
Anh thèm khát vòng tay em... anh chết đây.
Giữa sa mạc, buồn nhớ em... anh chết đây.
Hãy quay lại, anh đang chờ, quay lại.
Em có nghe anh gọi em? ... anh chết đây.
* * *
Hãy mang rượu, mang thật nhiều, nhanh lên!
Đỏ như màu môi người yêu, nhanh lên!
Thứ rượu quí rót ra luôn sủi bọt,
Để tôi say, quên mọi điều, nhanh lên!
* * *
Không ngồi uống rượu dưới cây, là xấu hổ.
Vô cớ làm đau người ngay, là xấu hổ.
Còn gì hơn biết yêu rượu và đàn bà.
Ai dám bảo tôi điều này là xấu hổ?
THƠ TRỮ TÌNH
* * *
Tôi ra vườn hái hoa hồng, chợt thấy
Chim họa mi đang khóc than cạnh đấy.
Giống như tôi, tội nghiệp nó hàng ngày
Phải van vỉ, xin tình yêu thế này.
Bông hồng đẹp nhưng có gai, và nó
Đành đứng cạnh ngậm ngùi buồn, đau khổ.
Nhiều hoa hồng nở đẹp trong vườn tôi,
Nhưng liệu ai hái được chúng, than ôi.
Nghe chim hót mà trái tim tê tái,
Tôi thầm khóc, chờ người yêu quay lại.
Thôi, Hafiz, đời chỉ toàn buồn đau,
Đừng cố tìm hạnh phúc, ích gì đâu.
* * *
Hãy nhớ lại những ngày xưa rực rỡ,
Những ngày vui cùng bạn bè, hãy nhớ.
Người trung thực quả rất hiếm ngày nay,
Vậy phải nhớ những người tốt, người ngay.
Đừng vội nghĩ rằng đương nhiên bè bạn
Sẽ nhớ anh, một khi anh gặp nạn.
Không, khi buồn phải nhớ bạn gần xa,
Nhớ những lần họ gặp nạn như ta.
Ôi, Hafiz, đừng than phiền vô cớ,
Các bạn tốt của mình luôn hãy nhớ.
* * *
Nàng đã đến cùng tôi, hơi say say,
Áo lụa mỏng trên người, cốc trên tay.
Mặt tỏa sáng như được trăng chiếu dọi,
Mắt long lanh, miệng luôn vui cười nói.
Vâng, nàng đến, ngồi bên tôi, thầm thì:
"Em say rồi! Anh ngủ ư? Uống đi!"
Ôi tội nghiệp người trái tim giá lạnh,
Không uống cạn cốc tình yêu thần thánh.
Thần số mệnh trao cho ta cốc này,
Vậy thì uống bằng hết, mà uống ngay.
Nhưng trong đó phải chăng toàn mật ngọt,
Hay thuốc độc, làm lòng ta thiêu đốt?
Ôi Hafiz, hỏi điều ấy làm gì?
Người yêu đưa thì cứ việc uống đi.
Bởi cốc rượu và đôi môi phụ nữ
Là chân lý ở đời này hung dữ.
* * *
Hãy uống rượu và ngắm hoa, nhanh lên,
Hãy vào rừng, trốn thật xa, nhanh lên.
Hãy làm dịu bài hát buồn anh hát.
Đang nghe nó chỉ đại dương gió cát.
Hãy dịu dàng lau nước mắt cho anh.
Nó đang đốt, đang ngập tràn tim anh.
Cốc tình yêu đầy niềm vui, cay đắng,
Cho anh uống ở đây, nơi rừng vắng,
Để tình yêu không đốt anh thành tro,
Để chúng ta còn đến chỗ hẹn hò.
Đến nhanh lên, đừng chờ trời tối hẳn.
Đến lặng lẽ một mình như mọi bận.
* * *
Nào ca sĩ, hãy hát đi, lần nữa.
Rượu rót rồi, hãy uống đi, lần nữa.
Cùng người yêu hãy ngồi dưới bóng cây,
Để lần nữa cùng nhau yêu, cùng say.
Đời không rượu là cuộc đời uổng phí.
Vậy hãy uống với người anh yêu quí.
Uống và say đôi mắt đẹp của nàng,
Cùng đôi môi và tiếng nói dịu dàng.
Nào Hafiz, hãy hát đi, lần nữa.
Rượu rót rồi, hãy uống đi, lần nữa.
* * *
Thật vô lương, thật tráo trở đời này,
Chẳng đâu còn người chân thật, người ngay.
Người có học và thông minh uốn gối
Trước thằng ngốc giàu sang bằng tội lỗi.
Người đáng kính, đáng cho đời noi theo
Cũng bị khinh, làm nhục chỉ vì nghèo.
Bọn vô lại cứ vơ tiền thỏa sức,
Còn lên mặt dạy người đời đạo đức.
Anh, nhà thơ, có chăm chỉ, miệt mài
Viết thơ hay như thi hào Sanai,
Thì cũng chẳng làm người nào xúc động,
Thơ của anh không thể nuôi anh sống.
Một khi anh chấp nhận kiếp làm thơ,
Thì giàu sang và hạnh phúc đừng chờ.
Ôi Hafiz, giờ anh nghèo, có thể
Một ngày kia lưu danh cùng hậu thế.
* * *
Nào, vui lên, qua rồi kỳ ăn chay.
Bình rượu kia đã hết, hãy rót đầy.
Không còn nữa những lời cầu buồn tẻ.
Giờ là lúc chúng ta cùng vui vẻ.
Chúng ta uống, hát hò thì đã sao?
Có gì xấu trong đám đông ồn ào?
Gã say rượu nhưng lòng thành, chân thực,
Tốt hơn nhiều ông quan vờ đạo đức.
Ta yêu đời, yêu sự thật, ước mơ,
Chăm đọc kinh, không hại ai bao giờ,
Và tất nhiên không bắt mình khắc khổ,
Nên cấm uống, càng uống thêm cho bõ.
Thà uống rượu còn hơn uống máu người.
Có anh nào không có lỗi trên đời?
Nếu quả thật cốc này đầy tội lỗi,
Ta cứ uống và sẵn sàng chịu tội!
* * *
Nếu niềm vui trôi qua kẽ ngón tay -
Nghĩa là nó trôi thật.
Nếu chúng ta luôn cam chịu đời này -
Nghĩa là ta bị bắt.
Nếu đã yêu là chúng ta buồn đau -
Nghĩa là cần phải thế.
Nếu người yêu cứ bắt ta khẩn cầu -
Nghĩa là ta có thể.
Nếu uống rượu làm chúng ta yêu đời -
Nghĩa là rượu rất quí.
Nếu Hafiz ra đi, bỏ mọi người -
Nghĩa là chàng muốn nghỉ.
* * *
Yêu và buồn, cuộc đời tôi là thế.
Nhưng khi nhớ tới nàng, tôi lại trẻ.
Nay về già, tôi chẳng trách chúa trời.
Ngài cho tôi những cái cần ở đời.
Tôi hạnh phúc, dẫu đôi khi buồn chán,
Yêu chén rượu, đàn bà và yêu bạn.
Kể từ khi gặp được người yêu thương,
Tôi, thú thật, thôi mơ đến thiên đường.
Khi chưa yêu, tôi là anh mông muội.
Nhờ tình yêu tôi học ăn, học nói.
Các quán rượu, nơi tôi ngồi suốt ngày,
Giúp tôi hiểu ý nghĩa cuộc đời này.
Giờ tôi già... Kìa, trăng trôi lẳng lặng...
Không khó hiểu vì sao đầu bạc trắng.
“Thằng Hafiz thật hư, nhưng ta tha!”
Nghe thấy chưa - giọng nói của Alla!
JAMI
Tên đầy đủ là Nuriđin Abđurakhman Jami, sinh ngày bảy tháng mười hai 1414, ở thành phố Jam, từ đây ông lấy bút danh Jami. Ông là một trong những nhà thơ lớn của Ba Tư cổ, từng hoc ở Samarkand và rất say mê khoa học. Sau đó ông dành trọn cuộc đời mình cho khoa học và thơ, nhiều lần khước từ lời mời vào cung làm quan. Ông đặc biệt được ưa chuộng trong tầng lớp thị dân nghèo và trí thức đương thời, là bạn thân, học trò của nhà thơ Navôi vĩ đại. Jami mất ở Herat ngày 9 tháng mười hai năm 1492, để lại hơn một trăm tác phẩm lớn về khoa học và thi ca.
THƠ BỐN CÂU
* * *
Anh cầu đức Alla, vì em làm anh đau.
Anh gào thét, kêu la, vì em làm anh đau.
Anh quằn quại ngày đêm, đến xé quần, xé áo.
Giờ anh thành bóng ma, vì em làm anh đau.
* * *
Anh yêu em, như chim sa vào bẫy,
Vào chiếc lồng tình yêu em, ở đấy
Em trói anh bằng những sợi tơ tình.
Thế mà anh thích ở trong lồng ấy.
* * *
“Để ta yên! - tôi bảo trái tim tôi. -
Đường còn xa, ta mỏi mệt lắm rồi.
Hãy cứng rắn với người con gái ấy,
Người ta yêu mà lừa ta, than ôi!”
* * *
Anh nâng cốc uống một mình, thiếu em.
Uống cả rượu, cả nỗi đau, say mèm.
Em ra đi, làm đời anh cay đắng
Và chuỗi ngày anh sống biến thành đêm.
* * *
Mùa xuân đến, khi trời xanh, bao la,
Cả thiên nhiên đang sống lại, hiền hòa,
Tôi lặng lẽ thăm mộ nàng, hy vọng
Nàng hiện về dưới dạng một nhành hoa.
* * *
Mở mắt, anh thấy em.
Nhắm mắt - cũng thấy em.
Cả khi mơ, khi tỉnh
Lúc nào cũng thấy em.
THƠ TRỮ TÌNH
* * *
Mời các bạn vào kho thơ Jami.
Vâng, hình như không thiếu một thứ gì.
Thích thì đọc, mỗi người theo một ý
Toàn điều hay, không có điều nhảm nhí.
* * *
Thằng đê tiện vẫn suốt đời đê tiện,
Cả khi ngồi trên ngai vàng, cung điện.
Như ếch nhái dù cố nhảy lên cao,
Thì cuối cùng vẫn rơi xuống bờ ao.
* * *
Kẻ bất tài suốt đời vẫn bất tài.
Đừng cố dạy làm gì thêm mệt,
Như xưa nay ta vẫn thấy - không ai
Chăm, tưới nước cho bụi cây đã chết.
* * *
Hãy nhìn kia, các quan lớn xứ này
Đang cắn nhau như thú dữ đêm ngày.
Chúng vờ tốt bề ngoài, nhưng thực chất
Luôn gầm ghè từng miếng mồi nhỏ nhất.
* * *
Vua đừng quên dân chúng của nước ngài
Là kho báu. Còn các quan không ai
Không tranh thủ bới đào kho báu ấy.
Vua là vua, sao đang tâm để vậy?
* * *
Tôi xin có lời này khuyên bạn trẻ:
Đừng vì lợi mà khen quân tồi tệ.
Cái lợi kia sẽ nhanh chóng bốc hơi,
Còn tiếng xấu thì ở lại suốt đời.
* * *
Này thằng ngốc, đừng khoe bố thông minh.
Đừng làm bẩn mái tóc bạc bố mình.
Cành đã mục thì đừng mong xanh lại,
Dù cây mẹ xum xuê, đầy hoa trái.
* * *
Đừng làm bạn với người dốt hơn mình.
Hãy tìm cách ở gần người thông minh.
Nhưng cũng nhớ đừng chóng làm họ chán -
Họ cũng tìm người thông minh làm bạn.
* * *
Tôi thất vọng, không thấy người tử tế.
Cả ban ngày, cả trong mơ cũng thế.
Tôi thấy nắng là vào nhà, than ôi,
Không vì nắng, mà vì sợ bóng tôi.
* * *
Có nhiều người muốn bay cao, thật cao,
Không lượng sức, không biết mình thế nào.
Đời trần tục, vâng thì buồn, thì khổ,
Nhưng vẫn có cái gì hay trong đó.
* * *
Dùng móng tay cào thủng đá hoa cương,
Dùng hàm răng ngoạm song sắt trên tường.
Lao xuống vực thăm thẳm sâu đầy đá,
Hay ngâm mình dưới đáy hồ băng giá.
Chất hàng hóa của trăm con lạc đà
Lên lưng mình để đi xa, thật xa...
Những việc trên tôi sẵn sàng làm hết
Hơn cúi đầu trước bọn người đáng ghét.
CHUYỆN HAI CON ĐẠI BÀNG
Có một con đại bàng con lần nọ
Nói với con đại bàng già, bố nó:
“Không hiểu sao ta phải ở nơi này,
Nơi khô cằn, buồn tẻ, đá và mây.
Chắc tốt hơn, nếu ta đi đâu đấy,
Đi thật xa, tới hoàng cung lộng lẫy,
Sống bên vua, đậu trên cánh tay ngài.
Luôn no đủ và không còn sợ ai...”
Chim bố nghe, liền chau mày đáp lại:
“Con còn trẻ, chưa biết điều phải trái.
Là đại bàng, được sinh ra ở đây,
Giữa khô cằn, buồn tẻ đá và mây,
Nhưng là nhà, và là nơi tốt nhất,
Nơi tự do và bầu trời xanh ngắt.
Ta ở đây, thà ăn xác lạc đà,
Chịu gió mưa trên sa mạc bao la,
Hơn khoe mẽ trên tay vua nhơ bẩn,
Và ngửi mùi chiếc nhẫn vàng của hắn!
CHUYỆN VỢ CHỒNG ÔNG CHỦ
VÀ CÂN THỊT
Một ông nọ mang về cân thịt cáo,
Đưa cho vợ nấu bữa trưa, và bảo:
“Đúng một cân, thịt còn mới và tươi.
Bà luộc lên, thừa ăn cho hai người”.
Bà kia luộc, thấy ngon ăn hết cả,
Khi chồng hỏi liền kêu lên: “Tiếc quá,
Tôi luộc chín, định đưa lên mời ông,
Nhưng con mèo đến tha mất, láo không!”
Ông kia nghe, bắt mèo cân - khá nhẹ.
Trước nó nặng thế nào, giờ vẫn thế.
Ông bực lắm, giơ hai tay lên cao
Rồi bảo vợ: “Tôi chẳng hiểu thế nào.
Con mèo nặng đúng một cân, như thịt.
Bà nói dối, hay coi tôi con nít?
Sao lại thế, bà hãy nói tôi xem,
Ăn thịt xong mà mèo chẳng nặng thêm.
Hay cân thịt biến thành mèo, hay ngược lại?
Tôi chẳng hiểu. Hay bà ăn? Đừng cãi!
LẠC ĐÀ VÀ CÁO
Già, ốm yếu, con lạc đà lần nọ
Ra uống nước bên một dòng suối nhỏ,
Như cái bóng vật vờ, trông thật thương,
Lông rụng hết, chỉ còn da bọc xương,
Đến mức quạ cứ bay theo, còn sói
Không thèm bắt, dẫu nhiều ngày nhịn đói.
Chỉ con cáo thấy thê, bảo lạc đà:
"Anh, con tàu của sa mạc gần xa,
Từng khỏe đẹp, từng cao sang nhường ấy,
Nông nỗi nào khiến anh tiều tụy vậy?
Anh không nỡ dẫm lên kiến xưa nay.
Ai dẫm anh như dẫm kiến thế này?"
Lạc đà đáp: "Cái số tôi phận bạc,
Gặp ông chủ vừa tham vừa độc ác.
Hắn bắt tôi thồ muối nặng, mỗi lần
Tôi đi chậm là hắn đánh vào chân,
Đánh túi bụi, làm đau không chịu nổi.
Nhất là khi các vết thương thấm muối.
Tôi kêu trời mà trời cứ làm ngơ,
Vậy hỏi tôi biết kêu ai bây giờ?"
Cáo nghe xong, tỏ lòng thương, liền nói:
"Đúng đời anh khổ trăm bề, thật tội.
Nhưng đừng buồn, tôi có kế rất hay
Để giúp anh thoát khỏi cảnh buồn này.
Anh biết đấy, có một dòng suối nhỏ
Từ cảng muối, trên đường về thành phố.
Vậy ngày mai, khi qua suối, bất ngờ
Anh nằm xuống cùng bao muối đang thồ.
Muối gặp nước sẽ tan ngay, vì thế
Hàng từ nặng mà trở thành rất nhẹ."
Lạc đà nghe cáo nói, bụng mừng thầm,
Nghĩ lần này sẽ có cách chơi khăm.
Nhưng ông chủ hôm sau, qua ánh mắt
Thầm đoán hiểu mọi mưu mô, sự thật,
Nên thay vì các bao muối, ông ta
Đem bông xốp chất lên lưng lạc đà.
Còn lạc đà, vốn xưa nay ngu muội,
Như cáo dặn, vội vàng nằm xuống suối.
Thế là bị một phen nặng gấp đôi.
Kể ra đấy là bài học không tồi.
CHUYỆN CON CHIM KHÔN NGOAN
VÀ CON CÁ NGỐC NGHẾCH
Ở Ôman, xưa có con chim nọ
Sống bằng nghề bắt cá ăn, và nó
Rất tinh thông, điêu luyện với nghề này,
Khiến các loài tôm cá sợ xưa nay.
Thế mà giờ muốn hay không, tuổi tác
Cũng làm nó già đi và đổi khác.
Rồi một hôm, sức kiệt hẳn, mắt mờ,
Nó chỉ biết ngồi một chỗ hàng giờ
Nghe sóng biển, nhìn cá đùa trên nước,
Muốn tới bắt mà không sao tới được.
Vừa đúng khi sắp chết đói, bất ngờ
Có chú cá từ xa bơi vào bờ.
Nó lên tiếng trêu con chim khốn khổ,
Vì biết chim không làm gì được nó:
"Này lão chim, sao ngồi buồn như vậy?
Sao chậm chạp và yếu già mức ấy?
Lão ngày xưa nổi tiếng lắm cơ mà.
Hay bây giờ không còn muốn bắt ta?"
Con chim đáp: "Vâng, quả tình đúng thế.
Anh thấy đấy, ta đã không còn trẻ,
Lại ốm đau, nhưng thanh thản lúc này.
Ta hối hận về việc làm xưa nay.
Ta xấu hổ vì trót ăn thịt cá.
Nay ta chỉ ăn lá cây, hoa quả.
Giờ thực tình ta muốn bạn với anh
Để chuộc lại chút lỗi lầm của mình.
Nào đừng sợ, lại đây, anh bạn nhỏ.
Mà nếu sợ thì kia kìa, sợi cỏ,
Đem lại đây trói mỏ lại, và anh
Sẽ tự do tâm sự chuyện đời mình."
Con cá nhỏ thơ ngây nghe, tưởng thật
Ngậm sợi cỏ lại gần, trong nháy mắt
Bị con chim nuốt vào bụng bất ngờ,
Cứ như nó chưa tồn tại bao giờ.
CHUYỆN IBN SINA CHỮA BỆNH
CHO NGƯỜI TÂM THẦN
Vào cái thời Ibn Sina còn sống
Và danh tiếng đang vang xa, lan rộng,
Có một người, giàu, trẻ, lắm người thân
Nhưng không may mắc chứng bệnh tâm thần.
Không đau yếu, nhưng anh ta một mực
Luôn miệng nói: "Tôi là con bó đực.
Hãy nhìn đây, tôi to lớn, béo tròn,
Đem lên hầm, chắc chắn sẽ rất ngon.
Hãy nhanh chóng đưa tôi đi giết thịt.
Gọi đồ tể tới đây, tôi muốn chết!"
Và cứ thế, suốt đêm ngày anh ta
Bắt chước bò, luôn miệng rống vang nhà,
Không uống thuốc, không chịu ăn, thức trắng
Nên bệnh nặng lại ngày càng thêm nặng.
Các thầy thuốc đành nhìn nhau bó tay:
Phải nhờ đến Ibn Sina lần này!
Ibn Sina nghe kể xong, liền dặn:
"Hãy về nói với bệnh nhân: Chắc chắn
Sáng ngày mai đồ tể sẽ đến nhà
Và thế nào cũng làm thịt anh ta".
Người bị bệnh nghe tin mình bị giết
Thì vui mừng không để đâu cho hết.
Sáng hôm sau Sina đến, và ông
Liền hỏi to khi mới bước vào phòng:
"Bò đực đâu?" "Đây, tôi là bò đực! -
Người bệnh đáp. - Giết tôi ngay lập tức!"
Ông dùng dây trói thật chặt anh ta,
Bắt vươn cổ, nằm ngay giữa sàn nhà,
Rồi luôn tay mài dao, ông lặng lẽ
Sờ và ngắm như một anh đồ tể.
Bỗng ông nói: "Con bò này quá gầy,
Nên phải chờ, không thể giết hôm nay.
Phải cho ăn thật nhiều và thật bổ
Mới đủ béo để cho vào lò mổ."
Ông sai người cởi dây trói bệnh nhân
Rồi ra lệnh mang vào nhiều thức ăn.
Thật kỳ lạ là anh ta ăn hết,
Ăn cả thuốc lẫn vào mà không biết.
Chẳng bao lâu anh ta khỏe, béo to,
Và không còn nghĩ mình là con bò.
CHUYỆN ANH CHÀNG
CÓ BỘ QUẦN ÁO ĐẸP
Có chàng trai con nhà giàu, chủ nhật
Diện bộ cánh tự cho là đẹp nhất,
Thăm một người nổi tiếng giỏi chiêm tinh,
Một ông già tóc bạc, rất thông minh.
Ông già nghĩ: "Một con công sặc sỡ!
Chắc con quan, và đến không vô cớ."
Ông chào khách, kê gối cao mời ngồi.
Khách cảm ơn rất đúng lễ, và rồi,
Để chứng tỏ không chỉ quần áo đẹp,
Mà anh ta cũng biết điều, lễ phép,
Một hồi lâu anh ta nói, cố tình
Nói những điều rất thâm thúy, thông minh.
Nhưng khốn nỗi, ý và từ lẫn lộn,
Thành một chuỗi các âm thanh hổ lốn.
Rồi cuối cùng, khách cũng im. Chủ nhà
Rất thân tình, đã khuyên bảo anh ta:
"Phải công nhận là áo quần anh đẹp,
Và có lẽ anh là người lễ phép.
Nhưng khả năng ăn nói quả rất tồi.
Trong đầu anh toàn xám xịt, theo tôi,
Hoặc là anh lo tu thân học hỏi
Cho đầu óc đỡ bớt phần tăm tối.
Không thì thay bộ áo đẹp này đi,
Nó không che được cái dốt, ích gì?"
CHUYỆN QUAN TÒA SUÝT BỊ CẮT TAI
Có một người rất thông minh, học rộng,
Nhưng luôn nghèo, gia tài không, túi rỗng
Nên cuối cùng phải bỏ ra nước ngoài,
Và ở đấy, cũng vì nhờ có tài,
Ông được vua mời vào cung, sau đó,
Giao trọng trách làm quan tòa thành phố.
Là quan tòa, ông xử rất công minh.
Chính vì thế mà chuốc vạ vào mình.
Người ghen tị, người chỉ do nhàn rỗi,
Họ vu khống cho quan tòa đủ tội.
Vua tức giận, sai lính phá nhà ông,
Tiền và vàng đem nhập quĩ, sung công.
Quan tể tướng ghé tai vua nói nhỏ.
Vua ra lệnh cắt tai ông cho chó!
Rất hãi hùng, con người ấy không may,
Nghe lệnh vua, đã đáp lại thế này:
"Vua là người yêu công bằng, sự thật,
Vậy để yên đôi tai, không được cắt.
Chúng một phần xương thịt mẹ sinh ra,
Có rất lâu trước khi làm quan tòa.
Nếu tôi sai, cứ lấy đi tất cả
Cái tôi có khi sang hầu bệ hạ.
Xin bệ hạ làm quan tòa công minh
Mà đừng lấy cái không phải của mình!"
Vua nghe thế, khẽ mỉm cười, nguôi giận,
Rồi tha ông, với đôi tai lành lặn.
CHUYỆN ANH NÔNG DÂN THẬT THÀ
VÀ CON LỪA QUÈ
Ở làng nọ có một anh nhà quê,
Sống chất phác với một con lừa què.
Con lừa ấy yếu gầy, trông thật tội,
Lại già, xấu, đứng còn không đứng nổi.
Số phận nó, quả đúng thật bất công,
Luôn bị đánh, không ngày nào là không.
Nên rỗi việc là nằm yên một chỗ,
Nó than trách cuộc đời mình khốn khổ.
Anh nhà quê cũng chán nó, một hôm
Quyết định đem con lừa xấu, gầy nhom
Ra chợ bán, được vài đồng cũng đỡ.
Theo cái lệ có xưa nay ở chợ,
Anh ta nhờ ông lái bán giùm cho.
Và ông này, ngay lập tức nói to:
"Nào lại đây mua ngay không chậm trễ,
Một con lừa thông minh, nhanh và khỏe.
Không phải lừa, có thể nói không ngoa,
Khỏe như ngựa, hay cùng lắm, như la.
Nó mà phóng, còn nhanh hơn tên bắn.
Nào lại mua, kẻo không rồi hối hận!"
Khách đứng quanh chỉ nhìn nhau phì cười,
Thế mà anh nhà quê, thật dở người,
Thật thà tin những gì ông kia nói,
Không hề biết phường buôn chuyên nói dối.
"Không, không bán, con lừa này của tôi.
Nó quả đúng là con vật không tồi.
Nó tốt giống, rất chăm làm, mạnh khỏe.
Chính tôi cần một con lừa như thế!"
Rồi vội vàng, rất hăng hái, anh ta
Dắt con vật khốn khổ kia về nhà.
CHUYỆN VUA PARVIS VÀ CON CÁ KỲ LẠ
Vua Parvis cùng hoàng hậu Shirin
Đang ngồi chơi thì có người báo tin:
Một ông chài bắt được con cá lạ,
Muốn dâng vua như món quà biển cả.
Vâng, quả nó là con cá khác thường:
Da màu hồng, vẩy lấp lánh kim cương.
Trong bụng cá - chùm trứng to óng ánh,
Những quả trứng như vàng ròng lấp lánh!
Vua xem xong rất thích, vỗ vào tay.
Ông quan già coi ngân khố ra ngay.
Vua ra lệnh thưởng cho người đánh cá
Nghìn đồng bạc còn mới nguyên, sáng lóa.
Nghìn đồng bạc! Nàng Shirin nghe xong
Liền lặng lẽ nói nhỏ sát tai chồng:
"Quả hào phóng không ai bằng bệ hạ,
Nhưng nghìn đồng thì thiếp e nhiều quá.
Vì từ nay, bệ hạ thưởng cho ai,
Họ cũng cho là ít, sẽ kêu nài,
Rằng bệ hạ không còn yêu mến họ,
Trước nghìn đồng cho một con cá nhỏ,
Còn nay thì..." "Giờ thiếp bảo làm sao? -
Vua gãi tai. - Biết lấy lại cách nào?"
"Thì cứ hỏi ông già kia khờ dại:
Đây cá đực hay là con cá cái?
Lão nói gì, bệ hạ cũng đáp ngay
Rằng rất tiếc, không thể ăn cá này.
Vậy hãy mang con cá đi nơi khác,
Và trả lại cho ta nghìn đồng bạc."
Ông đánh cá được gọi vào. Ông ta
Không khờ dại, mà nhanh trí đoán ra
Rằng vua trót thưởng nhiều tiền, vì thế
Muốn đòi lại, cố gây điều khó dễ.
"Tâu bệ hạ, con cá này của con,
Như ngài thấy, không dài, cũng không tròn.
Đực hay cái? Con phải thưa rằng nó
Là giống trung, tức nửa này nửa nọ."
Vua nghe xong, khoái trí cười, và rồi
Tăng tiền thưởng cho ông già gấp đôi!
Ông lão kia nhận thêm tiền, vội vã
Định bỏ đi, nhưng cũng do vội quá
Mà từ túi, một đồng xu rơi ra,
Đồng xu nhỏ nằm ngay chính giữa nhà.
Ông nhặt lên, cho vào bao cẩn thận.
Shirin quát: "Một lão già keo bẩn!
Hai nghìn đồng tiền thưởng ít hay sao,
Còn tham lam vơ vét cả đồng hào?
Tâu bệ hạ, cái tội này lếu láo
Cần phải trị. Lấy lại tiền của lão!"
Nghe lời vợ, vua liền trách ông già.
Ông cúi đầu cung kính đáp: "Thực ra
Con nhặt nó không phải vì keo kiệt.
Trên đồng xu có hình vua, con biết,
Nên tất nhiên con không muốn cho ai
Được hỗn láo dẫm chân lên hình ngài."
Vua nghe thế, liền cười to vui sướng
Và ra lệnh tăng gấp ba tiền thưởng.
CHUYỆN VUA ISKANĐAR TỚI THÀNH PHỐ
NHỮNG NGƯỜI ĐẠO ĐỨC TRONG SẠCH
Iskanđar Đại đế 1) tự chính mình
Luôn dẫn đầu cả đoàn quân viễn chinh
Đi chinh phục đất đai toàn thế giới
Và nhân thể tìm cái hay, cái mới.
Như vũ bảo, quân ngài đi đến đâu,
Là ở đấy phải khuất phục, cúi đầu.
Một lần kia, khi chiếm xong thành phố,
Ngài tò mò, rất ngạc nhiên về nó.
Thành phố này, thật kỳ lạ, khắp nơi
Đều sạch đẹp, đều no ấm mọi người.
Công việc họ rất nhẹ nhàng, thú vị,
Theo sở thích và nghỉ ngơi tùy ý.
Kỳ lạ hơn, ở thành phố lạ này
Không người giàu, cũng không có ăn mày,
Không lừa đảo, không giết người, cướp bóc.
Cửa không khóa, không ai nghe tiếng khóc.
Còn xã hội thì bình đẳng, người ta
Sống hòa thuận như anh em một nhà.
Không khái niệm quan hay dân, thậm chí
Không cả vua, thật là điều thú vị.
Bao đời nay thành phố sống yên bình,
Chưa một lần từng biết đến chiến tranh.
Kỳ lạ nữa, trước mỗi nhà đều có
Một nhà mộ, thường trống không và nhỏ.
"Sao lại thế? - đức vua hỏi, tò mò. -
Còn đang sống mà đã xây nhà mồ?"
Người ta đáp: "Để nhắc cho người sống
Rằng đời ngắn, nên phải lo lao động
Để sống sao cho có ích với đời,
Để xứng đáng với tên gọi con người."
Vua lại hỏi: "Ta thấy đây không có
Vua, triều đình và các quan văn võ.
Vậy lấy ai cai trị nước? Người nào
Thu sưu thuế? Lúc tai biến thì sao?"
Đáp: "Ở đây mọi người luôn tự giác
Lo việc chung, không ai làm việc ác.
Việc của nước là việc của toàn dân,
Cần gì vua? Quan lại càng không cần."
"Ta không thấy cả người giàu, danh giá.
Sao lại thế? Quả điều này rất lạ."
"Không khó hiểu, thưa vua, dân nước này
Sống ôn hòa và giản dị xưa nay.
Giàu làm gì? Giàu với ai? Thử hỏi,
Vàng mang lại cái gì ngoài tội lỗi?"
Thấy và nghe những điều trên lạ kỳ,
Vua suy ngẫm, rồi cho quân rút đi,
Để nguyên vẹn cả dân và thành phố,
Không thay đổi một chút gì trong đó.
1). Tức vua Alexandre xứ Macedonia thời Hy Lạp cổ đại, Ông sinh năm 356 và mất năm 323 trước CN. Trong thơ cổ Ba Tư, ông là hình tượng của vị vua anh minh, dũng cảm và công bằng.
CHUYỆN VỀ SÔCRAT
Sôcrat 1), triết gia xưa vĩ đại.
Mong tư tưởng của ông luôn sống mãi.
Ông trong sạch suốt từ đầu đến chân,
Cả vinh quang lẫn tiền bạc không cần.
Như cây cỏ, rất tự nhiên, giản dị,
Ông chỉ sống với những điều mình nghĩ.
Gia tài ông - vẻn vẹn chiếc chum to,
Sứt trên miệng, đáy đôi chỗ bị rò.
Không đựng nước, nên không hề quan trọng,
Nó là nhà, nơi nhiều năm ông sống.
Đêm ông chui vào ngủ, mặt trời lên
Lại chui ra, ngồi sưởi nắng kề bên,
Một mình ông, lim dim trên bãi cỏ,
Người trần truồng, vì áo quần không có.
Bỗng một hôm, vua đi ngang, thấy ông,
Trong tư thế đang sưởi nắng, tồng ngồng.
Vua xuống ngựa, cúi đầu chào rất thấp:
"Thưa hiền triết, đã lâu không được gặp.
Ông, một người được kính trọng xưa nay,
Sao né tránh, sao ẩn dật thế này?
Sao lâu lắm không vào cung đàm đạo?
Mà sao ông trần truồng, không quần áo?"
Sôcrat đáp: "Vua xem, ta già rồi,
Mặc áo quần chỉ thêm nặng mà thôi.
Vì với ta, riêng tuổi đời đã nặng.
Giờ hạnh phúc là được ngồi sưởi nắng."
"Ngươi có thể xin bất cứ điều gi.
Ta sẽ cho, đừng e ngại, nói đi!"
Sôcrat không ngẩng đầu, nói nhỏ:
"Cảm ơn vua đã thương tình chiếu cố.
Vậy tôi xin, chỉ một điều, ít thôi:
Ngài tránh ra, đừng che nắng của tôi!"
Vua nghe thế, né sang bên, lặng lẽ
Cởi chiếc áo trên người ngài đẹp đẽ
Khoác lên lưng nhà hiền triết. Ông này
Vua đi khỏi, liền treo nó lên cây,
Và tiếp tục lại trần truồng sưởi nắng,
Một mình ông bên chiếc chum, im lặng.
*
Trong hàng chục học trò của ông,
Sôcrat yêu thương nhất Platông 2),
Người được thầy dành thời gian, nhẫn nại
Dạy, và thành một triết gia vĩ đại.
Ông thường nói: "Tâm hồn con bao la,
Hãy cởi trói để bay cao, bay xa,
Để thoát khỏi cuộc đời này ngu muội,
Để bóng nó không làm con tăm tối.
Nếu chúng ta không độc ác, lòng lành,
Thế giới này đã không có chiến tranh.
Đời trần tục biết bao nhiêu cạm bẫy,
Sáu loại người hãy tránh xa, nhớ lấy:
Loại thứ nhất là những người nhỏ nhen,
Ai hơn mình, không hơn mình, cũng ghen.
Họ hậm hực đến mất ăn, mất ngủ,
Luôn lồng lộn, gầm ghè như con thú.
Loại thứ hai là những kẻ có quyền,
Là cái chúng sử dụng để kiếm tiền.
Quyền biến chúng thành những tên độc ác,
Thành vô ơn, vô tình và bội bạc.
Đáng ghét nhất chính là loại người này.
Chúng gây nhiều, nhiều đau khổ xưa nay.
Loại thứ ba là ham mê quá độ
Để có được cái gì mình chưa có.
Họ tham lam, ích kỷ, chỉ biết mình,
Mà không hề để ý đến xung quanh.
Loại thứ tư là những người keo kiệt.
Những người sợ tiêu tiền hơn sợ chết.
Suốt đời mình, họ khổ sở, lo âu
Họ rất nghèo, dù thực ra rất giàu.
Loại thứ năm là những người đê tiện,
Lo nịnh bợ, âm mưu nhằm thăng tiến.
Đối với họ, được thăng quan hơn người,
Là nghĩa sống, là mục đích cả đời.
Còn ngu dốt là loại người thứ sáu.
Loại người này không hẳn toàn người xấu.
Vì ngu dốt, không hiểu người, hiểu mình,
Nên họ làm nhiều việc xấu, đáng khinh.
2). Platông, triết gia cổ Hy Lạp, sinh năm 428, mất năm 347 trước CN, người có ảnh hưởng rất lớn đến triết hoc phương Tây sau này.
CHUYỆN NGƯỜI THỢ GIẶT
VÀ CON BỒ NÔNG
Ở Bátđa có một chàng trai nọ
Sống bằng nghề giặt thuê, luôn đói khổ.
Ngày lại ngày, ra giặt ở bờ sông,
Anh thường thấy có con chim bồ nông
Đang dò dẫm mò cua hay bắt tép.
Cổ và chân cao kều, trông chẳng đẹp.
Vốn khiêm tốn, hơi ngu đần, cô đơn,
Dường như nó cũng không mong gì hơn,
Ngoài việc lội trên bãi lầy ngập nước,
Ních đầy bụng những gì may kiếm được.
Thế mà rồi, một hôm không hiểu sao,
Ăn no nê, chợt hứng, ngước lên cao,
Nó nhìn thấy con đại bàng to lớn
Dang rộng cánh, giữa trời xanh bay lượn.
Là chúa tể các loài chim, đại bàng
Có phong thái giống hệt một ông hoàng.
Ngoài vô số những điều hay ho khác,
Nó luôn chừa thức ăn cho kẻ khác.
(Vâng, người tốt, người cao quí bao giờ
Cũng chừa lại chút thức ăn dư thừa
Cho những kẻ yếu hơn mình, bé nhỏ!)
Con bồ nông đứng nhìn, đầy ngưỡng mộ,
Cái cổ dài càng dài thêm, đôi chân
Dướn lên cao trong tư thế bần thần:
"Mình thức sự còn to hơn, có lẽ
Còn đẹp hơn cả đại bàng oai vệ.
Vậy mà mình, thật xấu hổ, xưa nay
Chỉ ăn toàn ếch nhái lẫn bùn dây.
Tại sao mình không bắt chim ăn thịt,
Ăn và chừa cho đàn em một ít?
Được, từ nay mình sẽ giống đại bàng,
Sẽ cao quí, hào phóng như ông hoàng!"
Con bồ nông ngu ngốc kia nghĩ vậy
Rồi hùng dũng bay lên cao. Ở đấy,
Nó chưa kịp biết mình oai thế nào,
Thì bất chợt từ đâu đó trên cao
Một con chim kền kền to xuất hiện.
Thật tội nghiệp con bồ nông hãnh tiến:
Mấy phút sau, dù không chết, tiếc thay,
Nó bị thương, rơi tõm xuống bãi lầy,
Cánh dính bùn, chiếc mỏ to đầy đât.
Tối thì lên bàn ăn anh thợ giặt.
Đây, bài học rất hay và thông minh
Cho những ai không biết lượng sức mình.
CHUYỆN CON LẠC ĐÀ CÓ CÁNH
Một ông vua, ngồi không lâu cũng chán,
Mở tiệc lớn mời cận thần, bè bạn.
Và vừa ăn, vua yêu cầu mỗi người
Lần lượt kể những chuyện lạ trên đời,
Với điều kiện chính mình nhìn tận mắt,
Phải hấp dẫn, và tất nhiên phải thật.
Một người kể: "Nghề tôi hay phải đi,
Và lần nọ tôi thấy ở châu Phi,
Một quái vật, nói thế nào được nhỉ,
Giống lạc đà, nhưng vô cùng kỳ dị,
Loại lạc đà một bướu, béo, không gầy.
Có hai cánh, nhưng không hề biết bay.
Không chở hàng, không phải làm gì cả,
Cứ suốt ngày thẩn thơ chơi, nhàn nhạ..."
Mọi người nghe, phá lên cười: "Thôi đi!
Ông kể chuyện nhảm nhí ấy làm gì?
Chúng tôi đây cũng đi nhiều không kém,
Cũng từng gặp nhiều chuyện hay và hiếm,
Nhưng lạc đà có cánh thì ôi, ôi!
Đừng phịa chuyện, đừng hòng lừa chúng tôi!"
Và rốt cục, mặc dù thề có thật,
Không ai tin, bị một phen bẽ mặt,
Ông kể chuyện đành hậm hực ra về
Trong ồn ào tiếng la mắng, cười chê.
Sáng hôm sau, còn chưa nguôi hậm hực,
Ông vội vã lên đường ngay lập tức
Tới châu Phi, rồi từ đó về nhà
Với một con đà điểu lớn và già.
Ông đem nó vào gặp vua, và hỏi
Có phải đúng là con ông đã nói.
Vua xem kỹ rồi bỗng phá lên cười:
"Vâng, đúng nó. Giờ ta tin nhà ngươi.
Một con vật lạ kỳ, cao, dũng mãnh!
Nó quả thật là lạc đà có cánh!"
Tối hôm ấy vua lại mở tiệc to,
Lại mời quan đến ăn uống, chuyện trò.
Tiệc đang vui, vua vẫy tay ra hiệu,
Rồi mọi người vây quanh con đà điểu,
Một con vật rất mới lạ, giống gà,
Nhưng vua bắt cứ phải gọi lạc đà,
Loại lạc đà không bay nhưng có cánh.
Ai gọi khác sẽ bị vua đem đánh.
ALISHER NAVÔI
Nizamađin Mir Alisher Navôi (sinh năm 1441, mất năm 1501), nhà thơ, nhà tư tưởng và nhà hoạt động chính trị lớn ở Herat, thuộc Uzbêkistan hiện nay. Ông từng giữ chức tể tướng dưới triều vua Hussein Baikara, người nổi tiếng là Mạnh Thường Quân của các nhà thơ và bác học đương thời. Thơ Navôi mang tính nhân văn sâu sắc và đề cập nhiều khía cạnh cuộc sống.
Đỉnh cao nghệ thuật của ông là tác phẩm đồ sộ "Năm trường ca" có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều thế hệ các nhà thơ sau này.
CHUYỆN NGƯỜI NÔ LỆ
Ở nước nọ có ông vua cao thượng,
Vừa thông thái, lại cũng vừa độ lượng.
Ngài có tên nô lệ rất chuyên cần,
Tốt, trung thành và rất giỏi nấu ăn.
Vua mở tiệc, một hôm, mời khách quí.
Người nô lệ luôn tay lo chuẩn bị,
Bê món ăn cho thực khách đang chờ.
Cũng vì do hăng hái quá, bất ngờ
Anh ta trót lỡ tay - nồi canh nóng
Đổ lên vua, suýt làm ngài bị bỏng.
Mọi người thấy, thương hại nhìn anh ta,
Nghĩ phen này vua sẽ giết, không tha.
Thế mà vua cứ thản nhiên ăn tiếp,
Quyết định tha cho anh chàng tội nghiệp.
Quan tể tướng: “Vua hãy nói cho hay,
Sao ngài tha một tội lớn thế này?”
“Ông cứ thử nhìn anh ta thì biết:
Mặt tái nhợt như một người đã chết.
Mà người chết thì thử hỏi còn ai
Nỡ giết thêm lần nữa? Thật khôi hài!
Giờ anh ta biết lỗi mình, hối hận.
Thế là tốt, chắc lần sau cẩn thận”.
Một ông vua thật vĩ đại, anh minh,
Lòng vị tha làm rạng rỡ tên mình.
CHUYỆN KHATAM XỨ TAI
Một người nọ bảo Khatam 1) thế này:
Tôi đi nhiều, biết không ít xưa nay,
Nhưng chưa thấy có người nào tốt bụng
Và hào hiệp như cách ông đang sống".
Khatam đáp: "Một lần như lệ thường,
Tôi mở tiệc cho mời khách thập phương,
Để khách ăn, vui từ già đến nhỏ,
Tôi cho thịt cả đàn cừu đang có.
Tiệc giữa chừng, tôi xin phép đi ra,
Để gặp ai sẽ mời họ vào nhà.
Tôi bỗng thấy một ông già vác nặng
Bó củi lớn đang đi trên đường vắng.
Ông rất già, lại gầy yếu, đáng thương,
Nên chốc chốc ngồi xuống nghỉ bên đường.
Tôi xúc động, vội đến gần ông lão
Rất lễ phép, lựa lời âu yếm bảo:
"Vì tuổi tác, cơ thể ông yếu gầy,
Sao vác nổi bó củi lớn thế này?
Chắc vừa đến từ rất xa, vì vậy
Ông không biết ngài Khatam, ông ấy
Đang ở đây, mở tiệc lớn, cho mời
Ai muốn vào, cứ ăn uống, vui chơi.
Vứt củi xuống, theo tôi vào dự tiệc.
Nếu bỏ lỡ, có ngày ông sẽ tiếc."
Ông gìà kia chỉ lặng lẽ lắc đầu
Rồi mỉm cười, khiêm tốn đáp như sau:
"Sống nhục nhã là nhờ người để sống.
Không cao thượng là người không lao động.
Hãy tin tôi, hái củi khổ, nhọc nhằn,
Nhưng không bằng cái khổ kẻ tham ăn.
Tôi thà kiếm từng đồng xu vất vả
Hơn ăn bám vào Khatam danh giá!"
Tôi vừa nghe, vừa khâm phục trong lòng,
Rồi cúi đầu rất thấp trước chân ông.
*
Này, Navôi, tấm lòng anh phải rộng.
Với bạn bè, phải vung tay hào phóng.
Chủ quán đâu, rót rượu nữa, rót đầy.
Phải bắt chước Khatam trong việc này.
Khách vào quán, không may tiền chẳng có
Thì cũng phải đem rượu ra mời họ.
1). Khatam, hay còn gọi là Khatam xứ Tai, một nhân vật có tính huyền thoại trong văn học Ba Tư, nổi tiếng vì sự hiếu khách và hào phóng của mình.
CHUYỆN CHÀNG KHIÊM TỐN
VÀ CHÀNG THAM LAM
Vì đói nghèo, xưa hai người bạn thân
Phải lên đường sang Trung Hoa kiếm ăn.
Trong số họ, một người hiền, dễ tính.
Còn người kia, tham lam, luôn cáu kỉnh.
Bỗng một hôm, khi đang vượt qua đèo
Họ nhìn thấy bên sườn núi cheo leo
Một phiến đá chôn sâu, vùi dưới cỏ
Với dòng chữ khắc rất to trên đó:
"Ai muốn giàu, đào tảng đá này lên
Sẽ tìm thấy một kho vàng và tiền!
Ai thờ ơ bỏ đi ngang, người ấy
Cũng có thể sẽ gặp may đâu đấy."
Anh tham lam khi đọc những dòng này,
Vốn lúc nào cũng muốn được giàu ngay,
Liền hăm hở dùng hai tay đào đất,
Quên cả bạn, quên Trung Hoa trước mặt.
Còn anh kia, khiêm tốn, lại hơi lười,
Nghĩ: "Có vàng để ăn uống, vui chơi
Thì cũng thích, nhưng đào vàng không dễ.
Vả lại ta cũng không cần nhiều thế.
Nên một khi trời định giúp ta giàu
Thì chắc rằng ta không phải chờ lấu."
Anh khiêm tốn nghĩ xong liền cất bước.
Sáng hôm sau thấy xa xa phía trước
Một đô thành tường bao bọc rất cao.
Chàng tới nơi, thấy cổng mở, bước vào
Và ngạc nhìn khi mọi người chạy tới,
Đứng quanh chàng, miệng hò reo phấn khởi.
Chàng biết đâu phong tục của nước này
Là mỗi lần vua chết, kéo về đây,
Người ta chờ suốt cả đêm trước đấy.
Ai đầu tiên bước vào thành, người ấy
Sẽ được tôn lên ngôi báu nước nhà.
Thế là chàng khiêm tốn của chúng ta
Trong chốc lát trở thành vua danh giá,
Bạc vàng nhiều mà không hề vất vả.
Còn anh kia đào mãi mấy ngày liền,
Khi cuối cùng tảng đá được đào lên,
Rất thất vọng, chẳng thấy đâu vàng bạc,
Mà chỉ thấy có hai hàng chữ khác:
"Ai tham lam mơ ước bỗng chốc giàu,
Sẽ có ngày rơi xuống vực buồn đau."
Anh không tham trở thành vua giàu có,
Anh tham lam vẫn như xưa, nghèo khổ.
*
Này Navôi, đừng keo, tiền của anh,
Nếu còn có, hãy chia cho dân lành.
Ê, chủ quán, ta chỉ tham uống rượu,
Rượu rửa sạch lòng tham và cái yếu.
Ta uống rượu, chỉ mong sống ở đời
Được ngự trị trên ngai vàng thảnh thơi.
CHUYỆN HAI NGƯỜI YÊU NHAU
Tôi nghe kể rằng ngày xưa Timua 1),
Vua một thời của tất cả các vua,
Khi đem quân đánh vào vùng Ấn Độ,
Vua lại thắng như nhiều lần trước đó.
Để đề phòng mối hiểm họa về sau,
Vua ra lệnh cho binh lính chém đầu
Tất cả dân của nước này, chém hết!
Thành ra đâu cũng thấy toàn xác chết.
Xác chất cao thành đống, máu thành dòng,
Đến đỏ ngòm tất cả các hồ sông.
Một tên lính của Timua ngày nọ
Gặp một đôi tình nhân người Ấn Độ.
Hai người kia không trốn được, bắt đầu
Giơ cổ mình xin được chết thay nhau.
Cô gái nói: "Giết đi, tôi không chống,
Nhưng phải để người yêu tôi được sống!"
Tên lính kia giơ kiếm định chém nàng
Thì bạn tình cô gái vội thét vang:
"Không, hãy chém tôi đây!" Tên lính nọ
Đang định chém chàng trai. Liền giơ cổ,
Cô gái đòi được chết thay. Cuối cùng
Tên lính kia không chém được, nổi khùng:
"Ta sẽ chém hai đứa mày!" Hắn nói,
Nhưng cứ bị dùng dằng không chém nổi.
Bỗng bất ngờ có lệnh khẩn vua ban
Cho phép ngừng sự chém giết dã man.
Thế là nhờ tình yêu, đôi bạn trẻ
Đã thoát chết, làm gương cho hậu thế.
*
Này, Navôi, cho tình yêu, cả ngươi
Cũng hy sinh hết mọi cái trên đời.
Nào chủ quán, nếu anh là bạn tốt,
Thì hãy mang rượu ra, nào hãy rót.
Vì tình yêu, ta cũng mệt lắm rồi,
Rót nữa vào, làm say lão Navôi!
1). Còn gọi là Tamurlan (1336 - 1405), ông vua Trung Á nổi tiếng hiếu chiến, thành lập đế chế của mình với thủ đô là Samarkand thuộc Uzbêkistan ngày nay. Timua từng tổ chức nhiều cuộc chinh phạt tàn bạo tới Iran, Ấn Độ và nhiều nơi khác.
CHUYỆN VUA HAZI VÀ BÀ GIÀ
Vào ngày ấy, khi chiến tranh dai dẳng,
Chỉ một mình Đức Minh Quân Toàn Thắng
Cùng vài trăm chiến hữu trẻ, trung thành
Bằng mũi tên rất chính xác, rất nhanh
Vua đánh bại mọi kẻ thù lớn nhỏ,
Đem hạnh phúc thay chiến tranh, đói khổ.
Thánh Alla đặt ngài ngồi lên ngai.
Vua quyết tâm làm đất nước của ngài
Giàu, trong sạch, công bằng và công lý,
Không tội ác, không lòng tham, ích kỷ.
Dưới tay ngài cai trị rất anh minh,
Mọi người dân đều chăm lo giữ mình.
Bộ luật cổ Sharia nghiêm khắc
Thành rường cột luân thường cho xã tắc.
Một ngày nọ, vua ra thành dạo chơi
Để hiểu thêm về dân cảnh, sự đời.
Bỗng từ xa một bà già chạy lại
Túm áo ngài, nói không hề sợ hãi:
“Tâu đức vua, ngài có lỗi với tôi!
Ngài, ông vua yêu công lý, không tồi,
Vậy theo tôi ra pháp đình, ở đó
Tôi kiện ngài đã làm tôi đau khổ!”
Vốn là người rất công tâm, đức vua
Nói: “Được thôi. Nếu tòa xử ta thua,
Ta sẽ chết, không kêu ca vì thế.
Luật của vua không chừa ai ngoại lệ”.
Thế là vua Hazi và bà già,
Như người khác, cùng dắt nhau ra tòa.
Cả đất nước bỗng lo âu, nhốn nháo -
Vua của họ đang trở thành bị cáo!
Bà già nói: “Thưa quan tòa anh minh,
Khi đất nước đang còn họa chiến tranh,
Vua chúng ta, dẫu oai danh lừng lẫy,
Thời kỳ đầu vẫn thua, thường tháo chạy.
Tôi đơn độc, chỉ có thằng con trai
Người ta bắt vào đội quân chống ngài.
Thằng con tôi, rất cao to, đẹp đẽ,
Niềm tự hào và cánh tay nuôi mẹ,
Thế mà vua, trong chiến trận, than ôi,
Vua phũ phàng vung kiếm giết con tôi.
Nay con chết, tôi một mình đau khổ.
Thưa quan tòa, tôi kiện vua điều đó.”
Quan tòa đáp: “Kết tội vua điều này,
Bà tìm hai nhân chứng, dẫn ra đây”.
“Vâng, không khó tìm hai người như vậy”,
Bà gìa đáp, nhưng đức vua lúc ấy
Nói: “Không cần, ta nhận tội chính ta
Đã chém chết người con trai bà già.”
“Vậy theo luật, tùy vua, - quan tòa nói. -
Máu trả máu, hay dùng tiền chuộc tội!”
Vua liền đáp: “Chiểu theo luật Sharia,
Cứ để người thắng kiện chém đầu ta!”
Sau khi thưởng rất nhiều tiền, châu báu,
Ngài dướn cổ, trao cho bà gươm báu:
“Tiền xưa nay không làm sống lại người.
Bà hãy chém ta đi, khỏi lắm lời.
Ta đã giết con bà, nay theo lý,
Ta phải chết, không có gì suy nghĩ”.
Bà già nghe, đứng lặng một hồi lâu
Rồi phủ phục dưới chân vua, lắc đầu:
“Không, con tôi chống vua nên bị giết
Xin đức vua tha cho tôi tội chết!”
Vậy là vua, trước thần dân của mình,
Chứng tỏ ngài thực sự rất công minh.
Còn bà già, không nhận tiền vua tặng,
Không báo thù, chỉ khóc buồn cay đắng.
Vua Hazi, suốt nhiều năm sau này
Xem bà già như mẹ mình, đêm ngày
Vua tìm cách chuộc lại phần thua thiệt
Cho bà mẹ có con ngài đã giết.
*
Hỡi Navôi, hãy hướng thẳng mặt trời,
Quên thù hằn, với người và với đời.
Ê, chủ quán, đời này còn công lý,
Vậy thì uống, uống cho say bí tỉ.
Nào, rượu đâu, chờ gì nữa, rót ra
Ta hãy uống vì đức vua chúng ta!
CHUYỆN VUA MUHAMAD XỨ KHÔRESM VÀ NHÀ THÔNG THÁI FAKHR RAZI GẶP NHAU TRONG NHÀ TẮM
Đức imam Fakhr Razi thông thái
Vĩ đại nhất trong những người vĩ đại,
Có một lần cho dựng trại ở đây,
Xứ Khôresm, thế mà vua nước này
Đã không đến viếng thăm ngài, dâng lễ.
Imam giận, không thăm vua vì thế.
Vua hối hận, bắn tiếng muốn thăm ngài,
Nhưng ngài vờ không biết, để ngoài tai.
Một sáng nọ, như lệ thường, trời nóng
Vua đi tắm nhà tắm hơi công cộng
Đức imam cũng có mặt, người đông,
Ngài và vua được xếp chung một phòng.
Trong phòng tắm, trần truồng, mờ hơi nóng,
Vua hỏi ngài: “Ngài học cao, biết rộng,
Vậy cho tôi được hỏi: Liệu sau này
Tôi và ngài xuống địa ngục, gì đây,
Gì xẩy ra với chúng ta khi chết,
Trước tòa án Ngày Cuối cùng Phán xét?”
Imam đáp: “Ngài muốn biết, thưa vua,
Vậy thực lòng, tôi sẽ nói. Xin thưa:
Vào ngày ấy, vua và anh hành khất
Đều giống nhau, trần truồng, đầy nước mắt.
Bước vào phòng phán xét, muốn hay không,
Vua bỏ vương miện quí, lại tồng ngồng.
Tôi thì đứng nhìn từ xa, ái ngại,
Trong hào quang của một nhà thông thái.
Khi còn sống, vua cao hơn mọi người,
Nhưng dưới ấy, vua cũng như mọi người.”
CHUYỆN VUA BAKHRAM
Khi đức vua Yazi-Jird băng hà,
Bakhtam lên ngai vàng thay cha.
Nhưng đáng lẽ chuyên tâm lo việc nước,
Ông vua mới, khác rất xa vua trước,
Chỉ ngày đêm lo ca hát, tiệc tùng,
Hiếm khi nào đỉ ra khỏi hoàng cung
Để tìm hiểu dân của mình sướng, khổ.
Các lân bang đã bắt đầu nhòm ngó.
Như ta biết, vua mà thế, tất nhiên,
Quan của vua sẽ được dịp moi tiền.
Ngoài biên giới, kẻ thù nhân dịp hiếm
Đang rình rập, chờ thời cơ đánh chiếm.
Một ngày nọ, đi săn ngoài thảo nguyên,
Vua bị lạc, một mình ngồi trên yên.
Các tùy tùng tụt đằng sau đâu đấy.
Bỗng phía trước, một ngôi nhà vua thấy.
Vua xuống ngựa, đâu đó ở bên trong
Có tiếng ai than khóc thật não lòng.
Khi vào nhà, vua mới nhìn thấy rõ
Những khuôn mặt đói ăn, buồn, đau khổ.
Ông chủ nhà, không biết vua là ai,
Mang đãi khách cốc nước trắng, củ khoai.
Vua liền hỏi: “Sao nhà buồn như vậy?
Có chuyện gì?” “ Ông đã nhìn, đã thấy.
Trước chúng tôi cuộc sống khá hơn nhiều,
Cho đến khi đã xẩy ra cái điều
Ai cũng biết, là ông vua mới, trẻ
Chỉ ngày đêm lo tiệc tùng vui vẻ
Nên dân tình đang gặp nạn, không hay,
Mặc quan tham lớn nhỏ cứ hàng ngày
Thả sức cướp của dân lành vô tội.
Đất nước giàu mà trở nên nghèo đói.
Giờ chúng tôi thức ăn không, tiền không,
Đang chờ chết, nghĩ mà thật đau lòng...”
Vua chợt hiểu, ngài vô cùng hối hận,
Lòng sôi sục nhưng mím môi nén giận.
Giờ ngài biết mọi tai họa do đâu
Và quyết tâm sẽ làm lại từ đầu.
Trước mũi kiếm ngài đã thề long trọng
Rằng chừng nào mà ngài đang còn sống,
Ngài ra tay giết hết bọn cường quyền,
Cai trị nước như xưa các vua hiền.
Bỗng lúc ấy có một người hớt hải,
Vẻ vui sướng đang từ xa chạy lại,
Báo tin vui: Tự nhiên suối nước đầy!
Chủ nhà nói: “Đây rõ ràng điềm may
Rằng đức vua của chúng ta thay đổi.
Trời cho nước, tức sẽ không còn đói!”
Vua Bakhtam hào phóng tặng người dân
Cả ruộng đất, cả tiền bạc, áo quần.
Bản thân vua thôi hát ca, yến tiệc,
Thay vào đó, chăm cho dân mọi việc.
Ngài thẳng tay giết hết bọn tham quan,
Đất nước ngài lại giàu có, bình an,
Và được xem thiên đường trên trái đất,
Nơi mọi người sống yên vui, dư dật.
*
Thật vĩ đại, vua Bakhram của tôi.
Xin hãy nhận lời chúc của Navôi.
Nào chủ quán, cùng ta say túy lúy.
Ta phải uống vì đức vua yêu quí.
Phải nói rằng, chỉ có rượu quán ông
Mới làm ta vợi bớt nỗi phiền lòng.
HẾT
MỤC LỤC
PREFACE
by H.E. Seyed Javad Ghavam Shahidi ,
Ambassador of Islamic Republic of Iran to Vietnam
LỜI NÓI ĐẦU CỦA NGÀI SEYED JAVSAD GHAVAM SHAHIDI,
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng Hòa Hồi Giáo Iran tại Việt Nam
RUĐAKI - RUDAKI
Thơ hai câu – Couplets
Thơ bốn câu – Quatrains
Thơ trữ tình - Ghazal
IBN SINA - IBN SINA
Thơ bốn câu – Quatrains
PHIĐÔUSI – FERDOWSI
Những lời kim cương – Words of diamond
Thơ trữ tình - Ghazal
Đạo làm vua – The duties of Kings
TRUYỆN CÁC VUA - SHAHNAMEH
Zohak giết cha – Zohak kills his father
Quỉ làm đầu bếp cho vua Zohak – Iblis serves as King Zohak’s cook.
Nguồn gốc người Kurds - Origin of the Kurds
Giấc mơ của Zohak - Zohak’s dream
Các thầy tế giải thích ý nghĩa giấc mơ của Zohak
The mobids explain Zohak’s dream
Rostam và Sokhrab – Rostam and Sokhrab
Rostam đi săn – Rostam goes hunting
Rostam vào thành Samengan – Rostam enters the city of Samegan
Tahmina, con gái vua Samengan, đến gặp Rostam. Chàng cưới nàng làm vợ.
Tahmina, daughter of Samegan’s King enters Rostam chamber. He married her
Sokhrab tấn công Lâu Đài Trắng – Sokhrab attacks the White Citadel
Sokhrab và Guđapharit – Sokhrab and Gudapharit
TAKHI – TAHER
Thơ Rubai – Rubai
SANAI - SANAI
Thơ bốn câu – Quatains
Thơ trữ tình – Ghazal
Vườn chân lý – Garden of truth
Chuyện vua Macmut và bà già – Story of King Mahmud and the old woman
NASIR KHOSROW - NASIR KHOSROW
Thơ hai câu – Couplets
Thơ bốn câu – Quatrains
Bọn cho vay nặng lãi – The loan sharks.
Đôi điều về vua quan – A few words about kings and his mandarins
Thợ thủ công – The craftmen
Người nông dân – The farmers
Lòng tham và thói xấu – Greed and vices
Lời nói – Words of mouth
Đại bàng và mũi tên làm bằng lông đại bàng
The eagle and the arrow made of ít own feathers
Dây bầu và cây đa – The Squash and the Banyan tree
KHAYYAM - KHAYYAM
Thơ Rubai – Rubai
ANVARY - ANVARY
Thơ trữ tình - Ghazal
Thư trả lời một đại quan, người vô cớ sỉ nhục tác giả
Letter to a great man who offended the author without any reasons
ATTAR - ATTAR
Chuyện nhà vua và những người tù – Story about the King and and the prisoners
SAAĐI - SAADI
Thơ lẻ - Small poems
VƯỜN HỒNG - GULISTAN
Về nguyên nhân viết cuốn sách này – The reason for writing this book
Về cuộc đời các vua – On lifes of Kings
Về đạo đức các ẩn sĩ – On Hermits’ Morals
Về ích lợi của việc biết hài lòng với những điều nhỏ nhặt
On the benefits of being content with small things
Về cái hay của sự im lặng – On the benefits of keeping silent
Về tình yêu và tuổi trẻ - On Love and Youth
Về tuổi già và sự bất lực – On Old Age and Sufferings caused by it
Về cái lợi của học hành – On the benefits of Education
Về sự tu thân – On Self-improvement
Đoạn kết – End of the Book
VƯỜN QUẢ - BUSTAN
Phần mở đầu – Về nguyên nhân viết cuốn sách này
Introduction: Reasons of writing this Book
Chương một – Về lẽ phải, sự thông minh và sáng suốt
Chapter One: On Righteous Things, Reason and Wisdom
Chương hai – Về việc thiện
Chapter Two: On doing Good things
Chương ba – Về tình yêu, sự đam mê và điên rồ trong tình yêu
Chapter Three: On Love, Passions and Foolish things in Love
Chương bốn – về sự khiêm nhường
Chapter Four: On Modesty and Humbleness
Chương năm – về sự cam chịu số phận
Chapter Five: On tolerance of one’s Fate
Chương sáu – về việc biết hài lòng với những gì bé nhỏ
Chapter Six: On why one should be content with small things
Chương bảy – Về sự tu thân
Chapter Seven: On Self-improvement
Chương tám – về sự biết ơn
Chapter Eight: On Gratefulness
Chương chín – Về sự hối lỗi và con đường chính đại
Chapter Nine: On Repentances and the Righteous Way
Chương mười – lời cầu nguyện và cũng là đoạn kết của cuốn sách này
Chapter Ten: Prayers and also the End of this Book
RUMI - RUMI
Người nông dân và con sư tử - The farmer and the lion
Ông điếc thăm người ốm – How a deaf man visits his sick neighbour
Chuyện con voi – How an elephant is viewed by ignorant people
Chuyện người xăm mình – How a man wants his body tattoos done
Chuyện người du mục và con chó sắp chết - Story of a nomad and his dying dog
Chuyện thầy ngữ pháp và ông chèo đò –
Story of the ferryman and the gramatician
Chuyện bốn chàng ăn nho – Story of four young men wanting to eat grape
Chuyện ông già và thầy lang – Story of an old man and his physician
Chuyện anh lính canh và người say rượu – Story of a guard and a drunkard
Chuyện con lừa bị mất cắp - Story of a stolen ass
Chuyện anh hề lấy cô điếm làm vợ - Story of why a joker married a prostitute
Chuyện người sợ bị nhầm là lừa
Story of a man who is afraid to be viewed as an ass
Chuyện vua Termez bị anh hề chiếu tướng
Story on how the king was defeated by his joker while playing chess
Chuyện bọn cướp và hai ông già – Story of the robbers and the two old men
Chuyện tranh cãi giữa bò, cừu và lạc đà –
A quarrel between a cow, a lamb and a camel
Ba lời khuyên của con chim bị bắt
The three pieces of advice by a captured bird
Chuyện hai chiếc túi – Story of the two bags
Ông chủ cửa hàng và con vẹt – The shop-owner and his parrot
Chuyện ông vua và nàng Lêila – The King and the beauty Leila
Chuyện con rắn của ông thầy cúng Ấn Độ -
Story of an Indian fortune-teller’s snake
Chuyện cậu bé và lời khóc của người đưa tang
Story of a boy hearing the laments of those attending a funeral
Chuyện con lừa bị bắt trộm – Story of how an ass was stolen
HAFIZ - HAFIZ
Thơ bốn câu - Quatrains
Thơ trữ tình - Ghazal
JAMI - JAMI
Thơ bốn câu - Quatrains
Thơ trữ tình - Ghazal
Chuyện hai con đại bàng – Story of the two eagles
Chuyện vợ chồng ông chủ và cân thịt – Story of a couple and a pound of meat
Lạc đà và cáo – The camel and the fox
Chuyện con chim khôn ngoan và con cá ngốc nghếch
Story of a wise bird and a stupid fish
Chuyện Ibn Sina chữa bệnh cho người tâm thần
Story on how Ibn Sina treated a metal patient
Chuyện anh chàng có bộ quần áo đẹp
Story of a young man wearing a beautiful robe
Chuyện quan tòa suýt bị cắt tai
Story on how a judge was about to have his ears cut
Chuyện anh nông dân thật thà và con lừa què
Story of a naïve farmer and his crippled ass
Chuyện vua Parvis và con cá lạ kỳ - Story of king Parvis and the wonderful fish
Chuyện vua Iskandar tới thành phố những người đạo đức trong sạch
Story of king Iskander in the city of the high morale people
Chuyện về Sôcrat – Story on Socrat
Chuyện người thợ giặt và con bồ nông - Story of a cloth - washer and a pelican
Chuyện con lạc đà có có cánh – Story of a camel with wings
NAVÔI - NAVOI
Chuyện người nô lệ - Story of a slave
Chuyện Khatam xứ Tai - Story of Khatam of Tai
Chuyện chàng khiêm tốn và chàng tham lam
Story of a humble young man and a greedy young man
Chuyện hai người yêu nhau – Story of two people in love
Chuyện vua Hazi và bà già – Story of king Hazi and an old woman
Chuyện vua Muhamad xứ Khôresm và nhà thông thái Fakhr Razi gặp nhau trong buồng tắm
Story on how king Muhamad of Khoresm and Imam Fakhr Razi met in the steam bath room
Chuyện vua Bakhram – Story of king Bakhram
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn