MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Wednesday, June 29, 2011

Letters To A Young Poet - R. M. Rilke 5 Thư gởi nhà thơ trẻ 5


THE FIFTH LETTER

BỨC THƯ THỨ NĂM

Rome
October 29, 1903

Dear Sir,

Rome,

ngày 29 tháng mười, năm 1903.

Ông thân ái,

I received your letter of August 29 in Florence, and it has taken me this long two months to answer. Please forgive this tardiness, but I don't like to write letters while I am traveling because for letter-writing I need more than the most necessary tools: some silence and solitude and a not too unfamiliar hour.

Bức thư ông gửi ngày 29 tháng tám đã tới tay tôi tại Florence, và bây giờ, sau hai tháng trời biền biệt, tôi mới nhắc tới bức thư đó. Xin ông thứ lỗi cho sự chậm trễ này, sở dĩ thế là vì tôi không thích viết thư khi lên đường. Vì muốn viết thư, đối với tôi, không phải chỉ cần vật dụng cần thiết thôi mà lại cần cả đôi chút im lặng biệt lập và một giờ thuận tiện cho tinh thần kết nụ.

We arrived in Rome about six weeks ago, at a time when it was still the empty, the hot, the notoriously feverish Rome, and this circumstance, along with other practical difficulties in finding a place to live, helped make the restlessness around us seem as if it would never end, and the unfamiliarity lay upon us with the weight of homelessness. In addition, Rome (if one has not yet become acquainted with it) makes one feel stifled with sadness for the first few days: through the gloomy and lifeless museum atmosphere that it exhales, through the abundance of its pasts, which are brought forth and laboriously held up (pasts on which a tiny present subsists), through the terrible overvaluing, sustained by scholars and philologists and imitated by the ordinary tourist in Italy, of all these disfigured and decaying Things, which, after all, are essentially nothing more than accidental remains from another time and from a life that is not and should not be ours. Finally, after weeks of daily resistance, one finds oneself somewhat composed again, even though still a bit confused, and one says to oneself: No, there is not more beauty here than in other places, and all these objects, which have been marveled at by generation after generation, mended and restored by the hands of workmen, mean nothing, are nothing, and have no heart and no value; but there is much beauty here, because every where there is much beauty.

Chúng tôi đã đến Rome cách đây sáu tuần lễ vào một mùa mà thành phố hãy còn trống trải, nóng bức, như bị trời phạt vạ vì phải cơn sốt thiêu đốt. Những hoàn cảnh như thế, lại thêm những sự khó khăn gian nan trong việc thu xếp ăn ở cho an ổn, đã khiến chúng tôi phải lao xao chộn rộn không ngừng. Rồi lại chơ vơ lạ nước lạ non, đất khách quê người đè nặng chúng tôi với lòng sầu viễn xứ. Cũng nên thêm rằng thành phố Rome (khi mình chưa quen biết nó lắm) xô đẩy khách lạ mấy ngày đầu vào trong một nỗi sầu tiêu sái, một ý chí tiêu trầm thoát ra từ hơi hám nhạt nhẽo khô chết, bốc ra từ những bảo tàng viện, thoát ra từ bao nhiêu quá khứ của thành phố mà người ta khai quật và lưu tồn một cách gian nan (hiện tại tầm thường nuôi sống từ đó), thoát ra sự đánh giá quá cao mà những nhà bác học thông thái khảo cổ đã đặt vào những sự vật hư nát, và theo đuổi họ là những du khách truyền thống của Ý đại lợi. Tất cả những sự vật này thực ra chỉ là những tàn tích xuất hiện ngẫu nhiên ở đó, thuộc vào một thời đại khác, vào một đời sống khác hẳn đời sống chúng ta và không thể là đời sống của chúng ta được. Sau cùng, trải qua bao tuần chịu đựng ở thế thủ, mình mới tìm lại con đường trở về nội tâm mình, dù hơi bỡ ngỡ sửng sốt đôi chút. Lúc ấy mình mới tự nhủ: không, ở đây, nơi thành phố này, cũng chẳng có gì đẹp hơn nơi khác. Tất cả những di phẩm ở đây, mà bao nhiêu thế hệ liên tiếp đã sùng bái ca tụng, mà bao nhiêu tay thợ đã vá víu tu bổ, thực ra chúng chẳng có ý nghĩa gì cả, chẳng có đời sống gì cả, không hồn, không giá trị gì hết. Nếu ở đây có nhiều cảnh tượng đẹp đẽ thì ở mọi nơi khác cũng có nhiều cảnh tượng đẹp đẽ như vậy.

Waters infinitely full of life move along the ancient aqueducts into the great city and dance in the many city squares over white basins of stone and spread out in large, spacious pools and murmur by day and lift up their murmuring to the night, which is vast here and starry and soft with winds. And there are gardens here, unforgettable boulevards, and stair cases designed by Michelangelo, staircases constructed on the pattern of downward-gliding waters and, as they descend, widely giving birth to step out of step as if it were wave out of wave. Through such impressions one gathers oneself, wins oneself back from the exacting multiplicity, which speaks and chatters there (and how talkative it is!), and one slowly learns to recognize the very few Things in which something eternal endures that one can love and something solitary that one can gently take part in.

Nước chảy lai láng, tràn trề sự sống, chảy đến thành phố qua những thủy lộ lâu đời, nhảy múa trong những vành đựng nước bằng đá trắng trên vô số công trường của thành phố, chảy lan ra trong những chậu nước rộng và sâu. Tiếng nước chảy róc rách ban ngày dâng lên thành bài ca vất vưởng vào ban đêm khuya khoắt, ở nơi thành phố này đêm trở nên linh trọng và trời đầy sao, đêm dịu dàng mơn trớn dưới sự vuốt ve nhè nhẹ của những cơn gió thoảng qua. Nơi đây có những khuôn trang, những lối đi khó quên, những bậc thang do Michel Ange thai nghén tạo thành rập theo hình thể của dòng nước chảy xiết, ào ạt đổ trào, mỗi một bước thang thoát ra từ một nấc thang khác, như từng cơn sóng lũ lượt thoát từ cơn sóng khác. Nhờ những xúc động cảm khái kia mình mới thu phối được tâm tư, thu lòng, tập trung tinh thần lại để thoát khỏi đám đông xâm lấn ba hoa ồn ào (ở Ý đại lợi này, đám đông ba hoa, ăn nói huyên thuyên quá đỗi!) Chầm chậm dần hồi mình bắt đầu tập nhận ra những sự việc vô cùng hy hữu mà Thiên Thu còn trì cửu, mà mình có thể thương yêu lưu luyến, mình tập nhận ra nỗi cô đơn mà chúng mình có thể tham dự vào đó trong niềm im lặng chơi vơi.

I am still living in the city, on the Capitol, not far from the most beautiful equestrian statue that has come down to us from Roman art - the statue of Marcus Aurelius; but in a few weeks I will move into a quiet, simple room, an old summerhouse, which lies lost deep in a large park, hidden from the city, from its noises and incidents. There I will live all winter and enjoy the great silence, from which I expect the gift of happy, work-filled hours...

Tôi vẫn còn đang ở trong thành phố, trên điện chiến thần Capitole, không xa kỵ mã tượng đẹp nhất mà nghệ thuật La Mã còn truyền lại cho chúng ta: đó là bức tượng Marc-Aurèle. Trong vài tuần nữa tôi sẽ di chuyển đến một chỗ ở đơn giản tĩnh lặng, ngôi nhà mùa hạ nằm hút tận lòng một công viện to lớn, đóng kín mất khỏi những tiếng ồn ào động đậy của thị tứ. Tôi sẽ sống suốt mùa đông ở đó, thụ hưởng niềm im lặng mênh mông, chờ đợi tặng phẩm của những giờ phút tràn đầy thơ mộng…

From there, where I will be more at home, I will write you a longer letter, in which I win say something more about what you wrote me. Today I just need to tell you (and perhaps I am wrong not to have done this sooner) that the book you sent me (you said in your letter that it contained some works of yours) hasn't arrived. Was it sent back to you, perhaps from Worpswede? (They will not forward packages to foreign countries.) This is the most hopeful possibility, and I would be glad to have it confirmed. I do hope that the package hasn't been lost - unfortunately, the Italian mail service being what it is, that would not be anything unusual.

Sống nơi đó, tôi sẽ cảm thấy thoải mái hơn, sẽ viết nhiều hơn nữa cho ông và tôi sẽ trả lời tiếp về bức thư cuối cùng của ông. Hôm nay tôi cần cho ông biết (đáng lẽ ông cho tôi biết sớm hơn) rằng tác phẩm ông nói trong thư, gồm một số sáng tác của ông, chưa tới tay tôi. Có lẽ người ta đã hồi lại ông từ Worpswede (vì họ không thể gửi lại theo địa chỉ mới của người nhận ở hải ngọai), Nếu họ đã hồi lại ông thì quí biết bao, tôi muốn ông xác nhận cho tôi rõ điều ấy.

I would have been glad to have this book (as I am to have anything that comes from you); and any poems that have arisen in the meantime I will always (if you entrust them to me) read and read again and experience as well and as sincerely as I can.

With greetings and good wishes,

Yours,

Rainer Maria Rilke

Tôi mong rằng nó không lạc (bưu điện Ý đại lợi thì đáng ngờ lắm, thực là không may). Tôi rất sung sướng khi nào nhận lại được tác phẩm kia, cũng như nhận được bất cứ sáng tác nào của ông; về những vần thơ ông làm sau đó, tôi cũng thích thú đọc chúng nếu ông phó thác chúng cho tôi, tôi sẽ đọc lại chúng, sống với chúng bằng tất cả chân tình của lòng mình.

Chào mến chúc.

Thân ái,

RAINER MARIA RILKE


LETTER1 LETTER2 LETTER3 LETTER4 LETTER5 LETTER6 LETTER7 LETTER8 LETTER9-10

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn