|
|
|
|
THE SLOW
RAPPROCHEMENT
|
Việt-Mỹ: nối lại
quan hệ chậm chạp
|
By Nayan Chanda
|
|
The rapid rise of
China is bringing Vietnam and America closer together, but how long will this
last?
|
Sự trỗi dậy nhanh
chóng của Trung Quốc khiến Việt Nam và Mỹ xích lại gần nhau hơn, nhưng điều
này sẽ kéo dài bao lâu?
|
In the days after the last helicopter lifted off the
United States embassy helipad, the Saigon sky fell silent and the victors got
busy raising the red and gold standard of the National Liberation Front on
the flag poles of foreign missions.
|
Những ngày sau khi chiếc máy bay cuối cùng rời khỏi sân
bay đại sứ quán Mỹ, bầu trở Sài Gòn trở nên tĩnh lặng và những người chiến
thắng hân hoan cắm lá cờ đỏ sao vàng của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
lên cột cờ các tòa công sứ nước ngoài.
|
The fortress-like American embassy alone did not have the
NLF flag. Asked about the reason for the exception, an officer from Hanoi
assured me with a smile: “The Americans will be back soon.” As he explained,
“The Americans worry about Chinese expansionism and they know, historically,
Vietnam has been the biggest barrier against Beijing’s southward drive.”
|
Chỉ riêng đại sứ quán kiểu pháo đài của Mỹ không có lá cờ
nào của quân giải phóng tung bay. Khi được hỏi về lý do tại sao họ lại để một
trường hợp ngoại lệ như vậy, một quan chức tại Hà Nội nở nụ cười và quả quyết
rằng: "Người Mỹ sẽ sớm quay trở lại". Ông giải thích: "Người
Mỹ e ngại chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc và họ biết, trong lịch sử, Việt
Nam luôn là trở ngại lớn nhất ngăn cản Bắc Kinh tiến xuống phía nam".
|
Earlier this year US Secretary of Defense Leon Panetta was
granted a tantalising tour of the famed Cam Ranh Bay that figured prominently
in America’s strategic imagination. This is not to suggest that the US and
Vietnam are anywhere near the strategic cooperation that my Vietnamese
interlocutor dreamed of in 1975, but the zigzag journey of reconciliation and
rapprochement between the two adversaries remains a gripping tale.
|
Đầu năm nay, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã có
chuyến thăm lịch sử tới Vịnh Cam Ranh nổi tiếng đang được đề cập đến rõ ràng
trong toan tính chiến lược của người Mỹ. Điều đó không có nghĩa Việt Nam và
Mỹ đã tiến gần đến sự hợp tác chiến lược mà người đối thoại với tôi từng
mường tượng ra vào thời điểm năm 1975, nhưng hành trình hòa giải và thiết lập
tình hữu nghị đầy giữa hai nước vừa mới đây còn là kẻ thù của nhau vẫn là một
câu chuyện đáng quan tâm.
|
The story also offers valuable lessons in the interplay of
three factors—geopolitics, nationalism, and ideology—that shaped the
kaleidoscopic transformations.
|
Câu chuyện cũng mang đến những bài học giá trị trong sự
tác động qua lại lẫn nhau giữa ba nhân tố - địa chính trị, chủ nghĩa dân tộc,
và hệ tư tưởng - biến ảo như kính vạn hoa.
|
Vietnam’s two thousand year history of love-hate relations
with its giant neighbour China, its national ambition, and the ruling
Communist Party’s concern about regime maintenance might explain the tortured
path towards normalisation.
|
Lịch sử 2 nghìn năm mối quan hệ lúc ấm lúc lạnh của Việt
Nam với người khổng lồ láng giềng Trung Quốc, tham vọng quốc gia cùng nỗ lực
đảm bảo vai trò cầm quyền có thể giải thích tại sao nó lại mở đường cho cho
công cuộc bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ.
|
At the end of the war in 1975 the Vietnamese party was
flush with its historic victory, eager to rebuild the ravaged nation but
worried about the signs of overt hostility from China. Its optimism about
speedy restoration of ties with Washington, because of broad geopolitical
considerations, may have been logical thinking but it was based on a total
misunderstanding of the American policy dynamic.
|
Vào thời điểm chiến tranh hoàn toàn chấm dứt năm 1975,
phía Việt Nam hân hoan trong chiến thắng lịch sử, háo hức tái thiết đất nước
sau những năm bom đạn tàn phá, nhưng cũng đầy âu lo với những dấu hiệu khiêu
khích lộ liễu của Trung Quốc. Việt Nam có cơ sở để lạc quan mau chóng khôi
phục lại quan hệ với Washington, do những tính toán địa chính trị của cả 2
bên, nhưng cơ sở logic ấy lại dựa trên sự hiểu biết nhầm lẫn về động cơ chính
sách của Mỹ.
|
Despite President Jimmy Carter’s desire to restore ties
with all erstwhile enemies in Asia, including China, normalisation of
relations with Vietnam proved impossible. Carter did not share Vietnam’s
long-range perspective and Vietnam, on its part, underestimated America’s
deep psychological war wounds.
|
Mặc dù Tổng thống Jimmy Carter mong muốn nối lại quan hệ
với tất cả các bên từng là kẻ thù ở châu Á, bao gồm cả Trung Quốc, thì việc bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam vẫn tỏ ra là không thể. Carter không có chung
quan điểm dài hạn với Việt Nam và về phần mình, Việt Nam đã đánh giá chưa
đúng về vết thương chiến tranh còn hằn sâu những ảnh hưởng tâm lý tại Mỹ.
|
While it wanted relations with Washington to balance
Chinese power, Vietnam was too proud a victor to forego the spoils of
war—reconstruction aid promised by the US in the Paris peace accord of 1973.
After the normalisation talks collapsed in 1978, the geopolitical context
underwent a dramatic shift unfavourable to Vietnam that lasted nearly two
decades.
|
Trong khi muốn mối quan hệ với Washington sẽ giúp tạo đối
trọng với sức mạnh của Trung Quốc, Việt Nam đã quá tự hào với chiến thắng nên
không thể bỏ qua các khoản bồi thường chiến tranh - các khoản viện trợ tái
thiết mà Mỹ cam kết theo Hòa ước Paris 1973. Sau khi các cuộc đàm phán bình
thường hóa quan hệ đổ vỡ vào năm 1978, bối cảnh địa chính trị đã trải qua
những thay đổi quan trọng kéo dài gần 2 thập niên không có lợi cho Việt Nam.
|
Four years after the end of the long war, Vietnam was
again in a state of war on its northern and western fronts. Chinese-backed
Khmer Rouge attacks on its western border in 1977–78 led to Vietnamese
invasion and occupation of Cambodia. China retaliated with a punitive
invasion of northern Vietnam in 1979. This began a decade-long period in
which Vietnam faced economic crisis at home and isolation abroad.
|
Bốn năm sau khi kết thúc cuộc chiến tranh trường kỳ, Việt
Nam lại bước vào cuộc chiến mới bảo vệ biên giới phía bắc và phía tây. Năm
1977-1978, các cuộc tấn công của lực lượng Khmer Đỏ dưới sự giật dây của
Trung Quốc vào biên giới phía tây đã khiến Việt Nam phải đưa quân sang Campuchia.
Trung Quốc đã ngay lập tức đáp trả với cuộc tấn công vào biên giới phía bắc
của Việt Nam vào năm 1979 để "trừng phạt". Từ đây, Việt Nam rơi vào
thời kỳ khủng hoảng kinh tế ở trong nước và bị bên ngoài cô lập.
|
The pressure of the de facto alliance between the US and
China and their support of the Khmer Rouge–led coalition was compounded by
the loss of support from a Soviet Union undergoing perestroika.
|
Việt Nam vừa phải chịu áp lực từ liên kết thực tế giữa Mỹ
và Trung Quốc cùng sự ủng hộ của họ cho liên minh do Khmer Đỏ dẫn đầu vừa mất
đi ủng hộ từ phía Liên Xô do đang tiến hành những cải cách kinh tế, chính
trị.
|
The talks on normalisation of relations with the US were
bogged down by unending American demands for accounting of their POWs and
missing in action (MIA) during the war. The conservatives in the
administration and the military, who never forgave Vietnam for America’s
national humiliation, sought to restore the country’s honour by bringing home
the remains of fallen soldiers and maintaining a crippling trade embargo
imposed since 1975.
|
Các cuộc đàm phán bình thường hóa quan hệ với Mỹ bị sa lầy
bởi Mỹ luôn yêu cầu trách nhiệm đối với tù nhân và những người mất tích (MIA)
trong chiến tranh của họ. Những người bảo thủ trong chính quyền và quân đội,
không bao giờ "tha thứ" cho Việt Nam vì đã làm nước Mỹ bẽ mặt, họ
muốn lấy lại danh dự bằng cách cố gắng đưa trở về hài cốt của các lính Mỹ tử
trận và tiếp tục duy trì lệnh cấm vận thương mại áp đặt từ năm 1975 làm tê
liệt nền kinh tế Việt Nam.
|
To emerge out of its economic troubles and diplomatic
isolation, Vietnam launched its doi moi (renovation) reforms and began the
withdrawal of its troops from Cambodia, which was completed in 1989.
|
Để vượt ra khỏi tình trạng khó khăn về kinh tế và sự cô
lập ngoại giao của bên ngoài, Việt Nam đã phát động công cuộc đổi mới và bắt
đầu lên kế hoạch đến năm 1989 rút hết quân đội khỏi Campuchia.
|
By the time Vietnam came close to withdrawing its troops,
as demanded by the US and ASEAN, and engaged in talks with them over
Cambodia’s political future, the geopolitical context changed again. The
Sino–Soviet rapprochement and the international isolation of Beijing
following the Tiananmen massacre not only altered the external environment
but also raised concerns about the regime’s security.
|
Đến lúc Việt Nam sắp hoàn tất việc đưa quân về, theo đúng
như yêu cầu của phía Mỹ và ASEAN, và bước vào các cuộc đàm phán về tương lai
chính trị của Campuchia, bối cảnh địa chính trị lại một lần nữa thay đổi.
Việc Trung Quốc và Liên Xô lập lại quan hệ và sự cô lập quốc tế đối với Bắc
Kinh sau sự kiện Thiên An Môn không chỉ làm thay đổi môi trường bên ngoài mà
còn đặt ra những quan ngại sâu sắc về sự an nguy của chế độ.
|
The large protests in China, which ended in the violent
suppression in Tiananmen Square, and the domino-like fall of socialist
regimes in Eastern Europe that came shortly afterwards rang alarm bells in
Beijing—and in Hanoi.
|
Các cuộc biểu tình quy mô lớn ở Trung Quốc đã kết thúc
bằng bạo lực tại Quảng trường Thiên An Môn và sự sụp đổ như một hiệu ứng
domino của chế độ Xã hội Chủ nghĩa ở một loạt các nước Đông Âu diễn ra ngay
sau đó đã rung lên hồi chuông báo động ở cả Bắc Kinh - và Hà Nội.
|
While Vietnam sorely needed aid and trade with the West,
it was wary of “peaceful evolution” and subversion of the socialist system in
the name of assistance. The George H. W. Bush administration’s so-called road
map for normalisation was viewed with deep suspicion. Vietnam’s top diplomat
Nguyen Co Thach’s failure to obtain normalisation, despite many concessions
on MIA and the withdrawal from Cambodia, led Hanoi to alter its anti-Chinese
trajectory.
|
Trong hoàn cảnh hết sức cần những sự hỗ trợ và mối quan hệ
thương mại với phương Tây, Việt Nam vẫn rất mực cảnh giác với chiến lược
"diễn biến hòa bình" và lật đổ hệ thống Xã hội Chủ nghĩa dưới chiêu
bài viện trợ. Cái gọi là lộ trình bình thường hóa quan hệ của chính quyền
George H.W. Bush bị đặt trong sự hoài nghi sâu sắc. Việc Bộ trưởng Ngoại giao
Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch không thể hoàn tất nỗ lực bình thường hóa, dù đã có
nhiều nhương bộ trong vấn đề MIA và đã rút quân khỏi Campuchia, đã khiến Việt
Nam thay đổi quỹ đạo chống Trung Quốc.
|
A secret summit meeting between Chinese and Vietnamese party
leaders was held in Chengdu on 4 and 5 September 1990. The ground was laid
for a gradual de-escalation of China’s conflict with Vietnam and an agreement
to form a coalition government in Phnom Penh under UN auspices.
|
Một hội nghị cấp cao bí mật giữa lãnh đạo Đảng hai nước
Trung Quốc và Việt Nam đã đặt nền móng cho sự từng bước xuống thang xung đột
của Trung Quốc với Việt Nam và thỏa thuận thành lập một chính phủ liên minh ở
Phnom Penh dưới sự bảo đảm của Liên hợp quốc.
|
With normalisation of relations with China on course,
Vietnam’s main objective in seeking ties with Washington was economic
cooperation. But Vietnam was still very much on guard against threats to the
socialist regime. Ironically, the Democratic administration under Bill
Clinton proved tougher on Vietnam than the previous Republican
administration. Pressed by right-wing politicians, the Clinton administration
stepped up pressure over MIA and human rights violations.
|
Với việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc diễn ra
theo chiều hướng thuận lợi, mục tiêu chính của Việt Nam khi tìm kiếm mối quan
hệ với Washington là hợp tác kinh tế. Trớ trêu thay, chính quyền đảng Dân chủ
dưới thời Bill Clinton tỏ ra gay gắt với Việt Nam hơn chính quyền Cộng hòa.
Dưới áp lực của các chính trị gia cánh hữu, chính quyền Clinton đã gây thêm
sức ép lên vấn đề MIA và nhân quyền.
|
Business though saw opportunities in Vietnam and its
concerted lobbying forced Washington to eventually agree to soften its
stance. In February 1995, America lifted its trade embargo against Vietnam,
and in July came the announcement that diplomatic ties would be restored.
When, finally, on 5 August 1995 (a full 30 years after the end of the war),
secretary of state Warren Christopher unfurled the Stars and Stripes in the
US embassy in Hanoi, Vietnam’s main concern had shifted. It was no longer as
interested in a strategic alliance as it was in ways to open the economy to
the world and, specifically, win favoured nation trade status.
|
Giới doanh nghiệp, mặc dù vậy, nhìn thấy cơ hội ở Việt Nam
và cuộc vận động chung của họ cuối cùng đã buộc Washington phải đồng ý lập
trường mềm mỏng hơn. Tháng 2/1995, Mỹ dỡ bỏ lệnh cấp vận thương mại đối với
Việt Nam, và tháng 7 đi đến tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Vậy
là đến ngày 5/8/1995 (tròn 30 năm cuộc chiến tranh kết thúc), Bộ trưởng Ngoại
giao Mỹ Warren Christopher đã cắm quốc kỳ nước mình lên đại sứ quán Mỹ tại Hà
Nội, mối quan tâm chính của Việt Nam đã thay đổi. Việt Nam không còn hào hứng
với một mối quan hệ chiến lược với Mỹ như với việc mở cửa nền kinh tế ra với
thế giới, và đặc biệt là, giành chế độ đãi ngộ thương mại quốc gia nữa.
|
Vietnam’s reticence in being seen as a US ally against
China was evident in March 2000. Defense secretary William Cohen became the
first cabinet official to visit Vietnam, but Hanoi went out of its way to
announce that there was no talk of strategic ties.
|
Tình cảm này của Việt Nam đối với việc xây dựng một mối
liên kết sâu sắc hơn với Mỹ để đề phòng Trung Quốc thể hiện rõ trong tháng
3/2000. Bộ trưởng Quốc phòng William Cohen trở thành quan chức nội các Mỹ đầu
tiên tới thăm Việt Nam, nhưng Hà Nội sau đó đã thẳng thắn tuyên bố không hề
đàm phán xây dựng quan hệ chiến lược.
|
Even when Clinton came to Vietnam in December 2000, a
secret Central Committee directive told party members to show a “cold face”
to Clinton. The gap between the Communist Party and the people could not have
been starker. I watched thousands of young Saigonese break through police
cordons to rush towards the presidential limo shouting “Bill, Bill!” For the
Party it was America coming to Canossa and recognising Vietnam rather than
Vietnam seeking closer ties with America with an eye to the north.
|
Ngay cả khi Clinton
đến Việt Nam vào tháng 12 năm 2000,
một chỉ thị bí mật của Ủy ban
Trung ương yêu cầu ủy viên thể hiện "mặt lạnh" với Clinton. Nhưng với nhân dân thì khác hẳn. Tôi đã thấy
hàng ngàn thanh
niên Sài Gòn vượt qua hàng rào cảnh sát vội
vàng lao về phía chiếc xe limo của tổng thống và kêu to "Bill,
Bill!" Đối với Đảng, chính Mỹ
đến Canossa và
công nhận Việt Nam chứ không phải là Việt Nam đang tìm kiếm mối quan hệ gần gũi hơn
với Mỹ trong khi một mắt đang hướng về phía bắc.
|
In his meeting with Clinton, secretary general Le Kha
Phieu gave the president a lesson in Vietnam’s glorious history of resistance
to aggressors, but did not discuss the present or the future of relations
with the US. For that, Vietnam had to wait another three years and a change
in the external environment.
|
Trong cuộc gặp với Clinton,
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã giảng giải cho vị Tổng thống Mỹ về lịch sử hào
hùng chống ngoại xâm của Việt Nam, nhưng không thảo luận mối quan hệ với Mỹ ở
thời điểm hiện tại hay tương lai. Vì lẽ đó, Việt Nam đã phải đợi đến 3 năm
sau, cùng với một môi trường bên ngoài đã thay đổi.
|
The second Bush administration seemed to move away from
the somewhat smarmy attitude the US had toward China in the wake of the EP-3
spy plane incident. Even before the tension over the spy plane, important
voices in Washington expressed concern about China’s muscle flexing.
|
Nhiệm kỳ thứ hai của Bush dường như đã từ bỏ thái độ dễ
dãi đối với Trung Quốc sau sự kiện máy bay gián điệp EP-3. Ngay cả trước khi
căng thẳng liên quan đến chiếc máy bay do thám này xuất hiện, những tiếng nói
quan trọng tại Washington cũng đã thể hiện quan ngại về khả năng Trung Quốc
sẽ phô trương sức mạnh.
|
One of the authors of the RAND corporation report, Zalmay
Khalilzad, who would become a national security adviser, noted that the United
States should bolster its overall military presence in Asia in response to
rising Chinese power. It pointed out that “there is an underlying logic to
cooperation between the United States and Vietnam to prevent a Chinese bid
for regional hegemony.” As Washington began focusing on changing the balance
in East Asia, its interest in Vietnam took on strategic significance.
|
Một trong các tác giả viết báo
cáo của RAND Corporation, Zalmay Khalizad, người sau này trở thành cố vấn an
ninh quốc gia của Mỹ, đã lưu ý rằng Mỹ nên tăng cường sự hiện diện quân sự
tổng thể tại châu Á để đối phó với sức mạnh đang gia tăng của Trung Quốc. Báo
cáo chỉ ra, "điều hợp lý cơ bản là cần phải xây dựng quan hệ hợp tác
giữa Hoa Kỳ và Việt Nam để ngăn chặn nỗ lực bá quyền khu vực của Trung
Quốc". Khi Washington bắt đầu quan tâm thay đổi cán cân tại Đông Á, lợi
ích của Mỹ tại Việt Nam có tầm quan trọng chiến lược.
|
Vietnam, too, was worried about China’s continuing push in
the South China Sea and in the states along Vietnam’s periphery. In the June 2003
Central Committee plenum, the party surmised that the situation in East Asia
was developing in an unfavourable way and efforts had to be made to develop
ties with the US. As the Vietnamese told American officials, “The triangle is
out of balance.”
|
Việt Nam cũng lo ngại Trung
Quốc sẽ tiếp tục tiến ra Biển Đông và can dự vào những quốc gia lân bang với
Việt Nam. Tại phiên họp toàn thể Ban chấp hành trung ương tháng 6/2003, Đảng
đã dự đoán tình hình Đông Á đang diễn biến theo chiều hướng bất lợi và cần
phải cố gắng phát triển mối quan hệ với Mỹ. Khi Việt Nam nói với các quan
chức Mỹ, "Tam giác đang mất cân bằng".
|
US relations with Vietnam were weak, while its ties with
China had improved a great deal and China’s influence in the region had
grown. This new mutual awareness led to the first-ever visit by a Vietnamese
defence minister to Washington in November 2003. It was followed by the first
port call by Navy ship the USS Vandergrift to Ho Chi Minh City.
|
Quan hệ giữa Mỹ với Việt Nam đang ở thế yếu trong khi quan
hệ với Trung Quốc đã cải thiện rõ rệt và ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu
vực tiếp tục gia tăng. Nhận thức chung này đã dẫn tới cuộc viếng thăm đầu
tiên của một Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đến Washington vào tháng 11/2003.
Tiếp sau đó là chuyến dừng chân đầu tiên của tàu Hải quân Mỹ Vandergrift tới
thành phố Hồ Chí Minh.
|
The high point in the warming ties came in June 2005, when
Phan Van Khai became the first Vietnamese leader to be entertained at the
White House. In their joint statement George W. Bush and Khai said they
“shared a vision of peace, prosperity, and security in Southeast Asia and the
Asia-Pacific region, and they agreed to cooperate bilaterally and
multilaterally to promote these goals.” The inclusion of the phrase “Asia-Pacific
region” in the communiqué was the only public hint that the relations went
beyond bilateral or even regional—Southeast Asian concerns. Khai signed an
intelligence agreement with the United States allowing cooperation on
staunching money laundering and engaging in intelligence sharing with
Washington.
|
Cao điểm của mối quan hệ đang nồng ấm dần này là vào tháng
6/2005, khi Thủ tướng Phan Văn Khải trở thành nhà lãnh đạo Việt Nam đầu tiên
được chiêu đãi tại Nhà Trắng. Trong tuyến bố chung, George W.Bush và Thủ
tướng Phan Văn Khải cho biết hai người "chia sẻ tầm nhìn hòa bình, thịnh
vượng và an ninh tại Đông Nam Á và khu vực châu Á - Thái Bình Dương, và nhất
chí hợp tác song phương cũng như đa phương để thúc đẩy các mục tiêu
này". Việc đưa cụm từ "khu vực châu Á - Thái Bình Dương" trong
bản tuyên bố chung là tín hiệu công khai duy nhất rằng mối quan hệ sẽ vượt
qua phạm vi các quan ngại song phương hay thậm chí cả đa phương - Đông Nam Á.
Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký một hiệp định thông tin tình báo với Mỹ cho
phép hợp tác trong hoạt động chống rửa tiền và cùng chia sẻ thông tin tình
báo với Washington.
|
Against the backdrop of growing Chinese power and
assertiveness in the South China Sea US–Vietnam relations have deepened. US
Secretary of State Hillary Clinton’s visit in Hanoi during an ASEAN ministerial
meeting in 2010, where she expressed US concern about Chinese behaviour in
the South China Sea, marked a new level of cooperation with Vietnam. The
following year, US and Vietnam entered into discussions to raise their
bilateral relationship to a strategic partnership. Military ties too have
grown. During the Vietnamese defence minister’s 2003 visit to Washington, it
was decided that similar level exchange visits would take place every three
years. Vietnamese and US defence chiefs have since exchanged four visits.
Leon Panetta’s June 2012 visit drew more than the usual attention against the
backdrop of deteriorating US–China relations. Panetta was given a tour of Cam
Ranh Bay, where Soviet naval assets and long-range bombers were once based.
|
Trong tình thế sức mạnh cũng như sự quyết liệt của Trung
Quốc bộc lộ rõ trong vấn đề Biển Đông, quan hệ Việt-Mỹ đã ngày một thêm sâu
sắc. Chuyến thăm của Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Hillary Clinton tới Hà Nội trong
một Hội nghị Bộ trưởng ASEAN năm 2010, nơi bà bày tỏ quan ngại của Mỹ đối với
cách ứng xử của Trung Quốc trên Biển Đông, đã đánh dấu một mức độ hợp tác mới
đối với Việt Nam. Năm sau, Việt Nam và Mỹ bước vào cuộc đàm phán nâng tầm
quan hệ song phương lên quan hệ đối tác chiến lược. Quan hệ quân sự cũng phát
triển. Trong chuyến viếng thăm của Bộ
trưởng Quốc phòng Việt Nam tới Washington năm 2003, hai bên đã tán thành tiến
hành các cuộc trao đổi ở cấp tương tự 3 năm một lần. Hai vị lãnh đạo quốc
phòng Việt Nam và Mỹ từ đó đã có 4 cuộc gặp gỡ trao đổi. Chuyến thăm của ông
Leon Panetta hồi tháng 6/2012 đã thu hút sự quan tâm hơn bình thường do bối
cảnh mối quan hệ Mỹ-Trung đang xấu đi. Panetta cũng có chuyến thăm tới Vịnh
Cam Ranh, nơi các tài sản và những máy bay ném bom tầm xa của Hải quân Liên
Xô từng đặt tại đây.
|
While the relationship has grown dramatically in the past
decade, the interplay of three factors continues to modulate the relations. A
militarily strong China poses a greater threat to Vietnam’s sovereignty than
at any time in the recent past. But the Vietnamese Communist Party shares the
Chinese Communist Party’s concerns about a Western threat to their system,
all the while seeking Western economic cooperation to build a prosperous and
powerful country.
|
Trong khi mối quan hệ này đã và đang có những bước phát
triển quan trọng trong thập niên qua, sự tương tác giữa 3 nhân tố như đã nêu
ở trên tiếp tục tạo ra những điều chỉnh. Một Trung Quốc mạnh về quân sự sẽ
tạo ra mối đe dọa đối với chủ quyền của Việt Nam lớn hơn bất kỳ khi nào trong
lịch sử gần đây. Nhưng Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng giống như Đảng Cộng sản
Trung Quốc đều cảnh giác với mối đe dọa từ phương Tây, và đều tìm kiếm sự hợp
tác kinh tế với phương Tây để xây dựng một quốc gia thịnh vượng và hùng mạnh.
|
In 1978 a Vietnamese diplomat, Luu Doanh Huynh, explained
the logic behind Vietnam’s cultivation of Moscow: “In all of history we have
been secure from China in only two conditions. One is when China is weak and
internally divided. The other is when she has been threatened by barbarians
from the north. In the present era, the Russians are our barbarians.” The
same logic can be applied to Vietnam’s need to cultivate the US today—a
powerful friend to deter China from being too aggressive.
|
Năm 1978, một nhà ngoại giao
Việt Nam, Luu Doanh Huynh, đã giải
thích logic việc Việt Nam khi vun đắp quan hệ với Moscow: "Trong suốt
chiều dài lịch sử, chúng tôi chỉ có được an ninh trước Trung Quốc trong 2
điều kiện. Một là khi Trung Quốc yếu và nội bộ chia rẽ. Hai là khi Trung Quốc
bị đe dọa bởi những nguy cơ phương Bắc". Lý do tương tự cũng được áp
dụng cho nhu cầu xây đắp mối quan hệ của Việt Nam với Mỹ ngày nay - một người
bạn đủ mạnh để ngăn chặn Trung Quốc trở nên quá hiếu chiến.
|
As Vietnamese leaders frequently remind foreigners, a
country can choose its friends but not its neighbours. However enticing it
might be, Vietnam would shun any military alliance with Washington that could
provoke its giant neighbour’s hostility or make the Vietnamese government
vulnerable to American pressure on democracy and human rights. Rapprochement
between the two countries is real but so are the limits.
|
Như các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn thường nhắc nhở, một
quốc gia chỉ có thể chọn bạn bè chứ không thể chọn láng giềng. Tuy nhiên,
Việt Nam vẫn luôn từ chối liên minh quân sự với Washington để tránh khiêu
khích hành động thù địch từ người khổng lồ láng giềng và tránh bị tổn thương
do áp lực từ phía Mỹ trong các vấn đề dân chủ và nhân quyền. Quá trình nối
lại tình hữu nghị giữa hai nước là có thực nhưng cũng còn nhiều hạn chế.
|
|
Translated by Trâm Anh
|
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/102989/viet-nam-tren-ban-co-cac-nuoc-lon.html
|
|
|
|
|
|
http://americanreviewmag.com/stories/The-slow-rapprochement
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Sunday, December 30, 2012
THE SLOW RAPPROCHEMENT Việt-Mỹ: nối lại quan hệ chậm chạp
Labels:
DIPLOMACY-NGOẠI GIAO
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn