CHAPTER 17
Chapter XVII: A TANTRUM
|
Chương 17 : Một cơn cuồng nộ
|
She had got up very early in the morning and had worked hard in the garden and she was tired and sleepy, so as soon as Martha had brought her supper and she had eaten it, she was glad to go to bed. As she laid her head on the pillow she murmured to herself:
"I'll go out before breakfast and work with Dickon and then afterward--I believe--I'll go to see him."
|
Ngày hôm ấy, Mary thức dậy rất sớm và làm việc miệt mài ngoài vườn, nên giờ nó thấy thấm mệt và buồn ngủ. Martha vội dọn bữa cho nó, con bé ăn xong thì hả hê leo lên giường. Vừa ngả đầu xuống gối, nó đã nhủ thấm: “ Mình sẽ ra ngoài vào trước bữa sang, làm việc với Dickon rồi sau đấy … mình nghĩ … mình sẽ đi gặp cậu ấy.”
|
She thought it was the middle of the night when she was awakened by such dreadful sounds that she jumped out of bed in an instant. What was it--what was it? The next minute she felt quite sure she knew. Doors were opened and shut and there were hurrying feet in the corridors and some one was crying and screaming at the same time, screaming and crying in a horrible way.
"It's Colin," she said. "He's having one of those tantrums the nurse called hysterics. How awful it sounds."
|
Nó cứ tưởng như đã tới nửa đêm, khi những âm thanh khủng khiếp vang lên khiến nó tỉnh giấc, và ngay lập tức nó nhảy phắt ra khỏi giường. Cái gì thế … cái gì thế? Chỉ phút sau nó đã hiểu việc gì vừa xảy ra. Các cánh cửa vừa mở ra rồi lại đóng sập, bước chân ai đang hối hả trong hành lang, cùng lúc đó là tiếng người đang vừa la hét vừa than khóc một cách khủng khiếp.
- Đó là Colin, - con bé bảo. – Cậu ấy đang nổi cơn tam bành mà chị bảo mẫu gọi là chứng kích động cuồng loạn.
|
As she listened to the sobbing screams she did not wonder that people were so frightened that they gave him his own way in everything rather than hear them. She put her hands over her ears and felt sick and shivering.
"I don't know what to do. I don't know what to do," she kept saying. "I can't bear it."
|
Âm thanh mới dễ sợ làm sao. Nghe những tiếng thét lẫn trong tiếng thổn thức đó, nó không lấy làm ngạc nhiên khi thấy mọi người sợ hãi đến đô thà nhượng bộ mọi yêu cầu của thằng bé còn hơn là phải nghe những tiếng ấy. Con bé đưa tay bịt tai, cảm thấy mệt mỏi và run rẩy: “ Mình biết làm gì bây giờ. Mình biết làm gì đây. Mình không tài nào chịu nổi nữa.”
|
Once she wondered if he would stop if she dared go to him and then she remembered how he had driven her out of the room and thought that perhaps the sight of her might make him worse. Even when she pressed her hands more tightly over her ears she could not keep the awful sounds out. She hated them so and was so terrified by them that suddenly they began to make her angry and she felt as if she should like to fly into a tantrum herself and frighten him as he was frightening her. She was not used to any one's tempers but her own. She took her hands from her ears and sprang up and stamped her foot.
|
Có lúc nó tự hỏi không biết Colin có thôi kêu khóc nếu nó dám đến với thằng bé, chính lúc ấy nó nhớ lại cảnh thằng bé đã đuổii mình ra khỏi phòng và nhủ thầm, có lẽ sự có mặt của nó đã đẩy thằng bé vào tình trạng tồi tệ ấy. Ngay cả khi nó ép chặt hơn nữa hai bàn tay vào hai bên tai, nó vẫn không thể ngăn được âm thanh khủng khiếp nọ. Nó thấy ghét và kinh hoàng thứ âm thanh đó đến độ nó chợt nổi giận, nó cảm tưởng bản thân cũng đang bị cuốn vào một cơn giận điên rồ và muốn đe dọa thằng bé như thằng bé đang đe doạ mình. Mary chưa bao giờ phải chịu đựng cơn nóng nảy của bất kỳ ai, ngoài bản thân nó. Nó buông hai tay ra, ngồi nhổm dậy và thò chân xuống sàn.
|
"He ought to be stopped! Somebody ought to make him stop! Somebody ought to beat him!" she cried out.
Just then she heard feet almost running down the corridor and her door opened and the nurse came in. She was not laughing now by any means. She even looked rather pale.
"He's worked himself into hysterics," she said in a great hurry. "He'll do himself harm. No one can do anything with him. You come and try, like a good child. He likes you."
|
- Nó thôi đi được rồi đấy! Ai đó nên bảo nó thôi đi! Ai đó hãy cho nó một trận! – Con bé gào lên.
Đúng lúc ấy, nó nghe có tiếng chân chạy dọc hành lang, cánh cửa phòng nó bật mở, cô bảo mẫu bước vào. Lúc này, chẳng còn thấy cô ta cười cợt gì nữa. Thậm chí mặt cô còn hơi tái đi.
- Cậu ấy đang rơi vào cơn kích động cuồng loạn, - cô nói vội vàng. Như thế chỉ làm hại chính cậu ấy. Chẳng ai có thể làm gì với cậu ấy. Mong cô tới và thử xem sao, cô bé tốt bụng. Cậu ấy chỉ thích mỗi mình cô.
|
"He turned me out of the room this morning," said Mary, stamping her foot with excitement.
The stamp rather pleased the nurse. The truth was that she had been afraid she might find Mary crying and hiding her head under the bed-clothes.
"That's right," she said. "You're in the right humor. You go and scold him. Give him something new to think of. Do go, child, as quick as ever you can."
|
- Sáng nay cậu ấy đã đưổi tôi khỏi phòng, - Mary vừa nói, vừa giậm chân.
Cái giậm chân dường như đã khiến cô bảo mẫu thích thú. Sự thực là trước đó, cô đã lo có thể sẽ thấy Mary đang khóc và vùi đầu dưới tấm phủ giường.
- Đúng như vậy đấy, - cô nói. – Cô đang vui. Cô đi mà quở trách cậu ấy đi.Hãy cho cậu ây cái gì mới mới mà động não. Đi đi, cô bé, nhanh chân lên nào.
|
It was not until afterward that Mary realized that the thing had been funny as well as dreadful--that it was funny that all the grown-up people were so frightened that they came to a little girl just because they guessed she was almost as bad as Colin himself.
She flew along the corridor and the nearer she got to the screams the higher her temper mounted. She felt quite wicked by the time she reached the door. She slapped it open with her hand and ran across the room to the four-posted bed.
|
Chẳng phải sau này Mary mới nhận ra điều đó vừa buồn cười lại vừa đáng sợ - buồn cười vì tất cả những người lớn ở đây đều kinh hoàng đến nỗi họ phải chạy tới cầu cứu một đứa bé gái mà họ cho rằng cũng tệ hại chẳng kém gì Colin.
Con bé chạy như bay dọc hành lang, càng tới gần tiếng kêu, nỗi tức giận của nó càng dâng cao hơn. Vào lúc chạm tới cánh cửa, con bé mới cảm nhận hết sự nguy hiểm. Nó đưa tay đẩy cánh cửa mở toang, rồi chạy tới bên chiếc giường có bốn cọc chạm trổ.
|
"You stop!" she almost shouted. "You stop! I hate you! Everybody hates you! I wish everybody would run out of the house and let you scream yourself to death! You will scream yourself to death in a minute, and I wish you would!" A nice sympathetic child could neither have thought nor said such things, but it just happened that the shock of hearing them was the best possible thing for this hysterical boy whom no one had ever dared to restrain or contradict. He had been lying on his face beating his pillow with his hands and he actually almost jumped around, he turned so quickly at the sound of the furious little voice. His face looked dreadful, white and red and swollen, and he was gasping and choking; but savage little Mary did not care an atom.
|
- Cậu thôi đi cho! – Con bé hầu như quát lên. – Cậu thôi đi! Tớ căm ghét cậu! Ai cũng căm ghét cậu! Tớ ước gì mọi người chạy hết khỏi ngôi nhà này, để mặc cậu gào thét một mình cho tới chết! Cậu sẽ được gào khóc một mình cho tới chết, tớ ước gì cậu sẽ phải thế! Một đứa trẻ dễ thương có lòng trắc ẩn chẳng thể nào nghĩ hay nói những điều như vậy. Nhưng cú sốc trước những lời nói ấy lại là điều khả dĩ nhất cho một đứa trẻ đang kích động như thằng bé, một kẻ mà không một ai dám ngăn cản hay trái lời. Thằng Colin đang nằm úp mặt, hai tay nện thình thịch xuống gối, nó giật mình quay ngắt về phía giọng nói giận dữ của con bé. Khuôn mặt nó nom thật đáng sợ, trắng bệch và đỏ lựng, sưng vù lên, nó hết thở hổn hển rồi lại ho sù sụ, nhưng Mary bé bỏng độc ác vẫn không mảy may quan tâm.
|
"If you scream another scream," she said, "I'll scream too --and I can scream louder than you can and I'll frighten you, I'll frighten you!"
He actually had stopped screaming because she had startled him so. The scream which had been coming almost choked him. The tears were streaming down his face and he shook all over.
"I can't stop!" he gasped and sobbed. "I can't--I can't!"
|
- Cậu mà gào thêm tiếng nữa thì tớ cũng sẽ gào cùng, mà tớ còn gào to hơn nữa kia, tớ sẽ làm cho cậu phải khiếp sợ, tớ sẽ làm cậu khiếp sợ cho mà xem!
Đương nhiên là thằng bé im bặt, vì Mary đã làm nó sửng sốt. Việc kêu gào cũng khiến nó nghẹt thở. Mấy dòng lệ tuôn trào trên mặt nó.
- Tớ không thể dừng được! – Nó hổn hển, thổn thức. – Tớ không thể … tớ không thể!
|
"You can!" shouted Mary. "Half that ails you is hysterics and temper--just hysterics--hysterics--hysterics!" and she stamped each time she said it.
"I felt the lump--I felt it," choked out Colin. "I knew I should. I shall have a hunch on my back and then I shall die," and he began to writhe again and turned on his face and sobbed and wailed but he didn't scream.
"You didn't feel a lump!" contradicted Mary fiercely. "If you did it was only a hysterical lump. Hysterics makes lumps. There's nothing the matter with your horrid back--nothing but hysterics! Turn over and let me look at it!"
|
- Cậu có thể! – Mary quát to. – Một nửa bệnh tật chính là sự kích động và tính khí nóng nảy của cậu: kích động, kích động, kích động! – Con bé giậm chân sau mỗi lần nói.
- Tớ cảm thấy rõ cục bướu … tớ cảm thấy nó, - Colin nói như nghẹn thở. – Tớ biết tớ sẽ bị. Rồi tớ sẽ mang một cục bướu trên lưng và sẽ chết, - nó lại bắt đầu rên rỉ, quay mặt đi khóc thổn thức, nhưng không gào lên nữa.
- Cậu chẳng cảm thấy cái bướu nào hết! – Mary phủ nhận một cách giận dữ. – Đấy chỉ là một cái bướu mê sảng mà thôi. Sự kích động đã làm ra những cái bướu. Chẳng có vấn đề gì với cái lưng quá quắt của cậu cả, chẳng có gì hết ngoài sự mê sảng! Quay lưng lại để tớ xem!
|
She liked the word "hysterics" and felt somehow as if it had an effect on him. He was probably like herself and had never heard it before.
"Nurse," she commanded, "come here and show me his back this minute!"
The nurse, Mrs. Medlock and Martha had been standing huddled together near the door staring at her, their mouths half open. All three had gasped with fright more than once. The nurse came forward as if she were half afraid. Colin was heaving with great breathless sobs.
|
Con bé rất thích cái từ “kích động”, và không rõ tại sao nó cảm thấy từ ấy đã có hiệu quả nhất định đối với Colin. Thằng bé hình như cũng giống như nó, chưa từng nghe thấy từ ấy trước đây.
- Chị bảo mẫu, - nó ra lệnh, - vào đây và ngay bây giờ vén cho tôi xem lưng cậu ấy.
Cô bảo mẫu, bà Medlock và Martha nãy giờ vẫn cũng nhau đứng gần cửa ra vào đều trố mắt nhìn nó, miệng há hốc ra. Cả ba hổn hển vì sợ hãi hơn bao giờ hết. Cô bảo mẫu tiến về phía trước, có vẻ đã bớt sợ. Colin đang thốt ra những tiếng thổn thức nghẹn ngào.
|
"Perhaps he--he won't let me," she hesitated in a low voice.
Colin heard her, however, and he gasped out between two sobs:
"Sh-show her! She-she'll see then!"
|
- Có lẽ cậu ấy … cậu ấy không để tôi, - cô lưỡng lự nói với giọng khe khẽ.
Dù sao thì Colin cũng chịu nghe lời con bé, nó hổn hển nói giữa hai tiếng nức nở.
- Cho… cho cô ấy xem đi … để cô ấy xem!
|
It was a poor thin back to look at when it was bared. Every rib could be counted and every joint of the spine, though Mistress Mary did not count them as she bent over and examined them with a solemn savage little face. She looked so sour and old-fashioned that the nurse turned her head aside to hide the twitching of her mouth. There was just a minute's silence, for even Colin tried to hold his breath while Mary looked up and down his spine, and down and up, as intently as if she had been the great doctor from London.
|
Lúc nó ở trần mới thấy rõ một cái lưng gầy nhom tội nghiệp. Có thể đếm được từng chiếc xương sống, mặc dù cô chủ Mary không hề đếm trong lúc cúi xuống xem xét kĩ lưỡng với khuôn mặt nhỏ nhắn vừa nghiêm khắc vừa trịnh trọng. Con bé nom cau có đến nỗi cô bảo mẫu phải quay đầu sang bên để giấu khóe miệng của cô đang giật giật. Một phút im lặng thoáng qua, Colin nín thở trong khi Mary chăm chú hết nhìn lên lại nhìn xuống cột xương sống của nó như thể con bé chính là ông bác sĩ giỏi đến từ London vậy.
|
"There's not a single lump there!" she said at last. "There's not a lump as big as a pin--except backbone lumps, and you can only feel them because you're thin. I've got backbone lumps myself, and they used to stick out as much as yours do, until I began to get fatter, and I am not fat enough yet to hide them. There's not a lump as big as a pin! If you ever say there is again, I shall laugh!"
|
- Chẳng hề có cục bướu cục biếc gì cả, - cuối cùng nó lên tiếng. – Không có lấy một mẩu, dù chỉ bằng cái đầu ghim, trừ những đốt sống, và cậu chỉ cảm thấy thế thôi bởi cậu quá gầy gò. Ngay tớ đây cũng có những cục xương sống, chúng thường lồi lên mỗi lúc ta cử động, cho tới khi tớ béo ra, ấy thế mà tớ vẫn chưa đủ béo để lấp hẳn chúng. Không hề thấy một cục bướu nào dù chỉ bằng đầu ghim. Nếu cậu cứ lải nhải mãi, tớ sẽ cười cho đấy!
|
No one but Colin himself knew what effect those crossly spoken childish words had on him. If he had ever had any one to talk to about his secret terrors--if he had ever dared to let himself ask questions--if he had had childish companions and had not lain on his back in the huge closed house, breathing an atmosphere heavy with the fears of people who were most of them ignorant and tired of him, he would have found out that most of his fright and illness was created by himself. But he had lain and thought of himself and his aches and weariness for hours and days and months and years. And now that an angry unsympathetic little girl insisted obstinately that he was not as ill as he thought he was he actually felt as if she might be speaking the truth.
|
Không một ai ngoài bản thân thằng Colin có thể thấy được hiệu quả của những câu nói hết sức trẻ con được nói ra một cách cáu bẳn dường ấy đối với nó. Giá như thằng bé có ai để mà kể về những nỗi hãi hung bí mật của nó, giá như nó dám hỏi han mọi người, giá như nó có mấy đứa nhóc để cùng chơi đùa và không phải nằm dài suốt ngày trong ngôi nhà đồ sộ khép kín ấy, thở hít bầu không khí nặng nề cùng với nỗi sợ hãi của những người mà hầu hết là bọn ngốc đã chán ngấy nó, thì hẳn nó đã nhận ra rằng tất tật nỗi sợ hãi và đau ốm của nó đều do chính bản thân nó tạo ra. Đằng này nó chỉ biết nằm dài và ngẫm nghĩ về bản thân và nỗi đau cũng âm ỉ kéo dài cũng như sự mệt mỏi buồn chán hết giờ này sang giờ khác, ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, rồi năm này sang năm khác. Thế mà giờ đây, một con bé cáu kỉnh, khó ưa lại cứ khăng khăng bảo rằng nó không hề ốm như nó nghĩ thì mặc dù có vẻ hơi kì lạ, nhưng nó cảm thấy có lẽ con bé đang nói sự thực.
|
"I didn't know," ventured the nurse, "that he thought he had a lump on his spine. His back is weak because he won't try to sit up. I could have told him there was no lump there." Colin gulped and turned his face a little to look at her.
"C-could you?" he said pathetically.
"Yes, sir."
"There!" said Mary, and she gulped too.
|
- Tôi không hiểu - cô bảo mẫu đánh bạo nói, - vì lẽ gì cậu ấy lại nghĩ rằng mình có một cái bướu trên sống lưng. Lưng cậu ấy yếu chẳng qua vì cậu ấy không cố ngồi dậy. Tôi cũng có thể thấy là cậu ấy chẳng có bướu biếc nào hết.
Colin nuốt nước bọt rồi khẽ ngoảnh lại nhìn cô.
- Chị … mà cũng nói vậy? – Nó hỏi, nghe thật tội nghiệp.
- Vâng, thưa cậu.
- Thấy chưa! – Mary bảo, và nó cũng ực nước bọ một cái.
|
Colin turned on his face again and but for his long-drawn broken breaths, which were the dying down of his storm of sobbing, he lay still for a minute, though great tears srteamed down his face and wet the pillow. Actually the tears meant that a curious great relief had come to him. Presently he turned and looked at the nurse again and strangely enough he was not like a Rajah at all as he spoke to her.
|
Colin ngoảnh mặt lại lần nữa, và như để lấy lại hơi sức sau cơn khóc lóc vừa nãy, nó nằm lịm người đi trong giây lát, mặc dầu mấy giọt nước mắt lớn vẫn trào ra và thấm đẫm xuống gối. Đương nhiên, những giọt nước mắt ấy muốn nói lên rằng một niềm khuây khỏa vô cùng kì lạ đang đến với nó. Bỗng nó quay lại nhìn cô bảo mẫu, và lạ thay nó chẳng có vẻ một vị tiểu vương chút nào khi nói với cô.
|
"Do you think--I could--live to grow up?" he said.
The nurse was neither clever nor soft-hearted but she could repeat some of the London doctor's words.
"You probably will if you will do what you are told to do and not give way to your temper, and stay out a great deal in the fresh air."
|
- Chị có cho rằng … tôi có thể … sống và lớn lên không?
Cô bảo mẫu là người chẳng lấy gì làm thông minh mà cũng không phải người dễ mủi lòng, nhưng cô vẫn biết nhắc đúng từng lời của ông bác sĩ London.
- Cậu sẽ khỏe nếu cậu chịu làm những gì được dặn dò phải làm, bỏ thói giận dữ, và sống cho thỏa thích với khí trời trong lành.
|
Colin's tantrum had passed and he was weak and worn out with crying and this perhaps made him feel gentle. He put out his hand a little toward Mary, and I am glad to say that, her own tantum having passed, she was softened too and met him half-way with her hand, so that it was a sort of making up.
|
Cơn giận dữ của Colin đã nguôi ngoai và giờ nó thấy mệt lả đi vì gào khóc, nhưng biết đâu điều đó lại giúp nó được yên lòng. Nó khẽ chìa bàn tay về phía Mary, và ta lấy làm mừng mà nói rằng cơn giận của con bé cũng đã qua đi nó thổn thức, bàn tay nó gặp bàn tay thằng bé ở giữa chừng, âu cũng là một sự đền bù cho tổn thất vừa qua.
|
"I'll--I'll go out with you, Mary," he said. "I shan't hate fresh air if we can find--" He remembered just in time to stop himself from saying "if we can find the secret garden" and he ended, "I shall like to go out with you if Dickon will come and push my chair. I do so want to see Dickon and the fox and the crow."
|
- Tớ sẽ… tớ sẽ đi ra ngoài với cậu, Mary ạ.Tớ sẽ không cảm thấy ghét không khí ngoài trời nữa nếu chúng mình cùng tìm thấy…
- Đúng lúc ấy, nó sực nhớ ra và kịp không nói hết câu, “ nếu chúng mình cùng tìm thấy khu vườn bí mật,” nên nó chỉ kết thúc bằng câu – tớ sẽ đi với cậu, nếu Dickon cùng đi đẩy xe giúp tớ. Sao tớ muốn gặp Dickon cùng mấy con quạ và con cáo đến thế.
|
The nurse remade the tumbled bed and shook and straightened the pillows. Then she made Colin a cup of beef tea and gave a cup to Mary, who really was very glad to get it after her excitement. Mrs. Medlock and Martha gladly slipped away, and after everything was neat and calm and in order the nurse looked as if she would very gladly slip away also. She was a healthy young woman who resented being robbed of her sleep and she yawned quite openly as she looked at Mary, who had pushed her big footstool close to the four-posted bed and was holding Colin's hand.
|
Cô bảo mẫu xếp lại chiếc giường bừa bộn và đặt lại mấy cái gối cho ngay ngắn. Sau đó, cô bưng cho Colin một bát nước thịt bò hầm, tiện thể cũng bưng cho Mary một bát, con bé thật sự vui mừng nhận lấy món ấy sau cơn náo động vừa qua. Bà Medlock và Martha mừng rỡ lui khỏi phòng, sau khi mọi thứ đã gọn gang, êm ả đâu vào đó, cô bảo mẫu cũng hớn hở lui ra theo. Cô vốn là một thiếu nữ khỏe mạnh, nên lúc nãy cảm thấy tức giận vì bị mất giấc ngủ đang ngon lành. Cô vừa ngáp dài, vừa nhìn Mary khi con bé kéo chiếc ghế đẩu to tướng lại cạnh giường và cầm tay Colin.
|
"You must go back and get your sleep out," she said. "He'll drop off after a while--if he's not too upset. Then I'll lie down myself in the next room."
"Would you like me to sing you that song I learned from my Ayah?" Mary whispered to Colin.
His hand pulled hers gently and he turned his tired eyes on her appealingly.
"Oh, yes!" he answered. "It's such a soft song. I shall go to sleep in a minute."
"I will put him to sleep," Mary said to the yawning nurse. "You can go if you like."
"Well," said the nurse, with an attempt at reluctance. "If he doesn't go to sleep in half an hour you must call me."
"Very well," answered Mary.
|
- Chị về mà ngủ tiếp đi, - con bé bảo. – Chỉ lát nữa cậu ấy sẽ ngủ thôi, nếu cậu ấy không cảm thấy khó chịu. Lúc đó, tôi sẽ sang nằm ở phòng bên.
- Cậu có muốn tớ hát cho nghe một bài tớ học được từ Ayah của tớ không? – Mary thì thầm bên tai Colin.
Bàn tay thằng bé khẽ kéo bàn tay Mary, nó hướng đôi mắt mệt mỏi về phía con bé với vẻ đầy thiện cảm.
- Ồ, có chứ! Với bài hát nhẹ nhàng như thế, tớ sẽ ngủ ngay trong ít phút.
- Để tôi ru cho cậu ấy ngủ, - Mary nói với cô bảo mẫu đang ngáp dài. – Chị có thể đi nếu chị muốn.
- Vâng, - cô bảo mẫu nói với một cố gắng miễn cưỡng. – Nếu trong nửa giờ nữa mà cậu ấy chưa ngủ được thì cô cứ gọi tôi.
- Được lắm. – Mary đáp.
|
The nurse was out of the room in a minute and as soon as she was gone Colin pulled Mary's hand again.
"I almost told," he said; "but I stopped myself in time. I won't talk and I'll go to sleep, but you said you had a whole lot of nice things to tell me. Have you--do you think you have found out anything at all about the way into the secret garden?"
Mary looked at his poor little tired face and swollen eyes and her heart relented.
"Ye-es," she answered, "I think I have. And if you will go to sleep I will tell you tomorrow." His hand quite trembled.
|
Cô bảo mẫu rời khỏi phòng trong chớp mắt; chờ cô đi khỏi, Colin lại cầm tay Mary mà nói.
- Suýt nữa thì tớ đã nói ra, nhưng tớ đã kịp ngậm miệng. Tớ sẽ không khi nào nói ra đâu và tớ sẽ ngủ ngay, nhưng cậu chả bảo cậu có vô số chuyện hay để kể cho tớ cơ mà. Cậu … cậu có cho rằng cậu đã khám phá ra mọi chuyện về con đường dẫn đến khu vườn bí mật ấy không?
Mary nhìn khuôn mặt nhỏ mệt mỏi và tội nghiệp của thằng bé, cả đôi mắt sưng mọng của nó nữa. Nó thấy mủi lòng.
- Ừ… ừ, - nó đáp- tớ cho là có đấy. Nếu cậu chịu ngủ đi, ngày mai tớ sẽ kể cho cậu nghe.
Bàn tay thằng bé run rẩy.
|
"Oh, Mary!" he said. "Oh, Mary! If I could get into it I think I should live to grow up! Do you suppose that instead of singing the Ayah song--you could just tell me softly as you did that first day what you imagine it looks like inside? I am sure it will make me go to sleep."
"Yes," answered Mary. "Shut your eyes."
|
- Ôi, Mary! – nó nói. – Ôi, Mary! Giá như được vào trong khu vườn đó, tớ nghĩ tớ sẽ sống mà lớn lên! Cậu có cho rằng, thay vì hát bài ca của Ayah… cậu có thể kể tớ nghe với cái giọng dịu dàng như hôm đầu, xem cậu đã tưởng tượng ra trong khu vườn ấy như thế nào? Tớ cam đoan nó sẽ làm tớ chóng ngủ.
- Được, - Mary đáp. – Nhắm mắt lại nào.
|
He closed his eyes and lay quite still and she held his hand and began to speak very slowly and in a very low voice.
"I think it has been left alone so long--that it has grown all into a lovely tangle. I think the roses have climbed and climbed and climbed until they hang from the branches and walls and creep over the ground--almost like a strange gray mist. Some of them have died but many--are alive and when the summer comes there will be curtains and fountains of roses. I think the ground is full of daffodils and snowdrops and lilies and iris working their way out of the dark. Now the spring has begun--perhaps--perhaps--"
|
Thằng bé nhắm mắt, nằm im phăng phắc, con bé cầm bàn tay nó rồi bắt đầu chậm rãi kể bằng một giọng khẽ kháng.
- Tớ cho rằng nó đã bị người ta quên lãng từ lâu… đến nỗi cây cối mọc ngổn ngang thành một mớ rối bù dễ thương. Tớ hình dung ra các khóm hồng cứ leo, leo mãi cho tớ khi cúng buông lơi từ các cành cây, rủ xuống các bờ tường rồi bò lan trên mặt đất… trông chẳng khác nào một màn sương màu xám kỳ lạ. Một số đã chết, nhưng rất nhiều khóm vẫn còn sống, khi mùa hè tới chúng sẽ biến thành những tấm rèm và và dòng chảy tết bằng vô vàn bong hồng.
Tớ hình dung mặt đất lúc ấy sẽ tràn ngập những đóa thủy tiên hoa vàng, hoa giọt tuyết, ly ly và diên vĩ. Bây giờ mùa xuân đã tới, …biết đâu… biết đâu…
|
The soft drone of her voice was making him stiller and stiller and she saw it and went on.
"Perhaps they are coming up through the grass--perhaps there are clusters of purple crocuses and gold ones--even now. Perhaps the leaves are beginning to break out and uncurl--and perhaps--the gray is changing and a green gauze veil is creeping--and creeping over--everything. And the birds are coming to look at it--because it is--so safe and still. And perhaps--perhaps--perhaps--" very softly and slowly indeed, "the robin has found a mate--and is building a nest."
And Colin was asleep.
|
Giọng kể đều đều nhè nhẹ của nó khiến thằng bé yên dần, yên dần. Con bé cũng nhận ra điều đó, nó tiếp tục thì thầm:
- Có lẽ chúng sẽ mọc xuyên qua lớp cỏ… có lẽ thoạt đầu sẽ là những khóm nghệ tây màu tía xen vàng… thậm chí ngay lúc này đã thấy chúng xuất hiện. Có lẽ những chiếc lá non sắp nhú và không còn quăn tít nữa… và có lẽ mãu xám xỉn đang ngả sang màu khác, và một tấm mạng mỏng màu xanh mướt sẽ lan dần…lan dần…che phủ trên khắp mọi cảnh vật…
Rồi chim chóc sẽ bay về để chiêm ngưỡng… bởi có ở đâu an toàn và yên bình hơn nơi đây. Và, biết đâu…biết đâu … con chim ức đỏ ấy chẳng tìm thấy một bạn tình… để cùng nhau làm tổ.
Colin đã ngủ từ lúc nào không hay.
|
CHAPTER 18
Chapter XVIII: "THA' MUNNOT WASTE NO TIME"
|
Chương 18: “ TA ĐừNG Để Lỡ THờI GIAN”
|
Of course Mary did not waken early the next morning. She slept late because she was tired, and when Martha brought her breakfast she told her that though. Colin was quite quiet he was ill and feverish as he always was after he had worn himself out with a fit of crying. Mary ate her breakfast slowly as she listened.
|
Dĩ nhiên, Mary không thể dậy sớm vào sang hôm sau Nó đã phải ngủ muộn vì thấy quá mệt. Khi Martha dọn bữa sang lên, chị bảo nó rằng mặc dù Colin hoàn toàn yên lặng nhưng cậu lại đang ốm và ngây ngấy sốt như vẫn thường thế mỗi khi kiệt sức sau cơn gào thét. Mary vừa ăn chậm rãi vừa lắng nghe.
|
"He says he wishes tha' would please go and see him as soon as tha' can," Martha said. "It's queer what a fancy he's took to thee. Tha' did give it him last night for sure--didn't tha? Nobody else would have dared to do it. Eh! poor lad! He's been spoiled till salt won't save him. Mother says as th' two worst things as can happen to a child is never to have his own way--or always to have it. She doesn't know which is th' worst. Tha' was in a fine temper tha'self, too. But he says to me when I went into his room, `Please ask Miss Mary if she'll please come an, talk to me?' Think o' him saying please! Will you go, Miss?" "I'll run and see Dickon first," said Mary. "No, I'll go and see Colin first and tell him--I know what I'll tell him," with a sudden inspiration.
|
- Cậu ấy bảo mong cô tới gặp cậu sớm chừng nào hay chừng ấy. Quả khó mà tưởng tượng nổi những điều kỳ lạ đã xảy ra. Đêm qua, chính cô là người đã cho cậu ấy thấy điều đó, phải không cô? Chưa một ai dám làm việc ấy. Ôi, anh chàng tội nghiệp! Cá đã ươn thì có ướp muối vẫn ươn. Mẹ tôi vẫn bảo có hai điều tồi tệ có thể đến với một đứa trẻ, đó là không bao giờ có được điều mình muốn, hoặc là luôn luôn có nó. Nhưng chính bà cũng không hiểu cái nào tệ hại hơn. Giờ cô đang tâm trạng vui vẻ. Vừa nãy, cậu ấy bảo khi tôi vào phòng: “Làm ơn hỏi cô Mary xem liệu cô ấy có vui lòng tới đây nói chuyện với tôi không?” Xin cô nhớ cho là cậu ấy đã phải nói câu làm ơn! Liệu cô có đi không, thưa cô?
- Tôi sẽ chạy đi gặp Dickon trước. –Mary đáp.
- Mà không, tôi đi gặp Colin trước và nói chuyện với cậu ấy, tôi biết mình sẽ nói gì rồi. – Con bé đột nhiên đổi ý.
|
She had her hat on when she appeared in Colin's room and for a second he looked disappointed. He was in bed. His face was pitifully white and there were dark circles round his eyes.
"I'm glad you came," he said. "My head aches and I ache all over because I'm so tired. Are you going somewhere?"
Mary went and leaned against his bed.
"I won't be long," she said. "I'm going to Dickon, but I'll come back. Colin, it's--it's something about the garden."
His whole face brightened and a little color came into it.
"Oh! is it?" he cried out. "I dreamed about it all night I heard you say something about gray changing into green, and I dreamed I was standing in a place all filled with trembling little green leaves--and there were birds on nests everywhere and they looked so soft and still. I'll lie and think about it until you come back."
|
Mary đội mũ khi xuất hiện trong phòng Colin, và trong một thoáng thằng bé có vẻ tức giận. Nó nằm trong giường, khuôn mặt trắng bệch thảm hại, đôi mắt thâm quầng.
-Tớ lấy làm mừng vì cậu đã đến. Đầu tớ nhức như búa bổ, khắp người mỏi nhừ vì quá mệt. Cậu định đi đâu phải không?
Mary bước tới vịn vào thành giường, nói. - Tớ đi không lâu đâu. Tớ định tới gặp Dickon, rồi tớ sẽ quay lại ngay. Colin này, về việc…về việc khu vườn bí mật ấy mà.
Cả gương mặt thằng Colin sáng bứng lên, một chút hồng ửng trên hai má nó.
- Ồ! Là chuyện đó sao! – Thằng bé kêu to. – Tớ đã mơ thấy nó suốt đêm qua. Tớ đã nghe cậu nói gì đó về màu xám ngả sang màu xanh rờn, thế rồi tớ đã mơ thấy mình đứng giữa một nơi tràn ngập những chiếc lá non run rẩy… và đâu đâu cũng bắt gặp những chú chim non trong tổ, tất cả mới dịu dàng yên tĩnh làm sao. Tớ sẽ nằm mà nghĩ đến điều đó cho tới lúc cậu trở về.
|
In five minutes Mary was with Dickon in their garden. The fox and the crow were with him again and this time he had brought two tame squirrels. "I came over on the pony this mornin', " he said. "Eh! he is a good little chap--Jump is! I brought these two in my pockets. This here one he's called Nut an' this here other one's called Shell."
|
Năm phút sau, Mary đã ở bên Dickon ngay giữa khu vườn của chúng. Con cáo và con quạ vẫn bám theo thằng bé, nhưng lần này nó còn mang theo hai con sóc đã thuần dưỡng.
- Sáng nay tôi cưỡi con ngựa đến đấy. Này, nó là một gã tuy bé nhỏ mà tốt bụng lắm… Nó nhảy kìa! Tôi còn mang theo hai đứa nữa trong túi. Đây là Hạt dẻ, còn kia là Vỏ sò.
|
When he said "Nut" one squirrel leaped on to his right shoulder and when he said "Shell" the other one leaped on to his left shoulder. When they sat down on the grass with Captain curled at their feet, Soot solemnly listening on a tree and Nut and Shell nosing about close to them, it seemed to Mary that it would be scarcely bearable to leave such delightfulness, but when she began to tell her story somehow the look in Dickon's funny face gradually changed her mind. She could see he felt sorrier for Colin than she did. He looked up at the sky and all about him.
|
Lúc nó vừa bảo “ Hạt dẻ”, một con sóc leo phắt lên bên vai phải, và khi nó gọi tên “ Vỏ sò” thì con kia nhảy phóc lên vai trái. Chúng ngồi bệt xuống bãi cỏ, Đại úy nằm cuộn tròn bên cạnh, còn Bồ hóng thì nghiêm nghị lắng nghe trên cành cao, Hạt dẻ và Vỏ sò đang hếch hếch cái mũi về phía bọn trẻ. Cứ nhìn Mary thì rõ, nó khó lòng chịu rời xa một niềm vui thích đến nhường này, nhưng khi nó cất tiếng kể lại câu chuyện của nó thì không hiểu sao, những gì hiện lên trên khuôn mặt ngộ nghĩnh của DIckon dần làm con bé thay đổi ý nghĩ. Nó nhận ra Dickon còn xót xa cho Colin hơn cả nó. Dickon ngước nhìn bầu trời, suy nghĩ.
|
"Just listen to them birds--th' world seems full of 'em--all whistlin' an' pipin'," he said. "Look at 'em dartin' about, an' hearken at 'em callin' to each other. Come springtime seems like as if all th' world's callin'. The leaves is uncurlin' so you can see 'em--an', my word, th' nice smells there is about!" sniffing with his happy turned-up nose. "An' that poor lad lyin' shut up an' seein' so little that he gets to thinkin' o' things as sets him screamin'. Eh! my! we mun get him out here--we mun get him watchin' an listenin' an' sniffin' up th' air an' get him just soaked through wi' sunshine. An' we munnot lose no time about it."
|
- Hãy lắng nghe tiếng chim hót mà xem… thế giới này dường như đang ngập tràn tiếng líu lo…tất cả chỉ còn là những âm thanh véo von, lảnh lót. Hãy nhìn chúng chao lượn rồi lắng nghe chúng gọi nhau.Mùa xuân đang tới gần, muôn loài đều cất tiếng hát ca. Những chiếc lá đang mở dần ra làm ta thấy chúng được rõ hơn.Muôn vàn làn hương thuần khíết đang lan tỏa khắp không trung! – thằng bé đưa chiếc mũi hếch lên hít một hơi dài. Thế mà anh chàng tội nghiệp ấy lại phải nằm nhà bó gối nhìn trần mà nghĩ ngợi lung tung rồi gào thét. Ôi! Ông bạn! Chúng mình phải đưa cậu ấy ra ngoài này…chúng mình phải để cậu ấy được nhìn, được nghe và hít thở, bắt cậu ấy phải tắm mình trong ánh nắng mặt trời. Chúng mình đừng bỏ lỡ thời gian.
|
When he was very much interested he often spoke quite broad Yorkshire though at other times he tried to modify his dialect so that Mary could better understand. But she loved his broad Yorkshire and had in fact been trying to learn to speak it herself. So she spoke a little now.
|
Hễ tập trung vào điều gì là nó lại nói giọng Yorkshire đặc sệt, dù lúc khác nó thường cố chỉnh cái tiếng địa phương của mình sao cho Mary có thể hiểu được. Vậy mà Mary lại mê cái giọng Yorkshire đặc sệt của nó, và lại còn bắt chước theo. Con bé liền nói thử mấy câu cho vui.
|
"Aye, that we mun," she said (which meant "Yes, indeed, we must"). "I'll tell thee what us'll do first," she proceeded, and Dickon grinned, because when the little wench tried to twist her tongue into speaking Yorkshire it amused him very much. "He's took a graidely fancy to thee. He wants to see thee and he wants to see Soot an' Captain. When I go back to the house to talk to him I'll ax him if tha' canna' come an' see him tomorrow mornin'--an'. bring tha' creatures wi' thee--an' then--in a bit, when there's more leaves out, an' happen a bud or two, we'll get him to come out an' tha' shall push him in his chair an' we'll bring him here an' show him everything."
|
- Ầy, đấy, bọn mình phỏng… - nó nói, (câu này có nghĩa “ừ, thực vậy, chúng ta phải…) – tôi sẽ bảo anh nghe trước tiên chúng ta phải làm gì. Nghe con bé nói, thằng Dickon nhe răng ra cười, bởi vì khi một cô bé cố uốn lưỡi sang giọng Yorkshire thì nghe thật kỳ khôi.
– Cậu ấy muốn gặp anh và cũng muốn được gặp cả Bồ hóng và Đại Úy nữa. Khi nào trở vào nhà, tôi sẽ lập tức báo cho cậu ấy biết, nếu như anh bằng lòng đến gặp cậu ấy vào sang mai… và mang theo mấy con vật của anh… và rồi… chẳng mấy nữa, chờ khi những cái cây đâm chồi nảy lộc, chúng ta sẽ đưa cậu ấy ra ngoài và anh sẽ đẩy xe cho cậu ấy, và ta sẽ mang cậu ấy đến đây, cho cậu ấy xem mọi thứ.
|
When she stopped she was quite proud of herself. She had never made a long speech in Yorkshire before and she had remembered very well.
"Tha' mun talk a bit o' Yorkshire like that to Mester Colin," Dickon chuckled. "Tha'll make him laugh an' there's nowt as good for ill folk as laughin' is. Mother says she believes as half a hour's good laugh every mornin' 'ud cure a chap as was makin' ready for typhus fever."
"I'm going to talk Yorkshire to him this very day," said Mary, chuckling herself.
|
Con bé dứt lời, thấy vô cùng hãnh diện về bản thân. Xưa nay, nó chưa bao giờ nói được một thôi một hồi bằng giọng Yorkshire như thế, kể ra thì nó có trí nhớ khá tốt.
- Cô hãy thử nói mấy câu giọng Yorkshire như thế với Colin xem sao. – Dickon cười tủm tỉm. – Cô sẽ làm cậu ấy bật cười và chẳng có gò lợi cho một người ốm bằng được cười cho thỏa thích. Mẹ tôi vẫn bảo bà tin rằng một trận cười thỏa thích trong nửa tiếng mỗi sang sẽ chữa lành một gã sắp lên cơn sốt phát ban.
- Từ giờ hằng ngày, tôi sẽ nói giọng Yorkshire với cậu ấy, - Mary nói, ngay cả nó cũng bật cười.
|
The garden had reached the time when every day and every night it seemed as if Magicians were passing through it drawing loveliness out of the earth and the boughs with wands. It was hard to go away and leave it all, particularly as Nut had actually crept on to her dress and Shell had scrambled down the trunk of the apple-tree they sat under and stayed there looking at her with inquiring eyes. But she went back to the house and when she sat down close to Colin's bed he began to sniff as Dickon did though not in such an experienced way.
|
Khu vườn đã đến thời kỳ mà cứ mỗi ngày mỗi đêm trôi qua, dường như nó được lướt qua bởi cac nhà ảo thuật gia và được họ vung những chiếc đũa thần vẽ nên vẻ yêu kiều trên mặt đất và các cành cây. Chẳng thể nỡ lòng bỏ mặc khu vườn mà đi, nhất là khi con Hạt dẻ đang rón rén bò trên vạt áo Mary, còn Vỏ sò thì đang bám trên thân cây táo có hai đứa ngồi dưới và cứ ở nguyên đó mà nhìn con bé với đôi mắt dò hỏi. Khi về đến nhà, Mary tới ngồi bên giường của Colin rồi bắt chước cái điệu khụt khịt của Dickon, mặc dù không được giống cho lắm.
|
"You smell like flowers and--and fresh things," he cried out quite joyously. "What is it you smell of? It's cool and warm and sweet all at the same time."
"It's th' wind from th' moor," said Mary. "It comes o' sittin' on th' grass under a tree wi' Dickon an' wi' Captain an' Soot an' Nut an' Shell. It's th' springtime an' out o' doors an' sunshine as smells so graidely."
|
- Người cậu toàn hương hoa, và cả hương gì thật tươi mát nữa, - thằng bé kêu toáng lên vì vui thích, - cậu có mùi gì vừa mát vừa ấm vừa ngọt ngào thế?
- Đấy là bởi gió từ ngoài đồng hoang đưa đến, - Mary bảo. – Tớ đã ngồi trên bãi cỏ dưới một gốc cây với Dickon và Đại úy và Bồ hóng và Hạt dẻ và Vỏ sò. Mùa xuân đang chờ ngay ngoài cửa và cả nắng ấm cũng có mùi ngào ngạt như thế.
|
She said it as broadly as she could, and you do not know how broadly Yorkshire sounds until you have heard some one speak it. Colin began to laugh.
"What are you doing?" he said. "I never heard you talk like that before. How funny it sounds."
"I'm givin' thee a bit o' Yorkshire," answered Mary triumphantly. `I canna' talk as graidely as Dickon an' Martha can but tha' sees I can shape a bit. Doesn't tha' understand a bit o' Yorkshire when tha' hears it? An' tha' a Yorkshire lad thysel' bred an' born! Eh! I wonder tha'rt not ashamed o' thy face."
|
Con bé đã nói câu ấy với giọng Yorkshire đặc sệt nhất, và người ta khó mà hình dung được âm điệu Yorkshire ấy nặng ra sao cho tới khi được nghe ai đó nói ra. Colin bật cười.
- Cậu làm cái trò gì thế? Xưa nay có thấy cậu nói thế bao giờ đâu. Giọng gì mà lạ thế.
- Thì tớ đang thử cho cậu nghe mấy câu theo kiểu Yorkshire mà, - Mary trả lời đắc thắng. – Tớ không thể nói trơn tru như Dickon và Martha, nhưng cậu thấy không, tớ có tiến bộ đấy chứ. Chẳng lẽ cậu không hiểu nổi một vài câu Yorkshire? Và bản thân cậu cũng là một gã Yorkshire được sinh ra và lớn lên ở đây kia mà! Ôi! Tớ tự hỏi sao cậu không thấy ngượng nhỉ?
|
And then she began to laugh too and they both laughed until they could not stop themselves and they laughed until the room echoed and Mrs. Medlock opening the door to come in drew back into the corridor and stood listening amazed.
"Well, upon my word!" she said, speaking rather broad Yorkshire herself because there was no one to hear her and she was so astonished. "Whoever heard th' like! Whoever on earth would ha' thought it!"
|
Dứt lời con bé cất tiếng cười, rồi cả hai cùng cười lăn cười lóc, không sao nín được, cười vang khắp căn phòng khiến bà Medlock vội mở cửa bước vào hành lang và lắng nghe, vô cùng kinh ngạc. -
Ủa! – Bà thốt lên bằng thứ giọng Yorkshire nặng trịch của chính bà, phần vì chẳng sợ ai nghe thấy.
Bà tỏ ra hết sức sửng sốt, - chưa từng thấy! Chẳng một ai trên đời có thể ngờ tới điều này!
|
There was so much to talk about. It seemed as if Colin could never hear enough of Dickon and Captain and Soot and Nut and Shell and the pony whose name was Jump. Mary had run round into the wood with Dickon to see Jump. He was a tiny little shaggy moor pony with thick locks hanging over his eyes and with a pretty face and a nuzzling velvet nose. He was rather thin with living on moor grass but he was as tough and wiry as if the muscle in his little legs had been made of steel springs. He had lifted his head and whinnied softly the moment he saw Dickon and he had trotted up to him and put his head across his shoulder and then Dickon had talked into his ear and Jump had talked back in odd little whinnies and puffs and snorts. Dickon had made him give Mary his small front hoof and kiss her on her cheek with his velvet muzzle.
|
Thế là có bao nhiêu chuyện để mà tán dóc. Có vẻ trước đó Colin chưa được nghe thỏa thích về Dickon với mấy con Đại úy, Bồ hóng, Hạt dẻ và Vỏ sò, và nay lại thêm chú ngựa con có tên là Nhảy Phốc nữa. Mary đã phải chạy vòng vèo trong rừng cây với Dickon để tìm con Nhẩy Phốc. Đấy là một con ngựa hoang bé tí sống ngoài cánh đồng, bộ lông bờm rậm rì rủ xuống hai bên mắt, với cái mặt xinh xắn dễ thương, cùng hai cánh mũi mượt như nhung lúc nào cũng rung rung. Con ngựa này khá gầy guộc vì chỉ sống bằng cỏ ngoài đồng hoang nhưng được cái bền bỉ và dẻo dai, như thể những bắp thịt trong các cẳng chân nhỏ xíu của nó được làm từ những chiếc lò xo thép. Nó ngẩng đầu hí lên khe khẽ lúc trông thấy thằng Dickon, nó chạy nước kiệu tới bên rồi ngả đầu lên vai thằng bé. Dickon nói rủ rỉ vào tai con vật, còn nó đáp lại bằng mấy tiếng khe khẽ lạ lùng, vừa phì nhẹ nhẹ vừa khịt khịt. Dickon bảo nó giơ cái móng guốc phía trước của nó cho Mary bắt và hôn vào má con bé bằng cái mũi ươn ướt mịn như nhung của nó.
|
"Does he really understand everything Dickon says?" Colin asked.
"It seems as if he does," answered Mary. "Dickon says anything will understand if you're friends with it for sure, but you have to be friends for sure."
Colin lay quiet a little while and his strange gray eyes seemed to be staring at the wall, but Mary saw he was thinking.
"I wish I was friends with things," he said at last, "but I'm not. I never had anything to be friends with, and I can't bear people."
"Can't you bear me?" asked Mary.
|
- Nó có thực sự hiểu những điều Dickon nói không? – Colin hỏi.
- Có vẻ như nó hiểu, - Mary đáo. – Dickon bảo con gì cũng hiểu được nếu người ta thực tâm làm bạn với nó, mà trước hết phải là bạn bè thật sự cơ.
Colin nằm lặng người giây lát, đôi mắt xám kì lạ của nó dường như đang đăm đắm nhìn vào bức tường, Mary nhận ra nó đang suy nghĩ.
- Tớ ao ước được đánh bạn với tất cả, - cuối cùng nó lên tiếng, - vậy mà tớ không thể. Tớ chẳng có gì để làm bạn, mà tớ thì không thể chịu đựng được con người.
- Cậu không thể chịu đựng được tớ?
|
"Yes, I can," he answered. "It's funny but I even like you."
"Ben Weatherstaff said I was like him," said Mary. "He said he'd warrant we'd both got the same nasty tempers. I think you are like him too. We are all three alike--you and I and Ben Weatherstaff. He said we were neither of us much to look at and we were as sour as we looked. But I don't feel as sour as I used to before I knew the robin and Dickon."
|
- Có chứ, - nó đáp, - chuyện này quả thật lạ lùng, tớ thậm chí còn quý mến cậu. Ông Ben Weatherstaff bảo rằng tớ có cái gì đó giống ông ấy. Ông ấy bảo dám đánh cuộc rằng cả tớ với ông ấy đều có những điểm xấu như nhau. Tớ nghĩ cậu thì cũng giống y ông ấy. Cả ba đều giống nhau – cậu, tớ và ông Ben. Ông ấy nói tớ với ông ấy bề ngoài chẳng có gì hay, cũng cáu kỉnh như nhau. Nhưng giờ tớ không còn thấy bực tức như trước, kể từ khi tớ gặp được chim ức đỏ và Dickon.
|
"Did you feel as if you hated people?"
"Yes," answered Mary without any affectation. "I should have detested you if I had seen you before I saw the robin and Dickon."
Colin put out his thin hand and touched her.
"Mary," he said, "I wish I hadn't said what I did about sending Dickon away. I hated you when you said he was like an angel and I laughed at you but--but perhaps he is."
|
- Cậu có cảm giác như thể căm ghét mọi người phải không?
- Đúng vậy, - Mary trả lời không chút màu mè kiểu cách. – Tớ sẽ ghét cậu nếu như tớ gặp cậu trước chim ức đỏ và Dickon.
Colin đưa bàn tay gầy guộc chạm vào người con bé.
- Mary ạ, tớ ước gì chưa bao giờ nói tới việc đuổi Dickon đi. Tớ thấy tức khi cậu bảo cậu ấy tựa một thiên thần và tớ đã nhạo báng cậu, nhưng … nhưng có lẽ cậu ấy như thế thật.
|
"Well, it was rather funny to say it," she admitted frankly, "because his nose does turn up and he has a big mouth and his clothes have patches all over them and he talks broad Yorkshire, but--but if an angel did come to Yorkshire and live on the moor--if there was a Yorkshire angel--I believe he'd understand the green things and know how to make them grow and he would know how to talk to the wild creatures as Dickon does and they'd know he was friends for sure."
"I shouldn't mind Dickon looking at me," said Colin; "I want to see him."
"I'm glad you said that," answered Mary, "because--because--"
|
- Chà, cũng thật kỳ, - con bé thẳng thắn thừa nhận, - bởi vì mũi cậu ấy thì hếch, miệng thì rộng ngóac, quần áo lại vá chằng vá đụp , còn hễ nói thì đặc một thứ giọng Yorkshire đặc sệt nhưng … nhưng nếu có một thiên thần hạ cánh xuống Yorkshire mà sống trên cánh đồng hoang… nếu có một thiên thần của xứ sở Yorkshire này… thì tớ tin rằng người ấy sẽ hiểu mọi loại cây và biết làm cho chúng đâm chồi nảy lộc, biết cách chuyện trò với những con thú hoang y như Dickon đang làm và chúng sẽ nhận ra đó chính là người bạn đáng tin cậy.
- Tớ không có ý bắt Dickon đến đây gặp tớ, mà tớ muốn gặp Dickon trước.
- Tớ lấy làm mừng vì cậu đã nói thế, - Mary nói, - bởi vì… bởi vì…
|
Quite suddenly it came into her mind that this was the minute to tell him. Colin knew something new was coming.
"Because what?" he cried eagerly.
Mary was so anxious that she got up from her stool and came to him and caught hold of both his hands.
"Can I trust you? I trusted Dickon because birds trusted him. Can I trust you--for sure--for sure?" she implored.
|
Hoàn toàn bất chợt, trong đầu con bé lóe lên ý nghĩ rằng đây chính là lúc để nói cho cậu bạn biết. Colin cảm nhận có điều gì mới.
- Bởi vì cái gì hả? – Thằng bé kêu to một cách háo hức.
Mary lo lắng tới nỗi nó rời khỏi cái ghế đẩu, tiến tới bên Colin và cầm lấy hai bàn tay nó.
- Tớ có thể tin tưởng ở cậu chứ? Tớ đã tin vào Dickon bởi ngay lũ chim choc cũng tin vào anh ấy. Liệu tớ có thể tin cậu… một cách chắc chắn… một cách chắc chắn? – Con bé khẩn khoản.
|
Her face was so solemn that he almost whispered his answer.
"Yes--yes!"
"Well, Dickon will come to see you tomorrow morning, and he'll bring his creatures with him."
"Oh! Oh!" Colin cried out in delight.
"But that's not all," Mary went on, almost pale with solemn excitement. "The rest is better. There is a door into the garden. I found it. It is under the ivy on the wall."
|
Vẻ mặt nó trông nghiêm nghị đến nỗi thằng Colin gần như phải thì thầm khi trả lời nó.
- Có… có chứ! - Được, Dickon sẽ đến gặp cậu sáng mai, và sẽ mang theo mấy con vật của anh ấy.
- Ôi! Ôi!... – Colin kêu lên vui sướng.
- Nhưng thế chưa hết, - Mary tiếp tục, mặt nó tái đi vì xúc động. – Phần còn lại còn hay hơn nhiều. Có một cánh cửa dẫn vào bên trong khu vườn. Tớ đã phát hiện ra nó từ trước đây. Cánh cửa ẩn khuất dưới đám dây thường xuân trên bờ tường.
|
If he had been a strong healthy boy Colin would probably have shouted "Hooray! Hooray! Hooray!" but he was weak and rather hysterical; his eyes grew bigger and bigger and he gasped for breath.
"Oh! Mary!" he cried out with a half sob. "Shall I see it? Shall I get into it? Shall I live to get into it?" and he clutched her hands and dragged her toward him.
"Of course you'll see it!" snapped Mary indignantly. "Of course you'll live to get into it! Don't be silly!"
|
Giá là một đứa trẻ khỏe mạnh thì có lẽ Colin đã hét tướng lên: “Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô!” nhưng nó còn yếu quá, lại vừa trải qua cơn cuồng loạn; mắt nó mở to và nó phải thở hổn hển để lấy hơi.
- Ôi! Mary này! – Nó kêu to, giọng đượm chút nghẹn ngào. – Rồi tớ sẽ được trông thấy nơi ấy chứ? Tớ sẽ được vào bên trong phải không? Tớ sẽ còn sống để vào trong ấy chứ?
Thằng bé túm lấy hai bàn tay Mary và kéo nó lại gần mình.
- Dĩ nhiên, cậu sẽ được trông thấy nó! – Mary gắt gỏng, nóng nảy. – Dĩ nhiên, cậu sẽ sống để vào trong đó! Đừng có mà ngốc thế!
|
And she was so un-hysterical and natural and childish that she brought him to his senses and he began to laugh at himself and a few minutes afterward she was sitting on her stool again telling him not what she imagined the secret garden to be like but what it really was, and Colin's aches and tiredness were forgotten and he was listening enraptured.
|
Con bé thật bình thản, tự nhiên và ngây thơ, đến mức khiến thằng bé kia phải trấn tĩnh lại và bắt đầu tự cười mình. Mấy phút sau, Mary tới ngồi bên chiếc ghế đẩu để kể cho Colin, không phải những gì nó tưởng tượng về khu vườn bí mật, mà là những điều có thực. Thằng Colin quên sạch những đau đớn mệt mỏi vầ say sưa lắng nghe.
|
"It is just what you thought it would be," he said at last. "It sounds just as if you had really seen it. You know I said that when you told me first."
Mary hesitated about two minutes and then boldly spoke the truth.
"I had seen it--and I had been in," she said. "I found the key and got in weeks ago. But I daren't tell you--I daren't because I was so afraid I couldn't trust you--for sure!"
|
- Đó là những gì cậu nghĩ sẽ là như thế, - cuối cùng thằng bé lên tiếng.
– Nghe như thể cậu đã được nhìn tận mắt vậy. Cậu có nhớ tớ đã nói vậy, hôm cậu kể tớ nghe lần đầu ấy. Mary lưỡng lự ít phút rồi đánh bạo nói ra sự thật.
- Tớ đã trông thấy… và tớ đã từng ở trong đó. Tớ đã tìm thấy chiếc chìa khóa, rồi vào hẳn được bên trong khu vườn từ mấy tuần trước. Nhưng tớ không dám kể cậu nghe. Tớ không dám bởi vì tớ e rằng tớ chưa thể tin tưởng ở cậu… hoàn toàn!
|
CHAPTER 19
Chapter XIX: "IT HAS COME!"
|
Chương19: “Nó Đã Đến Rồi Đó!”
|
Of course Dr. Craven had been sent for the morning after Colin had had his tantrum. He was always sent for at once when such a thing occurred and he always found, when he arrived, a white shaken boy lying on his bed, sulky and still so hysterical that he was ready to break into fresh sobbing at the least word. In fact, Dr. Craven dreaded and detested the difficulties of these visits. On this occasion he was away from Misselthwaite Manor until afternoon.
|
Dĩ nhiên, bác sĩ Craven được mời tới ngay buổi sáng sau cái đêm Colin nổi cơn cuồng nộ. Hễ có chuyện như thế xảy ra là ông ta được mời tới ngay tức khắc. Lần nào tới nơi ông ta cũng thấy một thằng bé run rẩy, trắng bệch đang nằm vật vã trên giường, mặt mày u ám và vẫn còn trong cơn kích động đến nỗi chỉ chực òa lên thổn thức khi có ai mở miệng nói gì. Sự thực mà nói, bác sĩ Craven cũng rất kinh hãi và ngại ngần những lần đến thăm khó khăn đó. Vào dịp này, ông ta ra khỏi Trang viên Misselthwaite đến chiều mới về.
|
"How is he?" he asked Mrs. Medlock rather irritably when he arrived.
"He will break a blood-vessel in one of those fits some day. The boy is half insane with hysteria and self-indulgence."
"Well, sir," answered Mrs. Medlock, "you'll scarcely believe your eyes when you see him. That plain sour-faced child that's almost as bad as himself has just bewitched him. How she's done it there's no telling. The Lord knows she's nothing to look at and you scarcely ever hear her speak, but she did what none of us dare do. She just flew at him like a little cat last night, and stamped her feet and ordered him to stop screaming, and somehow she startled him so that he actually did stop, and this afternoon--well just come up and see, sir. It's past crediting."
|
- Cậu nhà thế nào. - Ông ta hỏi bà Medlock với giọng cáu kỉnh khi vừa đến nơi. – Rồi sẽ có ngày cậu ta vỡ mạch máu vì một trong những cơn động kinh như thế cho mà xem. Thằng bé này cũng gần mất trí vì kích động và buông thả thái quá rồi còn gì.
- Ồ, thưa ông, - bà Medlock đáp, - ông sẽ khó mà tin vào mắt mình khi ông thấy cậu ấy. Con bé với khuôn mặt cáu kỉnh và cũng khó ưa như cậu Colin đã bỏ bùa mê cho cậu. Con bé làm việc đó như thế nào thì không ai hay. Có Chúa chứng giám, nó chẳng có gì đặc biệt, chả mấy khi mở miệng lấy một câu, vậy mà nó lại làm được những điều mà không một ai trong chúng tôi dám làm. Đêm hôm qua, nó như một con mèo nhỏ chạy như bay đến chỗ cậu nhà rồi giậm chân ra lệnh cho cậu đừng có gào toáng lên, làm cậu ấy giật mình hoảng hốt đến nỗi cậu ấy nín bặt, và chiều hôm nay thì… chà, ông thử đến mà xem, thật không thể tin nổi.
|
The scene which Dr. Craven beheld when he entered his patient's room was indeed rather astonishing to him. As Mrs. Medlock opened the door he heard laughing and chattering. Colin was on his sofa in his dressing-gown and he was sitting up quite straight looking at a picture in one of the garden books and talking to the plain child who at that moment could scarcely be called plain at all because her face was so glowing with enjoyment.
|
Cảnh tượng mà bác sĩ Craven trông thấy lúc tiến vào phòng bệnh nhân của mỉnh quả thực khiến ông sửng sốt.
Khi bà Medlock mở cửa ra, ông nghe thấy tiếng nói cười trò chuyện rôm rả. Colin ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế sofa trong bộ quần áo mặc nhà, đang dán mắt vào bức hình của một trong những cuốn sách dạy làm vườn và nói chuyện với con bé có khuôn mặt xấu xí, nhưng vào lúc ấy thì khó có thể bảo là xấu xí bởi nó đang ngời lên rạng rỡ.
|
"Those long spires of blue ones--we'll have a lot of those," Colin was announcing. "They're called Del-phin-iums."
"Dickon says they're larkspurs made big and grand," cried Mistress Mary. "There are clumps there already."
Then they saw Dr. Craven and stopped. Mary became quite still and Colin looked fretful.
|
- Này, những ngọn tháp màu xanh này thì chúng mình sẽ có vô khối. – Colin tuyên bố. – Chúng được gọi là phi yến.
- Nhưng Dickon lại gọi là cây la lết kia đấy, - Cô chủ Mary kêu toáng lên. – Và còn các khóm nhỏ này nữa.
Thấy bác sĩ Craven bước vào cả hai liền im bặt. Mary ngồi im phăng phắc, còn Colin trông rõ ra dáng cáu kỉnh.
|
"I am sorry to hear you were ill last night, my boy," Dr. Craven said a trifle nervously. He was rather a nervous man.
"I'm better now--much better," Colin answered, rather like a Rajah. "I'm going out in my chair in a day or two if it is fine. I want some fresh air."
Dr. Craven sat down by him and felt his pulse and looked at him curiously.
"It must be a very fine day," he said, "and you must be very careful not to tire yourself."
"Fresh air won't tire me," said the young Rajah.
|
- Chú lấy làm tiếc nghe tin cháu bị ốm đêm hôm qua, cháu yêu ạ, - bác sĩ Craven nói hơi bồn chồn. Ông là người hay lo lắng.
- Bây giờ cháu đã khá hơn rồi, khá hơn rất nhiều. – Colin đáp lại, như một vị tiểu vương. – Cháu định sẽ đi ra ngoài trên ghế trong một hai ngày tới, nếu thời tiết đẹp. Cháu muốn được hưởng không khí trong lành.
Bác sĩ Craven ngồi xuống bên giường và xem mạch cho nó, đoạn ông nhìn nó một cách tò mò.
- Nhưng phải vào một ngày đẹp trời kia, - ông nói, - và cháu cần hết sức thận trọng đừng để bị mệt quá.
- Không khí trong lành chẳng thể làm cháu mệt, - tiểu vương trẻ đáp.
|
As there had been occasions when this same young gentleman had shrieked aloud with rage and had insisted that fresh air would give him cold and kill him, it is not to be wondered at that his doctor felt somewhat startled.
"I thought you did not like fresh air," he said.
"I don't when I am by myself," replied the Rajah; "but my cousin is going out with me."
"And the nurse, of course?" suggested Dr. Craven.
|
Bởi quý ngài trẻ tuổi đó đã nhiều lần la lối và một mực cho rằng không khí ngoài trời sẽ làm nó phải cảm và rồi hủy diệt nó, nên ta cũng chẳng lấy làm lạ khi vị bác sĩ kia phải giật mình.
- Chú tưởng cháu chẳng ưa gì không khí ngoài trời?
- Là như thế nếu cháu chỉ có một mình, - vị tiểu vương đáp, - nhưng bây giờ thì cô em họ sẽ đi cùng cháu.
- Và dĩ nhiên cả cô bảo mẫu nữa, - bác sĩ Craven gợi ý.
- Không, cháu không cần bảo mẫu.
|
"No, I will not have the nurse," so magnificently that Mary could not help remembering how the young native Prince had looked with his diamonds and emeralds and pearls stuck all over him and the great rubies on the small dark hand he had waved to command his servants to approach with salaams and receive his orders.
|
Câu trả lời long trọng đến nỗi Mary không thể không liên tưởng đến một vị hoàng tử trẻ người bản xứ, trên mình đeo đầy kim cương cùng đồ trang sức nạm đá quý và ngọc trai, với bàn tay nhỏ đen nhẻm của chàng mang chiếc nhẫn gắn những viên hồng ngọc lớn và đang vẫy bọn gia nhân đến gần mà nhận lệnh.
|
"My cousin knows how to take care of me. I am always better when she is with me. She made me better last night. A very strong boy I know will push my carriage."
|
- Cô em họ đây biết phải lo cho cháu thế nào. Cháu luôn cảm thấy ổn mỗi khi có cô ấy bên cạnh. Đêm qua, nhờ cô ấy mà cháu thấy đỡ hẳn. Có một cậu bé rất khỏe mà cháu quen biết sẽ đẩy xe giúp cháu.
|
Dr. Craven felt rather alarmed. If this tiresome hysterical boy should chance to get well he himself would lose all chance of inheriting Misselthwaite; but he was not an unscrupulous man, though he was a weak one, and he did not intend to let him run into actual danger.
|
Bác sĩ Craven cảm thấy hơi lo. Nếu cái thằng nhóc mắc chứng cuồng loạn và nhiễu sự này bỗng nhiên khá lên thì ắt hẳn ông sẽ mất hết mọi cơ hội thừa kế Misselthwaite; nhưng ông đâu phải người không có nguyên tắc đạo đức, dẫu rằng ông kém cỏi và yếu đuối, và ông không có ý định để mặc nó lao vào một nguy hiểm thực sự.
|
"He must be a strong boy and a steady boy," he said. "And I must know something about him. Who is he? What is his name?"
|
- Nhưng nó phải là một thằng bé thật thà, khỏe mạnh, - ông nói – và chú phải được biết đôi điều về nó. Nó là ai? Tên nó là gì?
|
"It's Dickon," Mary spoke up suddenly. She felt somehow that everybody who knew the moor must know Dickon. And she was right, too. She saw that in a moment Dr. Craven's serious face relaxed into a relieved smile.
"Oh, Dickon," he said. "If it is Dickon you will be safe enough. He's as strong as a moor pony, is Dickon."
"And he's trusty," said Mary. "He's th' trustiest lad i' Yorkshire." She had been talking Yorkshire to Colin and she forgot herself.
"Did Dickon teach you that?" asked Dr. Craven, laughing outright.
|
- Đó là Dickon! – Mary đột nhiên lên tiếng.
Không hiểu sao nó cảm tưởng ai biết về cánh đồng hoang thì cũng phải biết Dickon. Quả nhiên nó đúng. Trong giây lát, nó thấy khuôn mặt lo lắng của bác sĩ Craven dịu hẳn đi, ông mỉm cười nhẹ nhõm.
- À, thì ra là Dickon, - ông bảo. – Nếu là Dickon, cháu mới đủ an toàn. Cậu ấy khỏe như một con ngựa hoang ngoài đồng.
- Anh ấy còn đáng tin cậy nữa, - Mary bảo. – Anh ấy là người đáng tin nhất xứ Yorshire này.
Con bé đang nói bằng giọng Yorkshire cho Colin nghe và đã quên khuấy điều đó.
- Dickon đã dạy cho cháu đấy à ? – Bác sĩ Craven hỏi, cười khá cởi mở.
|
"I'm learning it as if it was French," said Mary rather coldly. "It's like a native dialect in India. Very clever people try to learn them. I like it and so does Colin." "Well, well," he said. "If it amuses you perhaps it won't do you any harm. Did you take your bromide last night, Colin?"
|
- Cháu đang học thổ ngữ vùng này, coi như tiếng Pháp vậy. – Mary đáp khá lạnh lùng. – Thì cũng như một thứ tiếng địa phương ở Ấn Độ. Có rất nhiều người thông minh đang cố gắng học chúng. Cháu thích và Colin cũng vậy.
- Được, được lắm, - ông Craven nói. – Nếu như cái đó làm cháu thấy vui thì có lẽ nó cũng chẳng hại gì. Đêm qua cháu đã uống thuốc an thần chưa, Colin?
|
"No," Colin answered. "I wouldn't take it at first and after Mary made me quiet she talked me to sleep--in a low voice--about the spring creeping into a garden."
"That sounds soothing," said Dr. Craven, more perplexed than ever and glancing sideways at Mistress Mary sitting on her stool and looking down silently at the carpet. "You are evidently better, but you must remember--"
|
- Chưa, - Colin đáp. – Lúc đầu cháu không chịu uống, sau khi Mary khiến cháu im lặng, cô ấy đã kể chuyện cho cháu ngủ…thật khẽ khàng…kể cháu nghe về mùa xuân đang len lỏi vào trong một khu vườn.
- Nghe êm đềm quá, - bác sĩ Craven bảo, ông tỏ ra bối rối hơn bao giờ hết và quay sang liếc nhìn Cô chủ Mary đang ngồi trên ghế đấu, im lặng nhìn xuống tấm thảm. – Rõ rang cháu đã khá hơn, nhưng cháu cần phải nhớ rằng…
|
"I don't want to remember," interrupted the Rajah, appearing again. "When I lie by myself and remember I begin to have pains everywhere and I think of things that make me begin to scream because I hate them so. If there was a doctor anywhere who could make you forget you were ill instead of remembering it I would have him brought here." And he waved a thin hand which ought really to have been covered with royal signet rings made of rubies. "It is because my cousin makes me forget that she makes me better."
|
- Cháu chẳng muốn nhớ gì hết, - vị tiểu vương trở lại và ngắt lời. – Khi cháu nằm đây một mình mà nhớ tới đủ mọi thứ thì cháu bắt đầu thấy đau đớn khắp người, cháu nghĩ đến những điều khiến cháu phải gào lên bởi vì cháu căm ghét chúng vô cùng. Nếu ở đâu đó có một ông bác sĩ có thể khiến chú quên rằng chú đang ốm thay vì phải nhớ tới điều vớ vẩn nào đó, thì hãy mang ông ấy tới đây ngay cho cháu.
Nói đoạn, thằng bé vẫy vẫy bàn tay gầy guộc, bàn tay lẽ ra phải đeo đầy nhẫn hồng ngọc vương giả của nó. – Chẳng qua cô em họ đây đã khiến cháu quên hết mọi thứ đó nên mọi chuyện mới được vậy.
|
Dr. Craven had never made such a short stay after a "tantrum"; usually he was obliged to remain a very long time and do a great many things. This afternoon he did not give any medicine or leave any new orders and he was spared any disagreeable scenes. When he went downstairs he looked very thoughtful and when he talked to Mrs. Medlock in the library she felt that he was a much puzzled man.
|
Bác sĩ Craven chưa khi nào ở lại trong khoảng thời gian ngắn ngủi đến thế sau “cơn tam bành” của thằng bé; thường thì ông buộc phải ở lại rất lâu để làm đủ thứ việc. Nhưng chiều nay, ông chẳng buồn kê thuốc, chẳng hề dặn dò gì hết, và cũng không phải chịu những cảnh khó chịu. Khi bước xuống cầu thang, nom ông có vẻ suy nghĩ. Và lúc ông dừng chân nói chuyện với bà Medlock trong thư viện, bà có cảm tưởng ông đang lúng túng hay bối rối về chuyện gì đó.
|
"Well, sir," she ventured, "could you have believed it?"
"It is certainly a new state of affairs," said the doctor. "And there's no denying it is better than the old one."
"I believe Susan Sowerby's right--I do that," said Mrs. Medlock. "I stopped in her cottage on my way to Thwaite yesterday and had a bit of talk with her. And she says to me, 'Well, Sarah Ann, she mayn't be a good child, an' she mayn't be a pretty one, but she's a child, an' children needs children.' We went to school together, Susan Sowerby and me."
|
- Vâng, thưa ông, - bà đánh bạo nói – ông đã có thể tin rồi chứ?
- Đây chắc chắn là một trạng thái mới, - ông bác sĩ bảo. – Nhưng cũng không thể không thừa nhận rằng có tốt hơn trước.
- Tôi tin rằng bà Susan Sowerby đã có lý. Tôi xin cả quyết thế. – Bà Medlock nói. – Ngày hôm qua khi trên đường sang Thwaite, tôi có ghé vào ngôi nhà gianh của bà ấy để nói dăm ba câu chuyện. Bà ấy có bảo tôi: “Chà, Sarah Ann ạ, con bé chưa phải đứa được giáo dục tốt, và nó cũng chẳng xinh xắn gì, nhưng nó chỉ là một đứa trẻ, mà trẻ con chỉ cần trẻ con mà thôi”. Trước kia, Susan Sowerby và tôi, chúng tôi đã cùng đến trường với nhau đấy.
|
"She's the best sick nurse I know," said Dr. Craven. "When I find her in a cottage I know the chances are that I shall save my patient."
Mrs. Medlock smiled. She was fond of Susan Sowerby.
|
- Bà ấy quả là một bảo mẫu chăm sóc người ốm tốt nhất mà tôi được biết, - bác sĩ Craven bảo.
– Kể từ hôm gặp bà ấy trong túp nhà gianh, tôi đã biết đây là cơ hội để tối cứu được bệnh nhân của mình. Bà Medlock mỉm cười. Bà rất yêu quý bà Susan Sowerby.
|
"She's got a way with her, has Susan," she went on quite volubly. "I've been thinking all morning of one thing she said yesterday. She says, `Once when I was givin' th' children a bit of a preach after they'd been fightin' I ses to 'em all, "When I was at school my jography told as th' world was shaped like a orange an' I found out before I was ten that th' whole orange doesn't belong to nobody. No one owns more than his bit of a quarter an' there's times it seems like there's not enow quarters to go round. But don't you--none o' you--think as you own th' whole orange or you'll find out you're mistaken, an' you won't find it out without hard knocks." `What children learns from children,' she says, 'is that there's no sense in grabbin' at th' whole orange--peel an' all. If you do you'll likely not get even th' pips, an' them's too bitter to eat.'"
|
- Bà ấy luôn có cách của riêng mình. – Bà tiếp tục liến thoắng. – Tôi đã suy nghĩ suốt buổi sáng một điều bà ấy nói hôm qua. Bà ấy bảo: “Một hôm tôi phải bảo ban bọn trẻ mấy câu sau khi chúng choảng nhau, tôi đã nhìn chúng mà nói rằng ‘Dạo mẹ còn đi học, thầy giáo dạy môn địa lý bảo trái đất này có hình giống quả cam, và trước khi lên mười thì mẹ đã phát hiện ra rằng cả quả cam này không phải là không thuộc về ai. Không một ai được quyền sở hữu hơn cái phần của mình và cũng có những lúc dường như không có đủ các phần để chia khắp lượt. Nhưng các con – không ai trong các con lại không nghĩ mình được có toàn bộ quả cam, hoặc rồi sẽ nhận ra mình đã mắc sai lầm, hoặc không nhận ra được cho tới khi phải có những cú đấm nặng nề đúng không nào” Những gì mà trẻ con học được từ trẻ con,” – bà ấy bảo, - “là chẳng nghĩa lý gì đâu khi cố chộp lấy cả quả cam, tất tật kể cả vỏ, bởi vì như thế thì rồi sẽ chỉ còn hạt thôi, mà hạt cam thì đắng lắm.”
|
"She's a shrewd woman," said Dr. Craven, putting on his coat.
"Well, she's got a way of saying things," ended Mrs. Medlock, much pleased. "Sometimes I've said to her, 'Eh! Susan, if you was a different woman an' didn't talk such broad Yorkshire I've seen the times when I should have said you was clever.'"
|
- Bà ấy quả là một phụ nữ khôn ngoan sắc sảo, - bác sĩ Craven vừa nói, vừa mặc áo khoác.
- Vậy đấy, bà ấy có cách của riêng mình để nói những chuyện như vậy, - bà Medlock kết thúc, hể hả ra mặt. – Thỉnh thoảng tôi vẫn phải bảo bà ấy: “Này, chị Susan, giá chị ở một vị thế khác và đừng có cái giọng Yorkshire đặc sệt như vậy thì khối bận tôi phải nói rằng chị quả là thông minh.”
|
That night Colin slept without once awakening and when he opened his eyes in the morning he lay still and smiled without knowing it--smiled because he felt so curiously comfortable. It was actually nice to be awake, and he turned over and stretched his limbs luxuriously. He felt as if tight strings which had held him had loosened themselves and let him go. He did not know that Dr. Craven would have said that his nerves had relaxed and rested themselves. Instead of lying and staring at the wall and wishing he had not awakened, his mind was full of the plans he and Mary had made yesterday, of pictures of the garden and of Dickon and his wild creatures. It was so nice to have things to think about. And he had not been awake more than ten minutes when he heard feet running along the corridor and Mary was at the door. The next minute she was in the room and had run across to his bed, bringing with her a waft of fresh air full of the scent of the morning.
|
Đêm ấy, Colin ngủ say tít không một lần thức giấc. Khi choàng tỉnh dậy vào buổi sáng, nó vẫn nằm dài, mỉm cười một cách vô thức, bởi nó cảm thấy dễ chịu lạ lung. Nó thấy thật tuyệt khi được thức dậy. Nó vươn người, duỗi chân duỗi tay một cách thoải mái. Nó có cảm tưởng những sợi dây căng cứng trong cơ thể nó lúc này đang giãn ra và cho phép nó đi lại dễ dàng. Nó không biết cả ông bác sĩ Craven cũng phải thừa nhận thần kinh nó đã được thư giãn và nghỉ ngơi. Thay vì nằm lì trên giường giương mắt nhìn các bức vách và ước ao đừng thức dậy, tâm trí nó lúc này đầy ắp các kế hoạch mà nó đã cùng với Mary vạch ra hôm qua, cùng những hình ảnh về khu vườn, về Dickon và các con thú hoang của thằng bé. Thật tuyệt vời biết bao khi ta có thứ gì đó để mà nghĩ đến. nó còn chưa dậy được mười phút thì đã nghe có tiếng chân người chạy ngoài hành lang và Mary xuất hiện bên cửa ra vào. Ngay sau đó, con bé đã ở trong phòng. Nó chạy tới bên giường thằng bé, mang theo một làn không khí trong lành đầy ắp hương thơm buổi sáng.
|
"You've been out! You've been out! There's that nice smell of leaves!" he cried.
She had been running and her hair was loose and blown and she was bright with the air and pink-cheeked, though he could not see it.
"It's so beautiful!" she said, a little breathless with her speed. "You never saw anything so beautiful! It has come! I thought it had come that other morning, but it was only coming. It is here now! It has come, the Spring! Dickon says so!"
"Has it?" cried Colin, and though he really knew nothing about it he felt his heart beat. He actually sat up in bed.
"Open the window!" he added, laughing half with joyful excitement and half at his own fancy. "Perhaps we may hear golden trumpets!"
|
- Cậu đã ra ngoài! Đã ra ngoài rồi kia à! Còn sực nức mùi thơm dễ chịu của cây cỏ! – Thằng bé kêu lên.
Con bé vừa chạy về, tóc nó buông xõa ra, hồ hởi vì khí trời, hai má hồng rực, mặc dù thằng bé không nhận thấy điều ấy.
- Thật là đẹp! – Mary vừa nói, vừa thở hổn hển, vì chạy nhanh. – Cậu chưa bao giờ nhìn thấy cái gì đẹp đến thế đâu. Nó đến rồi đó! Mình cứ ngỡ nó đã đến vào một buổi sáng nào rồi cơ, không ngờ chỉ vừa mới. Bây giờ nó đang ở đây! Mùa xuân đến rồi! Dickon bảo thế!
- Đến rồi sao? – Colin kêu lên, và mặc dù thực sự nó không rõ là cái gì, nó vẫn cảm thấy tim mình đập mạnh. Nó ngồi bật dậy trên giường. - Mở cửa sổ ra! – Nó nói thêm rồi bật cười vì niềm phấn khích, và bởi tưởng tượng của riêng nó. – Có lẽ chúng ta có thể nghe thấy tiếng kèn trompét bằng vàng đâu đây!
|
And though he laughed, Mary was at the window in a moment and in a moment more it was opened wide and freshness and softness and scents and birds' songs were pouring through.
"That's fresh air," she said. "Lie on your back and draw in long breaths of it. That's what Dickon does when he's lying on the moor. He says he feels it in his veins and it makes him strong and he feels as if he could live forever and ever. Breathe it and breathe it."
She was only repeating what Dickon had told her, but she caught Colin's fancy.
"`Forever and ever'! Does it make him feel like that?" he said, and he did as she told him, drawing in long deep breaths over and over again until he felt that something quite new and delightful was happening to him.
|
Mặc cho thằng bé đang cười, Mary lưu lại bên cửa sổ một lúc, và mỗi lúc trôi qua, sự tươi mát, dịu dàng, hương thơm và cả tiếng chim đang ca hót lại càng tràn ngập vào trong căn phòng.
- Đó là không khí trong lành, - con bé nói. – Hãy nằm ngửa ra và hít một hơi thật sâu. Dickon vẫn làm vậy khi nằm trên đồng hoang. Anh ấy bảo anh ấy cảm thấy khí trời tỏa đi trong từng mạch máu của mình, khiến anh ấy khỏe mạnh và có cảm tưởng rồi mình sẽ sống mãi. Cậu hãy hít lấy nó, hít nữa đi.
Con bé chỉ nhắc lại những điều Dickon đã nói cho nó, nhưng nó nhận ra sự ngạc nhiên thích thú của Colin.
- Mãi mãi! Cái đó khiến anh cảm thấy thế sao? – nó nói, rồi làm theo lời Mary, hít liền mấy hơi thật sâu, cho tới khi nó cảm nhận ra một cái gì đó hoàn toàn mới mẻ và hứng khởi đang xảy đến với nó.
|
Mary was at his bedside again.
"Things are crowding up out of the earth," she ran on in a hurry. "And there are flowers uncurling and buds on everything and the green veil has covered nearly all the gray and the birds are in such a hurry about their nests for fear they may be too late that some of them are even fighting for places in the secret garden. And the rose-bushes look as wick as wick can be, and there are primroses in the lanes and woods, and the seeds we planted are up, and Dickon has brought the fox and the crow and the squirrels and a new-born lamb."
|
Mary đến bên giường thằng bé.
- Cây cối đang đua nhau vươn khỏi mặt đất, - nó hối hả nói. – Hoa đang tỏa cánh chứ không cuộn mình, mọi thứ đều đâm chồi nảy lộc, cả một tấm mạng xanh đang che phủ hầu như nơi nơi, chim choc bện rộn bên tổ của chúng như sợ rằng chúng có thể đến trễ, đến nỗi một vài đôi còn choảng nhau để giành chỗ trong khu vườn bí mật. Chỗ hạt giống bọn tớ trồng giờ đã nhú mầm xanh mượt. Dickon còn mang theo cáo, quạ, hai chú sóc và cả một con cừu non mới sinh nữa chứ.
|
And then she paused for breath. The new-born lamb Dickon had found three days before lying by its dead mother among the gorse bushes on the moor. It was not the first motherless lamb he had found and he knew what to do with it. He had taken it to the cottage wrapped in his jacket and he had let it lie near the fire and had fed it with warm milk. It was a soft thing with a darling silly baby face and legs rather long for its body. Dickon had carried it over the moor in his arms and its feeding bottle was in his pocket with a squirrel, and when Mary had sat under a tree with its limp warmness huddled on her lap she had felt as if she were too full of strange joy to speak. A lamb--a lamb! A living lamb who lay on your lap like a baby!
|
Nói đoạn, nó dừng lại lấy hơi. - Con cừu non mới sinh ấy Dickon đã tìm thấy ba ngày trước, lúc nó nằm bên xác cừu mẹ giữa mấy bụi kim tước ngoài cánh đồng hoang. Đây không phải con cừu non mất mẹ đầu tiên mà thằng bé bắt gặp. Dickon biết phải làm gì với con vật tội nghiệp, liền mang con vật về ngôi nhà gianh, bọc nó trong chiếc áo khoác của mình, đặt nó nằm gần ngọn lửa rồi cho nó uống sữa ấm. Con vật mềm mại như cục bong, cái mặt như một đứa trẻ thơ đáng yêu, cùng mấy cẳng chân khá dài so với thân thể. Dickon đã ôm nó trên tay khi vượt qua cánh đồng hoang, còn chai sữa cho con vật thì thằng bé để bên túi áo, cùng với một con sóc. Khi Mary ngồi xuống dưới một gốc cây với cái vật âm ấm ẻo lả ấy nằm cuộn tròn trên vạt váy của mình, con bé cảm thấy trong lòng tràn ngập một niềm vui kỳ diệu khó nói thành lời. Một chú cừu con! Một chú cừu non! Một con cừu non sống hẳn hoi đang nằm trên vạt váy nó như một đứa trẻ!
|
She was describing it with great joy and Colin was listening and drawing in long breaths of air when the nurse entered. She started a little at the sight of the open window. She had sat stifling in the room many a warm day because her patient was sure that open windows gave people cold.
"Are you sure you are not chilly, Master Colin?" she inquired.
"No," was the answer. "I am breathing long breaths of fresh air. It makes you strong. I am going to get up to the sofa for breakfast. My cousin will have breakfast with me."
|
Con bé đang say sưa miêu tả chuyện đó, còn Colin lắng nghe và hít thở không khí thì cô bảo mẫu bước vào. Cô hơi giật mình sửng sốt trước cánh cửa sổ để ngỏ. Cô đã phải chịu cảnh kín hơi trong căn phòng ấy nhiều bận, kể cả những ngày ấm áp bởi vì bệnh nhân của cô luôn cả quyết rằng cửa số để ngỏ sẽ khiến người ta bị lạnh.
- Cậu chắc cậu không bị lạnh chứ, cậu Colin, - cô gặng hỏi.
- Không, - nó trả lời. – Tôi đang hít thật sâu vào người làn không khí trong lành. Nó làm tôi thấy khỏe hẳn ra. Tôi định ra sofa để dùng bữa sáng, và cô em họ sẽ cùng ăn với tôi.
|
The nurse went away, concealing a smile, to give the order for two breakfasts. She found the servants' hall a more amusing place than the invalid's chamber and just now everybody wanted to hear the news from upstairs. There was a great deal of joking about the unpopular young recluse who, as the cook said, "had found his master, and good for him." The servants' hall had been very tired of the tantrums, and the butler, who was a man with a family, had more than once expressed his opinion that the invalid would be all the better "for a good hiding."
|
Cô bảo mẫu ra khỏi phòng, cố giấu một nụ cười. Cô đi yêu cầu người ta chuẩn bị hai suất ăn sáng. Đối với cô, gian phòng lớn dành cho gia nhân thú vị hơn căn phòng của người ốm và ở đó lúc này ai nấy đều háo hức muốn nghe tin tức từ trên lầu. Có nhiều lời đùa cợt về cậu chàng ẩn dật khó ưa đó, như anh bếp đã nói: “Cậu chủ đã tìm được thầy cho cậu ấy rồi đấy, thật tốt cho cậu ấy!” Đám gia nhân từ lâu đã quá ư mệt mỏi với những trận cuồng phong kích động của cậu, còn lão quản gia, một người đã có gia đình, cũng có lần phải bảo với cái kẻ ốm o ấy thì chỉ còn mỗi cách là “yêu cho vọt”
|
When Colin was on his sofa and the breakfast for two was put upon the table he made an announcement to the nurse in his most Rajah-like manner.
"A boy, and a fox, and a crow, and two squirrels, and a new-born lamb, are coming to see me this morning. I want them brought upstairs as soon as they come," he said. "You are not to begin playing with the animals in the servants' hall and keep them there. I want them here." The nurse gave a slight gasp and tried to conceal it with a cough.
|
Khi Colin đã yên vị trên chiếc sofa cùng với bữa sáng cho hai đứa được dọn trên bà, nó mới tuyên bố với cô bảo mẫu bằng cung cách tiểu vương nhất của mình.
- Sáng hôm nay, có một anh bạn cùng với một con cáo, một con quạ, hai con sóc và một con cừu non mới sinh sẽ tới đây thăm tôi. Tôi muốn bọn họ được đưa lên gác ngay khi tới nơi. Cô không được đùa với các con vật trong phòng gia nhân hay giữ chúng ở đó. Tôi muốn chúng ở đây.
Cô bảo mẫu há hốc mồm và cố che giấu nó bằng một trận ho.
|
"Yes, sir," she answered.
"I'll tell you what you can do," added Colin, waving his hand. "You can tell Martha to bring them here. The boy is Martha's brother. His name is Dickon and he is an animal charmer."
"I hope the animals won't bite, Master Colin," said the nurse.
"I told you he was a charmer," said Colin austerely. "Charmers' animals never bite."
"There are snake-charmers in India," said Mary. "and they can put their snakes' heads in their mouths."
|
- Vâng, thưa cậu, - cô đáp.
- Tôi sẽ bảo cô những gì cô cần làm, - Colin nói thêm rồi khoát tay. – Cô bảo Martha đưa họ lên đây. Anh ấy là em trai chị Martha. Tên anh ấy là Dickon, anh ấy là người biết cách thu phục muông thú.
- Tôi hy vọng lũ súc vật sẽ không cắn, thưa cậu Colin. – cô bảo mẫu nói.
- Tôi vừa bảo cô, anh ấy là người biết cách thu phục muông thú mà, - Colin nói một cách nghiêm nghị. – Các con thú trong tay người thuần dưỡng không bao giờ cắn.
- Những người dụ rắn ở Ấn Độ, - Mary nói, - họ có thể đưa cả đầu các con rắn vào tận trong miệng cơ.
|
"Goodness!" shuddered the nurse.
They ate their breakfast with the morning air pouring in upon them. Colin's breakfast was a very good one and Mary watched him with serious interest.
"You will begin to get fatter just as I did," she said. "I never wanted my breakfast when I was in India and now I always want it."
"I wanted mine this morning," said Colin. "Perhaps it was the fresh air. When do you think Dickon will come?"
He was not long in coming. In about ten minutes Mary held up her hand.
"Listen!" she said. "Did you hear a caw?"
|
- Lạy Chúa lòng thành!- Cô bảo mẫu rùng mình kêu lên.Hai đứa ăn bữa sáng trong bầu không khí trong lành của buổi ban mai. Món điểm tâm của Colin rất ngon, Mary ngắm nhìn nó với vẻ mặt quan tâm.
- Rồi cậu sẽ béo ra như tớ. Tớ chẳng bao giờ muốn dùng bữa sáng từ hồi ở Ấn Độ, còn bây giờ thì lúc nào cũng thấy thích.
- Chỉ sáng nay tớ mới muốn chén. Có lẽ nhờ không khí. Cậu bảo khi nào Dickon tới?
Quãng đường để Dickon đến đây cũng chẳng lấy gì làm xa. Mười phút sau đã thấy Mary giơ một tay lên.
- Nghe kìa! – Con bé nói. – Cậu có nghe thấy tiếng quạ quạ không?
|
Colin listened and heard it, the oddest sound in the world to hear inside a house, a hoarse "caw-caw."
"Yes," he answered.
"That's Soot," said Mary. "Listen again. Do you hear a bleat--a tiny one?"
"Oh, yes!" cried Colin, quite flushing.
"That's the new-born lamb," said Mary. "He's coming."
|
Colin lắng tai và nhận ra tiếng ấy, đó quả là âm thanh kỳ quặc nhất trên đời khi ta nghe thấy nó bên trong một ngôi nhà – một tiếng khàn cộc cằn: “quạ-quạ”
- Có, - thằng bé trả lời.
- Con Bồ hóng đấy, - Mary bảo. – Chú ý lần nữa nào! Cậu có nghe thấy một tiếng be be nhỏ xíu không?
- Ồ, phải rồi! – Colin hét lên, mặt đỏ bừng.
- Ấy là tiếng chú cừu non mới sinh, - Mary bảo, - cậu ấy đang đến.
|
Dickon's moorland boots were thick and clumsy and though he tried to walk quietly they made a clumping sound as he walked through the long corridors. Mary and Colin heard him marching--marching, until he passed through the tapestry door on to the soft carpet of Colin's own passage.
"If you please, sir," announced Martha, opening the door, "if you please, sir, here's Dickon an' his creatures."
|
Tiếng đôi giày ống từng đi khắp cánh đồng hoang của Dickon nằng nặng vụng về, và mặc dù đã cố bước thật êm, chúng vẫn phát ra tiếng thình thịch khi bước qua những hành lang dài hun hút. Mary và Colin nghe tiếng chân đều đều bước, qua cánh cửa có treo tấm thảm thêu và dừng lại trên miếng thảm mềm ở lối đi riêng của Colin.
- Nếu cậu vui lòng, thưa cậu, thì đây là Dickon cùng những con thú của cậu ấy- Martha vừa lớn tiếng, vừa mở cửa.
|
Dickon came in smiling his nicest wide smile. The new- born lamb was in his arms and the little red fox trotted by his side. Nut sat on his left shoulder and Soot on his right and Shell's head and paws peeped out of his coat pocket.
|
Dickon bước vào phòng, miệng cười rạng rỡ. Con cừu mới sinh vẫn nằm trên tay thằng bé, con cáo đỏ bé tí quấn quýt bên chân nó. Hạt dẻ ngồi trên vai trái, Bồ hóng đỗ trên vai phải, cái đầu của Vỏ sò cùng mấy chiếc móng chân thập thò ngoài miệng túi áo khoác của nó.
|
Colin slowly sat up and stared and stared--as he had stared when he first saw Mary; but this was a stare of wonder and delight. The truth was that in spite of all he had heard he had not in the least understood what this boy would be like and that his fox and his crow and his squirrels and his lamb were so near to him and his friendliness that they seemed almost to be part of himself. Colin had never talked to a boy in his life and he was so overwhelmed by his own pleasure and curiosity that he did not even think of speaking. But Dickon did not feel the least shy or awkward. He had not felt embarrassed because the crow had not known his language and had only stared and had not spoken to him the first time they met. Creatures were always like that until they found out about you. He walked over to Colin's sofa and put the new-born lamb quietly on his lap, and immediately the little creature turned to the warm velvet dressing-gown and began to nuzzle and nuzzle into its folds and butt its tight-curled head with soft impatience against his side. Of course no boy could have helped speaking then.
|
Colin chầm chậm ngồi dậy, mắt nhìn trân trân không chớp. Nó từng nhìn Mary như vậy vào buổi đầu trông thấy con bé. Nhưng lúc này, đây là cái nhìn kinh ngạc và vui sướng. Sự thật là cho dù nó đã được nghe kể rất nhiều nhưng nó không thể hình dung nổi anh chàng này trông sẽ như thế nào và vì sao anh chàng này và con cáo, con quạ, hai con sóc, chú cừu non lại có thể gần gụi nhau đến vậy, đến mức chúng hầu như là một phần của con người Dickon vậy. Trong đời mình, Colin chưa từng chuyện trò với một thằng bé nào, từ đáy lòng nó tràn ngập niềm vui và sự háo hức tò mò đến nỗi nó thậm chí không nghĩ đến việc phải cất lời. Nhưng Dickon chẳng mảy may ngại ngùng hay kỳ quặc. Nó không cảm thấy bối rối, bởi lần đầu tiên gặp nhau con quạ cũng đâu có hiểu ngôn ngữ của thằng bé mà chỉ giương mắt nhìn, chẳng nói chẳng rằng. Mọi sinh vật đều như vậy cho tới lúc chúng hiểu về bạn. Nó bước tới bên ghế sofa của Colin, lặng lẽ đặt chú cừu non lên vạt áo thằng bé, và con vật be bé ấy ngay lập tức cựa quậy trong chiếc áo khoác nhung ấm áp rồi bắt đầu rúc vào các nếp gấp của áo, húc cái đầu xoăn tít long của nó vào bên sườn thằng bé. Dĩ nhiên, thằng Colin chẳng thể nào có thể ngồi yên lặng được nữa.
|
"What is it doing?" cried Colin. "What does it want?"
"It wants its mother," said Dickon, smiling more and more. "I brought it to thee a bit hungry because I knowed tha'd like to see it feed."
He knelt down by the sofa and took a feeding-bottle from his pocket.
"Come on, little 'un," he said, turning the small woolly white head with a gentle brown hand. "This is what tha's after. Tha'll get more out o' this than tha' will out o' silk velvet coats. There now," and he pushed the rubber tip of the bottle into the nuzzling mouth and the lamb began to suck it with ravenous ecstasy.
|
- Nó làm gì thế này? – Colin kêu tướng lên. – Nó muốn gì thế?
- Nó muốn mẹ của nó, - Dickon đáp rồi lại mỉm cười. – Tôi mang nó đến cho cậu vào lúc nó hơi đói, bởi tôi biết cậu thích nhìn nó bú.
Rồi Dickon quỳ xuống bên chiếc sofa, lấy chai sữa từ trong túi ra.
- Nào, cừu bé bỏng của ta, - nó nói rồi với bàn tay rám nắng mà thanh tú, nó xoay nhẹ cái đầu long trắng xoăn xoăn nhỏ xinh về phía mình. – Xem đằng sau mày có gì này. Mày nốc cho cạn đi, còn hơn là rúc vào áo nhung. Nào, thế nhé, - nói đoạn nó ấn núm vú cao su của chai sữa vào cái miệng đang rúc ráy tìm hơi và con cừu bú sữa hết sức thích thú.
|
After that there was no wondering what to say. By the time the lamb fell asleep questions poured forth and Dickon answered them all. He told them how he had found the lamb just as the sun was rising three mornings ago. He had been standing on the moor listening to a skylark and watching him swing higher and higher into the sky until he was only a speck in the heights of blue.
|
Sau đó, không cần phải băn khoăn xem sẽ nói những gì. Vào lúc con cừu lăn ra ngủ, hết câu hỏi này đến câu hỏi khác dồn dập đưa ra và Dickon trả lời tất thảy. Nó kể cho hai đứa, nó đã tìm thấy con cừu như thế nào vào lúc mặt trời lên cách đây ba buổi sáng, vào lúc nó đang đứng trên đồng hoang nghe tiếng chim chiền chiện hót, ngắm cánh chim bay vút lên cao, cao mãi giữa bầu trời xanh thẳm, cho tới khi chỉ còn là một cái chấm trong không trung vời vợi.
|
"I'd almost lost him but for his song an' I was wonderin' how a chap could hear it when it seemed as if he'd get out o' th' world in a minute--an' just then I heard somethin' else far off among th' gorse bushes. It was a weak bleatin' an' I knowed it was a new lamb as was hungry an' I knowed it wouldn't be hungry if it hadn't lost its mother somehow, so I set off searchin'. Eh! I did have a look for it. I went in an' out among th' gorse bushes an' round an' round an' I always seemed to take th' wrong turnin'. But at last I seed a bit o' white by a rock on top o' th' moor an' I climbed up an' found th' little 'un half dead wi' cold an' clemmin'."
|
- Nó hầu như mất hút trước mắt tôi, ngoại trừ tiếng hót, tôi tự hỏi không biết tại sao người ta còn nghe được tiếng hót ấy khi dường như nó đã biết mất khỏi thế gian này trong giây lát…và chính lúc ấy tôi nghe một âm thanh gì đó phát ra từ bụi kim tước. Thì ra là tiếng be be yếu ớt và tôi hiểu một con cừu non mới lọt lòng đang khát sữa mẹ. Tôi cũng thấy ngay nó sẽ không bị đói nếu không lạc mất mẹ vì một lý do nào đấy, thế là tôi bèn đi tìm. Chà! Tôi đã thấy nó. Tôi cứ ra ra vào vào giữa những bụi kim tước, rồi lại đi vòng quanh, và có vẻ như tôi luôn rẽ nhầm. Nhưng cuối cùng, tôi thấy một vật gì trăng trắng bên tảng đá trên một gò đất cao của cánh đồng hoang, bèn leo lên đó và phát hiện con vật tí hon này đang ngoắc ngoải vì lạnh và đói.
|
While he talked, Soot flew solemnly in and out of the open window and cawed remarks about the scenery while Nut and Shell made excursions into the big trees outside and ran up and down trunks and explored branches. Captain curled up near Dickon, who sat on the hearth-rug from preference. They looked at the pictures in the gardening books and Dickon knew all the flowers by their country names and knew exactly which ones were already growing in the secret garden.
|
Trong lúc nó kể chuyện, Bồ hóng trịnh trọng bay ra bay vào cánh cửa sổ để ngỏ, miệng kêu quạ quạ như thể bình phẩm về cảnh tượng. Hạt dẻ và Vỏ sò thì dạo chơi trong vòm lá của mấy cây to bên ngoài cửa, chạy lên chạy xuống dọc thân cây rồi thập thò qua các kẽ lá. Còn Đại úy nằm cuộn tròn gần Dickon, lúc này được ưu tiên ngồi trên tấm thảm trải trước lò sưởi. Bọn trẻ dán mắt vào các bức tranh trong mấy cuốn sách về vườn tược. Dickon biết tên địa phương của tất cả các loài hoa, nó còn biết chính xác loài nào hiện đang mọc trong khu vườn bí mật.
|
"I couldna' say that there name," he said, pointing to one under which was written "Aquilegia," "but us calls that a columbine, an' that there one it's a snapdragon and they both grow wild in hedges, but these is garden ones an' they're bigger an' grander. There's some big clumps o' columbine in th' garden. They'll look like a bed o' blue an' white butterflies flutterin' when they're out."
"I'm going to see them," cried Colin. "I am going to see them!"
"Aye, that tha' mun," said Mary quite seriously. "An' tha' munnot lose no time about it."
|
- Tôi không biết tên của loài này, - nó nói và đưa tay chỉ một loài hoa bên dưới có dòng chữ “Aquilegia”, - nhưng chúng tôi gọi nó là columbine, còn kia là hoa mõm chó , cả hai đều mọc hoang nơi các bờ giậu nhưng ở đây, được trồng trong vườn, trông chúng lớn hơn và sang trọng hơn. Đây là mấy khóm columbine lớn trong vườn, tựa như một tấm thảm màu xanh pha trắng có ong bướm rập rờn bay lượn vào mùa ra hoa.
- Tớ phải đi xem chúng mới được! – Colin kêu to. – Tớ phải đi xem chúng mới được!
- Đúng đấy! Cậu nên đi. – Mary nói với vẻ thật nghiêm túc. – Và cậu cũng đừng để lỡ thời gian nữa.
|
CHAPTER 20
Chapter XX: "I SHALL LIVE FOREVER--AND EVER--AND EVER!"
|
Chương 20: “Tớ Sẽ SốNG MÃI! – MÃI MÃI!”
|
But they were obliged to wait more than a week because first there came some very windy days and then Colin was threatened with a cold, which two things happening one after the other would no doubt have thrown him into a rage but that there was so much careful and mysterious planning to do and almost every day Dickon came in, if only for a few minutes, to talk about what was happening on the moor and in the lanes and hedges and on the borders of streams. The things he had to tell about otters' and badgers' and water-rats' houses, not to mention birds' nests and field-mice and their burrows, were enough to make you almost tremble with excitement when you heard all the intimate details from an animal charmer and realized with what thrilling eagerness and anxiety the whole busy underworld was working.
|
Vậy mà bọn trẻ buộc phải chờ hơn một tuần lễ nữa, bởi mấy ngày sau đó gặp phải những cơn gió lộng tơi bời, lại thêm việc Colin có nguy cơ cảm lạnh, hai chuyện đó, chuyện này nối tiếp chuyện kia, đã đẩy Colin vào một cơn thịnh nộ. Chúng còn phải vạch kế hoạch sao cho thật công phu và bí mật, và Dickon hầu như ngày nào cũng đến chơi, dù chỉ trong ít phút, để kể chúng nghe những việc đang diễn ra ngoài cánh đồng hoang, trên những lối mòn, hàng giậu và hai bên bờ suối. Những chuyện của nó thường là về ngôi nhà của bọn lửng, rái cá và chuột nước (chuột nước là loài động vật giống như con chuột, bơi dưới nước, sống trong hang bên bờ sông, bờ hồ), và còn chưa kể các tổ chim, chuột đồng và hang hốc của chúng. Chỉ riêng những chuyện đó thôi cũng đủ khiến người ta run lên vì thích thú, nhất là khi được nghe mọi điều riêng tư về muông thú từ miệng một người yêu quý chúng và người ta nhận ra rằng toàn thể thế giới nơi lòng đất lúc này đây đang bận rộn với niềm náo nức và hâm hở đến nhường nào.
|
"They're same as us," said Dickon, "only they have to build their homes every year. An' it keeps 'em so busy they fair scuffle to get 'em done."
|
-Chúng cũng giống như chúng ta thôi,- Dickon nói. – Chỉ có điều mỗi năm chúng lại phải xây nhà một lần. Điều đó khiến chúng phải lo giành giật cho được những chỗ tốt.
|
The most absorbing thing, however, was the preparations to be made before Colin could be transported with sufficient secrecy to the garden. No one must see the chair-carriage and Dickon and Mary after they turned a certain corner of the shrubbery and entered upon the walk outside the ivied walls. As each day passed, Colin had become more and more fixed in his feeling that the mystery surrounding the garden was one of its greatest charms. Nothing must spoil that. No one must ever suspect that they had a secret.
|
Tuy nhiên hấp dẫn nhất là việc chuẩn bị để đưa Colin ra ngoài, trong khi vẫn giữ được bí mật cho khu vườn. Không ai được nhìn thấy chiếc xe đẩy cùng Dickon và Mary sau khi chúng rẽ vào một góc quanh có bụi cây, rồi tiến vào lối đi dạo bên ngoài mấy bức tường phủ dãy thường xuân. Mỗi ngày trôi qua, Colin càng tâm niệm rằng điều bí mật xung quanh khu vườn là một trong những nét quyến rũ nhất của nơi ấy. Không gì được phép làm hỏng điều đó. Và không ai được phép làm hỏng điều đó. Và không ai được phép nghi ngờ rằng bọn trẻ có cả một bí mật.
|
People must think that he was simply going out with Mary and Dickon because he liked them and did not object to their looking at him. They had long and quite delightful talks about their route. They would go up this path and down that one and cross the other and go round among the fountain flower-beds as if they were looking at the "bedding-out plants" the head gardener, Mr. Roach, had been having arranged. That would seem such a rational thing to do that no one would think it at all mysterious. They would turn into the shrubbery walks and lose themselves until they came to the long walls. It was almost as serious and elaborately thought out as the plans of march made by geat generals in time of war.
|
Mọi người phải nghĩ rằng Colin ra ngoài cùng với Mary và Dickon bởi nó mến hai đứa ấy và không phản đối việc chúng nhìn nó. Bọn trẻ đã vui vẻ bàn tán rất lâu về lộ trình của chúng. Chúng tính sẽ đi ngược lên đường mòn này rồi tạt xuống đường mòn kia, vượt ngang lối đi nọ, từ đấy đi vòng vèo giữa các luống hoa có vòi phun, như thể chúng đang ngắm nghía những thảm cây được cắt tỉa gọn gàng mà người quản vườn, ông Roach, đã dày công cho sắp đặt. Chuyện đó thật hợp lý, nên sẽ chẳng ai mảy may ngờ rằng ở đây có điều gì đó bí hiểm. Rồi chúng sẽ tạt vào các lối đi có nhiều cây bụi để cho khuất dạng, cho tới khi đến bên những bức tường dài. Đó quả là những dự tính nghiêm túc và tỉ mỉ, chẳng khác nào bản kế hoạch tác chiến do các tướng lĩnh tài ba vạch ra.
|
Rumors of the new and curious things which were occurring in the invalid's apartments had of course filtered through the servants' hall into the stable yards and out among the gardeners, but notwithstanding this, Mr. Roach was startled one day when he received orders from Master Colin's room to the effect that he must report himself in the apartment no outsider had ever seen, as the invalid himself desired to speak to him.
|
Những lời xầm xì về những chuyện mới mẻ khá thường trong phòng người ốm, dĩ nhiên, đã lan ra, từ phòng gia nào nhân sang khu chuồng ngựa cho tới đám thợ làm vườn. Thế nhưng mặc dù đã biết điều đó, một bữa nọ ông Roach vẫn không khỏi giật mình khi nhận được lệnh từ phòng riêng của cậu Colin rằng ông phải thân chinh đến báo cáo tại căn phòng mà chưa người ngoài nào được thấy, bởi kẻ ốm o kia muốn nói chuyện với ông.
|
"Well, well," he said to himself as he hurriedly changed his coat, "what's to do now? His Royal Highness that wasn't to be looked at calling up a man he's never set eyes on."
|
-Chà, chà,- ông nhủ thầm khi vội vã thay áo khoác. – Bây giờ ta biết làm gì đây? Vị hoàng thân không thể cho gọi một kẻ mà ông ta chẳng bao giờ thèm để mắt.
|
Mr. Roach was not without curiosity. He had never caught even a glimpse of the boy and had heard a dozen exaggerated stories about his uncanny looks and ways and his insane tempers. The thing he had heard oftenest was that he might die at any moment and there had been numerous fanciful descriptions of a humped back and helpless limbs, given by people who had never seen him.
|
Ông Roach không khỏi tò mò. Ông chưa bao giờ thấy, thậm chí dù chỉ thoáng qua, bóng dáng thằng bé đó. Ông cũng đã nghe hàng tá những câu chuyện đồn thổi về diện mạo kỳ quặc và tâm tính khác thường của nó. Những gì mà ông hay được nghe nhất, đó là thằng bé có thể chết bất kỳ lúc nào, cùng với một lô một lốc những mô tả kỳ khôi về một người gù lưng và những cái bướu vô phương cứu chữa từ miệng những kẻ chưa bao giờ nhìn thấy cậu.
|
"Things are changing in this house, Mr. Roach," said Mrs. Medlock, as she led him up the back staircase to the corridor on to which opened the hitherto mysterious chamber.
"Let's hope they're changing for the better, Mrs. Medlock," he answered.
"They couldn't well change for the worse," she continued; "and queer as it all is there's them as finds their duties made a lot easier to stand up under. Don't you be surprised, Mr. Roach, if you find yourself in the middle of a menagerie and Martha Sowerby's Dickon more at home than you or me could ever be."
|
- Biết bao điều đang đổi thay trong ngôi nhà này, ông Roach ạ. – Bà Medlock bảo khi bà đưa ông lên đoạn cầu thang phía sau dẫn tới cầu thang, từ đó mở thông sang gian phòng ngủ mà cho đến giờ vẫn chìm trong màn bí ẩn.
- Hy vọng mọi thứ đổi thay theo chiều hướng tốt, thưa bà,- ông đáp.
- Không thể xấu đi được,- bà tiếp tục,- và lạ lùng không kém là bọn trẻ đã biết bổn phận của chúng, nên cũng thấy dễ chịu hơn nhiều. Ông đứng có ngạc nhiên, ông Roach, nếu bất chợt nhận thấy mình đang ở giữa một bầy thú, và thấy thằng Dickon em trai Martha ở đó thoải mái như ở nhà, còn hơn cả ông và tôi.
|
There really was a sort of Magic about Dickon, as Mary always privately believed. When Mr. Roach heard his name he smiled quite leniently.
"He'd be at home in Buckingham Palace or at the bottom of a coal mine," he said. "And yet it's not impudence, either. He's just fine, is that lad."
|
Thật sự thì như có một thứ phép lạ gắn liền với cái tên của Dickon như Mary vẫn thầm tin tưởng. Ông Roach vừa nghe tên cậu liền mỉm cười khoan dung.
- Với thằng bé này thì dù có ở Điện Buckingham hay dưới đây hầm than thì cũng như ở nhà thôi,- ông nói. – Nó cũng chưa bao giờ láo xược. Nó là người tốt.
|
It was perhaps well he had been prepared or he might have been startled. When the bedroom door was opened a large crow, which seemed quite at home perched on the high back of a carven chair, announced the entrance of a visitor by saying "Caw--Caw" quite loudly. In spite of Mrs. Medlock's warning, Mr. Roach only just escaped being sufficiently undignified to jump backward.
|
Có thể ông đã chuẩn bị tinh thần hay chính ông cũng bị bất ngờ. Khi cánh cửa phòng ngủ mở ra, một con quạ to tướng, như thể đang ở nhà nó, đậu lên lưng tựa cao của chiếc ghế chạm trổ, loan báo sự có mặt của vị khách bằng cách kêu tướng lên “quạ-quạ”. Dù đã có lời báo trước của bà Medlock, ông Roach vẫn phải cố giữ tư thế chững chạc bằng cách nhảy lùi về phía sau.
|
The young Rajah was neither in bed nor on his sofa. He was sitting in an armchair and a young lamb was standing by him shaking its tail in feeding-lamb fashion as Dickon knelt giving it milk from its bottle. A squirrel was perched on Dickon's bent back attentively nibbling a nut. The little girl from India was sitting on a big footstool looking on.
|
Vị tiểu vương trẻ không nằm trên giường mà cũng không ngã lưng trên sofa. Cậu ta đang ngồi trong ghế bành, con cừu non đứng cạnh ve vẩy đuôi đúng điệu cừu non bú mẹ, trong khi Dickon quỳ giữ chai sữa cho nó. Một con sóc ngồi trên cái lưng khom khom của Dickon đang mải mê nhằn hạt dẻ. Còn con bé đến từ Ấn Độ ngồi trên chiếc ghế đẩu lớn chăm chú nhìn ra.
|
"Here is Mr. Roach, Master Colin," said Mrs. Medlock.
The young Rajah turned and looked his servitor over--at least that was what the head gardener felt happened.
"Oh, you are Roach, are you?" he said. "I sent for you to give you some very important orders."
|
- Thưa cậu Colin, đây là ông Roach,- bà Medlock bảo.
Vị tiểu vương trẻ quay ra nhìn người nô bộc của mình từ đầu đến chân – chí ít đó là điều mà người quản vườn đã nghĩ.
- Ồ, ông Roach đấy à,- nó nói. – Tôi cho gọi ông để giao cho ông mấy việc quan trọng.
|
"Very good, sir," answered Roach, wondering if he was to receive instructions to fell all the oaks in the park or to transform the orchards into water-gardens.
|
- Tốt quá, thưa cậu,- ông Roach đáp lại, tự nhủ không biết có phải mình sắp nhận được lệnh đốn bỏ toàn bộ sồi trong công viên hay chuyển vườn cây ăn quả thành vườn thủy tạ.
|
"I am going out in my chair this afternoon," said Colin. "If the fresh air agrees with me I may go out every day. When I go, none of the gardeners are to be anywhere near the Long Walk by the garden walls. No one is to be there. I shall go out about two o'clock and everyone must keep away until I send word that they may go back to their work."
|
- Tôi định ra ngoài trên ghế của mình vào chiều nay,- Colin bảo,- nếu khí trời hợp với tạng người tôi thì tôi có thể sẽ đi dạo hàng ngày. Mỗi khi tôi đi dạo thì không người làm vườn nào được phép có mặt ở bất kể nơi đâu gần với lối đi dạo ven các bức tường bao quanh khu vườn. Không một ai được phép ở đó. Khoảng hai giờ chiều tôi sẽ ra khỏi nhà và mọi người phải tránh xa cho tới khi tôi bảo rằng họ có thể quay trở về làm việc.
|
"Very good, sir," replied Mr. Roach, much relieved to hear that the oaks might remain and that the orchards were safe. "Mary," said Colin, turning to her, "what is that thing you say in India when you have finished talking and want people to go?"
|
- Dạ, được ạ, thưa cậu,- ông Roach trả lời và cảm thấy nhẹ cả người khi rặng sồi vẫn còn và các vườn cây ăn quả vẫn yên ổn.
- Mary,- Colin vừa nói vừa ngoảnh sang con bé,- ở Ấn Độ người ta nói gì khi họ kết thúc câu chuyện và muốn mọi người đi ra.
|
"You say, `You have my permission to go,'" answered Mary.
The Rajah waved his hand.
"You have my permission to go, Roach," he said. "But, remember, this is very important."
"Caw--Caw!" remarked the crow hoarsely but not impolitely.
|
- Người ta bảo: “Ngươi được phép lui”. – Mary đáp.
Vị tiểu vương vẫy tay ra hiệu. - Ông được phép lui, ông Roach, nhưng cần nhớ rằng việc này rất hệ trọng.
“Quạ- quạ”, con quạ phụ họa bằng giọng khàn khàn cộc cằn, nhưng không hề vô lễ.
|
"Very good, sir. Thank you, sir," said Mr. Roach, and Mrs. Medlock took him out of the room.
Outside in the corridor, being a rather good-natured man, he smiled until he almost laughed.
"My word!" he said, "he's got a fine lordly way with him, hasn't he? You'd think he was a whole Royal Family rolled into one--Prince Consort and all."
|
- Tốt quá, thưa cậu. Cảm ơn cậu,- ông Roach bảo. Rồi bà Medlock đưa ông ra khỏi phòng. Ra tới hành lang, vốn bản chất hiền hậu, ông cứ mỉm cười mãi cho tới khi cười lên thành tiếng.
- Lạy trời! – ông bảo,- cậu ấy có một phong cách quý tộc rất ư tao nhã, phải không? Bà có cho rằng cậu ấy thừa hưởng cả truyền thống Hoàng gia trong người mình, như một vị hoàng tử và gì gì nữa chứ?
|
"Eh!" protested Mrs. Medlock, "we've had to let him trample all over every one of us ever since he had feet and he thinks that's what folks was born for."
"Perhaps he'll grow out of it, if he lives," suggested Mr. Roach.
"Well, there's one thing pretty sure," said Mrs. Medlock. "If he does live and that Indian child stays here I'll warrant she teaches him that the whole orange does not belong to him, as Susan Sowerby says. And he'll be likely to find out the size of his own quarter."
|
- Hứ! – Bà Medlock biểu lộ sự không tán thành. – Chúng ta đã để cho cậu ấy giẫm đạp lên tất cả kể từ khi cậu ấy chập chững biết đi, và cậu ấy quen nghĩ mọi người sinh ra là để như vậy.
- Có thể rồi đây cậu ấy sẽ không còn như thế, nếu cậu ấy còn sống. – ông Roach gợi ý.
- Chà, đó là điều có thể tin được,- bà Medlock nói,- nếu cậu ấy sống và đứa trẻ từ Ấn Độ còn ở đây, tôi cam đoan rằng con bé dạy cậu ta rằng cả quả cam không thuộc về cậu ấy, như bà Susan Sowerby đã ví von. Và đây có vẻ là lúc thích hợp để cậu ấy khám phá xem phần cam của cậy ấy là bao nhiêu.
|
Inside the room Colin was leaning back on his cushions.
"It's all safe now," he said. "And this afternoon I shall see it--this afternoon I shall be in it!"
Dickon went back to the garden with his creatures and Mary stayed with Colin. She did not think he looked tired but he was very quiet before their lunch came and he was quiet while they were eating it. She wondered why and asked him about it.
"What big eyes you've got, Colin," she said. "When you are thinking they get as big as saucers. What are you thinking about now?"
|
Bên trong căn phòng, Colin đang ngồi tựa lưng vào tấm nệm.
- Vì vậy tất cả đều ổn,- nó nói,- chiều nay mình sẽ nhìn thấy nó, chiều nay mình sẽ được ở trong đó.
Dickon trở lại khu vườn cùng với mấy con thú. Mary vẫn ở bên Colin. Con bé không nghĩ Colin đang mệt, nhưng thẳng bé hoàn toàn im lặng trước bữa trưa được dọn ra và suốt thời gian dùng bữa nó vẫn chẳng nói lấy một câu. Mary ngạc nhiên không hiểu tại sao, liền lên tiếng hỏi:
- Colin này, cậu có đôi mắt to thật. Khi cậu đang suy nghĩ điều gì thì trông chúng như hai chiếc đĩa vậy. Lúc này, cậu đang nghĩ gì thế?
|
"I can't help thinking about what it will look like," he answered.
"The garden?" asked Mary.
"The springtime," he said. "I was thinking that I've really never seen it before. I scarcely ever went out and when I did go I never looked at it. I didn't even think about it."
"I never saw it in India because there wasn't any," said Mary.
|
-Tớ không thể không suy nghĩ trông nó sẽ như thế nào,- thằng bé đáp.
- Khu vườn ấy à? – Mary hỏi.
- Mùa xuân! – thằng bé đáp. – Tớ đang tự nhủ trước đây mình chưa bao giờ thực sự thấy nó. Tớ hiếm khi ra bên ngoài, mà hễ có ra thì tớ cũng chẳng thèm đoái hoài tới. Tớ thậm chí còn không nghĩ tới nó nữa kia.
- Tớ chưa bao giờ thấy mùa xuân ở Ấn Độ, bởi vì làm gì có. – Mary nói.
|
Shut in and morbid as his life had been, Colin had more imagination than she had and at least he had spent a good deal of time looking at wonderful books and pictures.
|
Sống khép kín và bệnh hoạn, Colin thậm chí còn tưởng tượng nhiều hơn cả con bé. Ít nhất, nó cũng đã dành khá nhiều thời gian cho những cuốn sách và những bức tranh đẹp đẽ.
|
"That morning when you ran in and said `It's come! It's come!, you made me feel quite queer. It sounded as if things were coming with a great procession and big bursts and wafts of music. I've a picture like it in one of my books--crowds of lovely people and children with garlands and branches with blossoms on them, everyone laughing and dancing and crowding and playing on pipes. That was why I said, `Perhaps we shall hear golden trumpets' and told you to throw open the window."
|
- Sáng nay, khi cậu chạy vào và bảo: “Nó đến rồi! Nó đến rồi!”, cậu khiến tớ cảm thấy hết sức kỳ lạ. Câu ấy vang lên như báo hiệu đang đến với đám rước linh đình đang tiến lại cùng những âm thanh huyên náo tuôn trào, lẫn trong tiếng nhạc. Tớ đã thấy một bức tranh như thế trong một quyển sách: đám đông những con người đáng yêu cùng bầy trẻ nhò đeo các tràng hoa, tay cầm nhành hoa, ai nấy nói cười, nhảy múa, tụ tập, thổi sáo. Đó là lý do tại sao mà tớ bảo, “Biết đâu chúng mình sẽ được nghe tiếng kèn trumpet bằng vàng”, và giục cậu mở toang cửa sổ ra.
|
"How funny!" said Mary. "That's really just what it feels like. And if all the flowers and leaves and green things and birds and wild creatures danced past at once, what a crowd it would be! I'm sure they'd dance and sing and flute and that would be the wafts of music."
|
-Vui quá nhỉ! – Mary nói. – Đó đúng là những gì mà người ta có thể cảm thấy. Và nếu như tất cả hoa lá, cây cỏ, chim chóc và muông thú hoang dại cùng một lúc nhảy múa reo ca thì là cả một đám đông rồi còn gì! Tớ dám chắc rằng nếu chúng cùng nhảy nhót, ca hát và líu lo thì chắc hẳn sẽ làm nên bản hòa tấu tuyệt vời.
|
They both laughed but it was not because the idea was laughable but because they both so liked it.
A little later the nurse made Colin ready. She noticed that instead of lying like a log while his clothes were put on he sat up and made some efforts to help himself, and he talked and laughed with Mary all the time.
|
Cả hai đứa cất tiếng cười, không phải bởi ý tưởng buồn cười, mà bởi chúng đều thấy thích cảnh tượng đó vô cùng. Chỉ một lát sau, cô bảo mẫu đã sửa soạn xong cho Colin. Cô nhận thấy thay vì cứ nằm ì như một khúc gỗ trong khi mặc quần áo thì hôm nay nó ngồi ngay dậy và gắng tự mình mặc lấy, trong suốt thời gian đó vẫn luôn mồm cười nói với Mary.
|
"This is one of his good days, sir," she said to Dr. Craven, who dropped in to inspect him. "He's in such good spirits that it makes him stronger."
"I'll call in again later in the afternoon, after he has come in," said Dr. Craven. "I must see how the going out agrees with him. I wish," in a very low voice, "that he would let you go with him."
|
- Đây là một trong những ngày vui vẻ của cậu ấy, thưa ngài,- cô nói với bác sĩ Craven vừa tạt qua để kiểm tra tình trạng thằng bé. – Cậu nhà tinh thần thoải mái nên khỏe khoắn hẳn ra.
- Tôi sẽ ghé lại lần nữa vào buổi chiều, sau khi cậu ấy vào trong nhà,- bác sĩ Craven bảo,- Tôi phải xem việc ra ngoài có thích hợp với cậu ấy không. Tôi mong rằng,- ông hạ thấp giọng,- cậu ta để cô đi cùng.
|
"I'd rather give up the case this moment, sir, than even stay here while it's suggested," answered the nurse. With sudden firmness.
"I hadn't really decided to suggest it," said the doctor, with his slight nervousness. "We'll try the experiment. Dickon's a lad I'd trust with a new-born child."
|
-Trong trường hợp này tôi thà từ chối ngay từ bây giờ, thưa ngài, còn hơn ở lại nghe theo lời gợi ý của ngài,- cô bảo mẫu đáp lại thẳng thừng.
- Quả tình tôi không định đưa ra gợi ý đó,- bác sĩ trả lời, vẻ hơi thiếu quyết đoán. – Chúng ta cứ thử nghiệm xem sao. Dickon là một anh bạn trẻ mà tôi hoàn toàn tin tưởng.
|
The strongest footman in the house carried Colin down stairs and put him in his wheeled chair near which Dickon waited outside. After the manservant had arranged his rugs and cushions the Rajah waved his hand to him and to the nurse.
"You have my permission to go," he said, and they both disappeared quickly and it must be confessed giggled when they were safely inside the house.
|
Người hầu lực lưỡng nhất trong nhà đã bế Colin xuống tầng dưới, đặt nó vào chiếc xe lăn, gần chỗ Dickon đang đứng đợi bên ngoài. Sau khi anh ta sắp lại tấm mền đắp lên đầu gối và tấm nệm của nó cho ngay ngắn, vị tiểu vương khoát tay bảo bác sĩ và cô bảo mẫu:
-Các vị có thể lui.
Hai người nhanh chóng biến mất. Cũng phải thú thật rằng họ đã khúc khích cười với nhau khi vào đến trong nhà.
|
Dickon began to push the wheeled chair slowly and steadily. Mistress Mary walked beside it and Colin leaned back and lifted his face to the sky. The arch of it looked very high and the small snowy clouds seemed like white birds floating on outspread wings below its crystal blueness. The wind swept in soft big breaths down from the moor and was strange with a wild clear scented sweetness. Colin kept lifting his thin chest to draw it in, and his big eyes looked as if it were they which were listening--listening, instead of his ears.
|
Dickon bắt đầu đẩy chiếc xe lăn một cách chậm rãi, chắc chắn. Cô chủ Mary đi bên cạnh xe, Colin ngồi tựa lưng và ngẩng mặt nhìn bầu trời. Vòm trời cao vời vợi, mấy đám mây nhỏ trắng xóa như tuyết nom tựa một bầy chim trắng đang lững lờ sải cánh trên bầu trời xanh trong như pha lê. Làn gió từ cánh đồng hoang thổi tới, thoang thoảng hương thơm ngào ngạt, tinh khôi và hoang sơ. Colin rướn bộ ngực mảnh khảnh hít lấy hít để, lúc này đôi mắt của nó trông như thể đang căng ra lắng nghe, thay cho đôi tai.
|
"There are so many sounds of singing and humming and calling out," he said. "What is that scent the puffs of wind bring?"
"It's gorse on th' moor that's openin' out," answered Dickon. "Eh! th' bees are at it wonderful today."
|
-Có bao tiếng hát ca, ríu rít và gọi mời quanh ta,- Colin nói,- Mùi hương gì gió vừa đưa tới thế?
- Đó là mùi hoa kim tước đang nở rộ ngoài đồng,- Dickon trả lời,- Ôi! Ong bay ra nhiều thế này thì hôm nay trời đẹp lắm.
|
Not a human creature was to be caught sight of in the paths they took. In fact every gardener or gardener's lad had been witched away. But they wound in and out among the shrubbery and out and round the fountain beds, following their carefully planned route for the mere mysterious pleasure of it. But when at last they turned into the Long Walk by the ivied walls the excited sense of an approaching thrill made them, for some curious reason they could not have explained, begin to speak in whispers.
|
Trên các nẻo đường mòn chúng đi không có lấy một bóng người nào. Thực ra đám làm vườn đã được dặn dò phải tránh đi chỗ khác. Nhưng chúng vẫn lẩn qua lẩn lại giữa các đám cây bụi, rồi lại ló ra và đi vòng qua các luống hoa. Rốt cuộc, khi bọn trẻ rẽ vào lối đi dạo bên mấy bức tường cao phủ đầy dây thường xuân, cái cảm giác phấn khích trước nỗi xúc động đang tới gần khiến chứng, vì một lý do kỳ lạ nào đó mà chúng không thể giải thích nổi, bắt đầu mở miệng thì thào với nhau.
|
"This is it," breathed Mary. "This is where I used to walk up and down and wonder and wonder." "Is it?" cried Colin, and his eyes began to search the ivy with eager curiousness. "But I can see nothing," he whispered. "There is no door."
"That's what I thought," said Mary.
Then there was a lovely breathless silence and the chair wheeled on.
"That is the garden where Ben Weatherstaff works," said Mary.
"Is it?" said Colin.
|
- Đây là,- Mary nói qua hơi thở. – Đây là nơi tớ thường đi tới đi lui và luôn băn khoăn suy nghĩ.
-Thế hả? – Colin khẽ kêu và đưa mắt nhìn đám dây thường xuân với nỗi tò mo háo hức. – Nhưng tớ chẳng thấy gì hết,- nó thì thầm. – Không có lấy một cánh cửa.
- Đó chính là điều đã khiến tớ suy nghĩ,- Mary nói. Xung quanh im phăng phắc, không cả tiếng thở nhẹ, chiếc xe lại lăn bánh.
- Kìa là khu vươn nơi ông Ben Wealtherstaff làm việc. – Mary bảo.
- Thật hả? – Colin nói.
|
A few yards more and Mary whispered again.
"This is where the robin flew over the wall," she said.
"Is it?" cried Colin. "Oh! I wish he'd come again!"
"And that," said Mary with solemn delight, pointing under a big lilac bush, "is where he perched on the little heap of earth and showed me the key."
Then Colin sat up.
"Where? Where? There?" he cried, and his eyes were as big as the wolf's in Red Riding-Hood, when Red Riding-Hood felt called upon to remark on them. Dickon stood still and the wheeled chair stopped.
|
Thêm mấy bước nữa, Mary lại thì thầm. - Còn đây là nơi con chim ức đỏ hay bay qua bức tường,- con bé nói.
-Thật chứ? – Colin kêu toáng lên.– Ôi! Ước gì nó trở lại!
- Và kia,- Mary nói với vẻ trang trọng xen lẫn thích thú, chỉ tay vào dưới bụi tử đinh hương( cây bụi có hoa màu tím nhạt hoặc trắng , mùi thơm dễ chịu) lớn- chính là nơi nó đậu trên một đống đất nhỏ mà chỉ cho tớ chiếc chìa khóa.
Thế là Colin nhỏm hẳn người lên.
- Đâu? Đâu? Chỗ đó hả? – Thằng bé kêu lên, đôi mắt mở thao láo như mắt sói.
Dickon đứng lặng yên, chiếc xe đẩy cũng dừng bánh.
|
"And this," said Mary, stepping on to the bed close to the ivy, "is where I went to talk to him when he chirped at me from the top of the wall. And this is the ivy the wind blew back," and she took hold of the hanging green curtain.
"Oh! is it--is it!" gasped Colin.
"And here is the handle, and here is the door. Dickon push him in--push him in quickly!"
And Dickon did it with one strong, steady, splendid push.
|
- Còn đây,- Mary nói, nó rón rén bước tới luống hoa gần đám dây thường xuân,- là nơi tớ nói chuyện với nó khi nó từ trên bờ tường kia hót vọng xuống. Chỗ này là đám dây thường xuân bị gió thổi lật lên,- nói đoạn con bé đưa tay vén tấm rèm màu xanh đang buông rủ xuống.
- Ôi! Thế sao! – Colin thở hổn hển.
- Và đây, cái tay nắm, còn đây là cánh cửa ra vào. Dickon, đẩy cậu ấy vào trong đi, đẩy cậu ấy vào trong nhanh lên!
Dickon ra tay bằng một cú đẩy mạnh, chắc và hết sức tuyệt.
|
But Colin had actually dropped back against his cushions, even though he gasped with delight, and he had covered his eyes with his hands and held them there shutting out everything until they were inside and the chair stopped as if by magic and the door was closed. Not till then did he take them away and look round and round and round as Dickon and Mary had done.
|
Colin buông phịch người tựa vào tấm đệm, thở hổn hển vì sung sướng, nó đưa tay bưng kín mắt để không thấy gì cho tới khi cả ba đã vào tới bên trong, chiếc xe dừng khựng lại như được điều khiển bởi phép thuật và cánh cửa khép lại sau lưng. Chỉ đến khi đó nó mới bỏ tay ra và nhìn quanh một lượt, như Dickon và Mary trước đây đã từng làm.
|
And over walls and earth and trees and swinging sprays and tendrils the fair green veil of tender little leaves had crept, and in the grass under the trees and the gray urns in the alcoves and here and there everywhere were touches or splashes of gold and purple and white and the trees were showing pink and snow above his head and there were fluttering of wings and faint sweet pipes and humming and scents and scents.
|
Và trên bức tường, đất đai, cây cối cùng những cánh nhánh mềm mại đang đung đưa trong gió là cả một tấm mạng màu xanh tuyệt đẹp do ngàn vạn chiếc lá nhỏ xíu mềm mại dệt thành đang phủ kín khắp nơi; trên bãi cỏ dưới bóng cây, nơi các bình xám trong hốc tường, chỗ này chỗ kia, hết thảy đều rực lên những đốm hoa màu vàng, tím, trắng; và những cây cao cũng đang khoe những đóa hoa màu phớt hồng và màu trắng như tuyết ngay trên đầu thằng bé; rồi thì tiếng vỗ cánh đầy xao xuyến của chú chim nào đó và tiếng líu lo ngọt ngào mơ hồ, tiếng vo ve cùng muôn vàn mùi hương.
|
And the sun fell warm upon his face like a hand with a lovely touch. And in wonder Mary and Dickon stood and stared at him. He looked so strange and different because a pink glow of color had actually crept all over him--ivory face and neck and hands and all.
|
Vầng dương buông những tia nắng ấm áp lên khuôn mặt Colin giống như có một bàn tay mơn man dịu dàng. Trong ánh mắt kinh ngạc, Mary và Dickon sững người đăm đắm nhìn nó. Thằng bé trông thật lạ lùng và hoàn toàn khác trước bởi sắc diện ửng hồng lan dần trên toàn bộ cơ thể nó- từ khuôn mặt trắng ngà cho đến cổ, hai bàn tay và tất cả.
|
"I shall get well! I shall get well!" he cried out. "Mary! Dickon! I shall get well! And I shall live forever and ever and ever!"
|
-Tớ sẽ khỏe! Tớ sẽ khỏe! – Nó gào to. – Mary! Dickon! Tớ sẽ khỏe mạnh! Và tớ sẽ sống mãi mãi!
|
Translated by nguyen tuan khanh
| |
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn