CHAPTER 25
Chapter XXV: THE CURTAIN
| Chương 25: BứC MÀNH |
And the secret garden bloomed and bloomed and every morning revealed new miracles. In the robin's nest there were Eggs and the robin's mate sat upon them keeping them warm with her feathery little breast and careful wings. At first she was very nervous and the robin himself was indignantly watchful.
| Muôn vàn đóa hoa đang nở rộ trong khu vườn bí mật và cứ mỗi sớm mai qua đi, những phép mầu mới lại lộ ra. Trong tổ của chim ức đỏ đã thấy mấy quả trứng con con, com mái đang nằm ấp bên trên chúng, giữ cho trứng được ấm bằng cái ngực nhỏ xíu đầy lông mịn và đôi cánh cẩn trọng của nó. Lúc đầu nom nó cũng có vẻ lúng túng lắm, khiến chim ức đỏ chồng phải trông chừng mọi người với vẻ bực bội.
|
Even Dickon did not go near the close-grown corner in those days, but waited until by the quiet working of some mysterious spell he seemed to have conveyed to the soul of the little pair that in the garden there was nothing which was not quite like themselves--nothing which did not understand the wonderfulness of what was happening to them--the immense, tender, terrible, heart-breaking beauty and solemnity of Eggs.
| Trong mấy ngày đó, ngay cả Dickon cũng không dám đến gần cái góc kín đáo của chúng như mọi bữa, mà chỉ chờ đợi cho tới khi bằng vài câu thần chú thầm lặng, nó dường như nhắn nhủ tới đôi sinh linh bé nhỏ kia rằng không một sinh vật nào trong khu vườn lại không đồng cảm với chúng. Không một ai là không thấu hiểu điều kỳ diệu đang xảy ra đến với chúng: vẻ đẹp mênh mông, dịu dàng, ghê gớm, trang nghiêm và nao lòng của Trứng.
|
If there had been one person in that garden who had not known through all his or her innermost being that if an Egg were taken away or hurt the whole world would whirl round and crash through space and come to an end--if there had been even one who did not feel it and act accordingly there could have been no happiness even in that golden springtime air. But they all knew it and felt it and the robin and his mate knew they knew it.
| Nếu như có một ai đó trong vườn này không thấu hiểu đến tận cùng tâm can, rằng nếu một quả trứng bị lấy đi hoặc bị đập vỡ thì cả trái đất này sẽ quay cuồng, lao bắn vào khoảng không vũ trụ để mà đi đến chỗ hủy diệt – nếu như có kẻ mà không cảm nhận được điều đó mà cư xử cho phải lẽ thì kẻ đó sẽ không bao giờ có được hạnh phúc, dù đang giữa tiết xuân rạng rỡ. Nhưng may thay, bọn trẻ hiểu và cảm nhận được, chim ức đỏ và bạn đời của nó cũng biết rằng chúng hiểu.
|
At first the robin watched Mary and Colin with sharp anxiety. For some mysterious reason he knew he need not watch Dickon. The first moment he set his dew-bright black eye on Dickon he knew he was not a stranger but a sort of robin without beak or feathers.
| Thoạt đầu, chim ức đỏ nhìn Mary và Colin hồi lâu với vẻ lo lắng. Vì một lý do bí ẩn nào đó, nó hiểu rằng nó không phải e ngại Dickon. Lần đầu tiên hướng đôi mắt đen láy như hạt huyền vào Dickon, nó đã biết rằng thằng bé không phải kẻ lạ mặt.
|
He could speak robin (which is a quite distinct language not to be mistaken for any other). To speak robin to a robin is like speaking French to a Frenchman. | Dickon có thể nói được ngôn ngữ của chim ức đỏ. Nói giọng chim ức đỏ với một con chim ức đỏ cũng tựa như nói tiếng Pháp với một người Pháp vậy (và nó là một ngôn ngữ riêng, không lẫn vào đâu được).
|
Dickon always spoke it to the robin himself, so the queer gibberish he used when he spoke to humans did not matter in the least. The robin thought he spoke this gibberish to them because they were not intelligent enough to understand feathered speech. His movements also were robin. They never startled one by being sudden enough to seem dangerous or threatening. Any robin could understand Dickon, so his presence was not even disturbing.
| Dickon thường dùng ngôn ngữ ấy để nói riêng với chim, cho nên những tiếng linh tinh kỳ quặc mà nó nói với con người cũng chẳng ảnh hưởng chút nào. Chim ức đỏ cho rằng thằng bé nói những tiếng linh tinh với với họ cũng phải thôi bởi họ đâu đủ thông minh để hiểu ngôn ngữ loài chim. Mỗi cử động của Dickon cũng lựa theo đôi chim. Chúng chưa bao giờ phải bất ngờ giật mình bởi hiểm nguy hay một mối đe dọa nào đó. Bất kỳ con chim ức đỏ nào cũng hiểu thằng Dickon, nên sự có mặt của nó không làm chúng e ngại.
|
But at the outset it seemed necessary to be on guard against the other two. In the first place the boy creature did not come into the garden on his legs. He was pushed in on a thing with wheels and the skins of wild animals were thrown over him. That in itself was doubtful. Then when he began to stand up and move about he did it in a queer unaccustomed way and the others seemed to have to help him. The robin used to secrete himself in a bush and watch this anxiously, his head tilted first on one side and then on the other. He thought that the slow movements might mean that he was preparing to pounce, as cats do. When cats are preparing to pounce they creep over the ground very slowly. The robin talked this over with his mate a great deal for a few days but after that he decided not to speak of the subject because her terror was so great that he was afraid it might be injurious to the Eggs.
| Hồi đầu, chúng cũng cảnh giác trước hai đứa bé kia. Đầu tiên là một thằng bé vào vườn không phải bằng đôi chân của nó. Nó được đẩy đi trên một vật gì đó có hai chiếc bánh tròn tròn, trên người phủ mấy tấm lông thú gớm ghiếc. Riêng việc ấy thôi cũng đủ đáng ngờ rồi. Đã thế khi nó đứng dậy và bước đi thì cũng với cái cách khác thường, chẳng giống ai, và mấy đứa kia phải giúp đỡ nó. Chim ức đỏ thường ẩn mình trong một bụi cây mà theo dõi cảnh tượng ấy một cách lo âu, cái đầu nó nghiêng ngó hết bên này lại bên kia. Nó cho rằng những chuyển động chậm chạp ấy cho thấy thằng bé sắp vồ nó đến nơi, như bọn mèo đáng ghét. Hễ khi nào bọn mèo chuẩn bị vồ cái gì, chúng thường trườn sát mặt đất thật chậm rãi. Có tới vài ngày, chim ức đỏ đem kể chuyện này với bạn đời của nó, nhưng sau đó nó quyết định không nhắc tới nữa bởi con mái hãi hùng đến nỗi nó lo điều đó có thể làm hại ổ trứng đang ấp. |
When the boy began to walk by himself and even to move more quickly it was an immense relief. But for a long time--or it seemed a long time to the robin--he was a source of some anxiety. He did not act as the other humans did. He seemed very fond of walking but he had a way of sitting or lying down for a while and then getting up in a disconcerting manner to begin again.
| Khi thằng bé bắt đầu tự đi lại được, thậm chí mỗi lúc một nhanh hơn, chim ức đỏ mới như trút bỏ được gánh nặng. Nhưng trong suốt một thời gian dài, hay ít ra cũng dài với chim ức đỏ, thằng bé đó là nguồn cơn nỗi lo lắng bồn chồn của nó. Thằng bé đó không hành động như những con người khác. Nó có vẻ thích đi lại lắm thì phải, nhưng chốc chốc lại ngồi xuống hoặc nằm kềnh ra một lúc rồi mới bò dậy với vẻ bối rối để làm lại từ đầu.
|
One day the robin remembered that when he himself had been made to learn to fly by his parents he had done much the same sort of thing. He had taken short flights of a few yards and then had been obliged to rest. So it occurred to him that this boy was learning to fly--or rather to walk. He mentioned this to his mate and when he told her that the Eggs would probably conduct themselves in the same way after they were fledged she was quite comforted and even became eagerly interested and derived great pleasure from watching the boy over the edge of her nest--though she always thought that the Eggs would be much cleverer and learn more quickly. But then she said indulgently that humans were always more clumsy and slow than Eggs and most of them never seemed really to learn to fly at all. You never met them in the air or on tree-tops.
| Cho tới một ngày nọ, chim ức đỏ nhớ ra hồi nó được bố mẹ dạy bay, nó cũng phải học những động tác tương tự. Thoạt đầu họ học bay những quãng ngắn rồi nghỉ lấy sức. Trong đầu nó lóe lên ý nghĩ rằng thằng bé đang học bay… hay đúng hơn là học đi. Nó bèn kể điều đó cho bạn đời nghe, và lúc nó bảo với con mái rằng Trứng của mình cũng sẽ phải tập tành như vậy khi đã được nuôi nấng cho cứng cáp lên, thì con mái mới hoàn toàn yên tâm, thậm chí nó còn trở nên tò mò háo hức và tìm thấy niềm vui trong việc quan sát thằng bé ngay dưới tổ của nó, dù trong thâm tâm nó luôn cho rằng các con nó rồi đây sẽ thông minh và giỏi giang hơn thế. Nhưng nó cũng tự nhủ với vẻ bao dung rằng con người thường vụng về và chậm chạp hơn lũ chim non, bọn họ chưa bao giờ thực sự biết bay. Ta chưa từng thấy họ trong không gian hay trên các ngọn cây. |
After a while the boy began to move about as the others did, but all three of the children at times did unusual things. They would stand under the trees and move their arms and legs and heads about in a way which was neither walking nor running nor sitting down. They went through these movements at intervals every day and the robin was never able to explain to his mate what they were doing or tying to do. He could only say that he was sure that the Eggs would never flap about in such a manner; but as the boy who could speak robin so fluently was doing the thing with them, birds could be quite sure that the actions were not of a dangerous nature. | Chẳng bao lâu sau, thằng bé đã có thể đi đứng bình thường như bao đứa trẻ khác, chỉ có điều cả ba lúc này làm những việc chẳng bình thường chút nào. Chúng đứng dưới mấy tán cây rồi cử động tay, chân, đầu theo cái lối nom chẳng ra đi, chẳng ra chạy, cũng chẳng ra ngồi. Chúng tiến hành các động tác ấy vào những lúc xen kẽ trong ngày, và chim ức đỏ không tài nào giải thích nổi cho con mái xem chúng đang làm gì. Nó chỉ có thể cam đoan với vợ rằng đừng sợ bọn Trứng của mình cũng bắt chước rồi đập cánh bay đi mất. Thấy thằng bé thông thạo tiếng chim cũng đang tập cùng với chúng, đôi chim càng yên tâm rằng mấy cử động kia chẳng hề nguy hiểm.
|
Of course neither the robin nor his mate had ever heard of the champion wrestler, Bob Haworth, and his exercises for making the muscles stand out like lumps. Robins are not like human beings; their muscles are always exercised from the first and so they develop themselves in a natural manner. If you have to fly about to find every meal you eat, your muscles do not become atrophied (atrophied means wasted away through want of use).
| Dĩ nhiên, cả con chim ức đỏ lẫn bạn đời của nó đâu biết gì về nhà vô địch môn vật Bob Haworth cùng các bài tập cơ bắp của anh ta. Loài chim ức đỏ chẳng có gì giống với con người; ngay từ những ngày đầu đời thì cơ bắp của chúng đã luôn phải luyện tập rồi, và chúng tự phát triển theo một phong cách tự nhiên nhất. Nếu ta phải tự bay đi kiếm ăn như chúng, chắc hẳn các cơ bắp của con người cũng không đến nỗi teo mòn.
|
When the boy was walking and running about and digging and weeding like the others, the nest in the corner was brooded over by a great peace and content. Fears for the Eggs became things of the past. Knowing that your Eggs were as safe as if they were locked in a bank vault and the fact that you could watch so many curious things going on made setting a most entertaining occupation. On wet days the Eggs' mother sometimes felt even a little dull because the children did not come into the garden.
| Khi thằng bé đã đi lại, chạy nhảy, đào xới và gieo trồng như mấy đứa kia thì chiếc tổ chim trong góc vườn đắm chìm trong một bầu không khí vô cùng thanh binh và mãn nguyện. Mọi nỗi lo sợ cho sự an nguy của mấy quả trứng nay đã lùi vào dĩ vãng. Giờ đây nó tin chắc rằng bọn Trứng đã được an toàn như thể được khóa kỹ trong một hầm két nhà băng, và sự thực mà nói, việc chứng kiến những chuyện kỳ cục đang diễn ra trước mắt lại là một việc bận rộn thú vị nhât đối với nó. Vào những ngày ẩm ướt, chim mẹ thậm chí còn cảm thấy hơi buồn vì bọn trẻ không đến chơi khu vườn.
|
But even on wet days it could not be said that Mary and Colin were dull. One morning when the rain streamed down unceasingly and Colin was beginning to feel a little restive, as he was obliged to remain on his sofa because it was not safe to get up and walk about, Mary had an inspiration.
| Nhưng đối với Mary và Colin kể cả trong những ngày ẩm ướt cũng không thể bảo rằng chúng rầu rĩ. Một buổi sáng trời mưa dai dẳng không dứt, Colin bắt đầu thấy bồn chồn vì cứ phải nằm lì trên xô pha. Nhưng lúc này mà ra ngoài kia thì chẳng an toàn chút nào. Mary bỗng nảy ra một ý.
|
"Now that I am a real boy," Colin had said, "my legs and arms and all my body are so full of Magic that I can't keep them still. They want to be doing things all the time. Do you know that when I waken in the morning, Mary, when it's quite early and the birds are just shouting outside and everything seems just shouting for joy--even the trees and things we can't really hear--I feel as if I must jump out of bed and shout myself. If I did it, just think what would happen!"
| - Giờ đây tớ đã trở thành một chàng trai thực sự, - Colin bảo, - Chân, tay và cả cơ thể tớ tràn ngập một thứ phép màu mà tớ không tài nào kiềm chế được. Lúc nào tớ cũng muốn làm một cái gì đó. Mary, cậu có biết không, sáng nay tớ thức dậy trời mới hé rạng, ngoài kia chim chóc đã ríu rít gọi nhau và muôn loài dường như muốn cất tiếng hò reo vì vui sướng, cả cây cối và các vật vô tri vô giác cũng thế. Tớ chỉ muốn nhảy bổ ra khỏi giường mà gào lên. Những chỉ e một nỗi, nếu tớ mà làm vậy thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra!
|
Mary giggled inordinately. "The nurse would come running and Mrs. Medlock would come running and they would be sure you had gone crazy and they'd send for the doctor," she said. Colin giggled himself. He could see how they would all look--how horrified by his outbreak and how amazed to see him standing upright.
| Mary cười khúc khích ranh mãnh. - Nếu thì cô bảo mẫu và bà Medlock sẽ đâm bổ tới ngay, họ sẽ quả quyết rằng cậu lại phát rồ và ngay lập tức cho mời ông bác sĩ. Colin cũng cười theo. Nó có thể hình dung rõ ràng mặt mũi từng người vào lúc ấy – họ sẽ hoảng hốt ra sao trước cơn bộc phát của nó và sững sờ thế nào khi tận mắt thấy nó đứng thẳng tắp.
|
"I wish my father would come home," he said. "I want to tell him myself. I'm always thinking about it--but we couldn't go on like this much longer. I can't stand lying still and pretending, and besides I look too different. I wish it wasn't raining today." It was then Mistress Mary had her inspiration.
| - Tớ ước gì cha tớ sớm trở về. Tớ muốn tự mình nói để ông ấy hay. Lúc nào tớ cũng nghĩ đến giây phút đó. Nhưng chúng ta không thể tiếp tục lâu hơn được nữa. Tớ không thể chịu nổi cứ phải nằm lì như thế này mà giả bộ nọ kia. Vả lại, giờ tớ trông khác hẳn trước. Ứơc gì hôm nay trời đừng có mưa. Chính lúc ấy cô chủ Mary nảy ra một ý hay.
|
"Colin," she began mysteriously, "do you know how many rooms there are in this house?" "About a thousand, I suppose," he answered. "There's about a hundred no one ever goes into," said Mary. "And one rainy day I went and looked into ever so many of them. No one ever knew, though Mrs. Medlock nearly found me out. I lost my way when I was coming back and I stopped at the end of your corridor. That was the second time I heard you crying." Colin started up on his sofa.
| - Colin này, - con bé mào đầu với vẻ đầy bí ẩn, - cậu có biết trong ngôi nhà này có bao nhiêu căn phòng không? - Tớ đoán chừng một ngàn. - Trong đó có khoảng một trăm căn phòng mà chưa hề có ai lui tới, - Mary bảo, - Vào một ngày mưa gió, tớ đã đi và ngó rất nhiều phòng trong số đó. Không một ai hay biết, mặc dù bà Medlock gần như đã phát hiện ra tớ. Tớ đã lạc đường vào đúng lúc quay trở lại, và tớ dừng chân ở cuối hành lang dẫn đến phòng cậu. Đó chính là lần thứ hai tớ nghe thấy cậu khóc. Colin ngồi bật dậy trên sô pha.
|
"A hundred rooms no one goes into," he said. "It sounds almost like a secret garden. Suppose we go and look at them. Wheel me in my chair and nobody would know we went."
| - Một trăm căn phòng chưa hề có người lui tới! – Nó thốt lên. – Nghe cứ như lại có một khu vườn bí mật nữa ấy. Tớ cho rằng ta nên tới đó xem sao. Cậu nên đẩy xe giúp tớ và không ai biết chúng mình đi đâu.
|
"That's what I was thinking," said Mary. "No one would dare to follow us. There are galleries where you could run. We could do our exercises. There is a little Indian room where there is a cabinet full of ivory elephants. There are all sorts of rooms." "Ring the bell," said Colin.
| - Đó chính là điều tớ đang nghĩ, - Mary bảo – Không kẻ nào dám cả gan đi theo chúng ta. Có bao nhiêu phòng tranh mà cậu cần tham quan. Chúng mình còn có thể tập thể dục luôn. Mà này, có cả một căn phòng bài trí theo kiểu Ấn Độ, trong đó có một cái giá treo đầy những con voi làm từ ngà voi đấy. Thôi thì đủ các loại phòng! - Rung chuông đi, - Colin bảo.
|
When the nurse came in he gave his orders. "I want my chair," he said. "Miss Mary and I are going to look at the part of the house which is not used. John can push me as far as the picture-gallery because there are some stairs. Then he must go away and leave us alone until I send for him again."
| Chờ cô bảo mẫu bước vào, nó ra lệnh. - Tôi cần chiếc xe đẩy. Cô Mary và tôi định đi thăm nom phần nhà chưa sử dụng đến. Anh John có để đẩy xe cho tôi tới các phòng trưng bày tranh, bởi vì muốn tới đó phải qua mấy cầu thang. Tới nơi rồi anh ta cứ việc đi, để chúng tôi một mình cho tới khi tôi cho gọi anh ta.
|
Rainy days lost their terrors that morning. When the footman had wheeled the chair into the picture-gallery and left the two together in obedience to orders, Colin and Mary looked at each other delighted. As soon as Mary had made sure that John was really on his way back to his own quarters below stairs, Colin got out of his chair.
| Những ngày mưa gió đã chằng còn đáng sợ nữa trong buổi sáng hôm ấy. Khi người hầu đã đẩy chiếc xe vào giữa phòng tranh, rồi để hai đứa lại đúng như lệnh, Colin và Mary đưa mắt nhìn nhau đầy sung sướng. Đợi Mary chắc chắc John đã về tới chốn ăn ở của anh ra dưới tầng trệt xong, Colin bèn đứng phắt dậy khỏi chiếc xe đẩy.
|
"I am going to run from one end of the gallery to the other," he said, "and then I am going to jump and then we will do Bob Haworth's exercises." And they did all these things and many others. They looked at the portraits and found the plain little girl dressed in green brocade and holding the parrot on her finger.
| - Tớ định bắt đầu lần lượt hết phòng này rồi sang các phòng khác, - thằng bé nói, - sau đó tớ sẽ nhảy và ta cùng làm mấy động tác thể dục của Bob Haworth chơi. Chúng thực hiện ngay những điều vừa nói cùng nhiều việc khác nữa. Khi ngắm các bức tranh chân dung, chúng phát hiện ra bức vẽ một đứa bé gái xấu xí trong bộ y phục gấm thêu kim tuyến màu xanh và đang nâng con vẹt trên ngón tay nó.
|
"All these," said Colin, "must be my relations. They lived a long time ago. That parrot one, I believe, is one of my great, great, great, great aunts. She looks rather like you, Mary--not as you look now but as you looked when you came here. Now you are a great deal fatter and better looking." "So are you," said Mary, and they both laughed.
| - Người trong tất cả các bức chân dung này, - Colin bảo – chắc phải bà con họ hàng với tớ. Họ sống cách đây lâu lắm rồi. Người nâng trên tay con vẹt kia, tớ tin rằng là một trong những cụ kị tằng tổ tám đời nhà tớ. Cô ấy nom giống cậu thật đấy, Mary ạ, - nhưng không phải cậu bây giờ, mà là hôm mới đến đây kia. Bây giờ trông cậu khá hơn, xinh hơn. - Cậu cũng vậy, - Mary đáp, cả hai cùng bật cười.
|
They went to the Indian room and amused themselves with the ivory elephants. They found the rose-colored brocade boudoir and the hole in the cushion the mouse had left, but the mice had grown up and run away and the hole was empty. They saw more rooms and made more discoveries than Mary had made on her first pilgrimage. They found new corridors and corners and flights of steps and new old pictures they liked and weird old things they did not know the use of. It was a curiously entertaining morning and the feeling of wandering about in the same house with other people but at the same time feeling as if one were miles away from them was a fascinating thing.
| Chúng bước vào căn phòng bài trí theo lối Ấn Độ và tỏ ra thích thú với bầy voi làm bằng ngà. Chúng phát hiện ra một phòng the có chăng tấm gấm thêu kim tuyến màu hồng, và tấm đệm bị chuột cắn thủng, lũ chuột giờ đã sinh sôi nảy nở và chạy tứ tung, còn cái lỗ thủng thì trống hoác. Chúng thấy nhiều phòng, phát hiện ra nhiều thứ hơn những gì Mary tìm thấy trong lần thăm đầu tiên. Chúng thấy những hành lang mới với những khúc ngoặt và dãy bậc thang giữa hai tầng nhà, cả những bức tranh cổ mà lần trước Mary chưa từng thấy, chưa kể đến rất nhiều thứ đồ cổ kỳ quái không biết dùng vào việc gì. Đó là một buổi sáng thú vị lạ lùng và cảm giác vừa được lang thang với những người lạ trong cùng ngôi nhà vừa cảm thấy giữa chúng với họ là nghìn trùng xa cách, quả là một điều hấp dẫn.
|
"I'm glad we came," Colin said. "I never knew I lived in such a big queer old place. I like it. We will ramble about every rainy day. We shall always be finding new queer corners and things."
| - Tớ rất vui vì chúng mình đã đến đây, - Colin bảo, - tớ không ngờ mình lại sống trong một tòa nhà đồ sộ, lạ lùng và cổ kính đến thế. Nhưng tớ thích nó. Từ giờ, hễ hôm nào mưa thì ta lại đi loanh quanh nhé. Thể nào ta cũng tìm ra những góc khuất mới cùng những thứ lạ khác cho mà xem.
|
That morning they had found among other things such good appetites that when they returned to Colin's room it was not possible to send the luncheon away untouched.
| Hôm ấy, chúng tìm ra được bao nhiêu thứ và đói bụng đến mức khi trở về phòng của Colin, chúng chẳng thể nào bỏ qua được bữa trưa.
|
When the nurse carried the tray down-stairs she slapped it down on the kitchen dresser so that Mrs. Loomis, the cook, could see the highly polished dishes and plates. "Look at that!" she said. "This is a house of mystery, and those two children are the greatest mysteries in it." "If they keep that up every day," said the strong young footman John, "there'd be small wonder that he weighs twice as much to-day as he did a month ago. I should have to give up my place in time, for fear of doing my muscles an injury."
| Khi cô bảo mẫu bưng chiếc khay xuống dưới nhà, cô đặt nó thật mạnh xuống chạn bát đĩa trong bếp đến nỗi bà bếp Loomis phải giật mình ngoái lại và nhận ra đĩa nào đĩa ấy đều nhẵn bóng như lau. - Nhìn mà xem! – cô bảo – Một ngôi nhà bí hiểm và hai đứa nhóc chính là những điều bí hiểm lớn nhất. - Nếu ngày nào chúng cũng chén đầy như thế này, - anh hầu trẻ vạm vỡ tên John bảo – thì chỉ riêng cậu bé thôi sẽ nặng gấp đôi tháng trước. Lúc ấy thì tôi đến phải thôi việc mất, vì sợ gắng sức quá mà đứt cả gân.
|
|
|
That afternoon Mary noticed that something new had happened in Colin's room. She had noticed it the day before but had said nothing because she thought the change might have been made by chance. She said nothing today but she sat and looked fixedly at the picture over the mantel. She could look at it because the curtain had been drawn aside. That was the change she noticed.
| Chiều hôm ấy, Mary nhận thấy có một điều gì đó mới mẻ xảy ra trong phòng Colin. Nó đã để ý chuyện này từ hôm trước, nhưng chẳng muốn nói ra bởi nó cho rằng sự thay đổi ấy chẳng qua chỉ là tình cờ. Ngay cả hôm ấy, nó cũng không nói mà chỉ ngồi dán mắt vào bức tranh treo tường phía trên lò sưởi. Nó có thể ngắm được bức tranh, bởi vì tấm màn che đã được vén sang một bên. Đó chính là sự thay đổi mà Mary nhận ra.
|
"I know what you want me to tell you," said Colin, after she had stared a few minutes. "I always know when you want me to tell you something. You are wondering why the curtain is drawn back. I am going to keep it like that."
| - Tớ biết cậu đang muốn tớ kể cho nghe chuyện gì rồi, - Colin bảo, sau khi con bé ngước lên nhìn ít phút, - Tớ thường đoán được mỗi khi cậu muốn tớ cho cậu biết một chuyện gì đó. Cậu đang ngạc nhiên vì tấm màn bị vén sang bên chứ gì? Tớ định cứ để nguyên như vậy.
|
"Why?" asked Mary. "Because it doesn't make me angry any more to see her laughing. I wakened when it was bright moonlight two nights ago and felt as if the Magic was filling the room and making everything so splendid that I couldn't lie still. I got up and looked out of the window. The room was quite light and there was a patch of moonlight on the curtain and somehow that made me go and pull the cord. She looked right down at me as if she were laughing because she was glad I was standing there. It made me like to look at her. I want to see her laughing like that all the time. I think she must have been a sort of Magic person perhaps."
| - Tại sao? – Mary hỏi. - Bởi vì giờ đây nó không còn làm tớ tức giận mỗi khi nhìn thấy bà đang mỉm cười. Cách đây hai đêm, tớ đã tỉnh giấc lúc ánh trăng vằng vặc rọi vào phòng. Tớ có cảm giác như Phép mầu ngập tràn khắp cả gian phòng này, khiến mọi thứ trở nên lộng lẫy đến nỗi tớ không tài nào ngủ được nữa. Tớ ngồi dậy và nhìn qua cửa sổ. Cả gian phòng tràn trề ánh sáng và một vệt trăng sáng đọng lại trên tấm màn che. Rồi không rõ vì cớ gì, tớ đi ra kéo sợi dây gai kia. Bà nhìn xuống tớ, dường như bà đang mỉm cười sung sướng vì tớ đã đứng dậy được. Chính bởi vậy, nên tớ muốn ngắm bà. Lúc nào tớ cũng muốn thấy bà cười như thế. Tớ nghĩ có lẽ bà là một trong những người làm ra Phép mầu.
|
"You are so like her now," said Mary, "that sometimes I think perhaps you are her ghost made into a boy." That idea seemed to impress Colin. He thought it over and then answered her slowly. "If I were her ghost--my father would be fond of me." "Do you want him to be fond of you?" inquired Mary. "I used to hate it because he was not fond of me. If he grew fond of me I think I should tell him about the Magic. It might make him more cheerful."
| - Lúc ấy, tớ thấy cậu giống bà quá đỗi, - Mary bảo. – Đã có lúc tớ thầm nghĩ biết đâu cậu chính là hồn phách của bà trong hình hài một cậu bé. Ý nghĩ lạ lùng ấy dường như gây ấn tượng mạnh mẽ với Colin. Nó suy nghĩ một hồi rồi chậm rãi trả lời. - Nếu tớ quả là hồn vía của bà… thì chắc cha tớ sẽ thích tớ hơn. - Cậu có muốn được ông yêu quý không? – Mary gặng hỏi. - Tớ thường căm hận ông bởi ông đã không thích tớ. Nhưng nếu ông yêu quý tớ, tớ nghĩ tớ sẽ kể cho ông nghe về Phép màu. Điều đó có thể sẽ khiến ông vui sướng.
|
CHAPTER 26
Chapter XXVI: "IT'S MOTHER!"
| Chương 26: Mẹ!
|
Their belief in the Magic was an abiding thing. After the morning's incantations Colin sometimes gave them Magic lectures. "I like to do it," he explained, "because when I grow up and make great scientific discoveries I shall be obliged to lecture about them and so this is practise. I can only give short lectures now because I am very young, and besides Ben Weatherstaff would feel as if he were in church and he would go to sleep." "Th' best thing about lecturin'," said Ben, "is that a chap can get up an' say aught he pleases an' no other chap can answer him back. I wouldn't be agen' lecturin' a bit mysel' sometimes."
| Niềm tin của bọn trẻ vào Phép màu thật vững chãi. Sau bài niệm chú buổi sáng hôm ấy, thỉnh thoảng Colin có những bài giảng về phép màu. - Tớ thích việc làm này, - nó giải thích, - bởi vì một khi tớ đã trưởng thành và có những phát kiến khoa học, tớ sẽ buộc phải giảng giải về chúng, vậy nên đây chính là dịp để thực hành. Hiện giờ tớ chỉ có thể trình bày những bài giảng ngắn bởi tớ còn quá trẻ, và bên cạnh đó, ông Ben Weatherstaff sẽ ngỡ mình đang ở giữa nhà thờ và lại ngủ gà ngủ gật. - Cái hay nhất trong các bài giảng là ở chỗ, - lão Ben lên tiếng, - một gã nào đó có thể đứng nói bất kì cái gì gã thích, và không một ai buồn đáp lại. Đôi khi chính tôi đây cũng có thể làm điều đó.
|
|
|
But when Colin held forth under his tree old Ben fixed devouring eyes on him and kept them there. He looked him over with critical affection. It was not so much the lecture which interested him as the legs which looked straighter and stronger each day, the boyish head which held itself up so well, the once sharp chin and hollow cheeks which had filled and rounded out and the eyes which had begun to hold the light he remembered in another pair. Sometimes when Colin felt Ben's earnest gaze meant that he was much impressed he wondered what he was reflecting on and once when he had seemed quite entranced he questioned him.
| Nhưng vào những dịp Colin diễn thuyết dưới tán cây, lão Ben cứ hau háu nhìn nó mà không chớp mắt. Nó cũng nhìn lại lão với vẻ hài lòng. Thực ra mấy bài giảng ấy chẳng làm lão quan tâm bằng đôi chân thằng bé lúc này xem ra đã thẳng và cứng cáp lên từng ngày, cái đầu trẻ con của nó ngẩng lên thật cao, rồi cái cẳm nhọn và đôi má hõm của nó này đã tròn trịa trở lại, và nhất là đôi mắt thì đầy sinh khí khiến lão chạnh lòng nhớ đến đôi mắt bà mẹ nó ngày xưa. Đôi khi Colin cảm nhận được cái nhìn da diết của lão, nó vô cùng ấn tượng đến độ tự hỏi không biết lão đang nghĩ gì. Có lần, khi lão đang mê mẩn, nó liền hỏi:
|
"What are you thinking about, Ben Weatherstaff?" he asked. "I was thinkin'" answered Ben, "as I'd warrant tha's, gone up three or four pound this week. I was lookin' at tha' calves an' tha' shoulders. I'd like to get thee on a pair o' scales." "It's the Magic and--and Mrs. Sowerby's buns and milk and things," said Colin. "You see the scientific experiment has succeeded."
| - Ông đang nghĩ ngợi gì thế, ông Ben? - Tôi đang nghĩ, - lão Ben trả lời, - tôi dám đánh cuộc rằng cậu cần phải nặng thêm ba bốn pao trong tuần này ấy chứ. Cứ nhìn vào bắp chân và đôi vai cậu thì rõ. Tôi chỉ muốn đặt cậu lên một cái cân đĩa. - Nhờ có Phép màu… và bánh ngọt và sữa và đủ các thứ khác của bà Sowerby – Colin bảo – ông cũng thấy đấy, thí nghiệm khoa học đã thành công. Sáng hôm ấy, Dickon đến muộn nên không nghe giảng được. Khi đến nơi, cả người nó đỏ gay vì chạy quá nhanh, gương mặt ngộ nghĩnh của nó còn lấp lánh hơn mọi bữa.
|
That morning Dickon was too late to hear the lecture. When he came he was ruddy with running and his funny face looked more twinkling than usual. As they had a good deal of weeding to do after the rains they fell to work. They always had plenty to do after a warm deep sinking rain. The moisture which was good for the flowers was also good for the weeds which thrust up tiny blades of grass and points of leaves which must be pulled up before their roots took too firm hold. Colin was as good at weeding as any one in these days and he could lecture while he was doing it. "The Magic works best when you work, yourself," he said this morning. "You can feel it in your bones and muscles. I am going to read books about bones and muscles, but I am going to write a book about Magic. I am making it up now. I keep finding out things."
| Sau cơn mưa, cỏ dại mọc xanh rì nên bọn trẻ phải bắt tay vào làm ngay. Chúng thường phải làm cỏ rất nhiều sau mỗi đợt mưa. Tiết trời ẩm ướt tốt cho hoa lá bao nhiêu thì cũng lợi cho cỏ dại bấy nhiêu. Bọn cỏ đang nhú những mầm lá nhỏ xíu khỏi mặt đất, phải nhổ ngay trước khi chúng bắt rễ sâu vào đất. Mấy ngày ấy, Colin nhổ cỏ cũng nhanh chẳng kém mọi người, hơn nữa nó còn có thể vừa làm vừa giảng giải. - Phép màu chỉ tỏ ra hiệu nghiệm nhất khi ta tự mình làm ra. Ta có thể cảm nhận nó rõ ràng trong từng đường gân thớ thịt. Tớ đang đọc mấy cuốn sách viết về cấu tạo xương và cơ bắp, và tớ dự định sẽ viết một cuốn sách về Phép màu nữa. Ngay từ bây giờ, tớ đã vạch sẵn nội dung rồi. Nhất định tớ phải tìm hiểu mọi thứ mới được.
|
It was not very long after he had said this that he laid down his trowel and stood up on his feet. He had been silent for several minutes and they had seen that he was thinking out lectures, as he often did. When he dropped his trowel and stood upright it seemed to Mary and Dickon as if a sudden strong thought had made him do it. He stretched himself out to his tallest height and he threw out his arms exultantly. Color glowed in his face and his strange eyes widened with joyfulness. All at once he had realized something to the full. "Mary! Dickon!" he cried. "Just look at me!" They stopped their weeding and looked at him. "Do you remember that first morning you brought me in here?" he demanded.
| Nói xong câu ấy ít phút, nó đặt cái xẻng xuống đất, rồi đứng dậy. Nó im lặng hồi lâu, mọi người đều cho rằng nó đang mải nghĩ về các bài giảng như mọi bữa. Khi nó buông xẻng và đứng thẳng dậy, Mary và Dickon thấy dường như nó đang có một ý nghĩ mạnh mẽ bất chợt lóe lên. Nó vươn mình cao hết cỡ rồi vung mạnh hai cánh tay. Khuôn mặt nó ửng hồng, còn đôi mắt kỳ lạ thì mở to lộ rõ vẻ vui sướng. - Mary! Dickon! – Nó kêu lên. – Nhìn tôi này! Hai đứa ngừng tay nhổ cỏ và ngước lên nhìn nó. - Các cậu còn nhớ buổi sáng đầu tiên các cậu đưa mình tới đây không?
|
Dickon was looking at him very hard. Being an animal charmer he could see more things than most people could and many of them were things he never talked about. He saw some of them now in this boy. "Aye, that we do," he answered. Mary looked hard too, but she said nothing. Just this minute," said Colin, "all at once I remembered it myself--when I looked at my hand digging with the trowel--and I had to stand up on my feet to see if it was real. And it is real! I'm well--I'm well!" "Aye, that th' art!" said Dickon.
| Dickon nhìn Colin đăm đăm. Là đứa có khả năng thuần dưỡng bọn thú, nó có thể nhìn thấy nhiều điều, hơn hẳn đa phần mọi người và rất nhiều điều nó nhìn thấy nhưng không bao giờ nói ra. Giờ đây nó đang thấy những điều đó trong anh chàng Colin này. - Chà, nhớ chứ, - Dickon trả lời. Mary cũng chăm chú nhìn Colin, nhưng không nói gì. - Đúng lúc này, - Colin nói, - tự dưng tôi nhớ lại tất cả… khi cúi nhìn tay mình đang cầm xẻng xúc đất… tôi đứng ngay dậy trên đôi chân mình để xem đây là thực hay mơ. Thì ra đây là thực sự! Tôi đã khỏe… tôi hoàn toàn khỏe mạnh! - Thì cậu đúng là thế mà! – Dickon bảo.
|
"I'm well! I'm well!" said Colin again, and his face went quite red all over. He had known it before in a way, he had hoped it and felt it and thought about it, but just at that minute something had rushed all through him--a sort of rapturous belief and realization and it had been so strong that he could not help calling out. "I shall live forever and ever and ever!" he cried grandly. "I shall find out thousands and thousands of things. I shall find out about people and creatures and everything that grows--like Dickon--and I shall never stop making Magic. I'm well! I'm well! I feel--I feel as if I want to shout out something--something thankful, joyful!"
| - Tôi đã khỏe! Hoàn toàn khỏe rồi! – Colin nhắc lại, cả khuôn mặt thằng bé đỏ bừng. Thực ra Colin đã nhận ra điều này từ trước đó, nó đã phập phồng hy vọng, cảm nhận, suy nghĩ về điều đó, thế nhưng chính giây phút ấy một cái gì thật kỳ lạ bỗng tràn ngập cơ thể nó… tựa một niềm tin vô ngần và mạnh mẽ khiến nó phải thốt lên thành lời. - Tôi sẽ sống mãi mãi! – Nó kêu lên kiêu hãnh, - tôi sẽ còn khám phá ra vô vàn thứ, tớ sẽ hiểu thêm về con người, muông thú cùng cây cỏ… như Dickon vậy… và tôi sẽ không bao giờ từ bỏ Phép màu. Tôi đã khỏe mạnh!... và tôi cảm thấy như muốn hét lên một câu gì đó… một câu gì đó để nói lên lòng biết ơn!
|
Ben Weatherstaff, who had been working near a rose-bush, glanced round at him. "Tha' might sing th' Doxology," he suggested in his dryest grunt. He had no opinion of the Doxology and he did not make the suggestion with any particular reverence. But Colin was of an exploring mind and he knew nothing about the Doxology. "What is that?" he inquired. "Dickon can sing it for thee, I'll warrant," replied Ben Weatherstaff. Dickon answered with his all-perceiving animal charmer's smile. "They sing it i' church," he said. "Mother says she believes th' skylarks sings it when they gets up i' th' mornin'." "If she says that, it must be a nice song," Colin answered. "I've never been in a church myself. I was always too ill. Sing it, Dickon. I want to hear it."
| Lão Ben Weatherstaff nãy giờ vẫn làm việc quanh một khóm hồng, bèn quay lại nhà nó. - Cậu có thể hát thánh ca được rồi đấy, - lão càu nhàu gợi ý, dù chẳng có ý niệm tôn kính cụ thể gì. Ngay cả Colin có đầu óc khám phá nghiên cứu cũng chẳng biết gì về thánh ca. - Đó là cái gì? – Thằng bé căn vặn. - Tôi dám đánh cuộc Dickon có thể hát nó cho cậu nghe, - lão Ben đáp. Dickon đáp lại bằng nụ cười bao dung của một anh chàng dạy thú. - Người ta hát thánh ca trong nhà thờ, - nó đáp. – Mẹ tôi bảo bà tin rằng chim chiền chiện vẫn hát thánh ca mỗi khi chúng thức dậy vào ban mai. - Bà mà nói vậy thì chắc chắn đó là một bài ca hay lắm, - Colin bảo. – Bản thân tôi chưa một lần được đặt chân vào nhà thờ, lúc nào cũng ốm với đâu. Hát đi, anh Dickon. Tôi muốn được nghe quá.
|
Dickon was quite simple and unaffected about it. He understood what Colin felt better than Colin did himself. He understood by a sort of instinct so natural that he did not know it was understanding. He pulled off his cap and looked round still smiling. "Tha' must take off tha' cap," he said to Colin," an' so mun tha', Ben--an' tha' mun stand up, tha' knows."
| Dickon tỏ ra giản dị không chút màu mè. Nó hiểu những gì Colin cảm thấy còn rõ hơn cả chính Colin. Nó hiểu bằng một thứ bản năng tự nhiên đến nỗi nó không nghĩ đó là hiểu biết. Nó bỏ chiếc mũ lưỡi trai xuống rồi ngó quanh, nụ cười vẫn nở rộng trên khuôn mặt tròn. - Ngay cả cậu cũng nên bỏ mũ ra, - Nó bảo Colin, - và bác nữa, bác Ben, và mọi người cũng biết đấy, ta hãy đứng cả dậy.
|
Colin took off his cap and the sun shone on and warmed his thick hair as he watched Dickon intently. Ben Weatherstaff scrambled up from his knees and bared his head too with a sort of puzzled half-resentful look on his old face as if he didn't know exactly why he was doing this remarkable thing.
| Colin bỏ mũ, mặt trời tỏa ra tia nắng ấm áp xuống mái tóc dày của nó trong khi nó vẫn nhìn Dickon chăm chú. Lão Ben Weatherstaff nhỏm dậy khó nhọc trên hai đầu gối, đầu để trần, vẻ bối rối lộ trên khuôn mặt già nua nhăn nheo, như thể lão không biết đích xác tại sao mình phải làm cái việc ngoại lệ này.
|
Dickon stood out among the trees and rose-bushes and began to sing in quite a simple matter-of-fact way and in a nice strong boy voice: "Praise God from whom all blessings flow, Praise Him all creatures here below, Praise Him above ye Heavenly Host, Praise Father, Son, and Holy Ghost. Amen."
| Dickon đứng tách khỏi đám cây cối và mấy khóm hồng, nó bắt đầu cất tiếng hát thật giản đơn, bằng một giọng thiếu niên khỏe khoắn dễ thương. “Tạ ơn Chúa về tất cả ân huệ và sự che chở của Người, Tạ ơn Người đã vì mọi sinh linh nơi trần thế, Tạ ơn Người vì bánh thánh Người đã ban cho; Tạ ơn Cha, Con và Thánh thần, Amen”.
|
When he had finished, Ben Weatherstaff was standing quite still with his jaws set obstinately but with a disturbed look in his eyes fixed on Colin. Colin's face was thoughtful and appreciative.
| Khi thằng bé kết thúc bài nguyện, lão Ben Weatherstaff vẫn đứng im phăng phắc, mồm há hốc cứng đờ, lão đưa cặp mắt lúng túng nhìn Colin. Khuôn mặt Colin đượm vẻ trầm tư và ngưỡng mộ.
|
"It is a very nice song," he said. "I like it. Perhaps it means just what I mean when I want to shout out that I am thankful to the Magic." He stopped and thought in a puzzled way. "Perhaps they are both the same thing. How can we know the exact names of everything? Sing it again, Dickon. Let us try, Mary. I want to sing it, too. It's my song. How does it begin? `Praise God from whom all blessings flow'?"
| - Bài ca thật tuyệt vời, - nó bảo, - Tôi thích nó. Có lẽ nó nói lên những điều mà chính tớ muốn nói khi tôi hét lên rằng tôi biết ơn Phép màu biết bao. – Nó dừng lời và bối rối suy nghĩ. - Có lẽ hai điều đó là một chăng. Làm sao chúng ta có thể biết chính xác tên gọi của mọi sự? Hát lại đi, Dickon. Chúng mình hãy thử xem sao, Mary. Tôi cũng muốn được hát theo. Đó chính là bài ca của tôi. Nó mở đầu như thế nào nhỉ? “Tạ ơn Chúa về tất cả ơn huệ và sự che chở của Người” phải không?
|
And they sang it again, and Mary and Colin lifted their voices as musically as they could and Dickon's swelled quite loud and beautiful--and at the second line Ben Weatherstaff raspingly cleared his throat and at the third line he joined in with such vigor that it seemed almost savage and when the "Amen" came to an end Mary observed that the very same thing had happened to him which had happened when he found out that Colin was not a cripple--his chin was twitching and he was staring and winking and his leathery old cheeks were wet.
| Và cả bọn nhất loạt hát lại bài ấy lần nữa, Mary và Colin cố cất giọng sao cho thật du dương, trong khi Dickon gồng mình hát cho to và hay. Lúc cả bọn sang đến câu thứ hai, lão Ben đã đằng hắng sẵn giọng để khi đến câu thứ ba lão liền nhập vào bè với một sự mãnh liệt hoang dại, và ngay khi từ Amen vừa kết thúc, Mary nhận thấy những cảm xúc xảy ra với lão trước đó, vào cái hôm lão phát hiện ra rằng Colin không phải là một kẻ què quặt, nay đã trở lại: cằm lão giật giật, đôi mắt vừa thao láo vừa hấp háy, hai gò má già nua nhăn nheo đẫm lệ.
|
"I never seed no sense in th' Doxology afore," he said hoarsely, "but I may change my mind i' time. I should say tha'd gone up five pound this week Mester Colin--five on 'em!"
| - Trước đây, tôi chưa từng thấy cảm xúc gì khi hát Thánh ca, - lão nói giọng khàn khàn, - nhưng nay suy nghĩ của tôi đã khác nhiều. Tôi có thể nói cậu sẽ nặng thêm ít nhất năm pao trong tuần này. Cậu chủ Colin ạ.- Những năm pao cơ đấy!
|
Colin was looking across the garden at something attracting his attention and his expression had become a startled one. "Who is coming in here?" he said quickly. "Who is it?" The door in the ivied wall had been pushed gently open and a woman had entered. She had come in with the last line of their song and she had stood still listening and looking at them. With the ivy behind her, the sunlight drifting through the trees and dappling her long blue cloak, and her nice fresh face smiling across the greenery she was rather like a softly colored illustration in one of Colin's books.
| Colin còn đang mải nhìn qua vườn vì có một cái gì đó khiến nó chú ý, mặt lộ rõ vẻ hoảng hốt - A đang đến kìa, - nó nói vội. – ai thế nhỉ? Cánh cửa nơi hõm tường phủ đầy dây thường xuân vừa được nhẹ nhàng mở ra, một người đàn bà bước vào. Thực ra bà đã đến từ lúc cả bọn hát sang câu cuối cùng. Bà đứng đó lặng người nhìn và nghe chúng hát. Với mảng tường phủ kín dây thường xuân sau lưng, với ánh nắng nhấp nháy qua các tán lá cây tạo nên những đốm sáng trên tà áo choàng màu xanh của bà, gương mặt nhẹ nhõm tươi tắn ánh lên nụ cười ở phía vườn cây trông thật giống một bức chân dung minh họa với màu sắc dìu dịu trong một cuốn sách nào đó của Colin.
|
She had wonderful affectionate eyes which seemed to take everything in--all of them, even Ben Weatherstaff and the "creatures" and every flower that was in bloom. Unexpectedly as she had appeared, not one of them felt that she was an intruder at all. Dickon's eyes lighted like lamps. "It's mother--that's who it is!" he cried and went across the grass at a run.
| Đôi mắt bà vô cùng tình cảm dường như chứa đựng tất cả - tất cả,cả đến hình sóng của lão Ban Weatherstaff cùng bầy thú hoang và từng bông hoa đang nở rộ. Bà xuất hiện hoàn toàn bất ngờ, thế nhưng không phải một ai trong bọn họ nghĩ bà là kẻ xâm nhập khu vườn. Đôi mắt Dickon sáng ngời. - Mẹ đấy mà… còn ai vào đây nữa! – Thằng bé kêu lên rồi bước vội qua bãi cỏ.
|
Colin began to move toward her, too, and Mary went with him. They both felt their pulses beat faster. "It's mother!" Dickon said again when they met halfway. "I knowed tha' wanted to see her an' I told her where th' door was hid." Colin held out his hand with a sort of flushed royal shyness but his eyes quite devoured her face.
| Colin cũng tiến về phía bà, Mary cũng đi cùng với nó. Cả hai đứa đều cảm thấy các huyết mạch trong người chúng đập mỗi lúc một nhanh. - Mẹ! – Dickon thốt lên khi hai mẹ con gặp nhau ở giữa chừng – Tôi biết các cậu muốn gặp bà, nên tôi đã chỉ cho bà chỗ cánh cửa bị che khuất. Colin chìa tay ra với vẻ bẽn lẽn, nhưng không kém phần quý phái, đôi mắt nó nhìn đăm đăm.
|
"Even when I was ill I wanted to see you," he said, "you and Dickon and the secret garden. I'd never wanted to see any one or anything before." The sight of his uplifted face brought about a sudden change in her own. She flushed and the corners of her mouth shook and a mist seemed to sweep over her eyes.
| - Ngay cả lúc ốm đau cháu vẫn mong ước được gặp bác, - nó nói, - Bác Dickon và khu vườn bí mất. Trước đây, cháu chưa từng muốn gặp bất kì ai và bất kì thứ gì như thế. Hình ảnh gương mặt ngẩng cao của cậu bé khiến tâm trạng bà đột ngột biến đổi. Mặt bà đỏ lên, khóe miệng bà hơi giật giật, một làn sương mỏng dường như thoáng qua đôi mắt.
|
"Eh! dear lad!" she broke out tremulously. "Eh! dear lad!" as if she had not known she were going to say it. She did not say, "Mester Colin," but just "dear lad" quite suddenly. She might have said it to Dickon in the same way if she had seen something in his face which touched her. Colin liked it.
| - Ôi! Chàng trai thân mến! – Bà thốt lên, giọng run run. – Ôi! Chàng trai thân mến! Có lẽ bà cũng không biết mình sắp nói ra câu đó. Bà không gọi “Cậu chủ Colin” mà bất chợt gọi thế. Hẳn bà cũng sẽ gọi Dickon như vậy, nếu có điều gì trên khuôn mặt nó làm bà cảm động. Colin thích điều đó.
|
"Are you surprised because I am so well?" he asked. She put her hand on his shoulder and smiled the mist out of her eyes. "Aye, that I am!" she said; "but tha'rt so like thy mother tha' made my heart jump." "Do you think," said Colin a little awkwardly, "that will make my father like me?" "Aye, for sure, dear lad," she answered and she gave his shoulder a soft quick pat. "He mun come home--he mun come home."
| - Bác có ngạc nhiên khi thấy cháu khỏe thế này không? – Nó hỏi. Bà đặt tay lên vai thằng bé, mỉm cười, làn sương trong mắt bà tan biến. - Ồ, có chứ, - bà bảo, - cháu giống mẹ cháu quá đỗi khiến bác nhói cả tim. - Bác thấy thế nào, - Colin hỏi với vẻ bối rối, - nhưng liệu điều đó có làm cho cha cháu thích cháu không?
|
"Susan Sowerby," said Ben Weatherstaff, getting close to her. "Look at th' lad's legs, wilt tha'? They was like drumsticks i' stockin' two month' ago--an' I heard folk tell as they was bandy an' knock-kneed both at th' same time. Look at 'em now!" Susan Sowerby laughed a comfortable laugh.
| - Trời ơi, chắc chắn là như vậy, chàng trai thương mến, - bà vừa đáp, vừa vỗ nhẹ lên vai thằng bé, - Ông ấy sẽ trở về… ông ấy sẽ trở về. - Bà Susan Sowerby đấy à. – lão Ben Weatherstaff lên tiếng và tiến lại chỗ bà, - bà đã thấy đôi chân của cậu chủ chưa? Mới hai tháng trước trông chúng chẳng khác nào hai chiến dùi trống trong đôi bít tất dài. Lại thêm nỗi bị vòng kiềng nữa chứ, tôi nghe người ta bàn tán thế. Bây giờ bà hãy xem xem! Bà Susan Sowerby cất tiếng cười nhẹ nhõm.
|
"They're goin' to be fine strong lad's legs in a bit," she said. "Let him go on playin' an' workin' in the garden an' eatin' hearty an' drinkin' plenty o' good sweet milk an' there'll not be a finer pair i' Yorkshire, thank God for it."
| - Chúng sẽ là đôi chân của một anh chàng mạnh mẽ đấy – bà bảo – Cứ mặc cậu ấy chơi đùa và làm vườn, cứ ăn cho no, uống cho thật nhiều sữa. Rồi xem, ở xứ Yorkshine này sẽ chẳng thể có đôi chân nào đẹp hơn chúng đâu, lạy Chúa ban phước lành.
|
She put both hands on Mistress Mary's shoulders and looked her little face over in a motherly fashion. "An' thee, too!" she said. "Tha'rt grown near as hearty as our 'Lisabeth Ellen. I'll warrant tha'rt like thy mother too. Our Martha told me as Mrs. Medlock heard she was a pretty woman. Tha'lt be like a blush rose when tha' grows up, my little lass, bless thee."
| Bà đặt tay lên vai Mary và cúi nhìn khuôn mặt nhỏ bé của con bé với dáng vẻ của một người mẹ. - Cả cô cũng vậy, - bà bảo, - Cô cũng gần mạnh bằng con bé Lizabeth Ellen nhà tôi rồi còn gì. Tôi dám đánh cược cô cũng giống hệt mẹ cô. Con bé Martha bảo tôi rằng, theo như những điều bà Medlock nghe được thì bà nhà là một phụ nữ đẹp tuyệt trần. Rồi cô cũng sẽ trở thành một đóa hồng tươi thắm khi cô lớn lên, cô gái bé bỏng của tôi ạ, cầu Chúa phù hộ cho cô.
|
She did not mention that when Martha came home on her "day out" and described the plain sallow child she had said that she had no confidence whatever in what Mrs. Medlock had heard. "It doesn't stand to reason that a pretty woman could be th' mother o' such a fou' little lass," she had added obstinately.
| Bà không nhắc tới chuyện khi Martha về nhà vào “ngày nghỉ” đã tả lại một đứa trẻ hay cáu bẳn và tẻ nhạt ra sao, rằng chị không mấy tin tưởng vào những gì bà Medlock đã nghe. “Thật vô lý khi một người phụ nữ xinh đẹp lại có thể là mẹ của đứa bé như vậy” – chị bướng bỉnh thêm vào.
|
Mary had not had time to pay much attention to her changing face. She had only known that she looked "different" and seemed to have a great deal more hair and that it was growing very fast. But remembering her pleasure in looking at the Mem Sahib in the past she was glad to hear that she might some day look like her.
| Mary không có thời gian để chú ý đến khuôn mặt đang thay đổi của nó. Nó chỉ biết rằng mình trông “khác hẳn” trước kia, tóc mình đã dày và dài ra rất nhanh. Chợt nhớ lại niềm vui mỗi khi được ngắm nhìn mẹ thưở trước ở Memsahib, nó vui mừng khi có người nói một ngày nào đó trông nó cũng được như bà.
|
Susan Sowerby went round their garden with them and was told the whole story of it and shown every bush and tree which had come alive. Colin walked on one side of her and Mary on the other. Each of them kept looking up at her comfortable rosy face, secretly curious about the delightful feeling she gave them--a sort of warm, supported feeling. It seemed as if she understood them as Dickon understood his "creatures." She stooped over the flowers and talked about them as if they were children. Soot followed her and once or twice cawed at her and flew upon her shoulder as if it were Dickon's. When they told her about the robin and the first flight of the young ones she laughed a motherly little mellow laugh in her throat.
| Bà Susan Sowerby cùng mọi người đi dạo một vòng quanh khu vườn của chúng và được kể cho nghe toàn bộ câu chuyện về nơi này, được chỉ cho xem từng khóm cây nhỏ, từng cái cây lớn nay còn sống. Colin đi bên cạnh bà, Mary đi bên kia. Cả hai đứa đều không rời mắt khỏi khuôn mặt hồng hào, nhẹ nhõm của bà. Chúng không khỏi thầm ngạc nhiên trước cảm giác vui tươi mang lại cho chúng – một thứ ấm áp, khích lệ. Dường như bà hiểu bọn trẻ như Dickon hiểu bầy thú của nó vậy. Bà khom mình trên những đóa hoa và nói về hoa cỏ như về bầy trẻ. Bồ hóng lẽo đẽo bay qua bà, thỉnh thoảng cất tiếng quạ quạ, rồi tự nhiên đậu xuống vai bà như vai Dickon. Khi bọn trẻ kể với bà về con chim ức đỏ và những chuyến bay đầu tiên của bầy chim ra ràng, bà cất tiếng cười dịu dàng của một người mẹ.
|
"I suppose learnin' 'em to fly is like learnin' children to walk, but I'm feared I should be all in a worrit if mine had wings instead o' legs," she said. It was because she seemed such a wonderful woman in her nice moorland cottage way that at last she was told about the Magic. "Do you believe in Magic?" asked Colin after he had explained about Indian fakirs. "I do hope you do."
| - Tôi nghĩ học bay cũng tựa như trẻ con tập đi vậy. Nhưng nếu đôi chân ta bỗng dưng bị thay bằng đôi cánh thì cũng đáng lo lắm đấy. – bà nói. Và bởi là một phụ nữ tuyệt vời trong túp lều gianh êm đềm của bà trên cánh đồng hoang nên cuối cùng, bà đã được kể cho nghe về Phép màu. – Bác có tin vào Phép màu không? – Colin hỏi sau khi đã giải thích một hồi về các thầy tu ở Ấn Độ, - cháu hy vọng bác cũng biết tới Phép màu.
|
"That I do, lad," she answered. "I never knowed it by that name but what does th' name matter? I warrant they call it a different name i' France an' a different one i' Germany. Th' same thing as set th' seeds swellin' an' th' sun shinin' made thee a well lad an' it's th' Good Thing. It isn't like us poor fools as think it matters if us is called out of our names. Th' Big Good Thing doesn't stop to worrit, bless thee. It goes on makin' worlds by th' million--worlds like us. Never thee stop believin' in th' Big Good Thing an' knowin' th' world's full of it--an' call it what tha' likes. Tha' wert singin' to it when I come into th' garden."
| - Tôi có biết, anh bạn ạ, - bà đáp, - Tuy tôi không biết nó dưới cái tên ấy, nhưng tên thì có nghĩa gì đâu? Tôi dám chắc người ta gọi nó bằng những cái tên khác nhau ở Pháp và ở Đức. Nhưng cùng một điều đó, đã khiến cho hạt giống này mầm và mặt trời chiếu sáng, và giúp cậu trở thành một anh chàng khỏe mạnh, ấy là Đấng tối cao. Người không hề giống chúng ta, những người khờ khạo đáng thương cứ cho rằng việc không gọi được đúng tên là một vấn đề. Đấng tối cao không ngừng lo lắng và che chở cho cậu. Người cũng bận tâm lo lắng cho hàng triệu sinh linh trên thế giới này nữa. Cậu không bao giờ được thôi tin tưởng vào Người và phải hiểu rằng thế giới này luôn ngập tràn Người – và gọi tên thế nào là tùy cậu. Cậu chẳng vừa hát ngợi ca Người lúc tôi đặt chân vào khu vườn này đấy thôi.
|
"I felt so joyful," said Colin, opening his beautiful strange eyes at her. "Suddenly I felt how different I was--how strong my arms and legs were, you know--and how I could dig and stand--and I jumped up and wanted to shout out something to anything that would listen."
| - Lúc ấy cháu thấy vui quá – Colin nói, mở to đôi mắt đẹp kỳ lạ nhìn bà, - Đột nhiên, cháu cảm thấy mình khác trước biết bao, tay chân mình mới khỏe làm sao, bác cũng thấy đấy… cháu đã có thể xới đất, đứng dậy rồi nhẩy cẫng lên, muốn hét thật to một điều gì đó để mọi người cùng nghe thấy.
|
"Th' Magic listened when tha' sung th' Doxology. It would ha' listened to anything tha'd sung. It was th' joy that mattered. Eh! lad, lad--what's names to th' Joy Maker," and she gave his shoulders a quick soft pat again.
| - Người đã chứng kiến hết khi cậu hát Thánh ca. Người nghe rõ từng lời cậu hát. Đó chẳng qua vì cậu quá hạnh phúc. Ôi, anh bạn, anh bạn… Người còn có một tên nữa là Đấng Sáng Tạo Niềm Vui, - nói đoạn bà lại đưa tay vỗ nhẹ, lên vai thằng bé.
|
She had packed a basket which held a regular feast this morning, and when the hungry hour came and Dickon brought it out from its hiding place, she sat down with them under their tree and watched them devour their food, laughing and quite gloating over their appetites. She was full of fun and made them laugh at all sorts of odd things. She told them stories in broad Yorkshire and taught them new words. She laughed as if she could not help it when they told her of the in- creasing difficulty there was in pretending that Colin was still a fretful invalid.
| Sáng hôm ấy, bà đã sắp sẵn một giò thức ăn như mọi bữa. Khi chúng đói bụng và Dickon mang chiếc giỏ ra khỏi nơi hằng ngày cất giấu, bà ngồi xuống cùng chúng dưới một tán cây, ngắm nhìn chúng ăn ngấu nghiếm. Bà cười mãn nguyện trước cảnh ngon miệng của bọn trẻ. Bà có đủ các thứ chuyện hài hước khiến bọn chúng cười bò. Bà kể chúng nghe mấy chuyện bằng thứ giọng Yorkshine đặc sệt, đồng thời dạy cho chúng thuật lại những từ mới. Bà ôm bụng cười khi chúng thuật lại những khó khăn ngày một tăng lúc thằng Colin phải tiếp tục giả vờ là một kẻ tàn tật hay cáu bẳn.
|
"You see we can't help laughing nearly all the time when we are together," explained Colin. "And it doesn't sound ill at all. We try to choke it back but it will burst out and that sounds worse than ever." "There's one thing that comes into my mind so often," said Mary, "and I can scarcely ever hold in when I think of it suddenly. I keep thinking suppose Colin's face should get to look like a full moon. It isn't like one yet but he gets a tiny bit fatter every day--and suppose some morning it should look like one--what should we do!"
| - Bác thấy đấy, chúng cháu không thể nín được cười mỗi khi ở cạnh nhau, - Colin giải thích, - Thật chẳng có vẻ gì là đau ốm cả. Chúng cháu đã cố tỏ ra khó chịu, nhưng rồi lại phải cười lăn ra không sao kìm được. - Cháu vẫn còn băn khoăn một điều, - Mary nói, - và cháu khó lòng yên tâm được mỗi khi bất chợt nghĩ đến nó. Ấy là cháu lo cho cái khuôn mặt mỗi ngày một tròn vành vạch của Colin. Nó không béo từng tý một mà cứ to lên phèn phẹt từng ngày… cháu e rằng đến một buổi sáng nào đó, nó lại chẳng giống như…
|
"Bless us all, I can see tha' has a good bit o' play actin' to do," said Susan Sowerby. "But tha' won't have to keep it up much longer. Mester Craven'll come home." "Do you think he will?" asked Colin. "Why?"
| - Cầu Chúa phù hộ cho tất cả chúng ta. Tôi có thể hình dung bấy lâu nay cậu đã phải giả bộ như thế nào, - bà Susan Sowerby nói, - Nhưng cậu không thể kéo dài chuyện này lâu hơn nữa. Ông chủ Craven sắp trở về. - Bác nghĩ ông sắp trở về à? – Colin hỏi – Tại sao?
|
Susan Sowerby chuckled softly. "I suppose it 'ud nigh break thy heart if he found out before tha' told him in tha' own way," she said. "Tha's laid awake nights plannin' it." "I couldn't bear any one else to tell him," said Colin. "I think about different ways every day, I think now I just want to run into his room."
| Bà Susan Sowerby cười lặng lẽ. - Tôi cho rằng cậu sẽ rầu lòng nếu ông ấy phát hiện ra trước khi cậu tự hào kể cho ông mọi chuyện. Cậu đã phải thức hàng đêm để lập ra kế hoạch này. - Cháu không tài nào chịu nổi nếu có ai đó báo cho ông biết, - Colin nói, - Ngày nào cháu cũng nghĩ ra đủ mọi cách. Nhưng bây giờ cháu chỉ muốn chạy thẳng vào phòng ông để cho ông thấy.
|
"That'd be a fine start for him," said Susan Sowerby. "I'd like to see his face, lad. I would that! He mun come back --that he mun. "One of the things they talked of was the visit they were to make to her cottage. They planned it all. They were to drive over the moor and lunch out of doors among the heather. They would see all the twelve children and Dickon's garden and would not come back until they were tired.
| - Đây mới chính là một sự khởi đầu tốt đẹp đối với ông ấy. – Bà Sussan Sowerby nói, - tôi thích được ngắm khuôn mặt ông vào lúc ấy, anh bạn ạ. Tôi rất muốn được như vậy! Ông ấy chắc chắn sẽ trở về. Một trong những chuyện khiến mọi người bàn bạc sôi nổi là chuyến thăm sắp tới của họ đến túp lều gianh của bà. Họ xúm vào cùng vạch kế hoạch cho chuyến đi. Họ sẽ phải băng qua cánh đồng hoang và ăn trưa ngoài trời giữa các bụi thạch thảo. Họ chẳng những sẽ gặp được đủ cả mười hai người con của bà mà còn được ngắm khu vườn của Dickon, và nhất định là sẽ không quay trở về cho tới khi ai nấy đều mệt lử.
|
Susan Sowerby got up at last to return to the house and Mrs. Medlock. It was time for Colin to be wheeled back also. But before he got into his chair he stood quite close to Susan and fixed his eyes on her with a kind of bewildered adoration and he suddenly caught hold of the fold of her blue cloak and held it fast.
| Cuối cùng, bà Susan Sowerby đứng dậy để vào trong nhà gặp bà Medlock, cũng là lúc Colin ngồi lại vào xe. Trước khi bước vào xe, nó còn đứng kề bên bà Susan, nhìn bà với vẻ tha thiết, bối rối. Đột nhiên, nó đưa tay nắm vạt áo choàng xanh của bà rồi giữ chặt lấy.
|
"You are just what I--what I wanted," he said. "I wish you were my mother--as well as Dickon's!" All at once Susan Sowerby bent down and drew him with her warm arms close against the bosom under the blue cloak--as if he had been Dickon's brother. The quick mist swept over her eyes. "Eh! dear lad!" she said. "Thy own mother's in this 'ere very garden, I do believe. She couldna' keep out of it. Thy father mun come back to thee--he mun!"
| - Bác chính là những gì… những gì cháu ao ước bấy lâu nay. Cháu ước gì bác là mẹ của cháu… cũng như mẹ Dickon vậy! Ngay lập tức, bà Susan Sowerby cúi xuống, kéo thằng bé vào vòng tay ấm áp của bà, áp đầu nó vào ngực bà dưới tấm áo choàng xanh – như một đứa em của Dickon vậy. Một làn sương mờ nhẹ nhàng qua trước mắt bà. - Ôi, chàng trai yêu quý! – Bà thốt lên – Mẹ của con ở trong từng tấc đất của khu vườn này, ta tin như thế. Bà không thể nào rời xa chúng ta được. Cha con nhất định sẽ trở về với con… ông nhất định trở về! |
|
|
CHAPTER 27
Chapter XXVII: IN THE GARDEN
| Chương 27: TRONG KHU VƯờN.
|
In each century since the beginning of the world wonderful things have been discovered. In the last century more amazing things were found out than in any century before. In this new century hundreds of things still more astounding will be brought to light.
| Kể từ khi thế giới thành hình, cứ mỗi thế kỷ trôi qua đều có biết bao điều kỳ diệu được khám phá. Vào thế kỷ sau cùng này, người ta lại càng biết được nhiều điều hơn bất kỳ thế kỷ nào trước đây và hàng trăm điều đáng kinh ngạc hơn còn đang đợi ngày ra mắt.
|
At first people refuse to believe that a strange new thing can be done, then they begin to hope it can be done, then they see it can be done--then it is done and all the world wonders why it was not done centuries ago. One of the new things people began to find out in the last century was that thoughts--just mere thoughts--are as powerful as electric batteries--as good for one as sunlight is, or as bad for one as poison. To let a sad thought or a bad one get into your mind is as dangerous as letting a scarlet fever germ get into your body. If you let it stay there after it has got in you may never get over it as long as you live. | Thoạt đầu, con người luôn từ chối tin tưởng rằng một điều mới lạ nào đó có thể được thực hiện, rồi họ bắt đầu hy vọng nó không thể thực hiện, rồi họ nhận thấy rằng nó có thể thực hiện được – cuối cùng, người ta thực hiện điều đó thành công và toàn thể nhân loại đều tự hỏi tại sao việc này lại không diễn ra từ các thế kỷ trước. Một trong những sự kiện mới mẻ mà con người bắt đầu khám phá ra trong thế kỷ vừa qua là ý nghĩ – chỉ đơn thuần là những ý nghĩ – cũng mang một sức mạnh chẳng kém gì điện năng, và nếu tốt thì như thể ánh sáng mặt trời, còn nếu xấu thì chẳng khác nào thuốc độc. Để mặc cho một ý nghĩ xấu xa tồi tệ len lỏi vào tâm trí ta thì cũng nguy hại chẳng kém việc để cho mầm bệnh phát ban đỏ lột vào trong cơ thể ta vậy. Sau khi đã xâm nhập rồi, nếu cứ mặc cho chúng hoành hành thì có lẽ chẳng bao giờ ta rũ bỏ nổi chúng trong suốt cuộc đời mình.
|
So long as Mistress Mary's mind was full of disagreeable thoughts about her dislikes and sour opinions of people and her determination not to be pleased by or interested in anything, she was a yellow-faced, sickly, bored and wretched child. Circumstances, however, were very kind to her, though she was not at all aware of it. They began to push her about for her own good. When her mind gradually filled itself with robins, and moorland cottages crowded with children, with queer crabbed old gardeners and common little Yorkshire housemaids, with springtime and with secret gardens coming alive day by day, and also with a moor boy and his "creatures," there was no room left for the disagreeable thoughts which affected her liver and her digestion and made her yellow and tired.
| Chừng nào đầu óc con bé Mary còn đầy ắp những ý nghĩ bất mãn về những khó chịu của bản thân, cùng nhận nhận xét chua chát về người khác, lại nhất quyết không chịu quan tâm hay hài lòng với bất cứ điều gì, thì nó vẫn còn là một đứa trẻ mặt mũi vàng ệch, ốm o, chán chường, thảm hại. Nhưng rồi những hòan cảnh sống, dù nói gì đi chăng nữa, đã mang lại những điều hết sức tốt đẹp cho nó, dù nó không hề nhận ra. Chúng bắt đầu thúc đẩy con bé theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Kể từ lúc tâm trí nó dần tràn ngập những hình ảnh của chim ức đỏ, của nếp nhà gianh giữa miền đồng hoang với bầy trẻ đông đúc, rồi ông lão làm vườn quàu quạu và kỳ quặc nọ, hay chị hầu gái nhỏ bỗ bã vùng Yorkshire, cũng như mùa xuân với khu vườn bí mật đang hồi sinh từng ngày từng giờ, và cả cậu bé miền đồng hoang cùng bầy thú của nó nữa, quả là không còn chỗ nào cho những ý nghĩ khó chịu đã từng ảnh hưởng tới lá gan và cỗ máy tiêu hóa, khiến nó sinh ra vàng vọt và mệt mỏi như vậy.
|
So long as Colin shut himself up in his room and thought only of his fears and weakness and his detestation of people who looked at him and reflected hourly on humps and early death, he was a hysterical half-crazy little hypochondriac who knew nothing of the sunshine and the spring and also did not know that he could get well and could stand upon his feet if he tried to do it.
| Cũng như bao năm qua, Colin tự giam mình trong phòng, chỉ nghĩ tới những sợ hãi, những khiếm khuyết, và nỗi thù ghét những ai dám nhìn nó rồi nghiền ngẫm hết giờ này qua giờ khác về những cục bướu và cái chết đang tới gần. Thằng bé mắc phải chứng cuồng loạn, lúc nào cũng tưởng mình bị bệnh nọ bệnh kia, chẳng có ý niệm gì về ánh mặt trời và mùa xuân, mà cũng không biết rằng nó có thể bình phục và tự đứng trên đôi chân của mình một khi đã cố gắng.
|
When new beautiful thoughts began to push out the old hideous ones, life began to come back to him, his blood ran healthily through his veins and strength poured into him like a flood. His scientific experiment was quite practical and simple and there was nothing weird about it at all. Much more surprising things can happen to any one who, when a disagreeable or discouraged thought comes into his mind, just has the sense to remember in time and push it out by putting in an agreeable determinedly courageous one. Two things cannot be in one place.
| Thế rồi những suy nghĩ tốt đẹp và mới mẻ bắt đầu xua tan mọi điều cũ kỹ hắc ám. Cuộc sống mới đã đến với nó, bầu máu nóng chảy rần rật khắp các huyết quản cuả nó và một sức mạnh ùa vào trong cơ thể nó chẳng khác nào thác lũ. Thí nghiệm khoa học cuả nó quả vô cùng đơn giản và thực tế, hoàn toàn chẳng có vẻ gì huyền bí hay kém tự nhiên. Còn biết bao điều đáng ngạc nhiên hơn có thể đến với bất cứ ai, dù có lúc để cho những ý nghĩ khó chịu hoặc chán nản len lỏi trong tâm trí, nhưng kịp thời nhận ra và xua đuổi chúng đi với lòng can đảm và cả quyết. Bởi hai thứ đó không thể có cùng một chỗ đứng.
|
"Where, you tend a rose, my lad, A thistle cannot grow." While the secret garden was coming alive and two children were coming alive with it, there was a man wandering about certain far-away beautiful places in the Norwegian fiords and the valleys and mountains of Switzerland and he was a man who for ten years had kept his mind filled with dark and heart-broken thinking. He had not been courageous; he had never tried to put any other thoughts in the place of the dark ones. | Nơi anh định trồng một khóm hồng, bạn hỡi Cây kế sẽ chẳng thể nào mọc lên. Giữa lúc khu vườn bí mật đang dần hồi sinh cùng với hai đứa trẻ, có một người đàn ông vẫn lang thang vô định trên các miền đất tươi đẹp nơi các vịnh hẹp xứ Na-uy, hoặc giữa các thung lũng và núi đồi của Thụy Điển. Ông chính là người mà suốt mười năm qua tâm trí lúc nào cũng tràn ngập những suy nghĩ u buồn và đau đớn. Ông không phải là người dũng cảm; ông cũng chưa bao giờ thử thay đổi những ý nghĩ đen tối bằng một thứ gì khác.
|
He had wandered by blue lakes and thought them; he had lain on mountain-sides with sheets of deep blue gentians blooming all about him and flower breaths filling all the air and he had thought them. | Ông chỉ biết lang thang bên những hồ nước xanh thăm thẳm mà suy tư về chúng; hoặc ngả mình trên những sườn núi với các thảm cây long đởm xanh thẳm đang đua nở quanh ông, rồi hít làn hương thơm ngát tràn ngập cả không gian cũng chỉ để suy nghĩ về chúng mà thôi.
|
A terrible sorrow had fallen upon him when he had been happy and he had let his soul fill itself with blackness and had refused obstinately to allow any rift of light to pierce through. He had forgotten and deserted his home and his duties. When he traveled about, darkness so brooded over him that the sight of him was a wrong done to other people because it was as if he poisoned the air about him with gloom.
| Một nỗi đau buồn khủng khiếp đã giáng xuống giữa lúc ông đang hạnh phúc, từ đó ông cứ để mặc cho tâm hồn mình phủ bóng đen u ám và khăng khăng khước từ không cho tia sáng nào rọi qua. Ông đã quên lãng và bỏ mặc gia đình cùng bổn phận của mình. Tuy du ngoạn đó đây vậy nhưng tâm hồn ông lúc nào cũng ảm đạm buồn bã đến nỗi hễ thấy bóng dáng ông, mọi người đều coi đó như điềm chẳng lành, như thể ông đầu độc bầu không khí xung quanh bằng nỗi u sầu vậy.
|
Most strangers thought he must be either half mad or a man with some hidden crime on his soul. He, was a tall man with a drawn face and crooked shoulders and the name he always entered on hotel registers was, "Archibald Craven, Misselthwaite Manor, Yorkshire, England."
| Hầu hết những kẻ không quen biết đều cho rằng nếu ông không dở người thì cũng là một kẻ đang cắn rứt vì tội lỗi. Ông người cao lớn, khuôn mặt mệt mỏi phiền muộn, đôi vai lệch sang bên và cái tên ông thường dùng để đăng ký ở khách sạn là “Archibald Craven, Trang viên Misselthwaite, xứ Yorkshire, nước Anh”
|
He had traveled far and wide since the day he saw Mistress Mary in his study and told her she might have her "bit of earth." He had been in the most beautiful places in Europe, though he had remained nowhere more than a few days. He had chosen the quietest and remotest spots. He had been on the tops of mountains whose heads were in the clouds and had looked down on other mountains when the sun rose and touched them with such light as made it seem as if the world were just being born.
| Ông đã du ngoạn khắp nơi kể từ hôm gặp cô chủ nhỏ Mary trong phòng làm việc của mình và cho nó biết nó có thể có riêng “một mảnh đất”. Kể từ đó, ông đã sống ở những chốn đẹp nhất ở châu Âu, dù chẳng lưu lại nơi nào quá vài ngày. Ông chọn toàn những nơi hẻo lánh nhất, yên tĩnh nhất làm đích đến. Ông đã từng đặt chân lên những đỉnh núi chạm tới cả mây, và phóng tầm mắt xuống những ngọn núi khác vào lúc mặt trời mọc, và đưa tay hứng những tia nắng đầu tiên với cảm giác thế giới này vừa mới được sinh ra.
|
But the light had never seemed to touch himself until one day when he realized that for the first time in ten years a strange thing had happened. He was in a wonderful valley in the Austrian Tyrol and he had been walking alone through such beauty as might have lifted, any man's soul out of shadow. | Những tia nắng kia dường như chẳng bao giờ chạm tới đáy lòng ông cho tới một ngày, lần đầu tiên trong suốt mười năm qua, ông chợt thấy một điều kỳ lạ xảy ra. Bấy giờ, ông đang ở trong một thung lũng đẹp lạ lùng của vùng Tyrol nước Áo, vào hôm đang một mình đi dạo giữa một vùng đất trời đẹp đến nao lòng, tưởng chừng có thể nâng đỡ bất kỳ tâm hồn nào khỏi bóng tối tội lỗi.
|
He had walked a long way and it had not lifted his. But at last he had felt tired and had thrown himself down to rest on a carpet of moss by a stream. It was a clear little stream which ran quite merrily along on its narrow way through the luscious damp greenness.
| Ông đã đi được một đoạn đường dài và dường như cảnh vật đó chẳng tác động gì đến ông. Cuối cùng ông thấy mệt và nằm vật xuống nghỉ trên một thảm rêu xanh rì bên bờ suối. Đó là một dòng suối nhỏ nước trong veo chảy men theo con đường hẹp rồi cắt ngang qua một vùng đồng nội ẩm ướt ngọt ngào.
|
Sometimes it made a sound rather like very low laughter as it bubbled over and round stones. He saw birds come and dip their heads to drink in it and then flick their wings and fly away. It seemed like a thing alive and yet its tiny voice made the stillness seem deeper. The valley was very, very still. | Thỉnh thoảng con suối làm bật ra âm thanh nghe tựa một tiếng cười khẽ mỗi khi nó lượn qua và tung bọt nước trắng xóa trên mấy tảng đá. Ông thấy mấy con chim sà tới nhúng mỏ xuống uống nước, rồi tung cánh bay xa. Dòng suối đó chẳng khác nào một cơ thể sống động và tiếng nói khẽ khàng của nó càng khiến vẻ tĩnh mịch thêm sâu lắng. Cả thung lũng thật quá ư tĩnh mịch.
|
As he sat gazing into the clear running of the water, Archibald Craven gradually felt his mind and body both grow quiet, as quiet as the valley itself. He wondered if he were going to sleep, but he was not. He sat and gazed at the sunlit water and his eyes began to see things growing at its edge. There was one lovely mass of blue forget-me-nots growing so close to the stream that its leaves were wet and at these he found himself looking as he remembered he had looked at such things years ago. | Khi ngồi dậy nhìn xuống dòng nức trong vắt, ông Archibald Craven dần cảm thấy cả tâm hồn và thể xác mình cũng trở nên tĩnh lặng chẳng khác nào thung lũng này. Ông tự nhủ phải chăng mình buồn ngủ, nhưng đâu phải vậy. Ông ngồi thừ người mà đăm đắm nhìn làn nước chan hòa ánh nắng, đôi mắt ông bắt gặp đám cây mọc rải rác ngay sát mép nước. Thì ra đó là một vạt dày đặc những cây hoa lưu ly màu xanh hết sức dễ thương mọc kề bên dòng suối đến mức những cánh lá ướt sũng, và ông nhận ra mình đang ngắm nhìn loài hoa đó, trong lúc nhớ lại ông đã từng ngắm nhìn chúng nhiều năm trước đây.
|
He was actually thinking tenderly how lovely it was and what wonders of blue its hundreds of little blossoms were. He did not know that just that simple thought was slowly filling his mind--filling and filling it until other things were softly pushed aside. It was as if a sweet clear spring had begun to rise in a stagnant pool and had risen and risen until at last it swept the dark water away.
| Ông còn bâng khuâng nghĩ rằng điều đó sao mà đáng yêu và sắc xanh của hàng trăm đóa hoa li ti kia mới kỳ diệu xiết bao. Ông đâu biết chính ý nghĩ giản dị đó đang dần dà choáng ngợp tâm trí ông – choáng ngợp và choáng ngợp mãi cho tới khi những thứ khác được nhẹ nhàng đẩy sang bên. Nó chẳng khác nào dòng suối ngọt ngào trong vắt đang bắt đầu dâng trào nơi ao tù, và cứ thế dâng cao, dâng cao mãi, cuối cùng quét sạch đi tất cả chỗ nước tù đọng.
|
But of course he did not think of this himself. He only knew that the valley seemed to grow quieter and quieter as he sat and stared at the bright delicate blueness. He did not know how long he sat there or what was happening to him, but at last he moved as if he were awakening and he got up slowly and stood on the moss carpet, drawing a long, deep, soft breath and wondering at himself. Something seemed to have been unbound and released in him, very quietly. | Nhưng dĩ nhiên, ông không nghĩ về bản thân mình như vậy. Ông chỉ cảm thấy thung lũng mỗi lúc một vắng lặng quạnh quẽ hơn trong khi ông vẫn ngồi im, ánh mắt đăm đắm nhìn ra đồng cỏ mượt mà xanh nõn. Ông không biết mình đã ngồi đó được bao lâu hoặc chuyện gì đang diễn ra trong tâm hồn mình, rồi cuối cùng ông giật mình như thức tỉnh, ông chậm rãi đứng dậy và cứ đứng nguyên thế trên thảm rêu, hít một hơi thật dài, sâu và êm rồi ngỡ ngàng với chính mình. Dường như ông vừa trút bỏ, vừa giải thoát được điều gì đó trong lòng một cách lặng lẽ.
|
"What is it?" he said, almost in a whisper, and he passed his hand over his forehead. "I almost feel as if--I were alive!"
| - Có chuyện gì thế nhỉ - ông nói, hầu như chỉ là tiếng thì thầm, đoạn ông đưa tay lên trán – ta cảm thấy như mình vừa sống lại. |
I do not know enough about the wonderfulness of undiscovered things to be able to explain how this had happened to him. Neither does any one else yet. He did not understand at all himself--but he remembered this strange hour months afterward when he was at Misselthwaite again and he found out quite by accident that on this very day Colin had cried out as he went into the secret garden: "I am going to live forever and ever and ever!"
| Tôi không hiểu hết sư diệu kỳ của những điều chưa được khám phá để giải thích chuyện gì đã xảy đến với ông. Và những người khác cũng vậy thôi. Chính ông cũng không hiểu được. Nhưng nhiều tháng sau này, khi đã trở về Misselthwaite, ông nhớ lại giây phút kỳ lạ ấy, và ông hoàn toàn tình cờ mà phát hiện ra rằng chính đó là ngày mà Colin sung sướng gào lên ở bên trong khu vườn bí mật : “ Tớ sẽ sống mãi, mãi mãi, mãi mãi”. |
The singular calmness remained with him the rest of the evening and he slept a new reposeful sleep; but it was not with him very long. He did not know that it could be kept. By the next night he had opened the doors wide to his dark thoughts and they had come trooping and rushing back. He left the valley and went on his wandering way again. But, strange as it seemed to him, there were minutes--sometimes half-hours--when, without his knowing why, the black burden seemed to lift itself again and he knew he was a living man and not a dead one. Slowly--slowly--for no reason that he knew of--he was "coming alive" with the garden.
| Sự thanh thản khác thường vẫn còn bên ông cả buổi tối hôm ấy; ông đã ngủ một giấc ngủ khỏe khoắn và êm ả, dù chẳng được lâu. Ông không biết việc này liệu có kéo dài được chăng. Đến hôm sau, ông lại mở toang cánh cửa cho những ý nghĩ đen tối của ông ùa vào, chúng kéo từng đàn, từng lũ quay lại. Ông rời khỏi thung lũng, rồi lang thang trên các nẻo đường khác. Nhưng thật kỳ lạ thay cho ông, thi thoảng lại có vài phút, và đôi khi là suốt nửa giờ đồng hồ mà ngay ông cũng không hiểu tại sao, cái gánh nặng đen tối nọ tự nó lại rời đi và ông biết rằng từ nay ông là một con người đang tồn tại chứ không phải một kẻ đã chết. Dần dà dần dà, ông chẳng rõ vì nguyên cớ gì, ông đang sống lại cùng với khu vườn.
|
As the golden summer changed into the deep golden autumn he went to the Lake of Como. There he found the loveliness of a dream. He spent his days upon the crystal blueness of the lake or he walked back into the soft thick verdure of the hills and tramped until he was tired so that he might sleep. But by this time he had begun to sleep better, he knew, and his dreams had ceased to be a terror to him. "Perhaps," he thought, "my body is growing stronger."
| Khi mùa hạ lộng lẫy chuyển sang sắc thu vàng sâu lắng, ông bèn tới thăm hồ Como. Chính nơi đây ông mới hiểu thế nào là vẻ đẹp của một giấc mơ. Ông bồng bềnh phiêu lãng suốt mấy ngày liền trên mặt hồ xanh thẫm và trong vắt tựa pha lê, hoạc dạo chơi trên các trảng cỏ dày mượt của đồi nuí, lê bước cho tới khi cơ thể rã rời muốn lăn quay ra ngủ. Vào thời gian này, ông bắt đầu ngủ ngon hơn, ông biết vậy, và những giấc mộng cũng thôi không còn là một nỗi kinh hoàng đối với ông nữa. -Có lẽ, ông nghĩ – cơ thể mình đang ngày càng khỏe lên.
|
It was growing stronger but--because of the rare peaceful hours when his thoughts were changed--his soul was slowly growing stronger, too. He began to think of Misselthwaite and wonder if he should not go home. Now and then he wondered vaguely about his boy and asked himself what he should feel when he went and stood by the carved four-posted bed again and looked down at the sharply chiseled ivory-white face while it slept and, the black lashes rimmed so startlingly the close-shut eyes. He shrank from it.
| Không những cơ thề ông ngày một đổi khác mà nhờ những giờ phút yên bình hiếm hoi, suy nghĩ của ông thay đổi và cả tâm hồn của ông cũng trở nên mạnh mẽ. Ông bắt đầu nghĩ tới Misselthwaite và tự hỏi sao mình còn chưa trở về nhà. Nhiều lúc ông thảng thốt không biết hiện giờ đứa con trai của mình ra sao và tự hỏi lòng xem ông sẽ cảm thấy gì khi tới đứng bên chiếc giường có bốn cây cọc gỗ chạm trổ và cúi xuống ngắm khuôn mặt trắng bợt màu sáp giữa lúc nó đang ngủ với hàng mi rợp trên đôi mắt nhắm nghiền. Ông đã lưỡng lự khi nghĩ tới điều đó.
|
One marvel of a day he had walked so far that when he returned the moon was high and full and all the world was purple shadow and silver. The stillness of lake and shore and wood was so wonderful that he did not go into the villa he lived in. He walked down to a little bowered terrace at the water's edge and sat upon a seat and breathed in all the heavenly scents of the night. He felt the strange calmness stealing over him and it grew deeper and deeper until he fell asleep.
| Vào một lúc tuyệt diệu nhất trong ngày, ông dạo bộ xa đến nỗi khi trở về thì trăng đã lên cao. Khắp nơi tràn trề ánh trăng và cả thế giới này tựa hồ được dát bằng bạc. Sự tĩnh lặng của mặt hồ, bờ hồ và rừng cây tuyệt vời đến nỗi ông chẳng nỡ bước vào ngôi biệt thự nơi ông ở. Ông bước xuống một thềm hiên nhỏ sát ngay mép nước, ngồi xuống ghế rồi hít căng lồng ngực mọi hương thơm tuyệt diệu về đêm của núi rừng. Ông cảm nhận rõ một sự yên ả kỳ lạ đang tràn ngập tâm hồn và mỗi lúc một thấm sâu hơn, cho tới lúc ông ngủ thiếp đi.
|
He did not know when he fell asleep and when he began to dream; his dream was so real that he did not feel as if he were dreaming. He remembered afterward how intensely wide awake and alert he had thought he was. He thought that as he sat and breathed in the scent of the late roses and listened to the lapping of the water at his feet he heard a voice calling. It was sweet and clear and happy and far away. It seemed very far, but he heard it as distinctly as if it had been at his very side.
| Ông không hề hay biết gì trong lúc chợp mắt và bắt đầu mơ, giấc mơ ấy thực đến nỗi ông không ngỡ mình đang mơ. Sau này, ông còn nhớ mình đã tỉnh táo và suy nghĩ rành mạch ra sao. Ông nhớ rằng giữa lúc ông đang ngồi đó, tận hưởng hương thơm tỏa ra từ những đóa hồng nở muộn và lắng tai nghe tiếng nước vỗ ì oạp dưới chân thì nghe có tiếng ai đang gọi. Tiếng gọi ấy hết sức dịu dàng, rõ ràng, nghẹn ngào hạnh phúc nhưng cũng xa vời vợi. Nó xa tít mù khơi, thế nhưng ông lại nghe thấy mồn một như thể ở ngay bên ông.
|
"Archie! Archie! Archie!" it said, and then again, sweeter and clearer than before, "Archie! Archie!" He thought he sprang to his feet not even startled. It was such a real voice and it seemed so natural that he should hear it.
| -Anh Archie! Anh Archie! Anh Archie! Tiếng gọi, lặp đi lặp lại, mỗi lúc một ngọt ngào và rõ ràng hơn - Anh Archie! Anh Archie! Ông còn nhớ ông đã đứng phắt dậy, nhưng không hề giật mình hoảng hốt. Đó là một giọng nói có thực và tự nhiên đến nỗi ông không thể không thể không nghe thấy.
|
"Lilias! Lilias!" he answered. "Lilias! where are you?" "In the garden," it came back like a sound from a golden flute. "In the garden!"
| - Lilias ! Lilias phải không ? – Ông đáp lời - Lilias, em ở đâu ? - Em đang ở trong vườn – tiếng nói vọng lại tựa như âm thanh phát ra từ một cây sáo bằng vàng. - Em đang ở trong vườn.
|
And then the dream ended. But he did not awaken. He slept soundly and sweetly all through the lovely night. When he did awake at last it was brilliant morning and a servant was standing staring at him.
| Đến đây thì giấc mơ kết thúc, nhưng ông vẫn chưa tỉnh giấc. Ông đã ngủ một giấc say sưa, ngọt ngào suốt đêm hôm đó. Khi ông tỉnh dậy thì mặt trời đã chói lọi, người hầu phòng đang đứng chằm chằm nhìn ông tự bao giờ.
|
He was an Italian servant and was accustomed, as all the servants of the villa were, to accepting without question any strange thing his foreign master might do. No one ever knew when he would go out or come in or where he would choose to sleep or if he would roam about the garden or lie in the boat on the lake all night. The man held a salver with some letters on it and he waited quietly until Mr. Craven took them. | Anh ta là người Ý và cũng giống như tất cả các người hầu phòng trong biệt thự, anh ta quen với việc chấp nhận ngay lập tức mọi điều kỳ quặc mà các ông khách nước ngoài có thể làm. Không một ai được biết khi nào họ đi hay về hay họ sẽ ngủ lại ở đâu, họ thích lang thang trong vườn hay nằm trong thuyền, bồng bềnh trên mặt hồ suốt đêm. Anh ta đang đỡ một cái khay trên có mấy bức thư, lặng lẽ đứng đợi cho tới khi ông Craven nhận lấy chúng.
|
When he had gone away Mr. Craven sat a few moments holding them in his hand and looking at the lake. His strange calm was still upon him and something more--a lightness as if the cruel thing which had been done had not happened as he thought--as if something had changed. He was remembering the dream--the real--real dream.
| Khi anh ta đi khỏi, ông Craven vẫn ngồi mấy phút, tay cầm thư và ngắm mặt hồ. Cái cảm giác yên bình kỳ lạ vẫn còn nguyên trong ông và một cái gì đó hơn thế - như ánh sáng đã chiếu rọi, như thể những điều ác nghiệt đã từng xảy ra nhưng lại không có thực như ông tưởng – một điều gì đó đã thay đổi. Ông đang nhớ lại giấc mơ, một giấc mơ rất thực. |
"In the garden!" he said, wondering at himself. "In the garden! But the door is locked and the key is buried deep." When he glanced at the letters a few minutes later he saw that the one lying at the top of the rest was an English letter and came from Yorkshire. It was directed in a plain woman's hand but it was not a hand he knew. He opened it, scarcely thinking of the writer, but the first words attracted his attention at once.
| -Trong khu vườn ! Ông thốt lên, tự mình cũng thấy ngạc nhiên. – Trong khu vườn. Nhưng cánh cửa đã bị khóa chặt, còn chiếc chìa thì bị vùi sâu lắm kia mà. Mấy phút sau, ông liếc mắt qua mấy bức thư, và nhận thấy bức thư đầu tiên viết bằng tiếng Anh, từ Yorkshire gửi tới. Nó được viết trực tiếp từ một bàn tay phụ nữ chất phác, nhưng không phải nét chữ ông quen. Ông mở phong bì, không đoán được người viết, nhưng những chữ đầu tiên ngay lập tức đã thu hút sự chú ý của ông.
|
"Dear Sir: I am Susan Sowerby that made bold to speak to you once on the moor. It was about Miss Mary I spoke. I will make bold to speak again. Please, sir, I would come home if I was you. I think you would be glad to come and--if you will excuse me, sir--I think your lady would ask you to come if she was here. Your obedient servant, Susan Sowerby."
| Ngài kính mến, Tôi là Susan Sowerby, kẻ đã có lần mạo muội nói chuyện với ngài trên cánh đồng hoang. Hôm ấy, tôi đã thưa với ngài về cô chủ Mary. Tôi xin mạo muội thưa lại lần nữa. Thưa ngài, mong ngài lượng thứ, nếu ở địa vị ngài thì tôi sẽ trở về nhà. Tôi nghĩ ngài sẽ lấy làm mừng khi về đến nhà và, xin bỏ quá cho, tôi cho rằng phu nhân của ngài cũng mong mỏi điều đó, nếu như bà có ở đây. Bề tôi trung thành của ngài Susan Sowerby.
|
Mr. Craven read the letter twice before he put it back in its envelope. He kept thinking about the dream. "I will go back to Misselthwaite," he said. "Yes, I'll go at once." And he went through the garden to the villa and ordered Pitcher to prepare for his return to England.
| Ông Craven đã đọc bức thư hai lần trước khi cất nó vào phong bì. Ông lại nghĩ ngợi tiếp về giấc mơ nọ. - Ta sẽ trở về Misselthwaite. Phải rồi, ta sẽ trở về ngay lập tức. Rồi sau đó, ông băng qua khu vườn để vào tòa biệt thự, và ra lệnh cho Pitcher sửa soạn cho chuyến trở về nước Anh. |
In a few days he was in Yorkshire again, and on his long railroad journey he found himself thinking of his boy as he had never thought in all the ten years past. During those years he had only wished to forget him. | Chỉ mấy ngày sau, ông đã đặt chân lên xứ Yorkshire, và trong cuộc hành trình bằng xe lửa dài dằng dặc ấy, ông nhận thấy mình lúc nào cũng nghĩ tới thằng bé mà suốt mười năm qua ông không bao giờ nghĩ đến. Trong những năm tháng ấy, ông chỉ ước sao quên được nó.
|
Now, though he did not intend to think about him, memories of him constantly drifted into his mind. He remembered the black days when he had raved like a madman because the child was alive and the mother was dead.
| Bây giờ, cho dù ông không có ý định nghĩ tới, thì những kỷ niệm về thằng bé cứ liên tục trở về trong tâm trí ông. Nhớ lại những ngày đen tối ấy, ông đã la hét như điên như dại chẳng khác nào một kẻ loạn óc, bởi đứa trẻ còn sống mà mẹ nó lại lìa đời. |
He had refused to see it, and when he had gone to look at it at last it had been, such a weak wretched thing that everyone had been sure it would die in a few days. But to the surprise of those who took care of it the days passed and it lived and then everyone believed it would be a deformed and crippled creature.
| Ông đã từ chối không muốn nhìn mặt con trai, nhưng khi cuối cùng ông tới nhìn nó thì thấy cái sinh linh bất hạnh ấy yếu ớt đến độ ai nấy đều cả quyết, chỉ ít ngày nữa nó sẽ chết. Rồi trước sự ngạc nhiên của những người chăm sóc nó, ngày qua ngày nó vẫn cứ sống, và khi đó mọi người tin rằng đây hẳn là một đứa bé dị dạng và què quặt.
|
He had not meant to be a bad father, but he had not felt like a father at all. He had supplied doctors and nurses and luxuries, but he had shrunk from the mere thought of the boy and had buried himself in his own misery. | Ông không có ý làm một người cha tồi, nhưng trong ông không có cảm giác như một người cha chút nào. Ông đã mang đến cho thằng bé các bác sỹ, các cô bảo mẫu và nhiều thứ đồ đắt tiền, thế nhưng chỉ cần nghĩ đến nó thôi là ông đã thấy sợ hãi muốn lùi bước, để vùi mình vào nỗi khốn khổ của riêng ông.
|
The first time after a year's absence he returned to Misselthwaite and the small miserable looking thing languidly and indifferently lifted to his face the great gray eyes with black lashes round them, so like and yet so horribly unlike the happy eyes he had adored, he could not bear the sight of them and turned away pale as death.
| Lần đầu tiên sau một năm vắng mặt, ông quay trở về Misselthwaite và mỗi khi cái sinh vật nhỏ bé thống khổ ấy uể oải, hờ hững ngẩng khuôn mặt có đôi mắt xám to tròn rợp bóng mi đen lên, đôi mắt vừa giống vừa không giống đến mức khủng khiếp với đôi mắt tràn ngập hạnh phúc mà ông quá đỗi tôn thờ; lúc đó, ông cảm thấy không sao chịu đựng nổi và quay đi, tái nhợt như một xác chết.
|
After that he scarcely ever saw him except when he was asleep, and all he knew of him was that he was a confirmed invalid, with a vicious, hysterical, half-insane temper. He could only be kept from furies dangerous to himself by being given his own way in every detail.
| Vả lại, ông cũng hiếm khi nhìn thấy nó, có chăng vào lúc nó ngủ nên tất cả những gì ông biết về nó là một đứa tàn tật, tính khí cuồng loạn, hằn học và trì độn. Cách duy nhất để tránh cho thằng bé những cơn cuồng nộ nguy hiểm là đáp ứng mọi yêu sách của nó, dù là nhỏ nhất.
|
All this was not an uplifting thing to recall, but as the train whirled him through mountain passes and golden plains the man who was "coming alive" began to think in a new way and he thought long and steadily and deeply.
| Khi đoàn tàu đưa ông đi xuyên qua các hẻm núi và lướt trên những cánh đồng vàng óng thì người đàn ông “đang sống lại” ấy bắt đầu suy nghĩ về mọi thứ theo một cách mới mẻ, điềm tĩnh và sâu sắc hơn.
|
"Perhaps I have been all wrong for ten years," he said to himself. "Ten years is a long time. It may be too late to do anything--quite too late. What have I been thinking of!"
| “Có lẽ ta đã hoàn toàn sai lầm trong suốt mười năm qua” – ông tự nhủ - :mười năm là cả một khoảng thời gian dài. Giờ đây, có thể đã quá muộn để làm lại, hoàn toàn quá muộn. Ta đã nghĩ những gì cơ chứ”.
|
Of course this was the wrong Magic--to begin by saying "too late." Even Colin could have told him that. But he knew nothing of Magic--either black or white. This he had yet to learn.
| Dĩ nhiên, đây là thứ phép màu sai lầm, vì nó được bắt đầu bằng từ “quá muộn”. Thậm chí, Colin cũng có thể nói với ông như thế. Nhưng ông nào có biết gì về phép màu – dù là một phép thuật tốt đẹp hay hắc ám đi chăng nữa. Điều này ông vẫn còn chưa học được.
|
He wondered if Susan Sowerby had taken courage and written to him only because the motherly creature had realized that the boy was much worse--was fatally ill. If he had not been under the spell of the curious calmness which had taken possession of him he would have been more wretched than ever. But the calm had brought a sort of courage and hope with it. Instead of giving way to thoughts of the worst he actually found he was trying to believe in better things.
| Ông tự vấn, liệu có phải bà Sowerby đánh bạo viết thư cho ông, vì tình thương của người mẹ đã giúp bà nhận ra thằng bé đang nguy kịch hơn - một trận ốm thập tử nhất sinh chẳng hạn. Nếu không có sự bình yên kỳ lạ đang xâm chiếm tâm hồn, hẳn ông đã cảm thấy lòng mình tan nát hơn bao giờ hết. Sự bình yên đó cũng mang lại cho ông can đảm và hy vọng. Thay vì những ý nghĩ u uẩn, ông thấy mình đang cố gắng tin tưởng vào những điều tốt lành hơn.
|
"Could it be possible that she sees that I may be able to do him good and control him?" he thought. "I will go and see her on my way to Misselthwaite."
| “Có lẽ nàng cũng nhận thấy ta có thể làm điều tốt cho thằng bé và giữ cho nó được bình an?” – Ông nghĩ – “Ta sẽ quay về và gặp nàng trên con đường trở lại Misselthwaite”
|
But when on his way across the moor he stopped the carriage at the cottage, seven or eight children who were playing about gathered in a group and bobbing seven or eight friendly and polite curtsies told him that their mother had gone to the other side of the moor early in the morning to help a woman who had a new baby. "Our Dickon," they volunteered, was over at the Manor working in one of the gardens where he went several days each week.
| Đang băng qua cánh đồng hoang, ông cho dừng cỗ xe trước mái nhà gianh. Chừng bảy, tám đứa trẻ đang tụ tập thành một nhóm chơi đùa, thấy khách lạ chúng liền lịch sự nhún gối chào một cách thân thiện. Chúng thưa với ông rằng mẹ chúng đã sang bên kia đồng hoang từ sớm tinh mơ để giúp một phụ nữ sinh em bé. “Còn anh Dickon nhà chúng cháu”, chúng bảo, “thì đang ở bên Trang viên làm vườn, mỗi tuần anh ấy phải mất mấy ngày ở bên ấy.”
|
Mr. Craven looked over the collection of sturdy little bodies and round red-cheeked faces, each one grinning in its own particular way, and he awoke to the fact that they were a healthy likable lot. He smiled at their friendly grins and took a golden sovereign from his pocket and gave it to "our 'Lizabeth Ellen" who was the oldest.
| Ông Craven đưa mắt nhìn đám trẻ khắp một lượt, đứa nào thân hình cũng cứng cáp, mặt mũi tròn trịa, má đỏ hây hây, mỗi đứa toét miệng một kiểu, biểu lộ sự vui thích, khiến ông nhận ra chúng đều vô cùng khỏe mạnh dễ thương. Ông cũng mỉm cười đáp lại những nụ cười thân thiện của chúng. Ông lấy trong túi ra một đồng “xôrơven” và tặng cho “Lizabeth Ellen nhà chúng cháu” – đứa lớn tuổi nhất trong cả đám.
|
"If you divide that into eight parts there will be half a crown for each of, you," he said. Then amid grins and chuckles and bobbing of curtsies he drove away, leaving ecstasy and nudging elbows and little jumps of joy behind.
| - Nếu các cháu chia nó làm tám phần thì mỗi đứa sẽ được một nửa cơrao đấy. Thế rồi, giữa những nụ cười toe toét hay khúc khích, những cái nhún gối chào của bọn trẻ, ông cho xe lăn bánh, để lại đằng sau cảnh chen huých và nhảy nhót vui vẻ.
|
The drive across the wonderfulness of the moor was a soothing thing. Why did it seem to give him a sense of homecoming which he had been sure he could never feel again--that sense of the beauty of land and sky and purple bloom of distance and a warming of the heart at drawing, nearer to the great old house which had held those of his blood for six hundred years?
| Chuyến đi băng qua cảnh trí kỳ diệu của đồng hoang thật dễ chịu làm sao. Điều đó mang đến cho ông cảm giác được về nhà mà ông từng nghĩ chẳng bao giờ có nổi, cảm giác về vẻ đẹp của vùng đất và bầu trời và những vạt hoa tím xa xa, sự ấm áp trong lòng khi mỗi lúc ông lại được gần thêm ngôi nhà cổ kính nguy nga đã gắn bó với tổ tiên ông từ sáu trăm năm qua.
|
How he had driven away from it the last time, shuddering to think of its closed rooms and the boy lying in the four-posted bed with the brocaded hangings. Was it possible that perhaps he might find him changed a little for the better and that he might overcome his shrinking from him? How real that dream had been--how wonderful and clear the voice which called back to him, "In the garden--In the garden!"
| Tại sao ông nỡ lòng xa lánh nó trong suốt thời gian qua, và rùng mình sợ hãi khi nghĩ đến những căn phòng khóa chặt cùng cậu con trai đang nằm trên giường có bốn cọc gỗ chạm trổ, xung quanh căng những tấm gấm thêm kim tuyến. Liệu ông có thể thay đổi bản thân mình để trở nên tốt đẹp hơn, và vượt qua được những do dự của chính ông? Giấc mơ nọ mới thực làm sao, và giọng nói ấy mới kỳ diệu và rõ ràng làm sao khi gọi ông trở về : “Em đang ở trong vườn… Em đang ở trong vườn!”
|
"I will try to find the key," he said. "I will try to open the door. I must--though I don't know why." When he arrived at the Manor the servants who received him with the usual ceremony noticed that he looked better and that he did not go to the remote rooms where he usually lived attended by Pitcher. He went into the library and sent for Mrs. Medlock. She came to him somewhat excited and curious and flustered.
| “Mình sẽ cố tìm lại chiếc chìa khóa,- ông nói - mình sẽ cố mở cánh cửa ấy ra. Mình phải làm vậy… mặc dù mình chẳng biết tại sao.” Khi ông về đến Trang viên, đám gia nhân đón ông với nghi lễ thường có, cả bọn đều nhận thấy trông ông khá hơn trước. Ông không đi về mấy căn phòng biệt lập mà ông đã quen sống ở trong với sự phục dịch của Pitcher. Ông đến thẳng thư viện rồi cho gọi bà Medlock. Bà đến gặp ông, bộ dạng bối rối, đỏ mặt tía tai:
|
"How is Master Colin, Medlock?" he inquired. "Well, sir," Mrs. Medlock answered, "he's--he's different, in a manner of speaking." "Worse?" he suggested. Mrs. Medlock really was flushed. "Well, you see, sir," she tried to explain, "neither Dr. Craven, nor the nurse, nor me can exactly make him out." "Why is that?" "To tell the truth, sir, Master Colin might be better and he might be changing for the worse. His appetite, sir, is past understanding--and his ways--" "Has he become more--more peculiar?" her master, asked, knitting his brows anxiously.
| -Cậu chủ Colin ra sao, bà Medlock ? – Ông hỏi thăm… -Tốt lắm, thưa ngài – bà Medlock đáp, cậu ấy… cậu ấy nom khác hẳn, theo một cách nào đấy. -Xấu đi à? - ông gợi ý . Bà Medlock mặt đỏ bừng lên. -Chà, ngài thấy đấy, thưa ngài – bà cố tìm lời giải thích, cả bác sỹ Craven lẫn cô bảo mẫu và tôi đều khó có thể hiểu được cậu ấy. -Tại sao thế ? -Sự thực mà nói, thưa ngài, cậu Colin có thể khá hơn lên mà cũng có thể đang thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Cái sự ngọn miệng của cậu ấy, thưa ngài, thì khó mà hiểu nổi… và cái cách mà cậu ấy… -Thế ra thằng bé ngày càng trở nên… kỳ lạ hơn ? – ông chủ của bà hỏi, hai hàng lông mày của ông nhíu lại vẻ lo lắng.
|
"That's it, sir. He's growing very peculiar--when you compare him with what he used to be. He used to eat nothing and then suddenly he began to eat something enormous --and then he stopped again all at once and the meals were sent back just as they used to be. You never knew, sir, perhaps, that out of doors he never would let himself be taken.
| -Đúng thế, thưa ngài. Cậu ấy ngày càng trở nên hết sức kỳ quặc, nếu ông muốn so sánh với những gì cậu ấy vẫn thường tỏ ra. Thường ngày cậu ấy chẳng ăn gì cả, thế rồi đột nhiên cậu ấy ăn lấy ăn để… và sau đó lại không động lấy một miếng, các bữa ăn dọn lên thế nào lại trả về bếp thế ấy. Ngày không biết đấy thôi, thưa ngài, chưa bao giờ cậu ấy để cho mọi người đưa ra ngoài trời.
|
The things we've gone through to get him to go out in his chair would leave a body trembling like a leaf. He'd throw himself into such a state that Dr. Craven said he couldn't be responsible for forcing him. Well, sir, just without warning--not long after one of his worst tantrums he suddenly insisted on being taken out every day by Miss Mary and Susan Sowerby's boy Dickon that could push his chair. He took a fancy to both Miss Mary and Dickon, and Dickon brought his tame animals, and, if you'll credit it, sir, out of doors he will stay from morning until night." | Những việc chúng tôi đã phải trải qua mỗi lần đưa cậu ấy ra ngoài trời bằng xe lăn sẽ khiến cho người khác run rẩy như một chiếc lá. Cậu ấy đã tự đẩy mình vào tình trạng mà bác sỹ Craven phải bảo, ông ấy không thể chịu trách nhiệm ép buộc cậu. Chà thưa ngài, chịu không tài nào đoán trước được. Chẳng bao lâu sau cơn cuồng loạn tồi tệ nhất của mình, cậu ấy đột nhiên khăng đòi ra ngoài trời hằng ngày với cô Mary và thằng bé Dickon con bà Susan Sowerby, thằng bé này đẩy xe giúp cậu ấy. Cậu ấy thích cả cô Mary lẫn Dickon. Thằng Dickon thường mang theo bầy thú hoang dã thuần hóa của nó, và liệu ngài có tin không, thưa ngài, cậu ấy cứ ở ngoài nhà từ sáng sớm đến tối mịt mới về.
|
"How does he look?" was the next question. "If he took his food natural, sir, you'd think he was putting on flesh--but we're afraid it may be a sort of bloat. He laughs sometimes in a queer way when he's alone with Miss Mary. He never used to laugh at all. Dr. Craven is coming to see you at once, if you'll allow him. He never was as puzzled in his life."
| -Thằng bé trông thế nào ? - Nếu cậu ấy ăn uống một cách tự nhiên, thừa ngài, thì ngài có thể tin rằng cậu ấy đang béo ra. Nhưng chúng tôi đều e rằng đó có thể là một dạng phù. Thỉnh thoảng cậu ấy còn cười một cách kỳ quặc khi chỉ có một mình với cô Mary. Cậu ấy có mấy khi cười đâu. Bác sỹ Craven sẽ tới thăm ngay bây giờ, nếu ngài cho phép. Ông ấy chưa bao giờ bối rối đến thế trong đời.
|
"Where is Master Colin now?" Mr. Craven asked. "In the garden, sir. He's always in the garden--though not a human creature is allowed to go near for fear they'll look at him." Mr. Craven scarcely heard her last words. "In the garden," he said, and after he had sent Mrs. Medlock away he stood and repeated it again and again. "In the garden!"
| - Cậu chủ Colin giờ ở đâu ? Ông Craven hỏi . -Ở ngoài vườn, thưa ngài. Cậu ấy luôn ở ngoài vườn, và không môt người nào được phép đến gần, vì cậu ấy sợ mọi người trông thấy mình. Ông Craven khó có thể nghe rõ những lời cuối cùng của bà. -Ở ngoài vườn ! – ông kêu lên, và sau khi cho phép bà lui ra, ông đứng dậy nhắc đi nhắc lại câu ấy. - Ở ngoài vườn !
|
He had to make an effort to bring himself back to the place he was standing in and when he felt he was on earth again he turned and went out of the room. He took his way, as Mary had done, through the door in the shrubbery and among the laurels and the fountain beds. The fountain was playing now and was encircled by beds of brilliant autumn flowers.
| Phải cố gắng lắm ông mới trấn tĩnh được. Và khi đã bình tĩnh lại, ông quay người và ra khỏi phòng. Ông cũng phải tìm đường chẳng khác gì con bé Mary. Sau khi bước qua cánh cửa, ông đặt chân vào giữa một nơi có nhiều cây bụi với hai hàng nguyệt quế và các luống hoa chạy quanh đài phun nước. Đài phun nước đang phun, xung quanh là những thảm hoa rực rỡ.
|
He crossed the lawn and turned into the Long Walk by the ivied walls. He did not walk quickly, but slowly, and his eyes were on the path. He felt as if he were being drawn back to the place he had so long forsaken, and he did not know why. As he drew near to it his step became still more slow. He knew where the door was even though the ivy hung thick over it--but he did not know exactly where it lay--that buried key.
| Ông băng qua thảm cỏ rồi ngoặt vào lối đi dạo dài hun hút chạy men theo những bức tường phủ đầy dây tường xuân. Ông không vội vàng mà chỉ chậm rãi từng bước, nhìn như dán mắt vào con đường mòn. Ông có cảm tưởng đang bị kéo trở về nơi mình đã bỏ rơi bấy lâu mà chẳng rõ vì sao. Càng gần tới đó, bứơc chân ông càng trở nên chậm chạp. Ông biết chỗ cánh cửa, cho dù cả một mảng thường xuân ken dày đang phủ kín lấy nó, nhưng ông không nhớ chính xác chỗ chiếc chìa khoá bị vùi.
|
So he stopped and stood still, looking about him, and almost the moment after he had paused he started and listened--asking himself if he were walking in a dream.
| Ông dừng bước, đứng lặng người và nhìn xung quanh, lúc đó ông hầu như chỉ thẫn thờ lắng nghe rồi tự hỏi phải chăng mình đang đi trong một giấc mơ.
|
The ivy hung thick over the door, the key was buried under the shrubs, no human being had passed that portal for ten lonely years--and yet inside the garden there were sounds. They were the sounds of running scuffling feet seeming to chase round and round under the trees, they were strange sounds of lowered suppressed voices--exclamations and smothered joyous cries.
| Dây thường xuân mọc dày đặc trước cánh cửa ra vào, chiếc chìa khoá đã được vùi kín dưới mấy bụi cây kia, không người nào bước qua cánh cửa vườn trong mười năm cô đơn đó; vậy nhưng bên trong vườn lại có những âm thanh. Có tiếng chân ai đang chạy, tiếng những chiếc giày đuổi nhau vòng vòng dưới những tán cây, lại thêm giọng nói lạ lùng của ai đó đang cố nén cho khẽ đi, để rồi bật ra thành những tiếng reo kinh ngạc và vui vẻ.
|
It seemed actually like the laughter of young things, the uncontrollable laughter of children who were trying not to be heard but who in a moment or so--as their excitement mounted--would burst forth. What in heaven's name was he dreaming of--what in heaven's name did he hear? Was he losing his reason and thinking he heard things which were not for human ears? Was it that the far clear voice had meant?
| Đó dường như là những tiếng cười tươi trẻ, thoải mái của một đám trẻ con đang không muốn người ta nghe thấy mình, nhưng trong khoảnh khắc không kìm nén được, lại vỡ ra ồn ã. Phải chăng đó là chốn thiên đường ông đang mơ tới ? Và những gì mà ông đang nghe thấy không phải dành cho đôi tai con người. Giọng nói trong trẻo, xa xăm kia muốn nhắn nhủ điều gì?
|
And then the moment came, the uncontrollable moment when the sounds forgot to hush themselves. The feet ran faster and faster--they were nearing the garden door--there was quick strong young breathing and a wild outbreak of laughing shows which could not be contained--and the door in the wall was flung wide open, the sheet of ivy swinging back, and a boy burst through it at full speed and, without seeing the outsider, dashed almost into his arms.
| Và cái giây phút ấy đã đến, cái giây phút không sao kiềm chế nổi, khi những âm thanh quên mất phải im lặng. Tiếng chân chạy mỗi lúc một nhanh hơn… chúng đang đến gần cánh cửa khu vườn… có thể nghe rõ cả tiếng thở trẻ trung, mạnh và gấp, và cả tiếng cười, tiếng la hét không thể kìm nén được nữa… rồi cánh cửa nơi hõm từơng mở toang, tấm thảm dày do những cành thường xuân kết thành đung đưa, một thằng bé chạy ào ra và chẳng cần ngó nghiêng gì bên ngoài, nó gần như rơi vào vòng tay ông.
|
Mr. Craven had extended them just in time to save him from falling as a result of his unseeing dash against him, and when he held him away to look at him in amazement at his being there he truly gasped for breath. He was a tall boy and a handsome one. He was glowing with life and his running had sent splendid color leaping to his face. He threw the thick hair back from his forehead and lifted a pair of strange gray eyes--eyes full of boyish laughter and rimmed with black lashes like a fringe. It was the eyes which made Mr. Craven gasp for breath. "Who--What? Who!" he stammered.
| Ông Craven vừa kịp dang rộng hai tay ra, chứ không thì thằng bé đã ngã bổ ngửa khi nó chẳng nhìn ngó gì lao vụt tới. Ông đỡ lấy nó và kinh ngạc ngắm nhìn khi nó lúc này đây còn đang thở hổn hển. Đó là một thằng bé cao lớn, xinh trai, bừng bừng sức sống. Vừa lao từ trong ra nên cả khuôn mặt nó hồng hào rạng rỡ. Nó vuốt mái tóc dày về phía sau rồi ngước đôi mắt xám kỳ lạ nhìn ông – đôi mắt ngập tràn niềm vui trẻ con với hàng mi đen huyền. Ông Craven nghẹn ngào khi nhìn vào đôi mắt ấy. -Ai đây? Cái gì thế này ? Ai thế hả ? Ông lắp bắp .
|
This was not what Colin had expected--this was not what he had planned. He had never thought of such a meeting. And yet to come dashing out--winning a race--perhaps it was even better. He drew himself up to his very tallest. Mary, who had been running with him and had dashed through the door too, believed that he managed to make himself look taller than he had ever looked before--inches taller. "Father," he said, "I'm Colin. You can't believe it. I scarcely can myself. I'm Colin." Like Mrs. Medlock, he did not understand what his father meant when he said hurriedly:
| Đó đâu phải những gì Colin mong chờ, đó cũng không phải những điều nó chuẩn bị từ trước. Nó chưa bao giờ nghĩ tới một cuộc gặp như vậy. Cứ thế mà lao ra, bởi còn mải chạy đua với hai đứa kia. Mà thế cũng tốt. Nó rướn thẳng người lên. Con bé Mary, vừa chạy cùng với nó và cũng lao qua cánh cửa, tin chắc rằng thằng bé cuối cùng đã khiến cho mình trông cao hơn hẳn mọi bữa. -Cha, nó nói, – con là Colin. Cha không thể tin chứ gì. Ngay con cũng còn không tin nổi nữa là. Con là Colin đây. Giống y như bà Medlock, nó không hiểu ý ông ra sao nữa khi ông hối hả kêu lên:
|
"In the garden! In the garden!" "Yes," hurried on Colin. "It was the garden that did it--and Mary and Dickon and the creatures--and the Magic. No one knows. We kept it to tell you when you came. I'm well, I can beat Mary in a race. I'm going to be an athlete." He said it all so like a healthy boy--his face flushed, his words tumbling over each other in his eagerness--that Mr. Craven's soul shook with unbelieving joy.
| -Ở trong vườn ! Ở trong vườn ! -Vâng, Colin cũng hối hả đáp lại.- Chính khu vườn này đã làm nên chuyện đó, rồi Mary, Dickon và bầy thú… và Phép màu nữa. Chưa một ai hay biết chuyện này. Con đã giữ kín nó trong lòng để kể cho cha ngày cha trở về. Con đã hoàn toàn khoẻ mạnh. Con có thể thách Marey chạy đua kia đấy. Con sắp trở thành một vận động viên. Nó nói tất cả chuyện ấy như một đứa trẻ khoẻ mạnh: mặt nó ửng hồng, lời nói tuôn ra lộn xộn trong háo hức khiến cho tâm hồn ông Craven choáng ngợp trước một niềm vui không sao tả xiết.
|
Colin put out his hand and laid it on his father's arm. "Aren't you glad, Father?" he ended. "Aren't you glad? I'm going to live forever and ever and ever!" Mr. Craven put his hands on both the boy's shoulders and held him still. He knew he dared not even try to speak for a moment. "Take me into the garden, my boy," he said at last. "And tell me all about it." And so they led him in.
| Colin đưa tay vịn vào cánh tay cha nó. - Cha có vui không, cha ? – Nó kết thúc – Cha có vui không ? Con sẽ được sống mãi mãi! Ông Craven đặt cả hai bàn tay lên đôi vai đứa con trai, rồi siết chặt lấy nó. Ông biết đó là lúc ông không thể nói thêm gì nữa. - Đưa cha vào trong vườn nào, con trai ta, - cuối cùng, ông lên tiếng, - và kể cho cha nghe mọi điều về nó. Bọn trẻ liền dẫn ông vào trong vườn.
|
The place was a wilderness of autumn gold and purple and violet blue and flaming scarlet and on every side were sheaves of late lilies standing together--lilies which were white or white and ruby.
| Khu vườn là một vùng hoang dã, toàn sắc vàng của mùa thu xen lẫn màu tía, màu tím phớt xanh và cả đỏ tươi chói lọi. Khắp mọi nơi là những vạt ly ly nở muộn mọc sát bên nhau: ly ly có hai màu, trắng và trắng pha màu hồng ngọc.
|
He remembered well when the first of them had been planted that just at this season of the year their late glories should reveal themselves. Late roses climbed and hung and clustered and the sunshine deepening the hue of the yellowing trees made one feel that one, stood in an embowered temple of gold. The newcomer stood silent just as the children had done when they came into its grayness. He looked round and round.
| Ông vẫn còn nhớ rõ khi lứa hoa đầu tiên được trồng cũng vào mùa này trong năm, vẻ lộng lẫy muộn nằn của chúng phát lộ ra hết. Mấy khóm hồng muộn bò lan ra, đung đưa và quyện chặt lấy nhau. Ánh nắng đang mỗi lúc một sẫm dần, phủ màu vàng lên các ngọn cây khiến ta ngỡ như đang đứng trong một ngôi đền bằng vàng. Người cha mới đến đứng lặng đi chẳng khác nào bọn trẻ vào cái ngày chúng mới đặt chân tới đây, giữa một màu xám ngắt. Ông đưa mắt nhìn khắp xung quanh.
|
"I thought it would be dead," he said." "Mary thought so at first," said Colin. "But it came alive." Then they sat down under their tree--all but Colin, who wanted to stand while he told the story.
| -Cha ngỡ rằng nơi này đã chết, – ông nói. -Thoạt đầu Mary cũng nghĩ thế, - Colin đáp, thế mà nó đã sống lại. Mọi người ngồi xuống, dưới tán cây quen thuộc, chỉ trừ Colin muốn đứng để thuật lại câu chuyện.
|
It was the strangest thing he had ever heard, Archibald Craven thought, as it was poured forth in headlong boy fashion. Mystery and Magic and wild creatures, the weird midnight meeting--the coming of the spring--the passion of insulted pride which had dragged the young Rajah to his feet to defy old Ben Weatherstaff to his face. | Đây quả là những gì kỳ lạ nhất mình từng được nghe, ông Archibald Craven nghĩ thầm, trong khi thằng bé ào ào kể lại. Những bí ẩn, Phép màu cùng bầy thú hoang, rồi cuộc gặp nửa đêm kỳ lạ của chúng, cảnh mùa xuân đến, cơn giận dữ khi niềm kiêu hãnh bị xúc phạm đã kéo vị tiểu vương đứng dậy thách thức lão Ben Weatherstaff ra sao.
|
The odd companionship, the play acting, the great secret so carefully kept. The listener laughed until tears came into his eyes and sometimes tears came into his eyes when he was not laughing. The Athlete, the Lecturer, the Scientific Discoverer was a laughable, lovable, healthy young human thing.
| Rồi tình bạn kỳ lạ, màn kịch và điều bí mật to lớn đã được giữ kín một cách cẩn trọng thế nào. Ông nghe mà cười đến ứa nước mắt, và thỉnh thoảng nước mắt cũng vẫn ràn rụa ngay cả khi ông không cười. Vận động viên điền kinh, kiêm nhà diễn thuyết, nhà phát minh khoa học là một cậu bé đáng yêu hay cười và tràn đầy sinh lực.
|
"Now," he said at the end of the story, "it need not be a secret any more. I dare say it will frighten them nearly into fits when they see me--but I am never going to get into the chair again. I shall walk back with you, Father--to the house."
| - Còn bây giờ thì, - nó nói khi kết thúc câu chuyện, - không cần thiết phải coi nó là một bí mật nữa. Con đoán chắc mọi người sẽ phát hoảng khi họ nhìn thấy con, nhưng con sẽ không bao giờ có ý định ngồi vào chiếc xe đẩy ấy nữa. Con sẽ đi cùng cha để về nhà, cha ạ.
|
Ben Weatherstaff's duties rarely took him away from the gardens, but on this occasion he made an excuse to carry some vegetables to the kitchen and being invited into the servants' hall by Mrs. Medlock to drink a glass of beer he was on the spot--as he had hoped to be--when the most dramatic event Misselthwaite Manor had seen during the present generation actually took place.
| Bổn phận của lão Ben Weatherstaff hiếm khi lôi lão khỏi khu vườn, nhưng trong trường hợp này lão cố kiếm cớ để lăng xăng mang ít rau quả cho nhà bếp, và được bà Medlock mời vào gian phòng lớn dành cho gia nhân để uống một vại bia. Lão đã có mặt ngay tại đó, đúng như lão từng mong ước, khi diễn ra sự kiện gây xúc động nhất mà tất cả mọi người ở Trang viên Misselthwaite thế hệ này chưa từng chứng kiến.
|
One of the windows looking upon the courtyard gave also a glimpse of the lawn. Mrs. Medlock, knowing Ben had come from the gardens, hoped that he might have caught sight of his master and even by chance of his meeting with Master Colin. | Từ một trong những cửa sổ nhìn xuống khoảng sân trong, người ta cũng thoáng thấy bãi cỏ. Bà Medlock biết lão Ben vừa từ ngoài vườn về, bà hy vọng lão gặp ông chủ ngoài đó, và thậm chí chứng kiến cả cuộc gặp gỡ giữa ông và cậu chủ Colin nữa.
|
"Did you see either of them, Weatherstaff?" she asked. Ben took his beer-mug from his mouth and wiped his lips with the back of his hand. "Aye, that I did," he answered with a shrewdly significant air.
| -Bác đã trông thấy cha con họ rồi chứ, bác Weatherstaff ? - bà hỏi Lão Ben nhấc vại bia khỏi miệng, rồi đưa mu bàn tay quệt môi. -Chà, tôi thấy rồi. – Lão đáp lời ra bộ láu lỉnh.
|
"Both of them?" suggested Mrs. Medlock. "Both of 'em," returned Ben Weatherstaff. "Thank ye kindly, ma'am, I could sup up another mug of it." "Together?" said Mrs. Medlock, hastily overfilling his beer-mug in her excitement. "Together, ma'am," and Ben gulped down half of his new mug at one gulp. "Where was Master Colin? How did he look? What did they say to each other?"
| -Cả hai cha con ư ? – bà Medlock gợi ý . - Cả hai, - lão Ben Weatherstaff quay người lại – Đa tạ lòng tốt của bà, thưa bà, tôi có thể làm một vại nữa chứ ? - Họ đi cùng nhau à ? – bà Medlock hỏi, hối hả rót đầy bia vào vại của lão với vẻ bồn chồn. - Cùng nhau, thưa bà – nói đoạn, lão Ben lại cạn một hơi hết ngay nửa vại bia mới. - Cậu chủ Colin hiện ở đâu? Trông cậu ấy ra sao? Cha con họ đã nói gì với nhau?
|
"I didna' hear that," said Ben, "along o' only bein' on th' stepladder lookin, over th' wall. But I'll tell thee this. There's been things goin' on outside as you house people knows nowt about. An' what tha'll find out tha'll find out soon." And it was not two minutes before he swallowed the last of his beer and waved his mug solemnly toward the window which took in through the shrubbery a piece of the lawn.
| -Tôi chẳng nghe thấy gì hết, lão Ben đáp, vì tôi chỉ đứng trên thang mà nhìn qua bờ tường. Tuy vậy tôi muốn nói điều này để bà hay. Có những thứ đang diễn ra ở ngoài kia mà mọi người sắp được biết. Vậy bà muốn biết cái gì thì bà nên biết cho sớm nhé. Chưa đầy hai phút trước khi dốc tuột nốt ngụm bia cuối cuối cùng, lão huơ huơ chiếc vại một cách trịnh trọng về phía cửa sổ mà từ đó nhìn qua bụi cây, người ta có thể thấy rõ một phần của bãi cỏ.
|
"Look there," he said, "if tha's curious. Look what's comin' across th' grass." When Mrs. Medlock looked she threw up her hands and gave a little shriek and every man and woman servant within hearing bolted across the servants' hall and stood looking through the window with their eyes almost starting out of their heads. Across the lawn came the Master of Misselthwaite and he looked as many of them had never seen him. And by his, side with his head up in the air and his eyes full of laughter walked as strongly and steadily as any boy in Yorkshire--Master Colin.
| -Nhìn kia kìa, -lão bảo, - nếu bà còn tò mò. Nhìn thử xem cái gì đang đi ngang qua bãi cỏ kia kìa. Bà Medlock vừa đưa mắt nhìn ra đã giơ hai tay lên trời cùng một tiếng thét nhỏ, đám gia nhân nam nữ trong nhà nghe thấy liền lao vội qua gian phòng lớn dành cho họ rồi đứng nhìn qua cửa sổ bằng những đôi mắt hầu như bật khỏi tròng. Ông chủ của Misselthwaite đang từ ngoài bãi cỏ bước tới, dáng điệu như thể nhiều người trong họ chưa bao giờ được thấy ông. Và đi bên ông, với cái đầu ngẩng cao, đôi mắt lấp lánh ánh cười, cùng những bước chân mạnh mẽ, vững chãi như bất kỳ thằng bé nào khác ở xứ Yorkshire này. Đó là cậu chủ Colin!
|
| Translated by nguyen tuan khanh |
MOVIE: 01:18:00 - 01:35:00
MOVIE 1987
PART 1
PART 2
PART 3
PART 4
PART 5
PART 6
PART 7
THEME MUSIC
Secret Garden - Songs from a Secret Garden
The Secret Garden Piano Theme Music
The Secret Garden Soundtrack -1
The Secret Garden Soundtrack - 02. Leaving the Docks
The Secret Garden Soundtrack - 03. Mary Downstairs
The Secret Garden Soundtrack - 04. First Time Outside
The Secret Garden Soundtrack - 05 - Skipping Rope
The Secret Garden Soundtrack - 06. Entering the Garden
The Secret Garden Soundtrack - 07 - Walking Through The Garden
The Secret Garden Soundtrack - 08- Mary and robin together
The Secret Garden Soundtrack - 09 - Shows Dickon Garden
The Secret Garden Soundtrack - 10. Awakening of Spring
The Secret Garden Soundtrack - 11 - Craven Leaves
The Secret Garden Soundtrack - 12 - Taking Colin To The Garden
The Secret Garden Soundtrack - 13 - Colin Opens His Eyes
The Secret Garden Soundtrack - 14 - Colin Tries Standing
The Secret Garden Soundtrack - 15 - Colin Loves Mary
The Secret Garden Soundtrack - 16 - Craven's Return
The Secret Garden Soundtrack - 17 - Looking At Photos
The Secret Garden Soundtrack - 18. Craven to the Garden
The Secret Garden Soundtrack - 19. Colin Senses Craven
The Secret Garden Soundtrack - 20. Happily Ever After
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn