MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Sunday, February 27, 2011

Sleep habits linked to fat gain in younger adults - Thói quen ngủ có liên quan đến tăng mỡ ở người trẻ tuổi


Sleep habits linked to fat gain in younger adults - Thói quen ngủ có liên quan đến tăng mỡ ở người trẻ tuổi

New York (Reuters Health) - Younger adults who get either little sleep or a lot of it may see a greater expansion in their waistlines over time, a study published Monday suggests.

New York (Reuters Health) – Một nghiên cứu được xuất bản vào hôm thứ hai cho thấy: thanh niên nếu ngủ hoặc quá ít hoặc quá nhiều thì đều thấy có sự mở rông ngày càng tăng của vòng bụng.

Researchers found that among black and Hispanic adults younger than 40, those who typically slept for five hours or less each night had a greater accumulation of belly fat over the next five years, versus those who averaged six or seven hours.

Các nhà nghiên cứu thấy rằng thanh niên gốc Phi gốc Tây Ban Nha dưới 40 tuổi, thường ngủ năm giờ hoặc ít hơn mỗi đêm sẽ một sự tích lũy mỡ bụng gia tăng trong năm năm tới, so với những người trung bình ngủ từ sáu đến bảy giờ.

Those who logged eight hours or more in bed each night also showed a bigger fat gain -- but it was less substantial than that seen in "short sleepers."

Những người ngủ tám giờ hoặc nhiều hơn trên giường mỗi đêm cũng cho thấy một sự tăng chất béo - nhưng nó lại ít hơn đáng kể so với nhìn thấy "những người ngủ ít."

The study, reported in the journal Sleep, does not prove that too little or too much sleep directly leads to excess fat gain. But the findings support and extend those of other studies linking sleep duration -- particularly a lack of sleep -- to weight gain and even to higher risks of diabetes and heart disease.

Nghiên cứu được báo cáo trong tạp chí Sleep không chứng minh được ngủ quá ít hoặc quá nhiều trực tiếp dẫn đến việc tăng chất béo quá mức. Nhưng những phát hiện đã hỗ trợ và mở rộng những nghiên cứu khác đó liên quan đến thời gian ngủ - đặc biệt là sự thiếu ngủ - đến tăng cân thậm chí cả những nguy cơ cao hơn của bệnh tiểu đường và bệnh tim mạch.

The study adds to past research in part because it focused on black and Hispanic Americans -- two understudied groups who are at increased risk of obesity and its related ills, said lead researcher Dr. Kristen G. Hairston, of Wake Forest University School of Medicine in Winston-Salem, North Carolina.

Nghiên cứu này bổ sung cho nghiên cứu trước đây một phần bởi vì nó tập trung vào người Mỹ gốc Phi gốc Tây Ban Nha - hai nhóm it được nghiên cứu mà lại có nguy cơ gia tăng về béo phì những bệnh liên quan đến béo phì, trưởng nhóm nghiên cứu, tiến sĩ Kristen G. Hairston, của Đại học Y khoa Wake Forest tại Winston-Salem, Bắc Carolina cho biết.

It also zeroed in on the relationship between sleep and gains in abdominal fat -- both the superficial fat layers just below the skin and the "visceral" fat that surrounds the abdominal organs. Deep abdominal fat is believed to be particularly important in the risks of health conditions like diabetes, high blood pressure and heart disease, Hairston told Reuters Health.

Nó cũng phủ nhận mối quan hệ giữa giấc ngủ và tăng mỡ bụng - cả lớp mỡ bề mặt, lớp mỡ dưới da mỡ "nội tạng" bao quanh các cơ quan ở ổ bụng. M bụng nằm sâu được cho là đặc biệt quan trọng với các nguy cơ về sức khỏe như bệnh tiểu đường, huyết áp cao và bệnh tim, Hairston nói với Reuters Health.

The study included 332 African-American and 775 Hispanic-American men and women ages 18 to 81. At the outset, all reported on their sleep habits, diets, exercise levels and other lifestyle factors. The researchers used CT scans to measure participants' abdominal fat, at the start of the study and again five years later.

Nghiên cứu bao gồm 332 người Mỹ gốc Phi người Mỹ gốc Tây Ban Nha 775 người đàn ông và phụ nữ tuổi từ 18 đến 81. Từ đầu nghiên cứu, tất cả đều báo cáo về thói quen ngủ, chế độ ăn, mức độ tập thể dục và các yếu tố lối sống khác của họ. Các nhà nghiên cứu sử dụng CT scan để đo mỡ bụng của những người tham gia, khi bắt đầu nghiên cứu đo them một lần nữa năm năm sau đó.

Among participants younger than 40, the study found, those who said they slept for five hours or less each night gained more belly fat than those who averaged six or seven hours of sleep.

những người tham gia dưới 40, nghiên cứu cho thấy, những người nói rằng họ ngủ năm giờ hoặc ít hơn mỗi đêm tăng mỡ bụng nhiều hơn những người ngủ trung bình sáu hay bảy giờ.

On average, short sleepers showed a 32 percent gain in visceral fat, versus a 13 percent gain among those who slept six or seven hours per night, and a 22 percent increase among men and women who got at least eight hours of sleep each night.

Trung bình, những người ít ngủ biểu hiện một sự gia tăng 32 phần trăm mỡ nội tạng, so với mức tăng 13 phần trăm những người ngủ sáu hoặc bảy giờ mỗi đêm, một sự gia tăng 22 phần trăm trong số những người đàn ông và phụ nữ ít nhất tám giờ ngủ mỗi đêm.

A similar pattern was seen with superficial abdominal fat. Even when the researchers considered factors like calorie intake, exercise habits, education and smoking, sleep duration itself remained linked to abdominal-fat gain.

Một mẫu hình tương tự đã được phát hiện với mỡ bụng dưới da. Ngay cả khi các nhà nghiên cứu xem xét các yếu tố như lượng calo, thói quen tập thể dục, học tập và hút thuốc, thời gian ngủ tự bản thân nó vẫn có liên quan tới tăng mỡ bụng.

The findings, according to Hairston, support the belief that sleep habits affect weight, and health in general. "Sleep is an important part of your overall health -- not just in whether you're tired during the day," she said.

Những phát hiện này, theo Hairston, hỗ trợ niềm tin rằng những thói quen ngủ ảnh hưởng đến cân nặng, sức khỏe nói chung. "Giấc ngủ một phần quan trọng của sức khỏe tổng thể của bạn - không chỉ ở việc bạn có thấy mệt mỏi vào ban ngày hay không," bà cho biết.

Individuals vary in their sleep needs, so there is no one set prescription. But "extremes of sleep," such as less than five hours per night, should raise concerns, according to Hairston. "And if you're concerned about your sleep," she said, "discuss it with your healthcare provider, just as you would discuss diet or exercise."

Các cá nhân khác nhau về nhu cầu ngủ của họ, như vậy không có một sự kê đơn cố định. Nhưng "các cực đoan về giấc ngủ," như ít hơn năm giờ một đêm, cần tăng cường quan tâm, theo Hairston. "nếu bạn đang quan tâm đến giấc ngủ của bạn," nói, "hãy bàn luận với người chăm sóc sức khỏe của bạn, giống như việc bạn thảo luận về chế độ ăn uống hoặc tập thể dục."

As for why sleep duration might affect abdominal-fat gain, there are several theories.

Còn về phần tại sao thời gian ngủ có thể ảnh hưởng đến tăng mỡ bụng, một số lý thuyết.

There may be indirect effects; people who get too little sleep may be too tired during the day to exercise, while those who spend a lot of time in bed may spend less time being active, relative to people who sleep fewer hours.

Có thể tác động gián tiếp; những người nhận được quá ít ngủ có thể quá mệt mỏi trong ngày để tập thể dục, trong khi những người dành nhiều thời gian trên giường có thể dành ít thời gian vận động, so với những người ngủ ít giờ hơn.

Research also suggests that sleep loss alters people's levels of appetite-regulating hormones -- which could, in theory, spur them to overeat.

Nghiên cứu cũng cho thấy mất ngủ làm thay đổi nồng độ hormone điều hòa sự ngon miệng thể, về lý thuyết, khuyến khích họ ăn quá nhiều.

Depression, which often affects people's sleep and has been linked to weight gain, could also be a factor, Hairston noted. She and her colleagues had no information on study participants' depression symptoms.

Trầm cảm, thường ảnh hưởng đến giấc ngủ của mọi người có liên quan đến tăng cân, cũng có thể một yếu tố, Hairston lưu ý. đồng nghiệp của bà đã không có thông tin về các triệu chứng trầm cảm của những người tham gia nghiên cứu.

translated by Hanh Hien

Saturday, February 26, 2011

International Women's Day - Ngày Quốc tế phụ nữ

International Women's Day



International Women's Day has been observed since in the early 1900's, a time of great expansion and turbulence in the industrialized world that saw booming population growth and the rise of radical ideologies.

Ngày Quốc Tế phụ nữ đã được tổ chức từ đầu những năm 1900, đó là thời điểm phát triển rộng và biến động dữ dội trong thế giới công nghiệp hóa, thời điểm bùng nổ dân số và sự phát triển của các hệ tư tưởng căn bản.

1908

Great unrest and critical debate was occurring amongst women. Women's oppression and inequality was spurring women to become more vocal and active in campaigning for change. Then in 1908, 15,000 women marched through New York City demanding shorter hours, better pay and voting rights.

1908: Tình trạng hết sức náo động và những cuộc tranh cãi gay gắt đã diễn ra xoay quanh đề tài phụ nữ. Sự áp bức và bất bình đẳng đối với phụ nữ đã thôi thúc chính những người phụ nữ đề xướng và hành động trong chiến dịch này để có được những thay đổi tốt hơn. Sau năm 1908, 15000 phụ nữ tuần hành qua thành phố New York yêu cầu làm việc ít giờ hơn, được trả công nhiều hơn và có quyền đi bầu cử.

1909

In accordance with a declaration by the Socialist Party of America, the first National Woman's Day (NWD) was observed across the United States on 28 February. Women continued to celebrate NWD on the last Sunday of February until 1913.

1909: Theo đúng bản tuyên ngôn của đảng xã hội Mĩ, ngày phụ nữ quốc gia đầu tiên (NWD) đã được tiến hành trên tòan nước Mĩ vào ngày 27 tháng 2. Những người phụ nữ tiếp tục tổ chức ngày phụ nữ quốc gia vào ngày chủ nhật cuối cùng của tháng 2 cho đến năm 1913.

1910

n 1910 a second International Conference of Working Women was held in Copenhagen. A woman named a Clara Zetkin (Leader of the 'Women's Office' for the Social Democratic Party in Germany) tabled the idea of an International Women's Day. She proposed that every year in every country there should be a celebration on the same day - a Women's Day - to press for their demands. The conference of over 100 women from 17 countries, representing unions, socialist parties, working women's clubs, and including the first three women elected to the Finnish parliament, greeted Zetkin's suggestion with unanimous approval and thus International Women's Day was the result.

1910: Vào năm 1910 hội nghị quốc tế phụ nữ lao động tổ chức ở Copenhagen. Một người phụ nữ có tên là Clara Zetkin (Người đứng đầu “Văn phòng phụ nữ” của đảng Dân chủ xã hội Đức) đề xướng về việc tạo ra một ngày Quốc tế phụ nữ. Bà ấy đề xuất rằng mỗi năm, mọi quốc gia sẽ có cùng một “Ngày phụ nữ”, để nhấn mạnh vai trò của họ. Hội nghị với hơn 100 phụ nữ từ 17 quốc gia, các đảng xã hội, các câu lạc bộ việc làm cho phụ nữ, và bao gồm cả 3 người phụ nữ đầu tiên được bầu vào Quốc hội Phần Lan, tất cả đều hoan hô đề nghị của bà Zetkin với sự đồng lòng nhất trí và kết quả chính là ngày Quốc tế phụ nữ ra đời.

1911

Following the decision agreed at Copenhagen in 1911, International Women's Day (IWD) was honoured the first time in Austria, Denmark, Germany and Switzerland on 19 March. More than one million women and men attended IWD rallies campaigning for women's rights to work, vote, be trained, to hold public office and end discrimination. However less than a week later on 25 March, the tragic 'Triangle Fire' in New York City took the lives of more than 140 working women, most of them Italian and Jewish immigrants. This disastrous event drew significant attention to working conditions and labour legislation in the United States that became a focus of subsequent International Women's Day events. 1911 also saw women's 'Bread and Roses' campaign.

1911: Theo như quyết định tại Copenhagen năm 1911, ngày Quốc Tế phụ nữ (IWD) đã được tôn vinh lần đầu tiên tại Úc, Đan Mạch, Đức và Thụy Sĩ vào ngày 19 tháng 3. Hơn một triệu phụ nữ và cánh đàn ông cũng đã chú ý đến đại hội vận động cho quyền phụ nữ về việc làm, bầu cử, được đào tạo, thành lập các văn phòng công khai và chấm dứt sự phân biệt đối xử. Tuy nhiên, chưa đầy một tuần vào ngày 25 tháng 3, thảm kịch “Tam giác lửa” ở thành phố New Yord đã cướp đi 140 công nhân nữ, phần lớn là người nhập cư từ Ý và Do Thái. Sự kiện thảm khốc này thu hút nhiều sự chú ý về điều kiện việc làm và luật lao động ở nước Mĩ, việc này trở thành mục đích tiếp theo của ngày Quốc Tế phụ nữ. Năm 1911 cũng được xem là chiến dịch “Bánh mì và Hoa hồng” của phụ nữ.

1913-1914

On the eve of World War I campaigning for peace, Russian women observed their first International Women's Day on the last Sunday in February 1913. In 1913 following discussions, International Women's Day was transferred to 8 March and this day has remained the global date for International Wommen's Day ever since. In 1914 further women across Europe held rallies to campaign against the war and to express women's solidarity.

1913-1914: Đêm trước cuộc vận động Chiến Tranh thế giới thứ nhất vì hòa bình, phụ nữ Nga tiến hành Ngày Quốc Tế phụ nữ đầu tiên vào ngày Chủ nhật cuối cùng vào tháng 2 năm 1913. Tiếp sau những thảo luận năm 1913, ngày Quốc tế phụ nữ chuyển thành ngày 8 tháng 3 và ngày này vẫn được tổ chức thuờng niên từ ấy. Năm 1914, có nhiều phụ nữ châu Âu tổ chức các cuộc mít tinh phản đối chiến tranh đồng thời bày tỏ tình đòan kết của tất cả phụ nữ.

1917

On the last Sunday of February, Russian women began a strike for "bread and peace" in response to the death over 2 million Russian soldiers in war. Opposed by political leaders the women continued to strike until four days later the Czar was forced to abdicate and the provisional Government granted women the right to vote. The date the women's strike commenced was Sunday 23 February on the Julian calendar then in use in Russia. This day on the Gregorian calendar in use elsewhere was 8 March.

1917: Chủ nhật cuối cùng vào tháng 2, phụ nữ Nga bắt đầu đình công vì “Bánh mì và Hòa bình” nhằm đáp lại cái chết của hơn 2 triệu binh lính Nga do chiến tranh. Sự phản đối của các nhà chính trị đã khiến phụ nữ tiếp tục đình công cho đến khi Nga Hòang thóai vị 4 ngày sau đó và chính phủ lâm thời công nhận quyền bầu cử của phụ nữ. Ngày khởi đầu những cuộc đình công này là Chủ nhật, ngày 23 tháng 2 theo lịch Julian của Nga còn theo lịch chúng ta vẫn dùng là ngày 8 tháng 3.

1918 - 1999

Since its birth in the socialist movement, International Women's Day has grown to become a global day of recognition and celebration across developed and developing countries alike. For decades, IWD has grown from strength to strength annually. For many years the United Nations has held an annual IWD conference to coordinate international efforts for women's rights and participation in social, political and economic processes. 1975 was designated as 'International Women's Year' by the United Nations. Women's organisations and governments around the world have also observed IWD annually on 8 March by holding large-scale events that honour women's advancement and while diligently reminding of the continued vigilance and action required to ensure that women's equality is gained and maintained in all aspects of life.

1918-1999: Từ khi Chủ nghĩa Cộng Sản ra đời, ngày Quốc tế phụ nữ đã lớn mạnh và trở thành ngày kỉ niệm mà cả thế giới công nhận như những dịp lễ ở những quốc gia đã và đang phát triển. Trong nhiều thập kỉ, ngày Quốc tế phụ nữ ngày càng phát triển hơn qua từng năm. Nhiều năm ở Hoa kỳ, người ta tổ chức hội nghị Quốc tế phụ nữ (QTPN) thường niên để phối hợp những nỗ lực của quốc tế về quyền phụ nữ và quyền tham gia vào xã hội, những dự án chính trị- kinh tế. Năm 1975 được xem như là cột mốc của Quốc Tế phụ nữ ở Hoa Kỳ. Chính phủ và những tổ chức phụ nữ trên khắp thế giới tiến hành QTPN hằng năm vào ngày 8 tháng 3 bằng cách tổ chức nhiều sự kiệc có quy mô lớn nhằm tôn vinh sự tiến bộ của phụ nữ và trong thời gian mà những điều gợi nhớ này diễn ra thường xuyên về việc tiếp tục thận trọng và hành động yêu cầu phải bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ được thực thi và duy trì trong tất cả mọi khía cạnh cuộc sống.

2000 and beyond

IWD is now an official holiday in Afghanistan, Armenia, Azerbaijan, Belarus, Burkina Faso, Cambodia, China (for women only), Cuba, Georgia, Guinea-Bissau, Eritrea, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Laos, Madagascar (for women only), Moldova, Mongolia, Montenegro, Nepal (for women only), Russia, Tajikistan, Turkmenistan, Uganda, Ukraine, Uzbekistan, Vietnam and Zambia. The tradition sees men honouring their mothers, wives, girlfriends, female colleagues, etc with flowers and small gifts. In some countries IWD has the equivalent status of Mother's Day where children give small presents to their mothers and grandmothers.

Từ năm 2000 trở đi

Quốc tế phụ nữ giờ đây đã là ngày lễ chính thức ở Afghanistan, Armenian, Azerbaijan, Belarus, Burkina Faso, Campuchia, Trung Quốc (chỉ cho phụ nữ thôi), Cuba, Nga, Georgia, Guinea-Bissau, Eritrea, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Lào, Madagascar (cho phụ nữ thôi), Moldova, Mongolia, Montenegro, Nepal (Cho phụ nữ thôi, đàn ong kh0 dc nghỉ đâu), Nga, Tajikistan, Thổ Nhĩ Kì, Uganda, Ukraine, Uzbekistan, VIỆT NAM và Zambia. Truyêng thồng này chứng kiến nam giới vinh danh mẹ, vợ, bạn giá, đồng nghiệp nữ… với hoa và quà tặng nhỏ. Ở một vài nước ngày QTPN tương đương với ngày lễ Mẹ ngày mà con cháu tặng quà cho mẹ và bà.

The new millennium has witnessed a significant change and attitudinal shift in both women's and society's thoughts about women's equality and emancipation. Many from a younger generation feel that 'all the battles have been won for women' while many feminists from the 1970's know only too well the longevity and ingrained complexity of patriarchy. With more women in the boardroom, greater equality in legislative rights, and an increased critical mass of women's visibility as impressive role models in every aspect of life, one could think that women have gained true equality. The unfortunate fact is that women are still not paid equally to that of their male counterparts, women still are not present in equal numbers in business or politics, and globally women's education, health and the violence against them is worse than that of men.

Thiên niên kỉ mới đã chứng kiến một thay đồi đáng kể và sự thay đổi quan điểm của phụ nữ lẫn suy nghĩ của xã hội về sự bình đẳng và giải phóng phụ nữ. Nhiều người trong thế hệ trẻ nghĩ rằng những cuộc đấu tranh cho phụ nữ đã giành thắng lợi trong khi nhiều người bênh vực thuyết bình quyền ở những năm 70 lại biết quá nhiều về sự kéo dài dai dẳng và biển đổi phức tạp của chế độ gia trưởng. Với nhiều phụ nữ hơn trong phòng họp của ban giám đốc, bình đẳng hơn trong quyền lập pháp, và nhiều vai trò then chốt của phụ nữ gắn hình ảnh ấn tượng của họ ở mọi phương diện cuộc sống, người ta có thể nghĩ rằng phụ nữ đã thực sự được đối xử công bằng. Điều đáng tiếc là nhiều phụ nữ vẫn chưa được đối xử công bằng tương xứng với cánh đàn ông, phụ nữ vẩn chưa hiện diện đồng đều trong lĩnh vực kinh doanh hay chính trị, và sự giáo dục tòan cầu cho phụ nữ, sức khỏe và việc chịu đựng bạo lực chống lại họ thì tồi tệ hơn đàn ông.

However, great improvements have been made. We do have female astronauts and prime ministers, school girls are welcomed into university, women can work and have a family, women have real choices. And so the tone and nature of IWD has, for the past few years, moved from being a reminder about the negatives to a celebration of the positives.

Tuy nhiên, những cải thiện vĩ đại đã được làm rồi. Chúng ta có những phi hành gia và các thủ tướng nữ, trường học cho nữ rộng mở vào đại học, phụ nữ có thể làm việc và có gia đình, phụ nữ đang có những lựa chọn thục sự là của chính họ. Tinh thần và bản chất của ngày Quốc tế phụ nữ từ những ngày trước đã nhắc nhở về tính tiêu cực đến kỉ niệm về những mặt tích cực.

Annually on 8 March, thousands of events are held throughout the world to inspire women and celebrate achievements. A global web of rich and diverse local activity connects women from all around the world ranging from political rallies, business conferences, government activities and networking events through to local women's craft markets, theatric performances, fashion parades and more.

Mỗi năm cứ vào ngày mồng 8 tháng 3, hàng ngàn sự kiện diễn ra khắp thế giới để truyền cảm hứng cho phụ nữ và tôn vinh các thành tựu. Một trang web phong phú và đa dạng về các hoạt động địa phương gắn kết phụ nữ khắp thế giới nói về những cuộc mit tinh có tính chính trị, các hội nghị thương mại, những hoạt động của chính phủ và hệ thống các sự kiện thông qua những phiên chợ tập thể, những buổi biểu diễn nghệ thuật, biểu diễn thời trang và nhiều họat động khác.

Many global corporations have also started to more actively support IWD by running their own internal events and through supporting external ones. For example, on 8 March search engine and media giant Google some years even changes its logo on its global search pages. Year on year IWD is certainly increasing in status. The United States even designates the whole month of March as 'Women's History Month'.

Nhiều tập đòan liên quốc gia cũng đã bắt đầu hưởng ứng tích cực hơn, ủng hộ ngày Quốc tế phụ nữ bằng cách hướng về các sự kiện nội bộ và thông qua đó hỗ trợ các sự kiện ngòai công ty. Ví dụ, vào ngày 8 tháng 3, phương tiện hỗ trợ tìm kiếm khổng lồ GOOGLE một vài năm gần đây thay đổi biều tượng tìm kiếm trên trang tìm kiếm toàn cầu. Năm này qua năm khác, Quốc tế phụ nữ chắc chắn là có một địa vị ngày càng cao hơn. Mĩ thậm chí còn chọn hẳn tháng 3 là “Tháng Lịch sử của phụ nữ” nữa.

So make a difference, think globally and act locally!! Make everyday International Women's Day. Do your bit to ensure that the future for girls is bright, equal, safe and rewarding.

Vậy, hãy tạo ra sự khác biệt, hãy suy nghĩ ở tầm mức toàn cầu và bắt tay vào từ những việc tại địa phương!! Hãy biến mỗi ngày đều là ngày Quốc tế phụ nữ. Bắt đầu bằng hành động của bạn để bảo đảm rằng tương lai của các cô gái sẽ sáng lạng, công bằng, an toàn và xứng đáng.

Translated by babyangel_rain@yahoo.com

Very good translation. Thanks.

Q




Bread and Roses





The slogan "Bread and Roses" originated in a poem of that name by James Oppenheim, published in The American Magazine in December 1911. "It is commonly associated with a textile strike in Lawrence, Massachusetts during January-March 1912, now often known as the "Bread and Roses strike".

The slogan appeals for both fair wages and dignified conditions.

Khẩu hiệu "Bánh mì Hoa Hồng" bắt nguồn từ một bài thơ cùng tên của James Oppenheim, đăng trên Tạp chí Người Mỹ trong tháng 12 năm 1911. "Nó thường được liên hệ với một cuộc đình công của thợ dệt may tại Lawrence, Massachusetts từ tháng giêng đến tháng 3 năm 1912, hiện nay thường được gọi là cuộc đình công "Bánh mì Hoa Hồng".
Khẩu hiệu
này kêu gọi cả trả tiền lương công bằng lẫn điều kiện làm việc xứng đáng.

As we go marching, marching, in the beauty of the day,

A million darkened kitchens, a thousand mill lofts gray,

Are touched with all the radiance that a sudden sun discloses,

For the people hear us singing: Bread and Roses! Bread and Roses!

Khi chúng tôi xuống đường, tuần hành, trong vẻ đẹp của ban ngày,
Một triệu căn bếp tối tăm, một ngàn xưởng máy xám xịt,
đã vươn đến với ánh sáng của một mặt trời bất ngờ phát lộ,
Để mọi người nghe chúng tôi hát: Bánh mì và Hoa hồng! Bánh mì và Hoa hồng!

As we go marching, marching, we battle too for men,

For they are women's children, and we mother them again.

Our lives shall not be sweated from birth until life closes;

Hearts starve as well as bodies; give us bread, but give us roses.

Khi chúng ta xuống đường, tuần hành, chúng ta cũng đấu tranh cho nam giới,
Vì họ là con cái của phụ nữ, và chúng ta bảo bọc họ thêm lần nữa.
Cuộc sống của chúng ta sẽ không bị vắt kiệt từ khi sinh ra cho đến khi cuộc đời khép cửa;
Trái tim khát, xác thân cũng đói; hãy cho chúng tôi bánh mì, và cho cả Hoa hồng.

As we go marching, marching, unnumbered women dead

Go crying through our singing their ancient call for bread.

Small art and love and beauty their drudging spirits knew.

Yes, it is bread we fight for, but we fight for roses too.

Khi chúng ta xuống đường, tuần hành, những phụ nữ vô danh đã khuất lại đến khóc bảo chúng ta hát lên tiếng gọi xa xưa xin cho bánh mì.
Những linh hồn nhọc nhằn của họ đã biết đến nghệ thuật, tình yêu và vẻ đẹp dù nhỏ nhoi.
Vâng, bánh mì, chúng ta đấu tranh cho bánh mì, nhưng chúng ta còn đấu tranh cho cả hoa hồng nữa.

As we go marching, marching, we bring the greater days,

The rising of the women means the rising of the race.

No more the drudge and idler, ten that toil where one reposes,

But a sharing of life's glories: Bread and roses, bread and roses.

Khi chúng ta đi xuống đường, tuần hành, chúng ta mang lại những ngày lớn lao hơn,
Phụ nữ vươn lên là dân tộc vươn lên.
Không còn nhục nhằn không còn lười biếng, mười kẻ mệt nhoài mà một kẻ nhàn thân,
Chỉ có sẻ chia vinh quang cuộc sống: Bánh mì và Hoa hồng, bánh mì và Hoa hồng.



Our lives shall not be sweated from birth until life closes;

Hearts starve as well as bodies; bread and roses, bread and roses.

Cuộc sống của chúng ta sẽ không bị vắt kiệt từ khi sinh ra cho đến khi cuộc đời khép cửa;

Trái tim khát, xác thân cũng đói; hãy cho chúng tôi bánh mì, và cho cả Hoa hồng.


Translated by nguyenquangy@gmail.com


What makes an ideal teacher - Thế nào là một thầy giáo lý tưởng (Qualities of a good teacher - phẩm chất của một người thầy tốt)


What makes an ideal teacher - Thế nào là một thầy giáo lý tưởng
(Qualities of a good teacher - phẩm chất của một người thầy tốt)

An ideal teacher is a friend as well as a teacher to his students. A good teacher should also be a good friend.

Một thầy giáo lý tưởng là một người vừa là bạn vừa là thầy đối với học sinh của mình. Một người thầy tốt cũng nên làm một người bạn tốt.

In the classroom, he looks grave and solemn but he is a man of sweet and soft temper. He sometimes appears rather old and sometimes young and bright but he is always, active and alert. He is liked and respected by all who know him. When he finds any of his students lazy, he admonishes him, for he wants them all to do their work satisfactorily. He explains the lessons in much detail, and does his best to answer any questions possibly raised by his students. He is indeed a patient man; he continues to explain to his students the points that they do not understand until they are perfectly familiar with their lessons. He takes great trouble in correcting papers, and is very strict in giving marks. In the classroom, he always keeps the dignity of a teacher.

Trong lớp học, thầy trông có vẻ nghiêm trang nhưng thầy cũng là một người có tính tình hiền lành và mềm mỏng. Thầy khi thì trông có vẻ khá già tuổi, lúc lại mới mẻ trẻ trung, nhưng thầy luôn luôn, năng động và sáng suốt. Những ai biết thày đều yêu thích và tôn trọng thầy. Khi thầy thấy bất kỳ học sinh nào lười biếng, thầy đều đem lời khuyên nhủ, vì thầy muốn tất cả học sinh đều làm tốt công việc của mình. Thầy giảng giải bài học thật cụ thể và chi tiết, và cố gắng hết mình để trả lời bất kỳ câu hỏi nào mà học sinh có thể đưa ra. Thầy thực sự là một người kiên nhẫn, thầy tiếp tục giải thích cho học sinh những điểm mà họ chưa hiểu cho đến khi họ hoàn toàn thông tỏ bài học. Thầy bỏ nhiều công sức sửa bài làm cho học sinh, và rất nghiêm khắc trong việc cho điểm. Trên lớp học, thầy luôn giữ gìn phẩm giá của một giáo viên.

But outside the classroom, he becomes the student’s best friend. He is an adviser to the clubs organized by the students, and also helps them manage their sport teams. When a student is in trouble, he comforts him and tries to help him solve any problems he may have.

Nhưng bên ngoài lớp học, thầy trở thành người bạn tốt nhất của học sinh. Thầy làm cố vấn cho các câu lạc bộ được học sinh tổ chức, và cũng giúp họ quản lý đội tuyển thể thao của họ. Khi một học sinh gặp khó khăn, thầy an ủi người đó và cố gắng để giúp giải quyết bất kỳ vấn đề nào thầy có thể.

A good teacher should not only mind the academic work of his students but should also encourage them to take part in sports and games so as to keep themselves fit. He always sets a good example himself so as to influence his students.

Một người thầy tốt không chỉ quan tâm tới công việc học tập của sinh viên mà cũng nên khuyến khích họ tham gia vào thể thao và vui chơi để giữ gìn sức khỏe. Thầy luôn tự mình nêu gương để tạo ảnh hưởng đối với học sinh của mình.

He keeps in touch not only with his students but with their families as well. The purpose in doing so is to obtain the assistance of parents in educating the students. He tries to learn about the family condition of the students. Those whose family conditions are good, he urges them to study hard in order to further their study in the universities but those who have no means to carry on their study at a higher level, he advises to switch over to other branches such as: commercial course, business school, military career, and so forth. He thus increases the efficiency of their work, and guides them at the appropriate moment in their choice of a profession.

Thầy giữ liên hệ không chỉ với học sinh mà còn với gia đình học sinh nữa. Mục đích của việc này là để có được sự trợ giúp của cha mẹ trong việc giáo dục học sinh. Thầy tìm hiểu về điều kiện gia đình của học sinh. Những người có điều kiện gia đình thuận lợi, thầy động viên họ học tập chăm chỉ để tiếp tục học tập tại các trường đại học, nhưng những người không có điều kiện để học cao hơn, thầy khuyên họ chuyển sang các ngành nghề khác như: các khóa học thương mại, trường kinh doanh, chuyên nghiệp quân sự, vv. Do đó, thầy làm tăng hiệu quả công việc của họ, và hướng dẫn họ vào thời điểm thích hợp trong việc lựa chọn nghề nghiệp.

The teaching profession has many responsibilities, yet it is full of hardship. Personally, when I am grown up, I will engage in educational activities, that is, I shall be a teacher myself, for education is full of life. The students you teach are like fruit-trees you plant. It is very interesting to plant seed and to see it sprout, grow leaves, put forth flowers and bear fruits. In like manner, it is a great spiritual comfort to think that you are contributing an important and useful part to the future of your country. For this reason, I find the work of teachers both interesting and hopeful and I will become ideal teacher so as to lead the younger generation on the path of knowledge.

Nghề dạy học có nhiều trách nhiệm, lại đầy khó khăn. Riêng bản thân tôi, khi tôi lớn lên, tôi sẽ tham gia vào các hoạt động giáo dục, nghĩa là, tôi sẽ làm thầy giáo, vì nghề giáo tràn đầy sức sống. Các học sinh bạn dạy bảo cũng giống như những cây ăn quả bạn vun trồng. Thật thú vị khi ta gieo hạt giống rồi xem nó nảy mầm, mọc lá, đơm hoa và kết trái. Như thế thì, sẽ là một sự khích lệ tinh thần tuyệt vời khi nghĩ rằng ta đang đóng góp một phần quan trọng và hữu ích cho tương lai của đất nước. Vì lý do này, tôi thấy công việc của người thầy vừa thú vị vừa tràn đầy hy vọng và tôi sẽ trở thành người thầy lý tưởng để đẫn dắt thế hệ trẻ trên con đường tri thức.

translated by hanhhien

Phụ tố tiếng Anh và vấn đề dịch thuật ngữ tin học từ tiếng Anh sang tiếng Việt

Phụ tố tiếng Anh và vấn đề dịch thuật ngữ tin học từ tiếng Anh sang tiếng Việt
http://ngonngu.net/index.php?p=7

1.1.Trong vốn từ có nguồn gốc nước ngoài trong tiếng Việt, chúng ta có thể chia làm hai loại lớn là: từ ngữ vay mượn và từ ngữ nước ngoài. Trong đó, từ ngữ vay mượn bao gồm một bộ phận từ có cách đọc Hán Việt, các từ ngữ dịch và một bộ phận của các từ ngữ phiên chuyển. Còn các từ ngữ nước ngoài bao gồm bộ phận còn lại của các từ có cách đọc Hán Việt, các từ ngữ nguyên dạng, các từ ngữ chuyển tự, và phần còn lại của các từ ngữ phiên chuyển.

Xét về góc độ vay mượn, có thể thấy, các từ ngữ này có thể là:

  • Các từ ngữ dịch (căn ke, sao phỏng ngữ nghĩa).
  • Các từ ngữ phiên chuyển;
  • Các từ ngữ chuyển tự (ví dụ: đối với tiếng Nga);
  • Các từ ngữ nước ngoài (giữ nguyên dạng cách viết).

Trong những phương thức vay mượn trên, dịch là một phương thức tối ưu nhất, hợp lí nhất, đảm bảo cao nhất tính thống nhất cho hệ thống hiện tại. Tuy nhiên, có một thực tế là không phải với bất kì từ nào chúng ta cũng có thể dịch sang tiếng Việt bằng một yếu tố tương đương sẵn có. Bởi vì yêu cầu cho “bản dịch ” là tính chính xác và tính “từ hoá ”. Bên cạnh đó, hiện nay đang tồn tại một xu hướng “tiết kiệm ”, mang tính “lười” là để nguyên dạng với cái lí là cho có tính quốc tế, cho dễ dàng hơn trong việc hội nhập và cập nhật kiến thức của nhân loại. Song rõ ràng đây chỉ là một xu hướng chịu sự tác động về mặt tâm lí. Cái quan trọng và quyết định ở đây phải là quy luật bản ngữ hoá của ngôn ngữ. Vì vậy, dịch là một con đường sáng sủa nhất cho việc xâm nhập của các từ ngữ nước ngoài vào trong tiếng Việt. Tuy nhiên, đó là một con đường không hề bằng phẳng, dễ đi.

Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến việc vay mượn các thuật ngữ tiếng Anh và việc chuyển dịch các thuật ngữ này sang tiếng Việt. Điều này xuất phát từ hiện trạng là tiếng Anh đang có một cuộc “xâm lăng” rất mạnh mẽ vào trong tiếng Việt trên nhiều bình diện của đời sống: kinh tế, khoa học, công nghệ, thể thao… Trong các lĩnh vực đó, do thời gian có hạn, chúng tôi chỉ chọn lĩnh vực công nghệ thông tin làm đối tượng khảo sát, hơn nữa, đây cũng là lĩnh vực có sự tiếp xúc sâu sắc và mạnh mẽ nhất.

1.2. Có một thực tế là tốc độ phát triển của ngành khoa học công nghệ thông tin là rất nhanh. Trong vòng từ sáu tháng đến một năm là công nghệ hiện tại đã có thể bị lạc hậu. Trong khi đó, Việt Nam không phải là một quốc gia phát triển mạnh về lĩnh vực này và chúng ta luôn ở trong tình trạng đuổi theo công nghệ. Trong khi đó, có một quy tắc không thành văn là tiếng Anh là ngôn ngữ của công nghệ thông tin. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các ngôn ngữ lập trình (programming languages) và những quốc gia có nền công nghệ thông tin phát triển mạnh nhất là Mĩ và Ấn Độ lại là những quốc gia nói tiếng Anh. Vì vậy, khi muốn học tập và tiếp nhận công nghệ mới, người ta phải biết tiếng Anh.

Trong khi đó, giữa các thuật ngữ tiếng Anh và các “bản dịch ” tiếng Việt của nó luôn có một độ khúc xạ nhất định về cấu tạo và ngữ nghĩa. Đó là một sự cản trở cho việc tiếp nhận công nghệ mới nếu người tiếp nhận không thật sự giỏi tiếng Anh và đã quá quen với hệ thuật ngữ tiếng Việt.

Vì vậy, đã xảy ra tình trạng “lười ” như đã nói ở trên.

Như thế, yêu cầu được đặt ra ở đây là cần phải dịch như thế nào để vừa đảm bảo tính chính xác lại vừa tiện lợi cho việc liên tưởng, đối chiếu giữa các thuật ngữ tương ứng trong hai ngôn ngữ.

Nhìn lại thực tế những thuật ngữ đã dịch, chúng ta thấy những cách dịch như sau:

1– Sử dụng những từ ngữ sẵn có và tương đương. Ví dụ:

account – tài khoản;
paste – dán
mouse – con chuột
net – mạng
hang – treo

Thực chất, trong tiếng Anh, đây là những từ ngữ được thêm nghĩa mới, phản ánh những khái niệm mới. Nguyên tắc chọn lựa từ ngữ của nó là mối liên hệ gần gũi về một khía cạnh nào đó. Ví dụ như giữa con chuột máy tính là một thiết bị trỏ với con chuột là một động vật gặm nhấm có sự giống nhau về hình thức bên ngoài… Và khi những khái niệm này đi vào tiếng Việt thì người Việt cũng cung cấp nghĩa mới (là nội hàm của khái niệm) cho những từ tương đương sẵn có cũng với cũng một phương thức như vậy. Song, không phải thuật ngữ nào, khái niệm nào cũng có thể sử dụng những từ sẵn có như vậy được. Nếu như vậy sẽ xảy ra hiện tượng đồng âm ở mức không thể kiểm soát. Và phương thức ghép là một giải pháp.

2– Cấu tạo từ/cụm từ mới dựa trên sự liên tưởng về khái niệm. Ví dụ:

server ~ người phục vụserver = máy chủ;
client ~ khách hàngclient = máy khách;
path ~ đường đipath = đường dẫn;
cursor ~ mũi têncursor = con trỏ;

(Ghi chú: phần in nghiêng là các thuật ngữ)

Có thể thấy, ngay trong ngôn ngữ gốc đã có một sự liên tưởng giữa khái niệm mới và khái niệm cũ do từ đó biểu đạt, nghĩa là đã có một lần khúc xạ. Đến khi dịch sang tiếng Việt thì lại có một sự liên tưởng nữa. Như vậy là có tới hai lần khúc xạ trong cách dịch này. Như thế, sẽ rất khó cho người học trong việc nhớ từ.

3– Cấu tạo từ/cụm từ mới dựa trên sự tương ứng 1–1 về thành phần cấu tạo từ/ cụm từ. Ví dụ:

(data = dữ liệu) + (base = cơ sở) data base = cơ sở dữ liệu;
(command = lệnh) + (line = dòng) commandline= dòng lệnh;
(down = xuống) + (load = tải) download = tải xuống;
(scan = quét) + (-er = máy) scanner = máy quét;
(browse = duyệt) + (-er = trình-) browser = trình duyệt;
(inter- = giao-) + (face = -diện) interface = giao diện;

Ngoài ra còn có một số thuật ngữ được dịch theo phương thức có cả yếu tố tương đương (cách 1) lẫn một chút yếu tố liên tưởng (cách 2), khó phân định: field = trường; command = câu lệnh;.. Nhưng phức tạp hơn là cách dịch kết hợp cách 2 và cách 3: hacker = tin tặc; clipboard = bộ nhớ đệm… Tuy nhiên cả hai trường hợp này đều không nhiều.

Cách dịch đáng chú ý nhất là cách dịch thứ ba. Ở đây có một sự tương ứng gần như 1–1 về cơ cấu hình vị cấu tạo từ. Một câu hỏi được đặt ra là: Đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay đó là những sự tương ứng mang tính quy luật? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi sẽ tập trung vào việc đối chiếu hệ thống hình vị của hai ngôn ngữ Anh-Việt.

2.1. Như chúng ta đã biết, tiếng Anh là một ngôn ngữ thuộc loại hình khuất chiết nhưng lại được xếp vào nhóm phân tích. Nghĩa là việc cấu tạo từ tiếng Anh đã bớt phần biến hình và có thêm phương thức hư từ, trật tự từ… Còn tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập điển hình, không có hiện tượng biến hình và chỉ có căn tố. Như vậy, có thể dễ dàng nhận ra là về mặt cấu tạo từ, giữa tiếng Việt và tiếng Anh cũng có một điểm chung là phương thức hư từ, trật tự từ – mặc dù, như đã nói ở trên, phương thức hư từ và trật tự từ không phải là một phương thức điển hình của Anh ngữ.

Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, GS. Nguyễn Tài Cẩn đã chia các hình vị tiếng Việt thành 4 loại:


Tiếng độc lập Tiếng không độc lập
Thực
Tiếng có nghĩa học sẽ quốc (quốc kì)
giả (học giả)
Tiếng vô nghĩa - - dãi (dễ dãi)
cộ (xe cộ)

(Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, trang 37)

Hay như một cách diễn đạt khác của TS. Nguyễn Hồng Cổn:

Giá trị →

Hoạt động ↓

Có giá trị ngữ nghĩa Có giá trị ngữ pháp
Độc lập hoàn toàn học, đẹp… sẽ, dù…
Độc lập không hoàn toàn thuỷ, quốc… bù (bù nhìn)… bất, vô…

2.2. Trong khi trình bày về thành tố cấu tạo từ, GS. Nguyễn Thiện Giáp đưa ra khái niệm bán phụ tố. Đó là “những yếu tố không mất hoàn toàn ý nghĩa sự vật của mình, nhưng lại được lặp lại trong nhiều từ, có tính chất của những phụ tố cấu tạo từ. Tiêu chí cơ bản của bán phụ tố là tính chất phụ trợ của nó, thể hiện trong những đặc điểm về ý nghĩa, phân bố và chức năng. Trong khi hoàn thành chức năng cấu tạo từ, chúng vẫn giữ mối liên hệ về ý nghĩa và hình thức với những từ gốc hoạt động độc lập, cho nên chúng không chuyển hoàn toàn thành các phụ tố” (Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Giáo dục, H., 1998, trang 67). Và khi đối chiếu với tiếng Việt, tác giả Nguyễn Thiện Giáp nhận định: “Trong tiếng Việt, những yếu tố như viên, giả, sĩ, hoá… cũng có tính chất của các bán phụ tố” (sđd, trang 68). Đối chiếu với các phân loại của TS. Nguyễn Hồng Cổn thì chúng ta thấy các hình vị có giá trị ngữ pháp nhưng không độc lập hoàn toàn và có nguồn gốc Hán Việt là những hình vị có tính chất của các bán phụ tố. Sau đây là một vài ví dụ:

-sĩ : nghệ sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, viện sĩ, nha sĩ…
-học : dân tộc học, tâm lí học, xã hội học, sinh học…
tiền- : tiền đề, tiền lệ, tiền sử, tiền tố, tiền nhiệm…
bất- : bất biến, bất cẩn, bất chính, bất công, bất định, bất nhân, bất nghĩa, bất ngờ…

Có thể nhận thấy, trong các ví dụ trên, mỗi từ đều được cấu tạo từ hai yếu tố: một yếu tố mang nghĩa từ vựng cho toàn từ, còn yếu tố kia lại có thiên hướng về ý nghĩa ngữ pháp. Các yếu tố thứ hai đó chính là các hình vị có tính chất của các bạn phụ tố mà chúng ta đang nói tới. Và, khi đối chiếu với các từ tiếng Anh tương ứng, chúng ta sẽ nhận thấy có những sự tương ứng nhất định giữa các “bán phụ tố” tiếng Việt với các phụ tố tiếng Anh về vai trò trong cấu tạo từ:

– artist, painter, musican, academician, dentist
– ethnology, pschology, sociology, biology
premise, precedent, prehistoric, prefix, predecessor…
invariable, careless, illegal, injustice, indeterminate, humanless, ungrateful, unexpected…
– …

Như vậy, rõ ràng là đã có một sự tương ứng về vai trò trong việc cấu tạo từ giữa các “bán phụ tố” tiếng Việt với các phụ tố tiếng Anh. Tuy nhiên, sự tương ứng này không phải là tương ứng 1–1 hoàn toàn, nghĩa là không phải cứ ứng với một “bán phụ tố” tiếng Việt là một phụ tố tiếng Anh. Rõ ràng là ứng với sĩ- trong tiếng Việt là: -ist, -er, -an… trong tiếng Anh; hay giữa bất- với các phụ tố in-, -less, il-, un-…. Đó là khi chúng ta lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ gốc để đối chiếu. Ngược lại, khi ngôn ngữ cơ sở đó là tiếng Anh thì ta cũng nhận thấy tình trạng như vậy. Ví dụ với phụ tố -er trong tiếng Anh, nó làm thành tố cấu tạo các từ như: painter, teacher, worker, driver… thì các “bán phụ tố” tiếng Việt tương ứng lúc này lại là: -sĩ (hoạ sĩ), -viên (giáo viên), -nhân (công nhân), trình- (trình điều khiển)…

Do vậy, sự tương ứng đó phải nằm ở một bậc cao hơn, và mang tính khái quát.

Như chúng ta đã biết, một trong những chức năng lớn nhất của từ là chức năng định danh. Nghĩa là, từ là phương tiện dùng để gọi tên các sự vật, hiện tượng, hoạt động, tính chất… Xét về mặt logic thì có thể coi từ tương đương với các khái niệm (và chỉ là tương đương mà thôi). Trong khi đó, ở các dân tộc, các cộng đồng luôn có những phạm trù về thời gian, tính chân thực, về sự khẳng định hay phủ định… Đó là những cái chung. Tuy nhiên, giữa các ngôn ngữ khác nhau và giống nhau trong việc định danh. Điểm tương đồng giữa tiếng Anh và tiếng Việt trong cấu tạo từ có thể nhận thấy trước nhất ở mô hình theo kiểu căn tố+phụ tố/ “bán phụ tố”. Những ví dụ trên đã cho thấy điều đó. Tuy nhiên, về tần suất sử dụng và bản chất của mô hình này ở mỗi ngôn ngữ là khác nhau. Và chúng ta có thể khẳng định rằng đó là một hiện tượng phổ biến trong tỉếng Anh, bởi đơn giản tiếng Anh là một ngôn ngữ thuộc loại hình khuất chiết.

Mặc dù không thể có sự tương ứng 1–1 ở mặt đơn vị cấu tạo từ nhưng nếu xét ở một bình diện khác, bình diện phạm trù ý nghĩa mà các hình vị đó thể hiện thì chúng ta có thể thấy: Đối với mỗi phạm trù (phủ định, chỉ con người, chỉ ngành khoa học…) ở mỗi ngôn ngữ luôn có những nhóm hình vị nhất định.

Ví dụ:

a. Phạm trù sự phủ định

a1. Tiếng Anh

dis- : dishonest, disorganize, dislike, disappear, disadvantage
il (+l)- : illegal, illiberal
im (+m or p)- : imposible, impolite
in- : indirect, invisible, injustice
ir (+r)- : irregular, irrelevant
non- : non-alcohobic, non-stop, non-profit
un- : uncomfortable, unusual, undated, uncertain, unpack, unzip
-less : hopeless, powerless

a2. Tiếng Việt

bất- : bất định, bấn đồng, bất biến, bất tận…
phi- : phi lí, phi nghĩa…
- : vô vi, vô đạo, vô tình, vô hình…

b. Phạm trù khả năng

b1. Tiếng Anh

-able : writeable, unable, comfortable…
-ible : visible, possible, comprehensible…

b2. Tiếng Việt

khả- : khả dụng, khả năng, khả biến…
-được : viết được, ăn được, nhìn (thấy) được…

c. Phạm trù chỉ người

c1. Tiếng Anh

-er/or : driver, editor
-ist : tourist, scientist
-ant/ent : assistant, student
-an/ian : republican, electrician
-ee : employee, examinee

c2. Tiếng Việt

- : nhạc sĩ, hoạ sĩ, giáo sĩ, nha sĩ, bác sĩ, viện sĩ…
-viên : giáo viên, sinh viên, nhân viên, diễn viên…
-giả : học giả, tác giả, kí giả…
-nhân : thi nhân, quân nhân, công nhân, nạn nhân, bệnh nhân…
nhà- : nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo…

v.v và v.v…

Trong các ví dụ cho cách 3 (phần 1.2), chúng tôi đã chủ ý sắp xếp theo hướng giảm dần tính độc lập của các thành tố tham gia cấu tạo thuật ngữ: từ những căn tố tiếng Anh và từ ghép trong tiếng Việt đến các phụ tố trong tiếng Anh và các hình vị có nghĩa không độc lập trong tiếng Việt. Trong số 82 thuật ngữ (bao gồm cả thuật ngữ tin học và một số thuật ngữ bóng đá) mà chúng tôi tạm lấy làm tư liệu (xem phần Phụ lục) thì có tới 42 trường hợp sử dụng cách 3. Tất nhiên, tỉ lệ này có thể thay đổi khi có thống kê đầy đủ các thuật ngữ đã được dịch, nhưng chắc chắn cách 3 sẽ là cách phổ biến nhất, bởi vì nó sẽ vừa đảm bảo việc tiết kiệm (sử dụng những yếu tố có sẵn) vừa đảm bảo khả năng dễ liên tưởng, nhất là sự liên tưởng giữa các phụ tố tiếng Anh với các hình vị có nghĩa không độc lập (bao gồm cả các “bán phụ tố”) trong tiếng Việt. Hơn nữa, như chúng ta đã biết, các hình vị tiếng Việt loại này có sức sản sinh từ rất cao do nội dung ngữ nghĩa của mỗi hình vị đều mang tính phạm trù, chứ không đơn thuần là một khái niệm đơn lẻ. Và sự tồn tại của những nhóm phụ tố – “bán phụ tố” tương đương giữa tiếng Anh và tiếng Việt như đã trình bày là một thuận lợi rất lớn cho công tác dịch thuật.

Do điều kiện thời gian cũng như những đòi hỏi khách quan khác mà trong bài viết này chúng tôi chưa thể đưa ra một bảng đối chiếu các phụ tố tiếng Anh với các “bán phụ tố” tiếng Việt và các yếu tố tương đương. Trong khi đó, trên thực tế, một hạn chế của các từ điển đối chiếu (kể cả từ điển phụ tố) hiện nay là mới chỉ đưa ra các đối chiếu một cách rời rạc (word-by-word). Nếu chúng ta xây dựng được một bảng đối chiếu dựa trên các phạm trù thì sẽ tăng khả năng liên tưởng cũng như tăng khả năng chọn lựa từ ngữ hơn trong khi thực hiện công tác dịch thuật, đặc biệt là dịch các thuật ngữ mới.

Phụ tố tiếng Anh và vấn đề dịch thuật ngữ tin học từ tiếng Anh sang tiếng Việt
(Phần 3)

PHỤ LỤC

Một số thuật ngữ tin học và bóng đá (để so sánh) trong tiếng Anh đã được dịch/Việt hoá và được dùng phổ biến trong tiếng Việt

Tiếng Anh Quan hệ Tiếng Việt
access = truy cập
access = truy nhập
access = truy xuất
active = kích hoạt
address bar thanh địa chỉ
backup # sao lưu
browser trình duyệt
chat P chát
chat = tán gẫu
chip P chíp
click # nháy
client # máy khách
clipboard #\→ bộ nhớ đệm
cluster # cung
command #\ = câu lệnh
command line dòng lệnh
computer máy tính
computer máy tính/ máy vi tính
configuration cấu hình
cursor # con trỏ
data base cơ sở dữ liệu
dialog box hộp thoại
digital technology kĩ thuật số
driver trình điều khiển
directory #\ = thư mục (2)
download tải xuống
download hạ tải
editor = biên tập viên
editor trình soạn thảo
e-mail (electronic mail) thư điện tử
emulator trình mô phỏng
field #\ = trường
file # tập tin
file # tệp
filter # bộ lọc
floppy (device) ổ mềm
floppy disk đĩa mềm
folder #\ = thư mục (1), hồ sơ
format # định dạng/ khuôn dạng
goal # cầu môn → khung thành
hacker #\ → tin tặc
hard disk đĩa cứng
hard disk device ổ cứng
hardware phần cứng
homepage # trang chủ
homepage trang nhà
hot line đường dây nóng
input đầu vào
insert #\ = chèn
interface giao diện
key word từ khoá
keyboard bàn phím
mobile phone điện thoại di động
monitor # màn hình
mouse = con chuột
multi-tasks đa nhiệm
multi-users đa người dùng
net = mạng
operating system hệ điều hành
output đầu ra
paste = dán
path # đường dẫn
penalty # phạt đền
printer máy in
processor trình soạn thảo
programmer lập trình viên
programming lập trình
programming language ngôn ngữ lập trình
reading head đầu đọc
red card thẻ đỏ
redo chuyển tác
resolution độ phân giải
scanner máy quét
server # máy chủ
software phần mềm
status bar thanh trạng thái
toolbar thanh công cụ
undo hoàn tác
upload tải lên
utility #\= tiện ích
web page trang web
yellow card thẻ vàng

Chú thích:

= : tương đương (cách 1)
# : liên tưởng (cách 2)
→ : căn ke 1–1 (cách 3)
P : phiên âm
\ : kết hợp