|  | |
|  |  | 
| 
Japan’s Demographic
  Disaster | 
Thảm họa nhân khẩu
  học của Nhật Bản | 
| 
By John W. Traphagan  
February 03, 2013 | 
John W. Traphagan  
03 tháng 2 năm 2013 | 
| 
Last August, I wrote an article for The Diplomat  that discussed some of the issues Japan is
  facing in relation to population decline. 
  As I noted, the population has dropped for three years in a row.  Recently, the Japanese government announced
  that the population decrease for 2012 is expected to be 212,000—a new
  record—while the number of births is expected to have fallen by 18,000 to
  1,033,000—also a record low. 
  Projections by the Japanese government indicate that if the current
  trend continues, the population of Japan will decline from its current 127.5
  million to 116.6 million in 2030, and 97 million in 2050. This is truly
  astonishing and puts Japan at the forefront of uncharted demographic
  territory; but it is territory that many other industrial countries also are
  beginning to enter as well.  | 
Tháng Tám năm ngoái, tôi có viết một bài báo cho tờ The Diplomat đề thảo luận về một số
  vấn đề Nhật Bản đang đối mặt mà có liên quan đến suy giảm dân số. Như đã nói,
  dân số Nhật đã giảm trong ba năm liên tiếp. Gần đây, chính phủ Nhật Bản đã
  thông báo rằng sự sụt giảm dân số năm 2012 dự kiến sẽ là 212.000 là một kỷ lục mới,
  trong khi mức sinh dự kiến đã giảm bớt
  18.000 xuống mức thấp kỷ lục 1.033.000. Dự báo của chính phủ Nhật Bản chỉ ra
  rằng nếu xu hướng hiện tại vẫn tiếp tục, dân số Nhật Bản sẽ giảm từ mức hiện
  tại 127,5 triệu xuống còn 116,6 triệu vào năm 2030, và 97 triệu vào năm 2050.
  Điều này là thực sự đáng kinh ngạc và đặt Nhật Bản đi đầu trong lãnh địa nhân
  khẩu chưa từng được biết đến, nhưng nó là lãnh địa mà nhiều nước công nghiệp
  khác cũng đang bắt đầu bước chân vào. | 
| 
Predicting the consequences of Japan's demographic shift
  is difficult.   And it is important to
  remember that these are projections; it seems to me unlikely that this trend
  will continue for the next century without some sort of intervening
  political, cultural, or economic factors that generate increased immigration
  or more robust fertility rates. 
  Indeed, there have been modest—very modest—increases in the number of
  foreign residents in Japan over the past twenty years, with a little over
  twice the number today (2,134,151) as compared to 1990 (1,075,317). Many
  towns have developed international centers where opportunities are developed
  and supported, creating contexts for interactions between local residents and
  foreigners such as a monthly English dinner hosted in the town where I have
  done fieldwork for several years. | 
Dự đoán hậu quả của sự thay đổi nhân khẩu học của Nhật Bản
  là khó khăn. Và điều quan trọng là phải nhớ rằng đây là những dự đoán, có vẻ
  như tôi không chắc rằng xu hướng này sẽ tiếp tục cho thế kỷ tới mà không có
  một số loại can thiệp của các yếu tố chính trị, văn hóa, kinh tế nhằm tăng
  nhập cư, và tỷ lệ sinh đẻ mạnh mẽ hơn. Thật vậy, có con số khiêm tốn rất khiêm
  tốn người nước ngoài tại Nhật Bản trong hai mươi năm qua, với con số ngày hôm
  nay (2.134.151) chỉ nhỉnh hơn hai lần một chút so với so với năm 1990
  (1.075.317). Nhiều thị trấn đã phát triển các trung tâm quốc tế nơi mà cơ hội
  được phát triển và hỗ trợ, tạo ra bối cảnh cho sự tương tác giữa người dân
  địa phương và người nước ngoài chẳng hạn như một bữa tiệc tối kiểu Anh được
  tổ chức hàng tháng được tại thị trấn nơi mà tôi thực hiện nghiên cứu thực địa
  trong nhiều năm. | 
| 
Government officials have often explained to me that one
  of the goals of these initiatives is to create contexts in which Japanese
  people can interact, and thus become more comfortable with, foreigners.  The widespread presence of foreign English
  teachers supported through the JET program and other English language
  programs has also meant that, unlike forty for fifty years ago, most younger
  Japanese have grown up regularly interacting with individuals from other
  countries.   At the same time, there
  has been some immigration of women from other Asian countries, such as the
  Philippines, into rural parts of Japan for the purpose of marrying men who
  otherwise would have had difficulties finding a wife among the native
  population.  These developments may
  allow for increased openness to immigration in the future, although for the
  most part, the Japanese government has remained lukewarm, at best, when it
  comes to allowing any significant increase in the number of permanent
  residents or immigrants. Naturalized Japanese citizenship remains difficult
  to obtain.  | 
Các quan chức chính phủ đã thường giải thích với tôi rằng
  một trong những mục tiêu của các sáng kiến này là tạo ra bối cảnh trong đó người dân Nhật Bản có thể giao
  lưu và do đó trở nên thoải mái hơn với người nước ngoài. Sự hiện diện phổ
  biến rộng rãi của các giáo viên tiếng Anh nước ngoài được hỗ trợ thông qua
  chương trình JET và các chương trình ngôn ngữ tiếng Anh khác cũng có nghĩa
  rằng, khác với 40 năm mươi năm trước, hầu hết các trẻ em Nhật Bản đã lớn lên
  trong sự giao lưu thường xuyên với người đến từ các nước khác. Đồng thời, có
  một số người nhập cư là phụ nữ từ các nước châu Á khác, như Philippines, đến các
  vùng nông thôn của Nhật Bản với mục đích kết hôn với đàn ông Nhật mà, nếu
  không lầy vợ nước ngoài, sẽ gặp khó khăn trong việc tìm một người vợ trong số
  những cư dân bản địa. Những phát triển này có thể cho phép cởi mở hơn người
  nhập cư trong tương lai, mặc dù xét phần lớn thì, chính phủ Nhật Bản vẫn còn khó
  chịu, quả thế, khi nói đến việc cho phép gia tăng đáng kể số lượng người thường
  trú hoặc nhập cư. Nhập tịch công dân Nhật Bản vẫn còn là vấn đề khó khăn. | 
| 
While predicting the future of these demographic trends is
  difficult, the causes are at least somewhat decipherable.  The proximate cause of population decline
  in Japan are fairly clear: a low fertility combined with increased life
  expectancy has led to a population structure that is increasingly weighted
  towards older members of society. 
  Currently there are significantly fewer people under 30 than there are
  between the ages of 30 and 60.  As the
  population of middle-aged individuals grows older and dies, there will be far
  fewer people remaining behind.  In
  other words, the current middle-aged generation of Japanese has failed to
  replace itself.  The question, of
  course, is why? | 
Trong khi dự đoán tương lai của các xu hướng nhân khẩu học
  là khó khăn, thì ít ra, nguyên nhân phần nào có thể giãi mã được. Nguyên nhân sâu xa của sự suy giảm dân
  số ở Nhật Bản là khá rõ ràng: một tỷ lệ sinh sản thấp kết hợp với tuổi thọ
  tăng lên đã dẫn đến cơ cấu dân số đang ngày càng nghiêng nặng về bộ phận giá
  cả của xã hội. Hiện nay, người dưới 30 tuổi hơn  ít hơn đáng kể người ở độ tuổi từ 30 và 60.
  Khi dân số trung niên già lão và chết đi, sẽ còn lại ít người hơn nữa. Nói
  cách khác, thế hệ trung niên hiện tại của Nhật Bản đã không thể tạo ra đủ
  xuất sinh thay thế. Tất nhiên, câu hỏi đặt ra là: lý do tại sao? | 
| 
Various studies of demographic change in Japan have linked
  declining fertility to other changing social factors such as increased
  education, delayed marriage age, more economic opportunities for women, and
  the expense of raising children in modern, urban societies.  All of these have played a role in reducing
  fertility over the past few decades. 
  In addition, beyond delayed marriage many Japanese have chosen not to
  marry and, as a result, not have children. 
  According to the 2010 census, 30% of all households in Japan were
  single, representing the largest category of household composition in the
  country.  A significant portion of
  these households were widows over the age of 65. At the same time, a not
  insignificant portion were women and men in both early adulthood and
  middle-age who have simply chosen to not get married.  In a society like Japan where child-birth
  out of wedlock is stigmatized, the decision not to marry also normally means
  that one has chosen not to have children. | 
Nghiên cứu khác nhau của sự thay đổi nhân khẩu học ở Nhật
  Bản đã liên kết giảm tỷ lệ sinh với các yếu tố xã hội đang thay đổi khác như
  giáo dục tăng lên, tuổi kết hôn muộn, nhiều cơ hội kinh tế cho phụ nữ, và chi
  phí cao để nuôi dưỡng con cái trong xã hội đô thị hiện đại. Tất cả những điều
  này đã đóng một vai trò trong việc làm giảm tỷ lệ sinh đẻ trong vài thập kỷ
  qua. Thêm vào đó, ngoài kết hôn muộn ra, nhiều người Nhật đã chọn sống độc
  thân, và kết quả là, không có con. Theo điều tra dân số năm 2010, 30% c hộ
  gia đình ở Nhật Bản là độc thân, đại diện cho thể loại lớn nhất thành phần hộ
  gia đình trong cả nước. Một phần đáng kể là các hộ gia đình của những góa phụ
  trên 65 tuổi. Đồng thời, một phần không lớn là phụ nữ và nam giới ở đầu tuổi
  trưởng thành và tuổi trung niên mà đã cõ lựa chọn đơn giản là không kết hôn.
  Trong một xã hội như Nhật Bản, nơi trẻ em sinh ra ngoài giá thú bị kỳ thị,
  quyết định không kết hôn cũng thường có nghĩa là một trong những lựa chọn
  không có con. | 
| 
Indeed, there are many women in Japan today in their
  forties and fifties who have opted for a career over marriage and
  child-rearing.  In Japan, social
  pressures make it difficult for women to manage a career while also raising a
  family.  Furthermore, recent trends
  suggest that both men and women are increasingly uncertain about the value of
  marriage and having a family.  A
  government survey of people between the ages of 18 and 34 in 2011 showed that
  over 61% of unmarried men among those surveyed lacked a girlfriend and 49.5%
  unmarried women had no boyfriend, the latter being a new record. Forty
  percent of respondents indicated that there was no need to marry and 45% of
  men showed no interest in "dating the opposite sex." These results,
  which represented significant increases over the same type of survey
  conducted in previous years, have raised concerns that the population problem
  Japan is facing will not change in the foreseeable future.  | 
Thật vậy, có rất nhiều phụ nữ ở Nhật Bản ngày nay ở độ
  tuổi bốn mươi và năm mươi đã chọn sự nghiệp thay vì hôn nhân và nuôi dạy con
  cái. Tại Nhật Bản, áp lực xã hội gây khó khăn cho phụ nữ để vừa quản lý một
  sự nghiệp vừa gầy dựng một gia đình. Hơn nữa, xu hướng gần đây cho thấy rằng
  cả nam giới và phụ nữ ngày càng không chắc chắn về giá trị của hôn nhân và lập
  gia đình. Một cuộc khảo sát của chính phủ về những người trong độ tuổi từ 18
  và 34 trong năm 2011 cho thấy rằng hơn 61% đàn ông chưa lập gia đình trong số
  những người được khảo sát không có bạn gái và 49,5% phụ nữ chưa lập gia đình
  không có bạn trai, và 49,5% là một kỷ lục mới. Bốn mươi phần trăm số người
  được hỏi cho rằng không có nhu cầu kết hôn và 45% nam giới cho thấy không có
  quan tâm đến "hẹn hò với người khác giới." Những kết quả này cho thấy
  có gia tăng đáng kể so với các khảo sát cùng loại được tiến hành trong những
  năm trước, và đã dấy lên lo ngại rằng các vấn đề dân số Nhật Bản đang đối mặt
  với sẽ không thay đổi trong tương lai gần. | 
| 
The consequences of changing attitudes about marriage and
  gender roles and associated low fertility are considerable.  One problem that has arisen is that many
  single women are living on very low incomes and have joined the ranks of the
  poor.  Recent research has shown that 1
  in 3 single women of working age in Japan qualify as poor and that the number
  of poor women in Japan is likely to increase; by 2030 it is projected that 1
  in 5 women in Japan will be single. Many of these women may well be living in
  some level of poverty.  | 
Có các hậu quả đáng kể của việc thay đổi thái độ về hôn
  nhân và vai trò giới tính và khả năng sinh sản thấp có liên quan. Một trong
  những vấn đề phát sinh là nhiều phụ nữ độc thân đang sống với thu nhập rất
  thấp và đã gia nhập đội ngũ những người nghèo. Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra
  rằng cứ 3 phụ nữ thì có 1 độc thân trong độ tuổi làm việc tại Nhật Bản hội đủ
  điều kiện hộ nghèo và số lượng phụ nữ nghèo ở Nhật Bản có khả năng gia tăng,
  vào năm 2030, người ta dự đoán rằng cứ 5 phụ nữ ở Nhật Bản sẽ có 1 người đọc
  thân. Nhiều người trong số những phụ nữ này cũng có thể sống ở mức nghèo khổ. | 
| 
Another problem Japan faces is that the general low
  fertility rate means there are not enough younger people paying into the
  national pension program, and this will cause increasing strain on government
  coffers as the proportion of elderly (currently about 23% of the population
  is over 65) continues to grow. | 
Một vấn đề Nhật Bản phải đối mặt là với tỷ lệ sinh thấp
  nói chung có nghĩa là không có đủ người trẻ trả tiền vào các chương trình hưu
  trí quốc gia, và điều này sẽ tăng thêm căng thẳng cho ngân quỹ của chính phủ vì
  tỷ lệ người cao tuổi (hiện nay khoảng 23% dân số trên 65 tuổi ) tiếp tục gia
  tăng. | 
| 
Finally, the decline of the population over the next few
  decades, and the shortage of young people in particular, will have a
  significant impact on the Japanese labor force.  Questions related to how to maintain
  economic growth—an issue that has been at the forefront of thinking about the
  country for the past twenty years, due to a generally sluggish economy—with a
  decreasing population are both complex and on the minds of policymakers.  One obvious solution to this would be for
  Japan to relax immigration policies and allow for more workers, particularly
  healthcare workers, to enter the country. 
  As noted above, to date this has not been a particularly palatable
  solution, but this may well change as younger Japanese, with regular
  experience and interactions with foreigners, move into positions of power and
  guide policy. | 
Cuối cùng, suy giảm dân số trong vài thập kỷ tới, và đặc
  biệt là thiếu hụt những người trẻ tuổi, sẽ có một tác động đáng kể lên lực
  lượng lao động Nhật Bản. Những vấn nạn liên quan đến việc làm thế nào để duy
  trì tăng trưởng kinh tế - một vấn đề hàng đầu mà đã được đất nước này suy tính
  suốt hai mươi năm qua, do nền kinh tế nhìn chung bị chững lại  - với một dân số suy giảm thì cả hai đều
  phức tạp và chiếm hết tâm trí của các nhà hoạch định chính sách Nhật Bản. Một
  giải pháp dễ thấy đối với vần đề này sẽ là Nhật Bản nới lỏng chính sách nhập
  cư và cho phép người lao động, đặc biệt là người hành nghề y tế, nhập cảnh.
  Như đã nói ở trên, cho đến nay điều này vẫn chưa là một giải pháp đặc biệt dễ
  chịu, nhưng điều này cũng có thể thay đổi khi những người Nhật Bản trẻ tuổi
  hơn, với kinh nghiệm và giao lưu thường xuyên với người nước ngoài, bước vào
  vị trí cầm quyền và lập chính sách. | 
| 
An alternative to this social-centered solution of increased
  immigration has been raised in recent years. 
  Rather than relaxing immigration laws, some have proposed increasing
  investment in robotics as a means of addressing the conflict of a shortfall
  of labor with the need for workers. 
  This idea has been raised particularly in relation to elder care,
  where demand for workers has increased rapidly with the promulgation of the
  longer term care insurance program in 2001 and the continued growth of the
  elderly population.  It may well be
  that a technological solution to Japan’s population problem will be seen as
  preferable to other possible solutions. | 
Một giải pháp thay thế cho giải pháp nhập cư lấy xã hội làm
  trung tâm này đã được nểu ra trong những năm gần đây. Thay vì nới lỏng luật
  nhập cư, một số người đã đề xuất tăng cường đầu tư vào robot như là một
  phương tiện để giải quyết các xung đột về thiếu hụt lao động với nhu cầu về
  người lao động. Ý tưởng này đã được nêu lên đặc biệt có liên quan đến chăm
  sóc người cao tuổi, khi mà nhu cầu về người lao động đã tăng lên nhanh chóng
  với việc ban hành các chương trình chăm sóc bảo hiểm dài hạn vào năm 2001 và
  sự gia tăng liên tục dân số già. Cũng có thể là một giải pháp công nghệ cho
  vấn đề dân số Nhật Bản sẽ được xem như thích hợp hơn so với các giải pháp có
  thể có khác. | 
| 
Obviously, only time will tell.  But Japan is faced with an unprecedented
  population challenge that will have social, economic, and political
  consequences over the next century—consequences that will not only affect
  Japan, but also influence Japan’s trading partners as well as its political
  and military allies.  | 
Rõ ràng, chỉ có thời gian mới cho ta biết mọi chuyện. Tuy
  nhiên, Nhật Bản đang phải đối mặt với một thách thức dân số chưa từng có mà
  sẽ có hậu quả xã hội, kinh tế và chính trị trong thế kỷ tiếp theo – những hậu
  quả mà sẽ không chỉ ảnh hưởng đến Nhật Bản, mà còn ảnh hưởng đến các đối tác
  thương mại của Nhật Bản cũng như các đồng minh chính trị và quân sự. | 
| 
There is, perhaps, no single variable in the complex web
  of East Asian politics more uncertain in terms of how it may influence future
  relations throughout the region than the fate of Japan’s population, because
  the manner in which that population changes over the next several decades is
  both difficult to predict and likely to have a profound influence in shaping
  the regional role Japan is able to play as a political, cultural, and
  economic power.  | 
Có là, có lẽ, không có biến số duy nhất nào trong mạng
  lưới phức tạp của chính trị Đông Á thiếu chắc chắn hơn đối với cách thức nó
  có thể ảnh hưởng đến các quan hệ tương lai trên toàn khu vực hơn là số phận
  của dân số Nhật Bản, bởi vì cách thức mà dân số thay đổi trong vài thập kỷ
  tới vừa khó dự đoán vừa có khả năng gây ảnh hưởng sâu sắc trong việc định
  hình vai trò khu vực của Nhật Bản, có đóng vai trò như một quyền lực chính
  trị, văn hóa, và kinh tế. | 
| 
Dr. John W.
  Traphagan is a professor in the Department of Religious Studies, University
  of Texas at Austin. | 
Tiến sĩ John W.
  Traphagan là giáo sư tại Khoa Nghiên cứu Tôn giáo, Đại học Texas ở Austin. | 
| 
http://thediplomat.com/2013/02/03/japans-demographic-disaster/ | |
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT –  SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Saturday, February 9, 2013
Japan’s Demographic Disaster Thảm họa nhân khẩu học của Nhật Bản
Labels:
ASIA-CHÂU Á
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
 
 
 
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn