| 
 | 
   | 
Classical Leadership | 
Lãnh Đạo kinh điển 
  | 
   | 
Michele   Erina Doyle and Mark K. Smith | 
Michele   Erina Doyle và Mark K. Smith 
  | 
   | 
What   is leadership? Here Michele Erina Doyle and Mark K. Smith explore some of the   classical models of leadership. In particular they look at earlier approaches   to studying the area via the notions of traits and behaviours, and to what   has become known as contingency theory. From there they turn to more recent,   ‘transformational’ theories and some issues of practice.  
  | 
Lãnh   Đạo là gì? Trong bài này, Michele Erina Doyle và Mark K. Smith tìm hiểu một   số mô hình kinh điển về Lãnh Đạo. Một cách cụ thể hơn, họ điểm qua một số   phương pháp đã từng được sử dụng khi nghiên cứu về Lãnh Đạo; đó là các lý   thuyết về lãnh đạo qua đặc tính cá nhân, qua cách hành xử, và qua lý thuyết   được biết đến gần đây là lý thuyết, "ứng phó với các tình huống bất   ngờ" (contingency theory). Sau đó họ điểm qua các lý thuyết "thăng   hóa," và các vấn đề về thực thi nhiệm vụ lãnh đạo. 
 
 
 
  | 
   | 
Many   of the images associated with leadership have their roots in conflict. It is   the stuff of generals who outwit their opponents, politicians who convince   and channel groups into action, and people who take control of a crisis. We   are directed to special individuals like Gandhi or Joan of Arc; Napoleon or   Hitler. The stories around such people seem to show that there are moments of   crisis or decision where the actions of one person are pivotal. They have a   vision of what can, and should be, done and can communicate this to others.   When these are absent there can be trouble. Quality of leadership is,   arguably, central to the survival and success of groups and organizations. As   The Art of War, the oldest known military text (circa 400 BC), puts it, 'the   leader of armies is the arbiter of the people's fate, the man on whom it   depends whether the nation shall be in peace or in peril' (Waging war [20]).  
  | 
Những   hình ảnh liên hệ đến Lãnh Đạo thường bắt nguồn từ những cuộc xung đột. Khi   nói về lãnh đạo, ta thường nghĩ đến những vị tướng mưu lược hơn đối phương,   những chính trị gia [có khả năng] thuyết phục và hướng dẫn những người theo   mình thực hiện một hành động nào đó, hoặc những người giải quyết được một cơn   khủng hoảng. Chúng ta nhìn vào những cá nhân đặc biệt như Gandhi hoặc Jeane   D'Arc, Napoleon, hoặc Hitler. Những câu chuyện chung quanh các nhân vật này   đều cho thấy có những giây phút ngặt nghèo, hoặc những lúc mà quyết định của   một người có tính chất thay đổi thời cuộc. Những người này có một viễn kiến   về những điều có thể làm, hay nên làm, và có thể truyền đạt viễn kiến này đến   những người đi theo mình. Thiếu sót những phẩm chất này, nguy cơ có thể xảy   ra. Phẩm chất của khả năng lãnh đạo, có thể được xem là trọng tâm của sự sống   còn và sự thành bại của tổ chức. Như Binh Pháp Tôn Tử, cuốn binh thư cổ nhất   (khoảng 400 năm trước Công Nguyên), đã nói "Tướng soái giỏi dụng binh là   thần hộ mệnh của dân là người giữ sự an nguy của quốc gia" (Thiên Tác   Chiến [20]). 
  | 
   | 
But   what is leadership? It seems to be one of those qualities that you know when   you see it, but is difficult to describe. There are almost as many   definitions as there are commentators. Many associate leadership with one   person leading. Four things stand out in this respect. First, to lead   involves influencing others. Second, where there are leaders there are   followers. Third, leaders seem to come to the fore when there is a crisis or   special problem. In other words, they often become visible when an innovative   response is needed. Fourth, leaders are people who have a clear idea of what   they want to achieve and why. Thus, leaders are people who are able to think   and act creatively in non-routine situations – and who set out to influence   the actions, beliefs and feelings of others. In this sense being a ‘leader’   is personal. It flows from an individual’s qualities and actions. However, it   is also often linked to some other role such as manager or expert. Here there   can be a lot of confusion. Not all managers, for example, are leaders; and   not all leaders are managers.  
  | 
Thế   thì, thế nào là Khả Năng Lãnh Đạo? Hình như đó là một trong những phẩm chất   mà khi thấy thì ta biết liền, nhưng lại khó mô tả. Phải nói là có bao nhiêu   nhà bình luận thì cũng có chừng ấy định nghĩa khác nhau về lãnh đạo. [Tuy   nhiên,] rất nhiều định nghĩa liên kết sự lãnh đạo với người lãnh đạo. Theo   quan niệm này, có bốn điểm chính. Đầu tiên, lãnh đạo bao gồm việc ảnh hưởng   đến người khác. Thứ hai, hễ có người lãnh đạo thì luôn luôn có người đi theo.   Thứ ba, các nhà lãnh đạo thường xuất hiện khi có một cơn khủng hoảng, hoặc có   một vấn nạn cần được giải quyết. Nói một cách khác, những người lãnh đạo   thường xuất hiện khi có nhu cầu cần có một phương thức giải quyết mới cho một   vấn đề xã hội. Thứ tư, người lãnh đạo là người có cái nhìn rất rõ họ muốn đạt   được điều gì và tại sao họ muốn điều đó. Như vậy, người lãnh đạo là người có   khả năng suy nghĩ và hành động một cách sáng tạo trong những tình huống bất   thường, là người đưa ra viễn kiến mới để ảnh hưởng đến hành động, niềm tin và   cảm xúc của những người xung quanh. Theo quan niệm này khả năng lãnh đạo bắt   nguồn từ khả năng và phẩm chất của một cá nhân. Tuy nhiên, nó cũng liên hệ   tới các vai trò khác, như là vai trò của người quản lý hoặc chuyên viên. Và   như vậy thì cũng rất khó phân biệt, bởi vì không phải người giám đốc điều   hành nào cũng là người lãnh đạo và ngược lại, không phải người lãnh đạo giỏi   nào cũng là người quản lý giỏi. 
  | 
   | 
In   the recent literature of leadership (that is over the last 80 years or so)   there have been four main ‘generations’ of theory:  
·   Trait theories.  
·   Behavioural theories.  
·   Contingency theories.  
·   Transformational theories.  
  | 
Trong   khoảng 80 năm trở lại đây, trong các quan niệm kinh điển về vai trò lãnh đạo,   có 4 khuynh hướng định nghĩa chính như sau: 
  
    Các lý thuyết về Lãnh Đạo do đặc tính cá   nhân 
    Các Lý thuyết về Lãnh đạo qua cách hành   xử 
    Các Lý Thuyết về Lãnh đạo do thời thế tạo   nên 
    Các Lý Thuyết về Lãnh Đạo qua thăng hóa. 
  | 
   | 
It   is important, as John van Maurik (2001: 2-3) has pointed out, to recognize   that none of the four ‘generations’ is mutually exclusive or totally   time-bound.  
  | 
Như   John Van Maurik (2001: 2-3) đã nói, điểm quan trọng là bốn loại lý thuyết này   không hoàn toàn tách biệt lẫn nhau và không giới hạn vào thời gian. 
  | 
   | 
Although   it is true that the progression of thinking tends to follow a sequential   path, it is quite possible for elements of one generation to crop up much   later in the writings of someone who would not normally think of himself or   herself as being of that school. Consequently, it is fair to say that each   generation has added something to the overall debate on leadership and that   the debate continues. (van Maurik 2001: 3)  
  | 
Mặc   dù đúng là quá trình phát triển của tư tưởng có khuynh hướng tiếp nối nhau   [theo từng thế hệ], nhưng cũng có thể có những tư tưởng của một [trường phái   thuộc] thế hệ trước lại xuất hiện trong những nghiên cứu của những tác giả   thuộc về các thế hệ mãi về sau này, những tác giả thuộc thế hệ trẻ này   cũng    không nghĩ là họ thuộc về   trường phái đó.Sau cùng có thể nói một cách công bằng là mỗi thế hệ đã thêm   vào những đóng góp đáng kể trong cuộc bàn luận về lãnh đạo và cuộc bàn luận   đó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. (van Maurik 2001:3) 
  | 
   | 
This   fourfold division of ‘modern’ (management) leadership can go under different   titles (e.g. we might discuss charismatic rather than transformational   leadership), and there are other possible candidates e.g. skill-based   approaches and self-management or shared leadership (discussed elsewhere on   these pages). However, these four formations can be seen as sharing some   common qualities – and we can approach them as variations of the ‘classical’   model of leadership.  
  | 
Bốn   khuynh hướng nghiên cứu về thuật lãnh đạo (quản trị) hiện đại cũng có thể   mang những tên khác nhau (thí dụ ta có thể bàn sức thu hút của [người] lãnh   đạo, hay thuật lãnh đạo thăng hóa), rồi còn có các tên khác nữa như các   phương pháp tìm hiểu về thuật lãnh đạo qua các kỹ năng và lãnh đạo bản thân,   hoặc qua sự chia sẻ vai trò lãnh đạo cộng hữu (những đề tài này sẽ được bàn   tới trong bài này). Tuy nhiên, bốn khuynh hướng này đều có chung một số phẩm   chất, và ta cũng có thể nghiên cứu những đề tài này như những biến thể của mô   hình lãnh đạo theo lý thuyết cổ điển. 
  | 
   | 
Traits  
  
Leaders   are people, who are able to express themselves fully, says Warren Bennis.   'They also know what they want', he continues, 'why they want it, and how to   communicate what they want to others, in order to gain their co-operation and   support.’ Lastly, ‘they know how to achieve their goals' (Bennis 1998: 3).   But what is it that makes someone exceptional in this respect? As soon as we   study the lives of people who have been labelled as great or effective   leaders, it becomes clear that they have very different qualities. We only   have to think of political figures like Nelson Mandela, Margaret Thatcher and   Mao Zedong to confirm this.  
  | 
Đặc Tính Cá Nhân 
  
Theo   Warren Bennis, "Người lãnh đạo là người có khả năng trình bày tư tưởng   một cách đầy đủ và rõ ràng; họ biết rõ họ muốn gì, tại sao họ muốn điều đó,   và làm sao để truyền đạt điều họ muốn đến những người xung quanh để thuyết   phục mọi người cùng hợp tác và thực hiện điều họ muốn và cuối cùng là họ biết   làm thế nào để đạt đến mục đích mong muốn" (Bennis 1998:3). Nhưng điều   gì làm người lãnh đạo nổi bật lên như vậy? Khi chúng ta nghiên cứu cuộc đời   của những người lãnh đạo tài ba, xuất chúng, thì rõ ràng là họ có rất nhiều   phẩm chất và cá tính khác nhau. Chỉ cần nhìn các nhà chính trị gia lỗi lạc   như Nelson Mandela, Margaret Thatcher, hay là Mao Trạch Đông thì thấy rõ. 
  | 
   | 
Instead   of starting with exceptional individuals many turned to setting out the   general qualities or traits they believed should be present. Surveys of early   trait research by Stogdill (1948) and Mann (1959) reported that many studies   identified personality characteristics that appear to differentiate leaders   from followers. However, as Peter Wright (1996:34) has commented, ‘others   found no differences between leaders and followers with respect to these   characteristics, or even found people who possessed them were less likely to   become leaders’. Yet pick up almost any of the popular books on the subject   today and you will still find a list of traits that are thought to be central   to effective leadership. The basic idea remains that if a person possesses   these she or he will be able to take the lead in very different situations.   At first glance, the lists seem to be helpful (see, for example, Exhibit 1).   But spend any time around them and they can leave a lot to be desired.  
  | 
Vì   vậy, thay vì bắt đầu bằng việc nghiên cứu những cá nhân kiệt xuất, nhiều nhà   nghiên cứu lại liệt kê các phẩm chất tổng quát hay đặc tính cá nhân mà họ   nghĩ là người lãnh đạo phải có. Hai cuộc thăm dò của Stogdill (1948) và Mann   (1959) cho thấy một số đặc tính về nhân cách đã phân biệt người lãnh đạo và   người đi theo. Tuy nhiên, như Peter Wright (1996:34) nhận định: "nhiều   nhà nghiên cứu không thấy sự khác biệt giữa phẩm chất của người lãnh đạo và   những người đi theo; thậm chí họ còn thấy những người có những phẩm chất này   lại khó có khả năng trở thành người lãnh đạo." Ngày nay, chỉ cần đọc hầu   như bất kỳ những quyển sách phổ thông nào về đề tài này bạn sẽ vẫn còn tìm   thấy một bản liệt kê những đặc tính cá nhân được cho là trung tâm điểm cho sự   lãnh đạo hữu hiệu. Quan niệm cơ bản là nếu một người có được đa số các cá   tính này thì họ sẽ có thể đứng ra lãnh đạo trong nhiều tình huống khác nhau.   Thoạt nhìn vào những danh sách (như danh sách số 1 dưới đây), chúng ta thấy   chúng có vẻ rất hữu ích, nhưng càng nhìn lâu thì càng thấy là còn có nhiều   đặc tính khác nữa. 
  | 
   | 
Exhibit 1: Gardner’s leadership   attributes  
John   Gardner studied a large number of North American organizations and leaders   and came to the conclusion that there were some qualities or attributes that   did appear to mean that a leader in one situation could lead in another.   These included:  
  
·   Physical vitality and stamina  
·   Intelligence and action-oriented judgement  
·   Eagerness to accept responsibility  
·   Task competence  
·   Understanding of followers and their needs  
·   Skill in dealing with people  
·   Need for achievement  
·   Capacity to motivate people  
·   Courage and resolution  
·   Trustworthiness  
·   Decisiveness  
·   Self-confidence  
·   Assertiveness  
·   Adaptability/flexibility  
John Gardner (1989) On Leadership, New   York: Free Press.  
  | 
Sơ Đồ 1: Những đặc tính cá nhân của   người lãnh đạo (theo lý thuyết của Gardner) 
John   Gardner nghiên cứu một số lớn các tổ chức vùng Bắc Mỹ và những người lãnh đạo   của những tổ chức này và kết luận có một số phẩm chất hoặc đặc tính cho thấy   rằng một người lãnh đạo trong tình huống này cũng có thể lãnh đạo trong tình   huống khác.Những đặc tính cá nhân này gồm có: 
  
    Điều kiện thể lực tốt và sức chịu đựng 
    Sự khôn ngoan và sự phán đoán thiên về   hành động 
    Tinh thần nhận trách nhiệm 
    Có khả năng thực hiện công việc 
    Hiểu biết về những người cộng sự và nhu   cầu của họ 
    Có kỹ năng giao tế và biết cách dùng   người 
    Có nhu cầu đạt kết quả 
    Khả năng thuyết phục và cổ động người   khác 
    Can đảm và quyết tâm 
    Tự trọng 
    Quyết tâm 
    Tự tin 
    Sự trình bày ý tưởng một cách quả quyết 
    Khả năng thích nghi/Khả năng linh động 
  
John Gardner (1989) On Leadership, New   York: Free Press. 
  | 
   | 
The   first problem is that the early searchers after traits often assumed that there   was a definite set of characteristics that made a leader - whatever the   situation. In other words, they thought the same traits would work on a   battlefield and in the staff room of a school. They minimized the impact of   the situation (Sadler 1997). They, and later writers, also tended to mix some   very different qualities. Some of Gardner’s qualities, for example, are   aspects of a person's behaviour, some are skills, and others are to do with   temperament and intellectual ability. Like other lists of this nature it is   quite long - so what happens when someone has some but not all of the   qualities? On the other hand, the list is not exhaustive and it is possible   that someone might have other ‘leadership qualities’. What of these?  
  
  | 
Vấn   đề trước hết là những nhà nghiên cứu đầu tiên về những đặc tính cá nhân   thường cho là có một bản liệt kê rõ rệt những đặc tính tạo thành một người   lãnh đạo - trong bất kỳ tình huống nào. Nói cách khác, họ nghĩ rằng [những   người có] cùng những đặc tính đó sẽ thành công cả trên chiến trường lẫn trong   một văn phòng học đường. Họ giảm thiểu hóa ảnh hưởng của tình thế (Sadler,   1997). Họ và những tác giả sau này cũng có khuynh hướng trộn lẫn những phẩm   chất rất khác biệt nhau. Thí dụ như vài phẩm chất trong bản liệt kê của Gardner   là những phẩm chất thuộc về cách hành xử cá nhân, vài đặc tính khác thuộc về   năng khiếu và những phẩm chất khác [lại] liên quan đến tính khí và trí tuệ.   Tương tự như các bản liệt kê cùng thể loại, bản này thì khá dài - thành ra   nếu một người nào đó chỉ có một vài đặc tính chứ không đủ hết các đặc tính   trong bản liệt kê đó thì sẽ ra sao? Mặt khác thì bản kê khai đó lại chưa đủ   hết và vẫn có thể có những người có những "phẩm chất lãnh đạo"   khác. [Nếu thế thì] đó là những phẩm chất nào? 
  
  | 
   | 
More   recently people have tried looking at what combinations of traits might be   good for a particular situation. There is some mileage in this. It appears   possible to link clusters of personality traits to success in different   situations, as Stogdill has subsequently suggested (Wright 1996: 35. Wright   goes on to explore modern trait theories in a separate chapter - 1996:   169-193). However, it remains an inexact science!  
  
  | 
Gần   đây nhiều người đã thử tìm xem có một sự kết hợp một số đặc tính [lãnh đạo]   nào đó có thể tốt cho một tình thế đặc thù nào chăng. Có vài tiến triển trong   hướng này. Theo Stogdill, trong những tình thế khác nhau, ta có thể liên kết   mối quan hệ giữa thành công với một số các đặc tính cá nhân (Wright 1996: 35.   Wright tiếp tục xem xét các lý thuyết hiện đại về đặc tính lãnh đạo trong các   chương sau - 1996: 169-193). Tuy nhiên, đây cũng còn là một ngành khoa học   không chính xác. 
  
  | 
   | 
One   of the questions we hear most often around such lists concerns their apparent   ‘maleness’ (e.g. Rosener 1997). When men and women are asked about each   other’s characteristics and leadership qualities, some significant patterns   emerge. Both tend to have difficulties in seeing women as leaders. The   attributes associated with leadership on these lists are often viewed as   male. However, whether the  
characteristics   of leaders can be gendered is questionable. If it is next to impossible to   make a list of leadership traits that stands up to questioning, then the same   certainly applies to lists of gender specific leadership traits! 
  | 
Một   trong những câu hỏi chúng ta thường nghe khi bàn đến bản liệt kê các đặc tính   lãnh đạo là khuynh hướng thiên về "nam giới" của các đặc tính này.   Khi thăm dò ý kiến của cả nam và nữ xem họ nhận xét thế nào về những đặc tính   và phẩm chất lãnh đạo, cả hai nhóm đều có chung một vài nhận xét tương tự. Cả   hai nhóm đều có khuynh hướng khó thừa nhận phụ nữ làm lãnh đạo. Những đặc   tính liên hệ đến vai trò lãnh đạo trong những bản liệt kê này thường được xem   là dành cho nam giới. Tuy nhiên, những đặc tính của người lãnh đạo có tùy   thuộc vào giới tính hay không vẫn là câu hỏi cần được nêu ra. Nếu như không   thể lập ra một bản liệt kê những đặc tính lãnh đạo mà ai cũng đồng ý, thì   cũng không thể lập nên một bản liệt kê các đặc tính lãnh đạo theo giới tính. 
  | 
   | 
Behaviours    
  
As   the early researchers ran out of steam in their search for traits, they   turned to what leaders did - how they behaved (especially towards followers).   They moved from leaders to leadership - and this became the dominant way of   approaching leadership within organizations in the 1950s and early 1960s.   Different patterns of behaviour were grouped together and labelled as styles.   This became a very popular activity within management training – perhaps the   best known being Blake and Mouton’s Managerial Grid (1964; 1978). Various   schemes appeared, designed to diagnose and develop people’s style of working.   Despite different names, the basic ideas were very similar. The four main   styles that appear are:  
  | 
Cách Hành Xử 
  
Khi   những nhà nghiên cứu tiên khởi về lãnh đạo không còn hơi sức để tìm kiếm thêm   những đặc tính lãnh đạo, họ xoay qua tìm hiểu xem các người lãnh đạo làm gì,   nhất là cách hành xử của họ đối với những người đi theo họ. Các nhà nghiên   cứu chuyển từ [việc nghiên cứu] cá nhân những người lãnh đạo qua thuật lãnh   đạo - và cách nghiên cứu này này trở thành một phương thức được sử dụng nhiều   hơn hết để nghiên cứu về thuật lãnh đạo trong tổ chức vào các thập niên 1950   và 1960. Cách hành xử được phân loại thành những mô hình và những mô hình   khác nhau được gom lại thành những nhóm được gọi là tác phong lãnh đạo.   Phương thức này trở thành phổ thông để huấn luyện về quản trị - có lẽ nổi   tiếng nhất là phương thức Mạng Lưới Quản Trị của Blake và Mouton (1964;   1978). Nhiều phương thức khác cũng theo nhau xuất hiện, nhằm chẩn đoán và   phát triển phương cách làm việc của mọi người. Dù mang những tên gọi khác   nhau, các phương thức này cùng có những ý tưởng căn bản như nhau. Theo phái   nghiên cứu về cách hành xử, có bốn tác phong lãnh đạo chính: 
  | 
   | 
·   Concern for task. Here leaders emphasize the achievement of concrete   objectives. They look for high levels of productivity, and ways to organize   people and activities in order to meet those objectives.  
·   Concern for people. In this style, leaders look upon their followers as   people - their needs, interests, problems, development and so on. They are   not simply units of production or means to an end.  
·   Directive leadership. This style is characterized by leaders taking decisions   for others - and expecting followers or subordinates to follow instructions.  
·   Participative leadership. Here leaders try to share decision-making with   others.(Wright 1996: 36-7)  
  | 
    -   Quan tâm về công tác: Ở đây, các người lãnh đạo nhấn mạnh sự hoàn thành những   mục tiêu rõ rệt. Họ nhắm tới [đạt được] mức độ sản xuất cao và cách thức tổ   chức nhân viên và công việc để đạt được những mục tiêu đó. 
    - Quan tâm về con người: Trong phương   cách này, các người lãnh đạo xem các người theo họ là con người có những nhu   cầu, sở thích, nan đề, sự thăng tiến và nhiều thứ khác, chứ không chỉ đơn   thuần là những đơn vị sản xuất hay là những phương tiện để đạt được mục tiêu   cuối cùng. 
    - Lãnh đạo trực tiếp: Phương cách này có   đặc tính là các người lãnh đạo ra quyết định cho những người khác - và họ   mong muốn những người đi theo hay thuộc cấp làm theo đúng những điều họ hướng   dẫn. 
    - Phân quyền lãnh đạo: Ở đây, những người   lãnh đạo chia sẻ quyền quyết định với những người khác. (Wright 1996: 36-7) 
  
  | 
   | 
Often,   we find two of these styles present in books and training materials. For   example, concern for task is set against concern for people (after Blake and   Mouton 1964); and directive is contrasted with participative leadership (for   example, McGregor’s [1960] portrayal of managers as ‘Theory X’ or ‘Theory   Y’). If you have been on a teamwork or leadership development course then it   is likely you will have come across some variant of this in an exercise or   discussion.  
  | 
Thường   thì chúng ta thấy hai tác phong lãnh đạo được trình bày trong các sách vở và   tài liệu huấn luyện. Thí dụ như Quan tâm về công tác được trình bày đối lại   với Quan tâm về con người (trong Blake và Mouton 1964); và vai trò Lãnh đạo   trực tiếp được xem như tương phản với Phân quyền lãnh đạo (thí dụ McGregor   [1960] mô tả người quản lý [có tác phong theo] "Lý Thuyết X" hay   "Lý Thuyết Y"). Nếu bạn đã từng học những lớp về phát huy vai trò   đồng đội hay kỹ năng lãnh đạo, các bạn thường sẽ gặp những bài thực hành hay   thảo luận tương tự như thế. 
  | 
   | 
Many   of the early writers that looked to participative and people-centred   leadership, argued that it brought about greater satisfaction amongst   followers (subordinates). However, as Sadler (1997) reports, when researchers   really got to work on this it didn’t seem to stand up. There were lots of   differences and inconsistencies between studies. It was difficult to say   style of leadership was significant in enabling one group to work better than   another. Perhaps the main problem, though, was one shared with those who   looked for traits (Wright 1996: 47). The researchers did not look properly at   the context or setting in which the style was used. Is it possible that  
the   same style would work as well in a gang or group of friends, and in a   hospital emergency room? The styles that leaders can adopt are far more   affected by those they are working with, and the environment they are   operating within, than had been originally thought.  
  | 
Những   tác giả tiên phong về lãnh đạo và nghiên cứu về tác phong lãnh đạo phân quyền   hay tác phong lãnh đạo đặt trọng tâm vào con người đều lập luận rằng các tác   phong lãnh đạo này thường làm cho những người đi theo (hay thuộc cấp) hài   lòng hơn. Tuy nhiên, như Sadler (1997) tường trình, khi các nhà nghiên cứu   thật sự chú tâm vào điều đó, hình như lập luận đó không đứng vững. Có rất   nhiều điểm khác biệt và không đồng nhất giữa các công trình nghiên cứu này.   Thật khó mà nói được tác phong lãnh đạo nào là then chốt có thể khiến cho một   nhóm này hoạt động tốt hơn nhóm khác Có lẽ đó cũng là vấn đề chính mà những   người nghiên cứu về đặc tính lãnh đạo cùng gặp phải (Wright 1996:47). Những   người nghiên cứu đã chưa nhìn nhận hợp lý nội dung hay cơ sở nào mỗi phương   cách đã được áp dụng. Có thể nào có cùng phương cách hoạt động tốt cho một   tập thể, hay một nhóm bạn bè, và cho cả một phòng cấp cứu ở bịnh viện hay   không? Những phương cách mà các người lãnh đạo có thể áp dụng bị ảnh hưởng   bởi các đối tượng họ làm việc chung và bởi môi trường hoạt động của họ nhiều   hơn là người ta nghĩ suy từ lúc đầu. 
  | 
   | 
Situations  
  
 
 
Researchers   began to turn to the contexts in which leadership is exercised - and the idea   that what is needed changes from situation to situation. Some looked to the   processes by which leaders emerge in different circumstances - for example at   moments of great crisis or where there is a vacuum. Others turned to the ways   in which leaders and followers viewed each other in various contexts - for   example in the army, political parties and in companies. The most extreme   view was that just about everything was determined by the context. But most   writers did not take this route. They brought the idea of style with them,   believing that the style needed would change with the situation. Another way   of putting this is that particular contexts would demand particular forms of   leadership. This placed a premium on people who were able to develop an   ability to work in different ways, and could change their style to suit the   situation.  
  | 
Thời Thế 
  
Các   nhà nghiên cứu bắt đầu chuyển sang tìm hiểu khả năng lãnh đạo trong những bối   cảnh khác nhau - và [thấy rằng] nhận thức về những khả năng lãnh đạo cần có   lại thay đổi theo tình huống. Nhiều người nhìn vào quá trình mà các người   lãnh đạo vươn lên trong những hoàn cảnh khác nhau - thí dụ như những thời   điểm khủng hoảng hay nơi có khoảng trống [lãnh đạo]. Những nhà nghiên cứu   khác lại quan sát trong những bối cảnh khác nhau cách thức người lãnh đạo và   những người đi theo đối xử với nhau - thí dụ như trong quân đội, các đảng   phái chính trị hay trong các công ty. Quan điểm cực đoan nhất thì lại cho   rằng hầu như mọi thứ đều do hoàn cảnh quyết định. Nhưng phần lớn các tác giả   không theo đường này. Họ áp dụng quan niệm về tác phong lãnh đạo và tin rằng   tác phong [mà người lãnh đạo] cần có thay đổi theo tình huống. Hay nói một   cách khác, mỗi một tình huống cụ thể đòi hỏi một hình thức lãnh đạo riêng   biệt. Yếu tố này là phần thưởng cho những người nào có thể khai triển khả   năng làm việc trong nhiều hướng khác nhau và có thể thay đổi phương cách làm   việc của họ để thích ứng với từng tình huống. 
  
  | 
   | 
What   began to develop was a contingency approach. The central idea was that   effective leadership was dependent on a mix of factors. For example, Fred E.   Fiedler argued that effectiveness depends on two interacting factors:   leadership style and the degree to which the situation gives the leader   control and influence. Three things are important here:  
  
·   The relationship between the leaders and followers. If leaders are liked and   respected they are more likely to have the support of others.  
·   The structure of the task. If the task is clearly spelled out as to goals,   methods and standards of performance then it is more likely that leaders will   be  
able   to exert influence.  
·   Position power. If an organization or group confers powers on the leader for   the purpose of getting the job done, then this may well increase the   influence of  
the   leader. (Fiedler and Garcia 1987: 51 – 67. See, also, Fiedler 1997) | 
Các   nhà nghiên cứu bắt đầu khai triển Phương pháp ứng phó với tình thế. Ý tưởng   then chốt của phương pháp này là sự lãnh đạo hữu hiệu tùy vào nhiều yếu tố   khác kết hợp nhau. Thí dụ như Fred E. Fiedler lý luận rằng hiệu năng lãnh đạo   tùy thuộc vào hai yếu tố tác động lẫn nhau: tác phong lãnh đạo cộng với khả năng   kiểm soát và tạo ảnh hưởng [đến các biến chuyển] do tình thế đưa đến. Ba điều   quan trọng ở đây là: 
  
    - Mối quan hệ giữa những người lãnh đạo   và những người đi theo. Nếu những người lãnh đạo được yêu mến và kính trọng,   họ dễ dàng có sự ủng hộ của những người khác hơn. 
    - Cấu trúc của công tác. Nếu công tác   được quy định rõ ràng, như về những mục tiêu, phương pháp và tiêu chuẩn của   sự hoàn tất thì những người lãnh đạo sẽ có thể dễ dàng thể hiện ảnh hưởng của   họ hơn. 
    - Quyền lãnh đạo do chức vụ. Nếu một cơ   quan hay một tập thể trao quyền cho người lãnh đạo để hoàn thành công tác,   điều đó có thể tăng thêm ảnh hưởng của người lãnh đạo. 
  | 
   | 
Classical Leadership | 
Lãnh Đạo kinh điển 
  | 
   | 
Models   like this can help us to think about what we are doing in different   situations. For example, we may be more directive where a quick response is   needed, and where people are used to being told what to do, rather than   having to work at it themselves. They also found their way into various   management training aids – such as the development of Mouton and Blake’s   managerial grid by Reddin (1970; 1987) that looked to the interaction of the   characteristics of the leader, the characteristics of the followers and the   situation; and Hersey and Blanchard’s (1977) very influential discussion of   choosing the appropriate style for the particular situation.  
  | 
Những mô hình như thế có   thể giúp chúng ta nghĩ suy về điều chúng ta đang làm trong những tình huống   khác nhau. Thí dụ như chúng ta có thể cần chỉ huy nhiều hơn khi cần có nhu cầu   đáp ứng nhanh, hay tại những nơi mà mọi người đã quen được chỉ định công việc   cần làm hơn là tự họ phải làm. Những mô hình này cũng được áp dụng trong   nhiều chương trình huấn luyện về quản trị khác nhau như Reddin đã khai triển   mô hình mạng lưới quản lý của Mouton và Blake (1970; 1987), [đây là] một mô   hình chú trọng vào sự tương tác giữa các đặc tính của người lãnh đạo với   những người đi theo trong một tình thế đặc thù nào đó; và những nhận định rất   có ảnh hưởng của Hersey and Blanchard (1977) về việc lựa chọn phương cách   lãnh đạo thích ứng cho từng tình thế.  
  | 
   | 
Exhibit 2: Hersey and Blanchard (1977)   on leadership style and situation Hersey and Blanchard identified four   different leadership styles that could be drawn upon to deal with contrasting   situations:  
  
  | 
Sơ Đồ 2: Hersey and Blanchard (1977): luận vấn đề   tác phong lãnh đạo và tình huống Hersey and Blanchard đã nhận định bốn tác   phong lãnh đạo khác nhau có thể áp dụng để ứng phó với những tình huống tương   phản nhau:  
  | 
   | 
Telling (high task/low relationship behaviour). This style   or approach is characterized by giving a great deal of direction to   subordinates and by giving considerable attention to defining roles and   goals. The style was recommended for dealing with new staff, or where the   work was menial or repetitive, or where things had to be completed within a   short time span. Subordinates are viewed as being unable and  
unwilling   to ‘do a good job’.  
  | 
- Chỉ Đạo (Nhu cầu   hoàn tất công tác cao/quan hệ giữa người lãnh đạo và nhân viên thấp). Đặc   điểm của tác phong này là đưa ra rất nhiều chỉ thị cho thuộc cấp, cũng như   chú trọng nhiều vào việc định nghĩa một cách rõ ràng vai trò của nhân viên và   mục tiêu công việc. Phương cách này thường đượcdùng khi có nhân viên mới, hay   cho các công việc dễ dàng và lập đi lập lại, hay cần hoàn tất trong khoảng   thời gian ngắn. Thuộc cấp trong trường hợp này được xem như không có khả năng   hay không sẵn lòng làm tốt công việc.  
  | 
   | 
Selling (high task/high relationship behaviour). Here,   while most of the direction is given by the leader, there is an attempt at   encouraging people to ‘buy into’ the task. Sometimes characterized as a   ‘coaching’ approach, it is to be used when people are willing and motivated   but lack the required ‘maturity’ or ‘ability’.  
  | 
- Khuyến Dụ (Nhu   cầu công tác cao/mối quan hệ chặt chẽ). Ở đây, dù là người lãnh đạo cũng cần   phải ra chỉ thị, nhưng cũng cố gắng khuyến khích mọi người "tự   nguyện" nhận đó là công tác của chính họ. Tác phong lãnh đạo này đôi khi   còn được gọi là phương cách của huấn luyện viên khi mọi người sẵn lòng chịu   làm việc hay được động viên tinh thần để thi hành công tác, nhưng thiếu sự   "trưởng thành" hay "khả năng chuyên môn" cần có.  
  | 
   | 
Participating (high relationship/low task behaviour). Here   decision-making is shared between leaders and followers – the main role of   the leader being to facilitate and communicate. It entails high support and   low direction and is used when people are able, but are perhaps unwilling or   insecure (they are of ‘moderate to high maturity’ (Hersey 1984).  
  | 
- Tham dự (Mối quan   hệ cao/nhu cầu công tác thấp). Ở đây, quyền quyết định được chia sẻ giữa   những người lãnh đạo và những người đi theo - vai trò chủ yếu của người lãnh   đạo là điều hợp và liên lạc. Phương cách này đòi hỏi sự ủng hộ cao và ít chỉ   đạo, áp dụng khi mọi người có khả năng nhưng có lẽ không hài lòng làm việc   hay cảm thấy họ không được tin cậy (mức độ trưởng thành của họ từ khá đến   cao) (Hershey, 1984).  
  | 
   | 
Delegating (low relationship/low task behaviour). The leader   still identifies the problem or issue, but the responsibility for carrying   out the response is given to followers. It entails having a high degree of   competence and maturity (people know what to do, and are motivated to do it). | 
-   Ủy Nhiệm (Mối quan hệ thấp/nhu cầu công tác thấp). Người lãnh đạo cũng   vẫn cần xác định nan đề cần giải quyết, nhưng trách nhiệm thực hành thì giao   cho các thuộc cấp. Phương cách này đòi hỏi mức độ cạnh tranh và truởng thành   cao (những người biết việc gì cần làm và sẵn sàng thi hành). 
  | 
   | 
Aside   from their very general nature, there are some issues with such models.   First, much that has been written has a North American bias. There is a lot   of evidence to suggest cultural factors influence the way that people carry   out, and respond to, different leadership styles. For example, some cultures   are more individualistic, or value family as against bureaucratic models, or   have very different expectations about how people address and talk with each   other. All this impacts on the choice of style and approach.  
  | 
Những   mô hình này, ngoài bản chất tự nhiên của chúng, vẫn có những vấn đề khác.   Trước tiên, phần lớn những mô hình này có khuynh hướng thiên về [các tổ chức]   vùng Bắc Mỹ. Rất nhiều bằng chứng cho thấy những yếu tố văn hóa ảnh hưởng đến   cung cách người ta làm việc, và [có những hành vi] tương ứng với những tác   phong lãnh đạo khác nhau. Thí dụ, một số nền văn hóa thì có vẻ chú trọng đến   tính cách cá nhân, hay coi trọng tình gia đình hơn là những mô hình mang tính   "thư lại," hay có những định kiến khác nhau về cách xưng hô và nói   chuyện với nhau. Tất cả những điều này tác động lên sự lựa chọn tác phong hay   phương pháp lãnh đạo.  
  | 
   | 
Second,   as we saw earlier, there may be different patterns of leadership linked with   men and women. Some have argued that women may have leadership styles that   are more nurturing, caring and sensitive. They look more to relationships.   Men are said to look to task. However, there is a lot of debate about this.   We can find plenty of examples of nurturing men and task-oriented women. Any   contrasts between the style of men and women may be down to the situation. In   management, for example, women are more likely to be in positions of   authority in people-oriented sectors – so this aspect of style is likely to   be emphasized.  
  | 
Điều   thứ hai, như chúng ta đã thấy ở trên, có những khuôn mẫu về vai trò lãnh đạo   khác nhau liên quan đến đàn ông và đàn bà. Có người lý luận rằng đàn bà   thường có những phương cách lãnh đạo theo kiểu chăm sóc, lo lắng và nhạy cảm   hơn nam giới. Họ thường chú trọng đến mối quan hệ. Còn đàn ông thì được cho   là chú ý đến công việc hơn. Tuy nhiên, điều này cũng còn đang được tranh   luận. Chúng ta cũng có thể tìm thấy nhiều dẫn chứng về những người đàn ông   chú trọng về giáo huấn và những người đàn bà thiên về công việc. Những sự   tương phản trong tác phong của đàn ông và đàn bà có thể tùy theo từng tình   huống. Thí dụ, trong vấn đề quản trị, đàn bà phần nhiều ở các vị trí chỉ huy   trong những ngành liên quan đến nhân sự - cho nên khía cạnh nhân sự của tác   phong lãnh đạo này thường được chú trọng.  
  | 
   | 
Third,   as Bolman and Deal (1997: 302) comment, like Blake and Mouton before them,   writers like Hersey and Blanchard ‘focus mainly on the relationship between   managers and immediate subordinates, and say little about issues of   structure,  
politics   or symbols’. 
  | 
Điều   thứ ba, như Bolman và Deal (1997:302) nhận xét, cũng như Blake và Mouton   trước đó, các tác giả như Hersey và Blanchard "chú tâm chủ yếu đến mối   quan hệ giữa các người quản lý và thuộc cấp trực tiếp, mà ít đề cập đến những   vấn đề về cấu trúc, chính trị hay biểu tượng".  | 
   | 
Transformations  
  
Burns   (1977) argued that it was possible to distinguish between transactional and   transforming leaders. The former, ‘approach their followers with an eye to   trading one thing for another (1977: 4), while the latter are visionary   leaders who seek to appeal to their followers ‘better nature and move them   toward higher and more universal needs and purposes’ (Bolman and Deal 1997:   314). In other words, the leader is seen as a change agent. | 
Thăng Hóa  
  
Burns   (1977) cho rằng chúng ta có thể phân biệt những người lãnh đạo kiểu giao dịch   và người lãnh đạo kiểu thăng hóa. Loại người đầu tiên đối xử với các thuộc   cấp theo cung cách thực tiễn, trao đổi chuyện này với chuyện khác, còn loại   sau là những người lãnh đạo có viễn kiến, muốn tìm thấy ở thuộc cấp "cái   bản chất tốt đẹp hơn và đưa họ đạt đến những mức nhu cầu và mục đích cao hơn   và phổ quát hơn. (Bolman and Deal 1997: 314). Nói cách khác, theo mô hình   này, người lãnh đạo được xem như là nhân tố làm thay đổi.  
  | 
   | 
Exhibit 3: Transactional and   transformational leadership  
  | 
Sơ Đồ 3: Vai trò lãnh đạo kiểu giao dịch và kiểu   thăng hóa  
  | 
   | 
Transactional  
  
The   transactional leader:  
Recognizes   what it is that we want to get from work and tries to ensure that we get it   if our performance merits it.  
Exchanges   rewards and promises for our effort.  
Is   responsive to our immediate self interests if they can be met by getting the   work done  
  | 
Người lãnh đạo kiểu giao dịch  
  
Nhận   định xem chúng ta cần gì từ tổ chức và tìm cách bảo đảm rằng chúng ta sẽ được   hưởng những điều đó nếu làm tốt công việc.  
Trao   đổi phần thưởng và những lời hứa hẹn cho những cố gắng của chúng ta.  
Đáp   ứng các quyền lợi cá nhân khi chúng ta làm xong việc.  | 
   | 
Transformational  
  
The   transformational leader:  
Raises   our level of awareness, our level of consciousness about the significance and   value of designated outcomes, and ways of reaching them.  
Gets   us transcend our own self-interest for the sake of the team, organization or   larger polity.  
Alters   our need level (after Maslow) and expands our range of wants and needs.  
  | 
Người lãnh đạo kiểu thăng hóa  
  
Nâng   cao mức độ nhận thức, trình độ hiểu biết của chúng ta về ý nghĩa và giá trị   của mục tiêu cần đạt đến và phương pháp nhằm đạt các mục tiêu này.  
Giúp   cho chúng ta vượt qua những quan tâm về quyền lợi cá nhân để chú trọng vào   quyền lợi của tập thể, tổ chức hay chính thể.  
Thay   đổi suy nghĩ của chúng ta về những nhu cầu cần có (theo Maslow) và mở rộng   tầm nhận thức về những nhu cầu và mong muốn của chúng ta.  
  | 
   | 
(Based   on Bass 1985 - Wright 1996: 213)  
  | 
(Dựa   theo Bass 1985 - Wright 1996: 213) | 
   | 
Bass   (1985) was concerned that Burns (1977) set transactional and transforming   leaders as polar opposites. Instead, he suggests we should be looking at the   way in which transactional forms can be drawn upon and transformed. The   resulting transformational leadership is said to be necessary because of the   more sophisticated demands made of leaders. van Maurik (2001: 75) argues that   such demands ‘centre around the high levels of uncertainty experienced by   leaders, their staff and, indeed, the whole organization… today’. He goes on   to identify three broad bodies of writers in this orientation. Those   concerned with:  
  | 
Bass   (1985) nhận xét là Burns (1977) đã sắp đặt loại người lãnh đạo giao dịch và   thăng hóa ở hai cực đối nghịch. Thay vì vậy, Bass đề nghị là chúng ta nên tìm   cách nào để sử dụng và thăng hóa những hình thái giao dịch. Vai trò lãnh đạo   thăng hóa được cho là cần thiết vì [càng ngày càng] có nhiều thêm nhiều nhu   cầu phức tạp đòi hỏi ở những người lãnh đạo. van Maurik (2001: 75) cho rằng   các nhu cầu đó "tập trung ở sự không chắc chắn [và thay đổi quá nhanh   của thời cuộc], một sự bất ổn định ở mức độ cao mà ngày nay người lãnh đạo,   các cộng sự viên, và thực ra là toàn bộ tổ chức đã cùng trải nghiệm   qua." van Maurik nhận định là có ba thành phần lớn của các tác giả theo   khuynh hướng này, như:  
  | 
   | 
·   Team leadership e.g. Meredith Belbin.  
·   The leader as a catalyst of change e.g. Warren Bennis, James Kouzes and Barry   Posner, and Stephen R. Covey.  
·   The leader as strategic visionary e.g. Peter Senge  
  | 
-   Vai trò lãnh đạo tập thể, thí dụ như khuynh hướng của Meredith Belbin.  
-   Người lãnh đạo là nhân tố xúc tác cho sự thay đổi, gồm có các tác giả như   Warren Bennis, James Kouzes và Barry Posner và Stephen R. Covey.  
-   Người lãnh đạo là những người có viễn kiến chiến lược, thí dụ như khuynh   hướng của Peter Senge.  
  | 
   | 
The   dividing lines between these is a matter for some debate; the sophistication   of the analysis offered by different writers variable; and some of the   writers may not recognize their placement – but there would appear to be a   body of material that can be labelled transformational. There is strong   emphasis in the contemporary literature of management leadership on   charismatic and related forms of leadership. However, whether there is a   solid body of evidence to support its effectiveness is an open question.   Indeed, Wright (1996: 221) concludes ‘it is impossible to say how effective   transformational leadership is with any degree of certainty.  
We   will return to some questions around charisma later – but first we need to   briefly examine the nature of authority in organizations (and the   relationship to leadership).  
  | 
Những   lằn mức phân chia những điều trên vẫn còn là vấn đề còn được tranh luận; sự   phức tạp của những bài phân tích đưa ra bởi nhiều tác giả khác nhau cũng thay   đổi; và nhiều tác giả cũng không nhận thức ra nơi phân chia đó - nhưng nội   dung bài viết có thể phân loại là thăng hóa. Trong tài liệu hiện đại về vai   trò lãnh đạo trong quản trị, có sự nhấn mạnh quan trọng về vai trò lãnh đạo   qua hấp lực và qua những hình thái quan hệ. Tuy nhiên, cũng chưa có những   bằng chứng chắc chắn để chứng minh cho sự hữu hiệu của quan nhiệm lãnh đạo   qua hấp lực. Thật vậy, Wright (1996: 221) kết luận rằng "không thể nào   khẳng định được sự hữu hiệu của vai trò lãnh đạo kiểu thăng hóa."  
Chúng   ta sẽ trở lại vài câu hỏi chung quanh vấn đề hấp lực sau - nhưng trước tiên,   chúng ta cần kiểm nghiệm sơ qua về bản chất của quyền lực trong các tổ chức   (và mối quan hệ đến vai trò lãnh đạo). | 
   | 
Authority  
  
Frequently   we confuse leadership with authority. To explore this we can turn to   Heifetz’s (1994) important discussion of the matter. Authority is often seen   as the possession of powers based on formal role. In organizations, for   example, we tend to focus on the manager or officer. They are seen as people   who have the right to direct us. We obey them because we see their exercise   of power as legitimate. It may also be that we fear the consequences of not   following their orders or ‘requests’. The possibility of them sacking,   demoting or disadvantaging us may well secure our compliance. We may also   follow them because they show leadership. As we have seen, the latter is   generally sinformal - the ability to make sense of, and act in, situations   that are out of the ordinary. In this way, leaders don’t simply influence;   they have to show that criseunexpected events and experiences do not faze   them. Leaders may have formal authority, but they rely in large part on   informal authority. This flows from their personal qualities and actions.   They may be trusted, respected for their expertise, ofollowed because of   their ability to persuade.  
  | 
Quyền lực 
  
Chúng   ta thường nhầm lẫn vai trò lãnh đạo và quyền lực. Để khảo sát điều này, chúng   ta có thể tham khảo bản nghiên cứu quan trọng của Heifetz (1994). Quyền lực   thường được xem như là sự sở hữu về quyền hành dựa trên những chức vụ chính   thức. Trong các tổ chức, chúng ta có khuynh hướng chú trọng vào người quản lý   hay nhân viên cao cấp. Họ là những người xem như có quyền chỉ đạo chúng ta.   Chúng ta tuân lệnh họ vì chúng ta xem họ hành xử quyền hành đó một cách hợp   pháp. Cũng có thể là do chúng ta sợ các hậu quả của chuyện bất tuân theo   những mệnh lệnh hay "yêu cầu" của họ. Quyền hạn của họ để đuổi   việc, giáng chức hay làm phiền toái chúng ta đảm bảo sự tuân lệnh của chúng   ta. Chúng ta cũng có thể đi theo họ vì họ thể hiện khả năng lãnh đạo. Như   chúng ta thấy, khả năng lãnh đạo là cái gì đó, nói chung không phải là [quyền   lực chính thức]; đó là khả năng nhận thức rõ được vấn đề [trong những tình   thế rối rắm], hay xử sự [khôn ngoan] trong những tình huống không bình   thường. Bằng cách này, các người lãnh đạo không chỉ đơn thuần gây ảnh hưởng;   họ còn phải chứng tỏ là những cuộc khủng hoảng hay những sự kiện bất ngờ xảy   ra không làm họ bối rối. Những người lãnh đạo có thể có những quyền lực chính   thức nhưng họ cũng dựa một phần lớn vào những quyền lực không chính thức. Nó   xuất phát ra từ những phẩm chất và hành động cá nhân. Họ cần được tin cậy,   kính trọng qua khả năng chuyên môn và được mọi người đi theo nhờ khả năng   thuyết thục của họ. 
  | 
   | 
Leaders   have authority as part of an exchange: if they fail to deliver the goods, to   meet people’s expectations, they run the risk of authority being removed and   given to another. Those who have formal authority over them may take this   action. However, we also need to consider the other side. Followers,   knowingly or unknowingly, accept the right of the person to lead – and he or   she is dependent on this. The leader also relies on ‘followers’ for feedback   and contributions. Without these they will not have the information and   resources to do their job. Leaders and followers are interdependent.  
  | 
Nhưng   người lãnh đạo có quyền lực cũng là một phần của sự trao đổi: nếu họ không   "giao hàng" được, không đáp ứng được kỳ vọng của mọi người, họ có   thể bị mất quyền lực vào tay người khác. Những người có quyền hạn chính thức   cấp trên của họ có thể thay thế họ. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần xem xét thêm   một khía cạnh khác. Những người đi theo, dù biết hay không, cũng chấp nhận   quyền lãnh đạo của họ - và người lãnh đạo cũng lệ thuộc vào điều này. Người   lãnh đạo trông cậy vào những người đi theo cho họ những ý kiến phản ảnh và   góp sức vào công việc. Không có những chuyện này, họ không có nguồn tin tức   và nguồn tài nguyên để làm việc. Những người lãnh đạo và những người theo họ   là những thực thể liên lập với nhau. 
  | 
   | 
People   who do not have formal positions of power can also enjoy informal authority.   In a football team, for example, the manager may not be the most influential   person. It could be an established player who can read the game and energise   that colleagues turn to. In politics a classic example is Gandhi – who for   much of the time held no relevant formal position – but through his example   and his thinking became an inspiration for others.  
  | 
Những   người không có địa vị quyền hành chính thức cũng có thể hưởng được quyền lực   không chính thức. Thí dụ như trong một đội banh, người quản lý chưa hẳn đã là   người có ảnh hưởng nhất. Người có ảnh hưởng nhất lại có thể là một cầu thủ   giàu kinh nghiệm, có khả năng tiên liệu được thế trận và huy động được năng   lực của toàn đội. Trong chính trị, một thí dụ cổ điển là Gandhi - người mà   hầu như không giữ chức vụ chính thức quan trọng nào - nhưng qua cách nghĩ suy   và gương mẫu của ông mà ông đã trở thành nguồn cảm hứng cho những người khác   noi theo. 
  | 
   | 
Having   formal authority is both a resource and a constraint. On the one hand it can   bring access to systems and resources. Handled well it can help people feel   safe. On the other hand, formal authority carries a set of expectations – and   these can be quite unrealistic in times of crisis. As Heifetz puts it, ‘raise   hard questions and one risks getting cut down, even if the questions are   important for moving forward on the problem’ (1994: 180). Being outside the   formal power structure, but within an organization, can be an advantage. You   can have more freedom of movement, the chance of focussing on what you see as   the issue (rather than the organization’s focus), and there is a stronger   chance of being in touch with what people are feeling ‘at the frontline’.  
  | 
Quyền   lực chính thức vừa là nguồn tài nguyên vừa là sự hạn chế. Một mặt, quyền lực   giúp cho người lãnh đạo huy động được cơ cấu và các nguồn tài nguyên của tổ   chức. Sử dụng nó đàng hoàng giúp người ta cảm thấy yên ổn. Mặt khác, quyền   lực chính thức kèm theo nhiều kỳ vọng - và những kỳ vọng này có thể hoàn toàn   không thực tế ở những thời điểm khủng hoảng. Như Heifetz đã viết, "đặt   ra những câu hỏi khó khăn và người ta lo ngại bị mất quyền lực, ngay cả khi   đó là những câu hỏi được xem là quan trọng nhằm thúc đẩy [tiến trình] giải   quyết nan đề (1994: 180). Không được "nắm" quyền hành chính thức   nhưng vẫn trong phạm vi cơ quan lại có thể là lợi điểm. Bạn có thể có nhiều   tự do di chuyển hơn và nhiều cơ hội để tập trung vào điều bạn nhận thấy là   vấn đề (hơn là vào mục tiêu của tổ chức), và có nhiều cơ hội lớn lao hơn để   tiếp xúc với điều mà nhân viên tại "tuyến đầu" cảm nhận.  
  | 
   | 
Charisma  
  
Before   moving on it is important to look at the question of charisma. It is so much   a part of how we look at leadership - but is such a difficult quality to tie   down. Charisma is, literally, a gift of grace or of God (Wright 1996: 194).   Max Weber, more than anyone, brought this idea into the realm of leadership.   He used ‘charisma’ to cover: heifetz talk about self-appointed leaders who   are followed by those in distress. Such leaders gain influence because they   are seen as having special talents or gifts that can help people escape the   pain they are in (Gerth and Mills 1991: 51 – 55).  
  | 
Hấp lực 
  
Trước   khi tiếp tục [phần khảo sát của chúng ta], điều quan trọng là cần xem xét câu   hỏi về hấp lực. Đó là một phần lớn về cách mà chúng ta nhìn vào vai trò lãnh   đạo - nhưng hấp lực cũng là một phẩm chất khó mà xác định được. Hấp lực, cụ   thể, là phần thưởng thiên phú hay phần thưởng của Tạo Hóa (Wright 1996: 194).   Chính Max Weber đưa quan niệm về "hấp lực" vào lãnh vực lãnh đạo.   Weber dùng chữ "hấp lực" để nói về các người lãnh đạo tự phong có   những người đang tuyệt vọng đi theo. Những người lãnh đạo đó [có thể] tạo ảnh   hưởng vì thiên hạ thấy ở họ những năng khiếu hay tài năng đặc biệt có thể   giúp họ thoát khỏi nỗi đau khổ mà họ đang chịu đựng. 
  
  | 
   | 
When   thinking about charisma we often look to the qualities of particular   individuals - their skills, personality and presence. But this is only one   side of things. We need to explore the situations in which charisma arises.   When strong feelings of distress are around there does seem to be a tendency   to turn to figures who seem to have answers. To make our lives easier we may   want to put the burden of finding and making solutions on someone else. In   this way we help to make the role for ‘charismatic leaders’ to step into.   They in turn will seek to convince us of their special gifts and of their   solution to the crisis or problem. When these things come together something   very powerful can happen. It doesn’t necessarily mean that the problem is   dealt with - but we can come to believe it is. Regarding such leaders with   awe, perhaps being inspired in different ways by them, we can begin to feel   safer and directed. This can be a great resource. Someone like Martin Luther   King used the belief that people had in him to take forward civil rights in   the United States. He was able to contain a lot of the stress his supporters   felt and give hope of renewal. He articulated a vision of what was possible   and worked with people to develop strategies. But there are also considerable   dangers.  
  | 
Khi   nghĩ về hấp lực, chúng ta thường nhìn vào phẩm chất của những cá nhân cụ thể   - năng khiếu, tư cách và dáng bộ của họ. Nhưng đó chỉ mới một mặt của vấn đề.   Chúng ta cần phải xem xét những tình thế mà vai trò của hấp lực nổi lên. Mỗi   khi mà cảm giác tuyệt vọng mạnh mẽ bao quanh, hình như người ta có khuynh   hướng tìm đến những nhân vật có thể đưa ra câu trả lời. Để cho cuộc sống dễ   chịu hơn, chúng ta thường muốn trút gánh nặng của việc tìm kiếm những giải pháp   cho [vấn nạn của] đời sống của mình sang cho người khác. Và như thế chúng ta   đã giúp tạo nên vai trò cho "những người lãnh đạo kiểu hấp lực"   bước vào. Rồi thì họ sẽ tìm cách thuyết phục chúng ta tin vào năng khiếu đặc   biệt của họ và vào phương cách họ giải quyết cuộc khủng hoảng hay nan đề [của   mọi người]. Khi những yếu tố này tập trung lại được với nhau, một nguồn lực   mạnh mẽ có thể được nảy sinh. Không nhất thiết là vấn đề sẽ được giải quyết -   nhưng chúng ta có thể tin là như vậy. Khi chúng ta bắt đầu nhìn những người   lãnh đạo đó với sự thán phục, một cách nào đó ta đã được truyền cho một nguồn   cảm hứng, và ta bắt đầu có cảm giác an toàn hơn và được dìu dắt. Điều này có   thể là một nguồn lực lớn lao. Những người như Martin Luther King đã dùng niềm   tin mà thiên hạ đã ký thác cho ông để thúc đẩy vấn đề nhân quyền ở Hoa kỳ.   Martin Luther King đã có thể chịu đựng và chia sẻ nhiều áp lực với những   người ủng hộ và truyền cho họ hy vọng về sự đổi mới. King trình bày viễn kiến   của mình một cách rõ ràng với những người ủng hộ và cùng làm việc với họ để   hoạch định chiến lược. Nhưng [lãnh đạo qua hấp lực] cũng có những điều nguy   hiểm đáng quan tâm. 
  
  | 
   | 
Charisma   involves dependency. It can mean giving up our responsibilities. Sadly, it is   all too easy to let others who seem to know what they are doing get on with   difficult matters. By placing people on a pedestal the distance between ‘us’   and ‘them’ widens. They seem so much more able or in control. Rather than   facing up to situations, and making our own solutions, we remain followers   (and are often encouraged to do so). There may well come a point when the lie   implicit in this confronts us. Just as we turned to charismatic leaders, we   can turn against them. It could be we recognize that the ‘solution’ we signed   up to has not made things better. It might be that some scandal or incident   reveals the leader in what we see as a bad light. Whatever, we can end up   blaming, and even destroying, the leader. Unfortunately, we may simply turn   to another rather than looking to our own capacities.  
  | 
Hấp   lực cần có sự lệ thuộc. Điều này cũng có thể có nghĩa là từ bỏ trách nhiệm   của chúng ta. Đáng tiếc thay con người rất dễ dàng để cho những người nào có   vẻ như biết việc tiếp tục đối phó với những chuyện khó khăn. Đặt những người   đó lên bệ thần tượng lại càng khiến khoảng cách giữa "chúng ta" và   "họ" rộng thêm ra. Họ lại càng có nhiều khả năng hơn hay có quyền   kiểm soát hơn. Thay vì trực diện với các tình huống [khó khăn] và tự mình tìm   lấy giải pháp, thì chúng ta lại chọn làm những người đi theo (và thường được   khuyến khích làm như vậy). Rất có thể đến một lúc nào đó sự giả tạo do chính   ta tạo ra về hấp lực của người lãnh đạo, một sự giả tạo vẫn tiềm ẩn bên   trong, sẽ trỗi dậy thách thức chúng ta. Cũng giống như khi chúng ta đi theo   những người lãnh đạo có hấp lực, chúng ta cũng có thể chống lại họ. Có thể đó   là vì do chúng ta nhận thức ra là "giải pháp" mà người lãnh đạo đề   ra cho ta theo không làm được gì tốt hơn. Cũng có thể một sự tai tiếng hay   một chuyện tình cờ nào đó phơi bày sự xấu xa của người lãnh đạo ra cho chúng   ta thấy. Dù thế nào chăng nữa, chúng ta cũng đi đến việc đổ lỗi và ngay cả   đập đổ luôn thần tượng. Rủi thay, chúng ta lại có thể đi tìm người lãnh đạo   có hấp lực khác, thay vì dựa trên chính khả năng của mình để giải quyết vấn   đề. 
  | 
   | 
In conclusion  
  
On   this page we have tried to set out some of the elements of a ‘classical’ view   of leadership. We have seen how commentators have searched for special traits   and behaviours and looked at the different situations where leaders work and   emerge. Running through much of this is a set of beliefs that we can describe   as a classical view of leadership where leaders:  
  | 
Kết luận 
  
Trong   bài này, chúng ta đã tìm hiểu một vài yếu tố mang tính chất "kinh   điển" về thuật lãnh đạo. Nhiều nhà phê bình đã tìm kiếm những cá tính và   hành vi đặc biệt và nhìn vào những môi trường khác nhau nơi mà những người   lãnh đạo hoạt động và nổi bật lên. Xuyên qua tất cả những điều đó, chúng ta   có thể mô tả, trong quan điểm "kinh điển" về vai trò lãnh đạo, một   nhóm các điều chúng ta có thể tìm thấy ở các người lãnh đạo là: 
  | 
   | 
·   Tend to be identified by position. They are part of the hierarchy.  
·   Become the focus for answers and solutions. We look to them when we don’t   know what to do, or when we can’t be bothered to work things out for   ourselves.  
·   Give direction and have vision.  
·   Have special qualities setting them apart. These help to create the gap   between leaders and followers.  
  | 
    - Thường người lãnh đạo được nhận diện   qua chức vụ. Họ là một phần của hệ thống cấp bậc tôn ti. 
    - Người trở thành tiêu điểm của các vấn   đề và các giải pháp. Chúng ta hướng về họ khi chúng ta không biết làm gì hay   là khi chúng ta không muốn suy nghĩ đến việc tự mình tìm lấy giải pháp [vì   vấn đề quá khó]. 
    - Người ra chỉ thị và có viễn kiến. 
    - Có những phẩm chất hơn hẳn người   thường. Những điều này tạo ra khoảng cách giữa các người lãnh đạo và các   người đi theo. 
  | 
   | 
This   view of leadership sits quite comfortably with the forms of organization that   are common in business, the armed forces and government. Where the desire is   to get something done, to achieve a narrow range of objectives in a short   period of time, then it may make sense to think in this way. However, this   has its dangers. Whilst some ‘classical’ leaders may have a more participative   style, it is still just a style. A great deal of power remains in their hands   and the opportunity for all to take responsibility and face larger questions   is curtailed. It can also feed into a ‘great-man’ model of leadership and   minimize our readiness to question those who present us with easy answers. As   our awareness of our own place in the making of leadership grows, we may be   less ready to hand our responsibilities to others. We may also come to   realize our own power:  
  | 
Quan   niệm lãnh đạo theo kiểu này phù hợp với những dạng cơ quan ta thường thấy như   trong thương mại, quân đội và chính quyền. Nếu mục đích là muốn làm xong việc   trong một khoảng thời gian ngắn thì cách suy nghĩ này là hợp lý. Tuy vậy,   cũng có những điều nguy hiểm. Mặc dù nhiều người lãnh đạo theo phương thức   "kinh điển" cũng có thể có tác phong lãnh đạo kiểu phân quyền,   nhưng đó cũng [chỉ] là một phương cách mà thôi. Rất nhiều quyền hành vẫn còn   trong tay họ và cơ hội cho mọi người được nắm phần trách nhiệm và đương đầu   với những vấn đề to tát hơn vẫn không có nhiều. Điều này cũng dung dưỡng mô   hình lãnh đạo kiểu "vĩ nhân," và làm giảm thiểu khả năng chất vấn   những [lãnh tụ] luôn có những câu trả lời dễ dàng cho mọi vấn đề. Khi chúng   ta biết nhiều hơn về vị trí của chính mình trong việc phát huy vai trò lãnh   đạo, có lẽ chúng ta sẽ bớt sẵn sàng trao trách nhiệm của mình cho những người   khác. Có thể ta sẽ thể hiện được quyền lực của mình: 
  | 
   | 
I   don't think it's actually possible to lead somebody. I think you can allow   yourself to be led. It's a bit like other things - you can't teach, you can   only learn - because you can only control yourself.  
More   inclusive and informal understandings of leadership offer some interesting   possibilities, as we can see in our discussion of shared leadership.  
  | 
Tôi   không nghĩ rằng lãnh đạo là một việc khả thi; sự lãnh đạo,[mà có được], là vì   ta chịu để cho người khác lãnh đạo mình mà thôi. Điều này cũng giống như một   số điều khác, thí dụ như ta không thể dạy ai học được hết, ta chỉ có thể học   thôi, vì chỉ có ta mới kiểm soát được chính ta. 
  
Có   thêm nhiều hiểu biết bao quát và ngoài kinh điển về vai trò lãnh đạo cũng có   thể giúp cho ta có thêm những nhận thức thú vị như khi bàn luận về vai trò lãnh   đạo chia sẻ. 
  | 
   | 
  
 | 
Welsh Local Government Association | 
   | 
Further reading and references  
For a full, annotated booklist go to   the leadership booklist.  
  
Bolman,   L. G. and Deal, T. E. (1997) Reframing Organizations. Artistry, choice and   leadership 2e, San Francisco: Jossey-Bass. 450 pages. The writers examine   four organizational frames (differing perspectives) related to structures,   human resources, politics and symbols. Good leaders are skilled at looking at   the organization through these differing frames - and developing their own   according to the situation.  
  
Grint,   K. (ed.) (1997) Leadership. Classical, contemporary and critical approaches,   Oxford: Oxford University Press. 385 + xvii pages. Excellent collection of   key discussions of classical, traditional, modern and alternative forms of   leadership.  
  
Heifetz,   R. A. (1994) Leadership Without Easy Answers, Cambridge, Mass.: Belknap   Press. 348 + xi pages. Just about the best of the more recent books on   leadership. Looks to bring back ethical questions to the centre of debates   around leadership, and turns to the leader as educator. A particular emphasis   on the exploration of leadership within authority and non-authority   relationships. Good on distinguishing between technical and adaptive situations.    
  
Kouzes,   J. M. and Posner, B. Z. (1995) The Leadership Challenge, San Francisco:   Jossey-Bass. 390 pages. Revised edition of an established text that offers a   presentation of leadership set on a framework for leadership development.  
  
Van   Maurik, J. (2001) Writers on Leadership, London: Penguin. 248+vii pages.   Useful primer on key twentieth century writers on leadership.  
  
Sadler,   P. (1997) Leadership, London: Kogan Page. 157 pages. Produced as an MBA   primer, this book provides a quick but careful introduction to the area for   people with some background in management or the social sciences. Chapters   look at the nature of leadership; leadership and management; leadership   qualities; leader behaviour;  
  
 
 
  
styles   of leadership; recruiting and selecting future leaders; the developing   process; cultural differences and diversity; role models; the new leadership.    
  
Stogdill,   R. M. (1974) Handbook of Leadership. A survey of theory and research, New   York: Free Press. The Handbook was a major reference point concerning the   state of play in leadership research and has been subsequently updated by B.   M. Bass (1990  
-   Bass and Stogdill's Handbook of Leadership: Theory, research and managerial   applications, New York: Free Press). However, Stogdill's earlier work with   the Ohio State Leadership Studies was an important attempt to set leadership   in an organizational context through proper research. Grint (1997) reproduces   a classic paper from 1950 - 'Leadership, membership and organization'.  
  
Wright,   P. (1996) Managerial Leadership, London: Routledge. 260 + x pages. More of a   traditional textbook approach (which may come as a relief to those   over-exposed to the racier, populist texts that dominate this area). A   careful dissecting of this 'elusive' notion. Chapters on the meaning and   measurement of leadership; management; early approaches - traits and styles;   situational style theories of leadership; situational style theories - some   general issues; alternative approaches; self-management; modern trait   theories; charismatic and related forms of leadership; conclusions.  
  | 
References  
  
Bass, B. M. (1985) Leadership and   Performance Beyond Expectation, New York: Free Press.  
  
Bennis, W. (1998) On Becoming a   Leader, London: Arrow.  
  
Blake, R. R. and Mouton, J. S. (1964)   The Managerial Grid, Houston TX.: Gulf.  
  
Blake, R. R. and Mouton, J. S. (1978)   The New Managerial Grid, Houston TX.: Gulf.  
  
Burns, J. M. (1978) Leadership, New   York: HarperCollins.  
  
Covey, S. R. (1989) The Seven Habits   of Highly Effective People,  
  
Fiedler, F. E. and Garcia, J. E.   (1987) New Approaches to Effective Leadership, New York: John Wiley.  
  
Fiedler, F. E. (1997) ‘Situational   control and a dynamic theory of leadership’ in K.  
Grint (ed.) (1997) Leadership.   Classical, contemporary and critical approaches, Oxford: Oxford University   Press.  
  
Gardner, J. (1989) On Leadership, New   York: Free Press.  
  
Gerth, H. H. and Mills, C. Wright   (eds.) (1991) From Max Weber. Essays in Sociology, London: Routledge.  
  
 
 
Heifetz, R. A. (1994) Leadership   Without Easy Answers, Cambridge, MA: Belknap Press.  
  
Hersey, P. (1984) The Situational   Leader, New York: Warner.  
  
Hersey, P. and Blanchard, K. H. (1977)   The Management of Organizational Behaviour 3e, Upper Saddle River N. J.:   Prentice Hall.  
  
McGregor, D. (1960) The Human Side of   Enterprise, New York: McGraw Hill.  
  
Mann, R. D. (1959) ‘A review of the   relationship between personality and performance in small groups’,   Psychological Bulletin 66(4): 241-70.  
  
Nanus, B. (1992) Visionary Leadership.   Creating a compelling sense of direction for your organization, San   Francisco: Jossey-Bass.  
  
Reddin, W. J. (1970) Managerial   Effectiveness, New York: McGraw Hill.  
  
Reddin, W. J. (1987) How to Make   Management Style More Effective, Maidenhead: McGraw Hill.  
  
Rosener, J. B. ‘Sexual static’ in K.   Grint (ed.) (1997) Leadership. Classical, contemporary and critical   approaches, Oxford: Oxford University Press.  
  
Senge, P. M. (1990) The Fifth   Discipline. The art and practice of the learning  
organization, London: Random House.  
  
Stogdill, R. M. (1948) ‘Personal   factors associated with leadership. A survey of the  
literature’, Journal of Psychology 25:   35-71.  
  
Sun Tzu, (undated) The Art of War,   http://kappeli.ton.tut.fi/aow/main.html  
  
Wright, P. (1996) Managerial   Leadership, London: Routledge.  | 
   | 
  | 
  | 
 
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn