|  | |
| 
The Arab spring at
  one: a year of living dangerously | 
MÙA XUÂN ARẬP: MỘT
  NĂM SỐNG TRONG NGUY HIỂM | 
| 
By Fouad Ajami | 
Fouad Ajami | 
| 
Foreign Affairs, March-April 2012 | 
Foreign Affairs, tháng 3-4/2012 | 
| 
Throughout 2011, a rhythmic chant echoed across the Arab
  lands: "The people want to topple the regime." It skipped borders
  with ease, carried in newspapers and magazines, on Twitter and Facebook, on
  the airwaves of al Jazeera and al Arabiya. Arab nationalism had been written
  off, but here, in full bloom, was what certainly looked like a pan-Arab
  awakening. Young people in search of political freedom and economic
  opportunity, weary of waking up to the same tedium day after day, rose up
  against their sclerotic masters. | 
Trong suốt năm 2011, một lời ca nhịp nhàng đã vang lên
  trên khắp các vùng đất Arập: “Người dân muốn lật đổ chế độ”. Nó đã dễ dàng bỏ
  qua các đường biên giới, được đưa vào các tờ báo và các tạp chí, trên Twitter
  va Pacebook, trong các chương trình phát sóng của các đài truyền hình al
  Jazeera và al Arabiya. Chủ nghĩa dân tộc Arập đã bị xóa bỏ, nhưng ở đây, đạt
  đến đỉnh cao nhất, là thứ chắc chắn giống như sự thức tỉnh liên Arập. Những
  người trẻ tuổi trong lúc tìm kiếm quyền tự do chính trị và cơ hội kinh tế, rã
  rời nhận ra cùng sự buồn tẻ ngày này qua ngày khác, đã đứng dậy chống lại
  những ông chủ khô cứng của họ. | 
| 
It came as a surprise. For almost two generations, waves
  of democracy had swept over other regions, from southern and eastern Europe
  to Latin America, from East Asia to Africa. But not the Middle East. There,
  tyrants had closed up the political world, become owners of their countries
  in all but name. It was a bleak landscape: terrible rulers, sullen
  populations, a terrorist fringe that hurled itself in frustration at an order
  bereft of any legitimacy. Arabs had started to feel they were cursed, doomed
  to despotism. The region's exceptionalism was becoming not just a human disaster
  but a moral embarrassment. | 
Nó đã xảy đến như một sự ngạc nhiên. Trong gần hai thế hệ,
  những làn sóng dân chủ đã quét qua những khu vực khác, từ Nam và Đông Âu đến
  Mỹ Latinh, từ Đông Á đến châu Phi. Nhưng không phải Trung Đông, ở đó, những
  kẻ bạo chúa đã đóng kín thế giới chính trị, trở thành những người chủ đất
  nước của họ về tất cả trừ cái tên. Đó là một khung cảnh ảm đạm: những kẻ cầm
  quyền tồi tệ, người dân chán nản, một nhóm khủng bố rơi vào sự thất vọng trước
  một trật tự bị mất hết tính hợp pháp. Người Arập đã bắt đầu cảm thấy họ bị
  nguyền rủa, phải chịu sống dưới chế độ chuyên chế. Chủ nghĩa ngoại lệ của khu
  vực này trở thành không chỉ là một thảm họa nhân loại mà còn thành một sự xấu
  hổ về đạo đức. | 
| 
Outside powers had winked at this reality, silently
  thinking this was the best the Arabs could do. In a sudden burst of
  Wilsonianism in Iraq and after, the United States had put its power behind
  liberty. Saddam Hussein was flushed out of a spider hole, the Syrian brigades
  of terror and extortion were pushed out of Lebanon, and the despotism of
  Hosni Mubarak, long a pillar of Pax Americana, seemed to lose some of its
  mastery. But post-Saddam Iraq held out mixed messages: there was democracy,
  but also blood in the streets and sectarianism. The autocracies hunkered down
  and did their best to thwart the new Iraqi project. Iraq was set ablaze, and
  the Arab autocrats could point to it as a cautionary tale of the folly of
  unseating even the worst of despots. Moreover, Iraq carried a double burden
  of humiliation for Sunni Arabs: the bearer of liberty there was the United
  States, and the war had empowered the Shiite stepchildren of the Arab world.
  The result was a standoff: the Arabs could not snuff out or ignore the
  flicker of freedom, but nor did the Iraqi example prove the subversive beacon
  of hope its proponents had expected. | 
Các cường quốc bên ngoài đã nhắm mắt làm ngơ trước thực
  trạng này thầm nghĩ đây là điều tốt nhất các nước Arập có thể làm. Trong một
  sự bùng nổ đột ngột của chủ nghĩa Wilson ở Irắc và sau đó, Mỹ đã đặt sức mạnh
  của mình ơ đằng sau sự tự do. Saddam Hussein đã bị lôi ra khỏi hang nhện, các
  lữ đoàn khủng bố và tống tiền của Xyri đã bị đẩy ra khỏi Libăng, và chế độ
  chuyên chế của Hosni Mubarak, từ lâu đã là trụ cột của hòa bình theo kiểu Mỹ,
  dường như mất đi phần nào ưu thế của mình. Nhưng Irắc hậu Saddam đã đưa ra những
  thông điệp lẫn lộn: có chế độ dân chủ nhưng cũng có cả máu trên đường phố và
  chủ nghĩa bè phái. Các chế độ chuyên quyền đã làm việc ráo riết và hết sức để
  ngăn chặn kế hoạch Irắc mới. Irắc đã bừng cháy, và những kẻ chuyên quyền Arập
  có thể lưu ý đến nó như một câu chuyện cảnh báo về hành động điên rồ hất cẳng
  ngay cả kẻ tồi tệ nhất trong những kẻ chuyên quyền. Hơn nữa, Irắc đã mang
  gánh nặng nhục nhã gấp đôi cho những người Arập dòng Sunni: người mang lại tự
  do ở đó là Mỹ, và cuộc chiến tranh này đã trao quyền lực cho những đứa con
  riêng Shitte của thế giới Arập. Kết quả là một thế bế tắc: người Arập không
  thể dập tắt hay phớt lờ một thoáng tự do, nhưng tấm gương Irắc cũng không cho
  thấy một tia hy vọng lật đổ mà những người khơi xướng nó đã mong đợi. | 
| 
It was said by Arabs themselves that George W. Bush had
  unleashed a tsunami on the region. True, but the Arabs were good at waiting
  out storms, and before long, the Americans themselves lost heart and
  abandoned the quest. An election in 2006 in the Palestinian territories went
  the way of Hamas, and a new disillusionment with democracy's verdict overtook
  the Bush administration. The "surge" in Iraq rescued the American
  war there just in time, but the more ambitious vision of reforming the Arab
  world was given up. The autocracies had survived the brief moment of American
  assertiveness. And soon, a new standard-bearer of American power, Barack
  Obama, came with a reassuring message: the United States was done with
  change; it would make its peace with the status quo, renewing its partnership
  with friendly autocrats even as it engaged the hostile regimes in Damascus and
  Tehran. The United States was to remain on the Kabul hook for a while longer,
  but the greater Middle East would be left to its Furies. | 
Chính người Arập nói rằng George W.Bush đã gây ra cơn sóng
  thần ở khu vực này. Đó là sự thật, nhưng người Arập rất giỏi trú ẩn qua các
  cơn bão, và trước đây rất lâu, bản thân người Mỹ đã chán nản và từ bỏ việc
  tìm kiếm. Cuộc bầu cử năm 2006 ở các vùng lãnh thổ thuộc Palextin đã đi theo
  con đường của Hamát, và một sự vỡ mộng mới với phán quyết của chế độ dân chủ
  đã đến với Chính quyền Bush. “Việc tăng quân” ở Irắc đã kịp thời cứu thoát
  cuộc chiến tranh của Mỹ ở đó, nhưng tầm nhìn nhiều tham vọng hơn về việc cải
  cách thế giới Arập đã bị từ bỏ. Các chế độ chuyên quyền đã sống sót qua giây
  phút ngắn ngủi của thái độ quyết đoán của Mỹ. Và chẳng bao lâu, người gánh
  vác quyền lực Mỹ theo tiêu chuẩn mới, Barack Obama, đã xuất hiện với một
  thông điệp làm yên lòng: Mỹ đã từ bỏ thay đổi: nước này sẽ tạo ra hòa bình
  của mình với hiện trạng, tiếp tục lại quan hệ đối tác với những nhà chuyên
  quyền thân thiện ngay cả khi nước này can dự với các chế độ thù địch ở Đamát
  và Têhêran. Mỹ vẫn phải dính líu với Kabul trong một khoảng thời gian nữa,
  nhưng Trung Đông lớn hơn sẽ được bỏ lại cho Nữ thần tóc rắn của mình. | 
| 
When a revolt erupted in Iran against the theocrats in the
  first summer of his presidency, Obama was caught flatfooted by the turmoil.
  Determined to conciliate the rulers, he could not find the language to speak
  to the rebels. Meanwhile, the Syrian regime, which had given up its dominion
  in Lebanon under duress, was now keen to retrieve it. A stealth campaign of
  terror and assassinations, the power of Hezbollah on the ground, and the
  subsidies of Iran all but snuffed out the "Cedar Revolution" that
  had been the pride of Bush's diplomacy. | 
Khi một cuộc nổi dậy nổ ra ở Irắc chống lại những kẻ cai
  trị bằng thần quyền vào mùa Hè đầu tiên nhiệm kỳ tổng thống của Obama, ông đã
  bị bắt gặp tỏ ra lúng túng trước tình trạng hỗn loạn này. Quyết tâm hòa giải
  các nhà cầm quyền, ông không thể tìm được tiếng nói để nói chuyện với những
  người nổi loạn. Trong khi đó, chế độ Xyri, đã buộc phải từ bỏ quyền chi phối
  của mình ớ Libăng, hiện tha thiết muốn lấy lại điều đó. Một chiến dịch khủng
  bố và ám sát lén lút, sức mạnh của Hezbollah tại địa bàn và những khoản trợ
  cấp của Iran gần như đã kết thúc cuộc “Cách mạng Cedar” mà đã từng là niềm tự
  hào của chính sách ngoại giao của Bush. | 
| 
Observers looking at the balance of forces in the region
  in late 2010 would have been smart to bet on a perpetuation of autocracy.
  Beholding Bashar al-Assad in Damascus, they would have been forgiven the
  conclusion that a similar fate awaited Libya, Tunisia, Yemen, and the large
  Egyptian state that had been the trendsetter in Arab political and cultural
  life. Yet beneath the surface stability, there was political misery and
  sterility. Arabs did not need a "human development report" to tell
  them of their desolation. Consent had drained out of public life; the only
  glue between ruler and ruled was suspicion and fear. There was no public
  project to bequeath to a generation coming into its own--and this the largest
  and youngest population yet. | 
Các nhà quan sát nhìn vào cán cân sức mạnh ở khu vực này
  vào cuối năm 2010 sẽ là thông minh khi đặt cược vào sự trường tồn của chế độ
  chuyên quyền. Quan sát Bashar al-Assad ở Đamát, họ sẽ được tha thứ cho kết
  luận rằng một số phận tương tự chờ đợi Libi, Tuynidi, Yêmen, và Ai Cập rộng
  lớn mà đã là nước tạo xu hướng trong đời sống chính trị và văn hóa của Arập.
  Tuy nhiên, bên dưới bề nổi sự ổn định, có sự khốn cùng và vô ích về chính
  trị. Người Arập không cần “báo cáo phát triển nhân loại” để nói với họ về nỗi
  phiền muộn của mình. Sự đồng thuận đã không còn trong đời sống công chúng; sự
  gắn kết duy nhất giữa người cai trị và những người bị trị là sự nghi ngờ và
  nỗi lo sợ. Không có một dự án công cộng nào để lại cho một thế hệ đang trở
  nên độc lập – và đây còn là dân số lớn nhất và trẻ nhất. | 
| 
And then it happened. In December, a despairing Tunisian
  fruit vendor named Mohamed Bouazizi took one way out, setting himself on fire
  to protest the injustices of the status quo. Soon, millions of his unnamed
  fellows took another, pouring into the streets. Suddenly, the despots,
  seemingly secure in their dominion, deities in all but name, were on the run.
  For its part, the United States scurried to catch up with the upheaval.
  "In too many places, in too many ways, the region's foundations are
  sinking into the sand," U.S. Secretary of State Hillary Clinton
  proclaimed in Qatar in mid-January 2011, as the storm was breaking out. The
  Arab landscape lent her remarks ample confirmation; what she omitted was that
  generations of American diplomacy would be buried, too. | 
Và rồi điều đó đã xảy ra. Vào tháng 12/2012, một người bán
  hoa quả dạo tuyệt vọng người Tuynidi tên là Mohamed Bouazizi đã tìm một lối
  thoát, tự thiêu để phản đối những sự bất công của nguyên trạng. Không lâu sau
  đó, hàng triệu người vô danh khác cũng đã tìm lối thoát khác, đổ ra những con
  phố. Một cách bất ngờ, những kẻ chuyên quyền, dường như để đảm bảo sự thống
  trị của họ, những vị chúa trời ở mọi mặt trừ cái tên, lại chạy trốn, về phần
  mình, Mỹ đã vội vã bắt kịp cuộc chính biến. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã
  tuyên bố ở Cata vào giữa tháng 1/2011, khi cơn báo đang càn quét: “Ở quá
  nhiều nơi, theo quá nhiều cách, các nền tảng của khu vực này đang chìm trong
  cát”. Quang cảnh Arập đã làm cho lời nhận xét của bà thêm phần chắc chắn;
  điều bà đã bỏ sót là các thế hệ ngoại giao của Mỹ cũng sẽ bị chôn vùi. | 
| 
THE FIRE THIS TIME 
The revolt was a settlement of accounts between the powers
  that be and populations determined to be done with despots. It erupted in a
  small country on the margins of the Arab political experience, more educated
  and prosperous and linked to Europe than the norm. As the rebellion made its
  way eastward, it skipped Libya and arrived in Cairo, "the mother of the
  world." There, it found a stage worthy of its ambitions. | 
Đám lửa lần này 
Cuộc nổi dậy này là sự thanh toán giữa những thế lực ở bên
  cạnh và người dân quyết định từ bỏ các nhà chuyên quyền. Nó đã nổ ra ở một
  đất nước nhỏ bé nằm bên lề sự trải nghiệm chính trị của Arập, được giáo dục
  tốt và thịnh vượng và có mối quan hệ với châu Âu tốt hơn so với bình thường.
  Khi cuộc nổi dậy tiến về phía Đông, nó đã bỏ qua Libi và đến Cairô, “mẹ của
  thế giới”. Ở đó, nó đã tìm thấy một vũ đài có giá trị cho những tham vọng của
  mình. | 
| 
Often written off as the quintessential land of political
  submission, Egypt has actually known ferocious rebellions. It had been
  Mubarak's good fortune that the land tolerated him for three decades. The
  designated successor to Anwar al-Sadat, Mubarak had been a cautious man, but
  his reign had sprouted dynastic ambitions. For 18 magical days in January and
  February, Egyptians of all walks of life came together in Tahrir Square
  demanding to be rid of him. The senior commanders of the armed forces cast
  him aside, and he joined his fellow despot, Tunisia's Zine el-Abidine Ben
  Ali, who had fallen a month earlier. | 
Thường bị coi thường như là vùng đất hoàn hảo của sự phục
  tùng chính trị, Ai Cập đã thực sự biết đến những cuộc nổi loạn tàn bạo.
  Mubarak đã có một cơ may khi vùng đất này đã chịu đựng ông trong 3 thập kỷ.
  Là người kế nhiệm Anwar al-Sadat được chỉ định, Mubarak là một người đàn ông
  thận trọng, nhưng sự trị vì của ông đã sinh ra những tham vọng triều đại.
  Trong 18 ngày thần kỳ vào tháng 1 và tháng 2, người Ai Cập từ mọi nẻo đường
  cuộc sống đã tập hợp ở Quảng trường Tahrir đòi gạt bỏ ông. Những chỉ huy cấp cao
  của các lực lượng vũ trang đã bỏ rời ông, và ông đã chung số phận với một kẻ
  chuyên quyền cùng hội, Zine el-Abidine Ben Ali cua Tuynidi, người đã bị truất
  quyền một tháng trước. | 
| 
From Cairo, the awakening became a pan-Arab affair,
  catching fire in Yemen and Bahrain. As a monarchy, the latter was a rare
  exception, since in this season it was chiefly the republics of strongmen that
  were seized with unrest. But where most monarchies had a fit between ruler
  and ruled, Bahrain was riven by a fault line between its Sunni rulers and its
  Shiite majority. So it was vulnerable, and it was in the nature of things
  that an eruption there would turn into a sectarian feud. Yemen, meanwhile,
  was the poorest of the Arab states, with secessionist movements raging in its
  north and south and a polarizing leader, Ali Abdullah Saleh, who had no
  skills save the art of political survival. The feuds of Yemen were obscure,
  the quarrels of tribes and warlords. The wider Arab tumult gave Yemenis eager
  to be rid of their ruler the heart to challenge him. | 
Từ Cairo, sự thức tỉnh đã trở thành một vấn đề liên Arập,
  bùng cháy ơ Yêmen và Baranh. Là một chế,độ quân chủ, Baranh là ngoại lệ hiếm
  hoi do trong thời gian này chủ yếu là các chế độ cộng hòa của những người
  hùng bị chìm trong tình trạng náo động. Nhưng ở nơi mà hầu hết các chế độ
  quân chủ có sự đồng điệu giữa người cai trị và những người bị cai trị, Baranh
  bị tan nát bởi một đường hướng sai lầm giữa những nhà cầm quyền người Sunni
  và đa số dân chúng người Shiite. Chính vì vậy, nước này dễ bị tổn hại, và có
  vẻ như là sự bùng nổ ở đó sẽ biến thành một mối hận thù bè phái. Trong khi
  đó, Yêmen là nước nghèo nhất trong số các nước Arập, có các phong trào ly
  khai nổ ra ở miền Bắc và miền Nam và nhà lãnh đạo trong tình trạng phân cực
  Ali Abdullah Saleh không có các kỹ năng giữ được nghệ thuật sống sót chính
  trị. Những mối hận thù của Yêmen là không rõ ràng, là những sự bất hòa giữa
  các bộ tộc và các thủ lĩnh quân sự. tình trạng náo động rộng lớn hơn ở Arập
  đã mang lại cho những người Yêmen mong muốn gạt bỏ nhà cầm quyền của họ dũng
  khí để thách thức ông. | 
| 
Then, the revolt doubled back to Libya. This was the
  kingdom of silence, the realm of the deranged, self-proclaimed "dean of
  Arab rulers," Muammar al-Qaddafi. For four tormenting decades, Libyans
  had been at the mercy of this prison warden, part tyrant, part buffoon.
  Qaddafi had eviscerated his country, the richest in Africa yet with an
  abysmally impoverished population. In the interwar years, Libya had known
  savage colonial rule under the Italians. It gained a brief respite under an
  ascetic ruler, King Idris, but in the late 1960s was gripped by a revolutionary
  fever. Iblis wa la Idris, went the maxim of the time, "Better the devil
  than Idris." And the country got what it wanted. Oil sustained the
  madness; European leaders and American intellectuals alike came courting.
  Now, in 2011, Benghazi, at some remove from the capital, rose up, and history
  gave the Libyans a chance. | 
Rồi cuộc nổi dậy đã quay trở lại Libi. Đây là một vương
  quốc im lặng, lãnh địa của nhà lãnh đạo mất trí và tự cho mình là “người đứng
  đầu các nhà cầm quyền Arập”, Muammar al-Gaddafi. Trong 4 thập kỷ đau khổ,
  người Libi đã ở dưới quyền của một cai ngục, nửa độc tài, nửa như anh hề này.
  Gaddati đã rút ruột đất nước ông, nước giàu nhất ở châu Phi nhưng lại có dân
  chúng nghèo khổ khốn cùng. Trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh, Libi đã
  biết đến sự cai trị thuộc địa độc ác của người Italia. Nước này đã có khoảng
  thời gian yên bình ngắn ngủi dưới thời nhà cầm quyền khổ hạnh, Vua Idris,
  nhưng vào cuối nhừng năm 1960 đã bị thu hút bởi một cơn sốt cách mạng. “Iblis
  wa la Idris” (Con quỷ còn tốt hơn Idris) đã trở thành câu châm ngôn của thời
  đại. Và đất nước này đã có thứ mình muốn. Dầu lưa đã duy trì sự điên cuồng;
  các nhà lãnh đạo châu Âu cũng như các trí thức của Mỹ đã đến ve vãn. Hiện
  nay, vào năm 2011, Benghazi, cách xa thủ đô, đã trỗi dậy, và lịch sử đã trao
  cho người Libi một cơ hôi. | 
| 
The Egyptian rulers had said that their country was not
  Tunisia. Qaddafi said that his republic was not Tunisia or Egypt. Eventually,
  Assad was saying that Syria was not Tunisia, Egypt, or Libya. Assad was
  young, not old; his regime had more legitimacy because it had confronted
  Israel rather than collaborated with it. He spoke too soon: in mid-March, it
  was Syria's turn. | 
Các nhà cầm quyền của Ai Cập đã nói rằng đất nước của họ
  không phải là Tuynidi. Gaddatì đã nói rằng nền cộng hòa của ông không phái là
  Tuynidi hay Ai Cập. Cuối cùng, Assad nói rằng Xyri không phải là Tuynidi, Ai
  Cập hay Libi. Assad còn trẻ chứ không phải đã già, chế độ của ông chính đáng
  hơn bởi vì nó đã đối đầu với Ixraen thay vì cộng tác với nước này. Ông đà nói
  quá sớm: vào giữa tháng 3, lần này đến lượt Xyri. | 
| 
Syria was where Islam had made its home after it outgrew
  the Arabian Peninsula and before it slipped out of the hands of the Arabs
  into those of the Persians and the Turks. Yet decades earlier, Bashar
  al-Assad's father, Hafez--a man of supreme cunning and political skill--had
  ridden the military and the Baath Party to absolute power, creating a regime
  in which power rested with the country's Alawite minority. The marriage of
  despotism and sectarianism begat the most fearsome state in the Arab east. | 
Xyri đã là nơi Hồi giáo coi là ngôi nhà của mình sau khi
  nước này phát triển nhanh hơn Bán đảo Arập và trước khi nước này tuột ra khỏi
  bàn tay của người Arập rơi vào tay người Ba Tư và người Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy
  nhiên, những thập kỷ trước đây, cha của Bashar al-Assad, Hafez – một người
  đàn ông khôn ngoan và có kỹ năng chính trị nhất – đã đưa quân đội và đảng
  Baath lên đến quyền lực tuyệt đối, đang tạo ra một chế độ trong đó quyền lực
  nằm trong tay thiểu số người Alawite của đất nước này. Sự kết. hợp giữa chủ
  nghĩa chuyên quyền và chủ nghĩa bè phái đã sản sinh ra nhà nước đáng sợ nhất
  ở Đông Arập. | 
| 
When the rebellion broke out there in 2011, it had a
  distinct geography, as the French political scientist Fabrice Balanche has shown,
  based in the territories and urban quarters of the country's Sunni Arabs. It
  erupted in Dara'a, a remote provincial town in the south, then spread to
  Hamah, Homs, Jisr al-Shughour, Rastan, Idlib, and Dayr az Zawr--skipping over
  Kurdish and Druze areas and the mountain villages and coastal towns that make
  up the Alawite strongholds. The violence in the Syrian uprising has been most
  pronounced in Homs, the country's third-largest city, because of its
  explosive demographics--two-thirds Sunni, one-quarter Alawite, one-tenth
  Christian. | 
Khi cuộc nổi loạn nổ ra ở đó vào năm 2011, nước này có vị trí
  địa lý khác biệt, như nhà khoa học chính trị Pháp Fabrice Balanche đã chỉ ra,
  nằm trên những vùng lãnh thổ và những khu vực thành thị của người Arập dòng
  Sunni của đất nước này. Nó đã nổ ra ở Dara’a, một thị xã xa xôi ở miền Nam,
  sau đó đã lan rộng sang Hamah, Homs, Jisr al-Shughour, Rastan, idlib và Dayr
  az Zawr – bỏ qua các khu vực người Kurd và người Druze và các ngôi làng miền
  núi và các thị trấn duyên hải tạo nên thành trì của người Alawite. Tình trạng
  bạo lực trong cuộc nổi dậy của Xyri là rõ rệt nhất ở Homs, thành phố lớn thứ
  ba của nước này, do dân số học dễ bùng nổ của nó – 2/3 dân số là người Sunni,
  1/4 dân số là người Alawite, 1/10 là người Cơ đốc. | 
| 
Sectarianism was not all, of course. Syria has had one of
  the highest birthrates in the region, with its population having almost
  quadrupled since Hafez seized power in 1970. The arteries of the regime had
  hardened, with a military-merchant complex dominating political and economic
  life. There was not much patronage left for the state to dispose of, since
  under the banner of privatization in recent years, the state had pulled off a
  disappearing act. The revolt fused a sense of economic disinheritance and the
  wrath of a Sunni majority determined to rid itself of the rule of a godless
  lot. | 
Dĩ nhiên, chủ nghĩa bè phái không phải là tất cả. Xyri có
  tỷ lệ sinh cao nhất ở khu vực này, với dân số tăng gần gấp 4 lần kể từ khi
  Hafez lên nắm quyền vào năm 1970. Những động mạch của chế độ này đã bị xơ
  cứng với một phức hợp quân sự và thương mại đang chi phối đời sống chính trị
  và kinh tế. Không còn lại nhiều sự bảo trợ để nhà nước sử dụng, do dưới khẩu
  hiệu cấm tư nhân hóa trong những năm gần đây, nhà nước này đã thực hiện một
  sự lẩn trốn. Cuộc nổi loạn đã gắn kết ý thức về sự tước quyền thừa kế kinh tế
  và cơn phẫn nộ của đa số người Sunni quyết tâm tự giải thoát mình khỏi quy
  luật của số mệnh độc ác. | 
| 
WHERE THINGS STAND | 
Mọi việc ở đúng chỗ
  của nó | 
| 
There has, of course, been no uniform script for the Arab
  regimes in play. Tunisia, an old state with a defined national identity,
  settled its affairs with relative ease. It elected a constituent assembly in
  which al Nahda, an Islamist party, secured a plurality. Al Nahda's leader,
  Rachid al-Ghannouchi, was a shrewd man; years in exile had taught him
  caution, and his party formed a coalition government with two secular
  partners. | 
Dĩ nhiên là không có một kịch bản giống nhau nào dành cho
  các chế độ Arập đang hoạt động. Tuynidi, một nhà nước già cỗi với bản sắc dân
  tộc được xác định rõ đã giải quyết các công việc của mình một cách tương đối
  dễ dàng. Nước này đã lựa chọn một hội đồng lập hiến trong đó al Nahda, một
  đảng Hồi giáo, đảm bảo tính đa nguyên. Nhà lãnh đạo của al Nahda Rachi
  al-Ghannouchi, là một người đàn ông sắc sảo; nhiều năm sống lưu vong đã dạy
  cho ông phải thận trọng, và đảng của ông đã lập ra một chính phủ liên minh
  với hai bên tham gia thế tục. | 
| 
In Libya, foreign intervention helped the rebels topple the
  regime. Qaddafi was pulled out of a drainage pipe and beaten and murdered,
  and so was one of his sons. These were the hatreds and the wrath that the
  ruler himself had planted; he reaped what he had sown. But wealth, a sparse
  population, and foreign attention should see Libya through. No history in the
  making there could be as deadly to Libyans, and others, as the Qaddafi years. | 
Ở Libi, sự can thiệp nước ngoài đã giúp những người nổi
  dậy lật đổ chế độ. Gaddafi đã bị kéo ra khỏi một đường cống, bị đánh đập và
  bị giết chết, và một trong những người con trai của ông cũng vậy. Đây là
  những sự hận thù và phẫn nộ mà chính nhà cầm quyền này đã tạo nên; ông đã
  nhận được những gì ông đã gieo rắc. Nhưng sự giàu có, một dân số thưa thớt và
  sự chú ý của nước ngoài hẳn giúp Libi vượt qua khó khăn. Không có một lịch sử
  đang hình thành nào có thể đầy chết chóc với người Libi, và các nước khác,
  như những năm cầm quyền của Gaddafi. | 
| 
The shadows of Iran and Saudi Arabia hover over Bahrain.
  There is no mass terror, but the political order is not pretty. There is
  sectarian discrimination and the oddness of a ruling dynasty, the House of
  Khalifa, that conquered the area in the late years of the eighteenth century
  but has still not made peace with the population. Outsiders man the security
  forces, and true stability seems a long way off. | 
Bóng tối của Iran và Arập Xêút bao trùm lên Baranh. Không
  có cuộc khủng bố lớn nhưng trật tự chính trị là không tốt. Có sự phân biệt bè
  phái và vẻ bề ngoài kỳ quặc của triều đại đang cai trị, Hoàng gia Khalifa, đã
  chinh phục khu vực này vào những năm cuối của thế kỷ 18 nhưng vẫn không tạo
  ra hòa bình cho người dân. Những người ngoài mang lại nguồn nhân lực cho các
  lực lượng an ninh, và sự ổn định thực sự dường như còn rất xa xôi. | 
| 
As for Yemen, it is the quintessential failed state. The
  footprint of the government is light, the rulers offer no redemption, but
  there is no draconian terror. The country is running out of water; jihadists
  on the run from the Hindu Kush have found a home: it is Afghanistan with a
  coastline. The men and women who went out into the streets of Sanaa in 2011
  sought the rehabilitation of their country, a more dignified politics than
  they have been getting from the cynical acrobat at the helm for more than
  three decades. Whether they will get it is unclear. | 
Về phần Yêmen, đây là nhà nước thất bại hoàn toàn. Dấu ấn
  của chính quyền nước này là mờ nhạt, các nhà cầm quyền không có phương thuốc
  cứu chữa nào, nhưng không có sự khủng bố tàn bạo. Đất nước này đang cạn kiệt
  nguồn nước; các phần tử thánh chiến Hồi giáo chạy trốn từ Hindu Kush đã tìm
  thấy ngôi nhà của mình: đó là Ápganixtan với bờ biển trải dài. Những người
  đàn ông và phụ nữ đã đổ ra những con phố thuộc Sanaa vào năm 2011 để tìm kiếm
  sự phục hồi của đất nước của họ, hoạt động chính trị có phẩm giá hơn so với
  họ nhận được từ nhà chính trị đi trên dây hay hoài nghi cầm quyền trong hơn 3
  thập kỷ. Không rõ họ có hiểu điều đó hay không. | 
| 
Syria remains in chaos. Hamas left Damascus in December
  because it feared being left on the wrong side of the mounting Arab consensus
  against the Syrian regime. "No Iran, no Hezbollah; we want rulers who
  fear Allah," has been one of the more meaningful chants of the
  protesters. Alawite rule has been an anomaly, and the regime, through its
  brutal response to the uprising, with security forces desecrating mosques,
  firing at worshipers, and ordering hapless captives to proclaim, "There
  is no God but Bashar," has written its own regional banishment. Hafez
  committed cruelties of his own, but he always managed to remain within the
  Arab fold. Bashar is different--reckless--and has prompted even the Arab
  League, which has a history of overlooking the follies of its members, to
  suspend Damascus' membership. | 
Xyri vẫn ở trong tình trạng hỗn loạn. Hamát đã bỏ rơi
  Đamát vào tháng 12/2011 bởi vì nước này lo sợ bị bỏ lại ở mặt trái của sự
  đồng thuận Arập đang gia tăng chống lại chế độ Xyri. Một trong những khẩu hiệu
  có ý nghĩa của những người phản kháng: “Không Iran, không Hezbollah, chúng
  tôi muốn có những nhà cầm quyền sợ hãi trước đấng Allah”. Luật lệ của Alawite
  là bất thường và chế độ này, thông qua phản ứng tàn bạo của nó đối với cuộc
  nổi dậy, với việc các lực lượng an ninh mạo phạm các nhà thờ Hồi giáo, nổ
  súng vào các tín đồ, và ra lệnh cho những người bị bắt giữ bất hạnh phải nói
  câu: “Không có Chúa mà chỉ có Bashar”, đã viết ra lệnh lưu đày khỏi khu vực
  của chính mình. Hafez đã phạm phải những hành động tàn bạo của bản thân ông,
  nhưng ông luôn tìm cách để vẫn ở bên trong khối Arập. Bashar thì khác – liều
  lĩnh – và thúc giục ngay cả Liên đoàn Arập, có lịch sử bỏ qua những hành động
  điên rồ của các nước thành viên, đình chỉ tư cách thành viên của Đamát. | 
| 
The fight still rages, Aleppo and Damascus have not risen,
  and the embattled ruler appears convinced that he can resist the laws of
  gravity. Unlike in Libya, no foreign rescue mission is on the horizon. But
  with all the uncertainties, this much can be said: the fearsome security
  state that Hafez, the Baath Party, and the Alawite soldiers and intelligence
  barons built is gone for good. When consent and popular enthusiasm fell away,
  the state rested on fear, and fear was defeated. In Syria, the bonds between
  the holders of power and the population have been irreparably broken. | 
Cuộc chiến đấu vẫn diễn ra ác liệt, Aleppo và Đamát không
  trỗi dậy, và nhà cầm quyền đã tham chiến dường như tin rằng ông có thể chống
  lại những định luật hấp dẫn. Không như ở Libi, chưa có dấu hiệu nào về một sứ
  mệnh giải cứu của nước ngoài. Nhưng với tất cả những tình trạng không chắc
  chắn này, có thể nói rằng: nhà nước an ninh gây sợ hãi mà Hafez, Đảng Baath,
  và các binh lính Alawite và các ông “vua” tình báo tạo ra đã ra đi vĩnh viễn.
  Khi sự đồng thuận và sự ủng hộ của dân chúng phai nhạt dần, nhà nước dựa trên
  sự sợ hãi, và sự sợ hãi đã bị đánh bại. Ớ Xyri, mọi ràng buộc giữa các nhà
  cầm quyền và dân chúng đã bị phá vỡ không thể sửa chữa được. | 
| 
WHAT FOLLOWS PHARAOH 
Egypt, meanwhile, may have lost the luster of old, but
  this Arab time shall be judged by what eventually happens there. In the
  scenarios of catastrophe, the revolution will spawn an Islamic republic: the
  Copts will flee, tourism revenues be lost for good, and Egyptians will yearn
  for the iron grip of a pharaoh. The strong performance of the Muslim
  Brotherhood and of an even more extremist Salafi party in recent
  parliamentary elections, together with the splintering of the secular,
  liberal vote, appears to justify concern about the country's direction. But
  Egyptians have proud memories of liberal periods in their history. Six
  decades of military rule robbed them of the experience of open politics, and
  they are unlikely to give it up now without a struggle. | 
Những gì đi theo sau
  Pharaông 
Trong khi đó, Ai Cập có thể đã đánh mất ánh hào quang; của
  thời xa xưa, nhưng thời gian này của Arập sẽ được đánh giá bằng những gì cuối
  cùng xay ra ờ đó. Trong những kịch bản thảm họa, cách mạng sẽ sản sinh ra một
  nước cộng hòa Hồi giáo: người Cốp sẽ chạy trốn, doanh thu ngành du lịch vĩnh
  yiễn mất đi, và người Ai Cập sẽ khát khao có bàn tay sắt của Pharaông. Thành
  tích mạnh mẽ của tố chức Anh em Hồi giáo và của đảng Salafi thậm chí còn cực
  đoan hơn trong các cuộc bầu cử quốc hội gần đây, cùng với sự phá vỡ cuộc bỏ
  phiếu tự do thế tục, dường như chứng minh cho mối quan ngại về định hướng của
  nước này. Những người Ai Cập tự hào với ký ức về những giai đoạn tự do trong
  lịch sử của họ. 6 thập kỷ chịu sự cai trị quân sự đã cướp đi của họ cơ hội
  trải nghiệm chính trị cởi mở, và hiện nay họ không thể từ bỏ điều đó mà không
  cần có một cuộc đấu tranh. | 
| 
The elections were transparent and clarifying. Liberal and
  secular forces were not ready for the contest, whereas the Brotherhood had
  been waiting for such a historic moment for decades and seized its
  opportunity. No sooner had the Salafists come out of the catacombs than they
  began to unnerve the population, and so they pulled back somewhat from their
  extreme positions. The events in Tahrir Square transfixed the world, but as
  the young Egyptian intellectual Samuel Tadros has put it, "Egypt is not
  Cairo and Cairo is not Tahrir Square." When the dust settles, three
  forces will contest Egypt's future--the army, the Brotherhood, and a broad
  liberal and secular coalition of those who want a civil polity, the
  separation of religion and politics, and the saving graces of a normal
  political life. | 
Các cuộc bầu cử là minh bạch và sáng sủa. Các lực lượng tự
  do và thế tục chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến đấu, trong khi Anh em Hồi giáo
  đã chờ đợi một thời khắc lịch sử như vậy trong nhiều thập kỷ và đã tận dụng
  cơ hội của mình. Ngay khi những người Hồi giáo dòng Salafi bước ra khỏi hầm
  mộ, họ đã bắt đầu làm dân chúng lo lắng, và chính vì thế họ đã rút lại phần
  nào quan điểm cực đoan của mình. Những sự kiện diễn ra ở Quảng trường Tahrir
  làm cả thế giới sửng sốt, nhưng như trí thức trẻ tuổi người Ai Cập Samuel
  Tadros đã nói, “Ai Cập không phải là Cairo và Cairo không phải là Quảng
  trường Tahrir”. Khi cát bụi lắng xuống, 3 lực lượng sẽ tranh giành tương lai
  của Ai Cập – quân đội, Anh em Hồi giáo, và một liên minh tự do và thế tục
  rộng lớn gồm những người muốn có một chính thể dân sự, sự tách rời tôn giáo
  và chính trị, và những sự bù đắp lại là một đời sống chính trị bình thường. | 
| 
The Brotherhood brings to the struggle its time-honored
  mix of political cunning and an essential commitment to imposing a political
  order shaped by Islam. Its founder, Hasan al-Banna, was struck down by an
  assassin in 1949 but still stalks the politics of the Muslim world. A
  ceaseless plotter, he talked of God's rule, but in the shadows, he struck
  deals with the palace against the dominant political party of his day, the
  Wafd. He played the political game as he put together a formidable
  paramilitary force, seeking to penetrate the officer corps--something his
  inheritors have pined for ever since. He would doubtless look with admiration
  on the tactical skills of his successors as they maneuver between the liberals
  and the Supreme Council of the Armed Forces, partaking of the tumult of
  Tahrir Square but stepping back from the exuberance to underline their
  commitment to sobriety and public order. | 
Anh em Hồi giáo đem đến cuộc đấu tranh này sự pha trộn đã
  đi vào truyền thống giữa thủ đoạn chính trị và cam kết thiết yếu với việc áp
  đặt một trật tự chính trị được định hình bởi đạo Hồi. Người sáng lập tổ chức
  này, Hasan al-Banna, bị một kẻ ám sát đánh gục vào năm 1949 nhưng vẫn bước đi
  oai vệ trong công việc chính trị của thế giới Hồi giáo. Là một người không
  ngừng bày mưu tính kế, ông đã nói về luật của Chúa, nhưng ở trong bóng tối,
  ông đã đạt được các thỏa thuận với cung điện chống lại đảng chính trị chi
  phối ở thời của ông, Wafd, Ông đã chơi một ván bài chính trị khi ông gắn kết
  lại một, lực lượng bán quân sự đáng gờm, tìm cách xâm nhập các quân đoàn –
  một thứ gì đó mà những người kế nhiệm ông đã giữ chặt suốt từ đó. Chắc chẵn
  ông sẽ nhìn một cách ngưỡng mộ những kỳ năng chiến thuật của những người kế
  nhiệm ông khi họ khéo léo vận động giữa những người có tư tưởng tự do và Hội
  đồng tối cao các lực lượng vũ trang (SCÀF), cùng tham gia cuộc náo động ở
  Quảng trường Tahrir nhưng không còn hồ hởi nhấn mạnh cam kết của họ với sự
  đúng mức và trật tự xã xã hội. | 
| 
The plain truth of it is that Egypt lacks the economic
  wherewithal to build a successful modern Islamic order, whatever that might
  mean. The Islamic Republic of Iran rests on oil, and even the moderate
  ascendancy of the Justice and Development Party, or AKP, in Turkey is secured
  by prosperity stemming from the "devout bourgeoisie" in the
  Anatolian hill towns. Egypt lies at the crossroads of the world, living off
  tourism, the Suez Canal, infusions of foreign aid, and remittances from
  Egyptians abroad. Virtue must bow to necessity: in the last year, the
  country's foreign reserves dwindled from $36 billion to $20 billion.
  Inflation hammers at the door, the price of imported wheat is high, and the
  bills have to be paid. Four finance ministers have come and gone since
  Mubarak's fall. A desire for stability now balances the heady satisfaction
  that a despot was brought down. | 
Một sự thật hiển nhiên là Ai Cập thiếu tiềm lực kinh tế để
  xây dựng một trật tự Hồi giáo hiện đại thành công, cho dù điều đó có thể có ý
  nghĩa như thế nào. Cộng hòa Hồi giáo Iran phụ thuộc vào dầu lửa, và ngay cả uy
  thế vừa phải của Đảng Công lý và Phát triển, hay AKP, ở Thổ Nhĩ Kỳ là được
  đảm bảo bởi sự thịnh vượng có được từ “giai cấp tư sản nhiệt tình” ở các thị
  trấn trên đồi Anatolia. Ai Cập nằm ở ngã tư của thế giới, kiếm tiền từ du
  lịch, Kênh đào Xuyê, những dòng viện trợ nước ngoài, và những khoản tiền kiều
  hối từ những người Ai Cập ở nước ngoài. Trong năm qua, dự trữ ngoại hối của
  nước này đã thu nhỏ lại từ 36 tỷ USD xuống còn 20 tỷ USD. Lạm phát gõ cửa,
  giá cả lúa mì nhập khẩu là cao, và các hóa đơn phải được thanh toán. 4 bộ
  trưởng tài chính đã đến rồi đi kể từ khi Mubarak từ chức. Khao khát có được
  sự ổn định hiện nay cân xứng với sự thỏa mãn rằng ke chuyên quyền đã bị hạ
  bệ. | 
| 
There are monumental problems staring Egypt's leaders in
  the face, and the reluctance of both the Brotherhood and the armed forces to
  assume power is telling. Good sense and pragmatism might yet prevail. A
  plausible division of spoils and responsibility might give the Brotherhood
  the domains of governance dearest to it--education, social welfare, and the
  judiciary--with the military getting defense, intelligence, the peace with
  Israel, the military ties to the United States, and a retention of the
  officer corps' economic prerogatives. Liberal secularists would have large
  numbers, a say in the rhythm of daily life in a country so hard to regiment
  and organize, and the chance to field a compelling potential leader in a
  future presidential election. | 
Có những vấn đề lớn bắt đầu xuất hiện trước mắt các nhà
  lãnh đạo Ai Cập và sự miễn cưỡng của cả Anh em Hồi giáo lẫn các lực lượng vũ
  trang nắm chính quyền đang nói lên điều đó. Lẽ phải và chủ nghĩa thực dụng
  tuy thế có thể thắng thế. Sự phân chia hợp lý những chiến lợi phẩm và trách
  nhiệm có thể mang lại cho Anh em Hồi giáo những lĩnh vực cai trị gần nhất với
  nó – dáo dục, trợ cấp xã hội và bộ máy tư pháp – với quân đội phụ trách quốc
  phòng, tình báo, hòa bình với Ixraen, các mối quan hệ quân sự với Mỹ, và duy
  trì những đặc quyền kinh tế của các quân đoàn. Những người thế tục có tư tưởng
  tự do sẽ có số lượng lớn, có tiếng nói trong nhịp điệu của cuộc sống thường
  ngày ở một đất nước khó có thể đưa vào khuôn phép và tổ chức, và có cơ hội
  đưa một nhà lãnh đạo có sức thuyết phục tiềm năng vào cuộc bầu cử tổng thống
  trong tương lai. | 
| 
For two centuries now, Egypt has been engaged in a
  Sisyphean struggle for modernity and a place among the nations worthy of its
  ambitions. It has not fared well, yet it continues to try. Last August, a
  scene played out that could give Egyptians a measure of solace. The country's
  last pharaoh--may it be so--came to court on a gurney. "Sir, I am
  present," the former ruler said to the presiding judge. Mubarak was not
  pulled out of a drainage pipe and slaughtered, as was Qaddafi, nor did he
  hunker down with his family and murder his own people at will, as has Assad.
  The Egyptians have always had, in E. M. Forster's words, the ability to
  harmonize contending assertions, and they may do so once again. | 
Trong hai thế kỷ này, Ai Cập đã can dự vào cuộc đấu tranh
  kiên trì vì sự hiện đại và một vị trí trong số các quốc gia xứng với những
  tham vọng của nước này. Nước này không ở vào tình trạng tốt, nhưng vẫn đang
  tiếp tục cố gắng. Tháng 8 năm ngoái, một cảnh tượng đã diễn ra mà có thể đem
  lại một sự an ủi ở mức độ nào đó cho người Ai Cập. Vị Pharaông cuối cùng cua
  nước này – có lẽ là vậy – đã đến tòa án trên một chiếc cáng. Nhà cai trị
  trước đây của Ai Cập nói với vị thẩm phán chủ tọa phiên tòa: “Thưa ngài, tôi
  có mặt”. Mubarak không bị kéo ra khỏi cống và bị giết chết như Gaddafì, cũng
  không bỏ trốn cùng với gia đình và tùy ý giết người dân của mình, như Assad.
  Theo lời của E.M.Forster, người Ai Cập đã luôn có khả năng làm hài hòa những
  sự quả quyết cạnh tranh nhau, và họ có thể lại làm điều đó một lần nữa. | 
| 
THE THIRD GREAT
  AWAKENING 
This tumult, this awakening, is the third of its kind in
  modern Arab history. The first, a political-cultural renaissance born of a
  desire to join the modern world, came in the late 1800s. Led by scribes and
  lawyers, would-be parliamentarians and Christian intellectuals, it sought to
  reform political life, separate religion from politics, emancipate women, and
  move past the debris of the Ottoman Empire. Fittingly enough, that great
  movement, with Beirut and Cairo at the head of the pack, found its chronicler
  in George Antonius, a Christian writer of Lebanese birth, Alexandrian youth,
  a Cambridge education, and service in the British administration in
  Palestine. His 1938 book, The Arab Awakening, remains the principal manifesto
  of Arab nationalism. | 
Đại thức tỉnh thứ ba 
Tình trạng hỗn hoạn này, sự thức tỉnh này là sự thức tỉnh
  thứ ba trong lịch sử Ai Cập hiện đại. Sự thức tỉnh thứ nhất, thời kỳ Phục
  hưng chính trị văn hóa sinh ra từ mong muốn gia nhập thế giới hiện đại, đã
  xuất hiện vào cuối những năm 1800. Được lãnh đạo bởi những người chép thuê và
  các luật sư, những người thích làm nghị sĩ và các trí thức theo đạo Cơ đốc,
  nó đã tìm kiếm việc cải cách đời sống chính trị, tách biệt vấn đề tôn giáo
  khởi công việc chính trị, giải phóng phụ nữ, và đưa đống đổ nát của Đế chế
  Ôttôman vào quá khứ. Khá phù hợp, Đại phong trào đó, với Bâyrút và Cai rô
  đứng đầu, đã tìm thấy người ghi chép biên niên sử của mình ở George Antonius,
  một nhà văn Cơ đốc giáo gốc Libăng, được đàọ tạo ở Cambridge, và làm việc
  trong Chính quyền Anh ở Palextin. Cuốn sách in năm 1938 của ông, Ả Rập bừng tỉnh, vẫn còn là bản tuyên
  ngôn chủ yếu của chủ nghĩa dân tộc Ả Rập. | 
| 
The second awakening came in the 1950s and gathered force
  in the decade following. This was the era of Gamal Abdel Nasser in Egypt,
  Habib Bourguiba in Tunisia, and the early leaders of the Baath Party in Iraq
  and Syria. No democrats, the leaders of that time were intensely political
  men engaged in the great issues of the day. They came from the middle class
  or even lower and had dreams of power, of industrialization, of ridding their
  people of the sense of inferiority instilled by Ottoman and then colonial
  rule. No simple audit can do these men justice: they had monumental
  accomplishments, but then, explosive demographics and their own authoritarian
  proclivities and shortcomings undid most of their work. When they faltered,
  police states and political Islam filled the void. | 
Sự thức tỉnh thứ hai xuất hiện vào những năm 1950 và tập
  hợp sức mạnh trong các thập kỷ sau đó. Đây là thời đại của Gamal Abdel Nasser
  tại Ai Cập, Habib Bourguiba ở Tunisia, và các nhà lãnh đạo đầu tiên của Đảng
  Baath ở Iraq và Syria. Không có dân chủ, các nhà lãnh đạo thời ấy là các nhân
  vật chính trị mạnh mẽ chú tâm vào những vấn đề lớn của thời đại. Họ đến từ
  tầng lớp trung lưu hoặc thậm chí thấp hơn và có những giấc mơ quyền lực, công
  nghiệp hóa, đưa người dân của họ thoát khỏi cảm giác tự ti do người Ottoman
  và sau đó là chế độ thực dân áp đặt. Không có kiểm toán đơn giản nào có thể công
  bằng phán xét những nhân vật này: họ đã có những thành tích hoành tráng,
  nhưng sau đó, nhân khẩu học bùng nổ và thiên hướng chuyên chế và thiếu sót
  của họ đã hủy hoại hầu hết các thành tích của họ. Khi họ lúng túng, nhà nước cảnh
  sát và Hồi giáo chính trị nhảy vào lấp khoảng trống. | 
| 
This third awakening came in the nick of time. The Arab
  world had grown morose and menacing. Its populations loathed their rulers and
  those leaders' foreign patrons. Bands of jihadists, forged in the cruel
  prisons of dreadful regimes, were scattered about everywhere looking to kill
  and be killed. Mohamed Bouazizi summoned his fellows to a new history, and
  across the region, millions have heeded his call. Last June, the Algerian
  author Boualem Sansal wrote Bouazizi an open letter. "Dear
  Brother," it said, | 
Lần thức tỉnh thứ ba này xuất hiện thật đúng lúc. Thế giới
  Ả Rập đã trở nêmn đáng lo ngại và và đầy đe dọa. Dân chúng căm ghét những kẻ
  cai trị của họ và những người bảo trợ nước ngoài của các lãnh đạo này. Băng
  nhóm các chiến binh thánh chiến, được tôi luyện trong các nhà tù tàn ác của các
  chế độ khủng khiếp, đã phân tán đi khắp mọi nơi, tìm cách giết người và bị người
  giết. Mohamed Bouazizi triệu tập các đồng bọn của mình vì một lịch sử mới, và
  trong khu vực này, hàng triệu người đã hưởng ứng lời kêu gọi của ông. Tháng sáu
  năm ngoái, tác giả người Algeria, Boualem Sansal, viết cho Bouazizi một bức
  thư ngỏ. Thư viết: "Thưa Người Anh em,"  | 
| 
I write these few
  lines to let you know we're doing well, on the whole, though it varies from
  day to day: sometimes the wind changes, it rains lead, life bleeds from every
  pore.... | 
Tôi viết những dòng
  này để báo cho bạn biết nhìn chung, tình hình chúng tôi đang tốt đẹp, mặc dù
  nó cũng thay đổi từ ngày này sang ngày khác: đôi khi gió dữ, trời phong ba, cuộc
  sống chảy máu từ mỗi lỗ chân lông của nó.... | 
| 
But let's take the
  long view for a moment. Can he who does not know where to go find the way? Is
  driving the dictator out the end? From where you are, Mohamed, next to God,
  you can tell that not all roads lead to Rome; ousting a tyrant doesn't lead
  to   freedom. Prisoners like trading
  one prison for another, for a change of scenery and the chance to gain a
  little something along the way. | 
Nhưng chúng ta hãy có
  cái nhìn dài hạn vào thời điểm này. Liệu có ai đó dù không biết mình đi đâu nhưng
  vẫn có thể tìm ra được đường đi đến? Liệu việc xua đuổi kẻ độc tài có phải là
  cái đích? Từ vị trí của người, Mohamed, bên cạnh Thiên Chúa, liệu người có
  thể nói rằng không phải tất cả các con đường đều dẫn đến Rome, lật đổ một bạo
  chúa không dẫn đến tự do. Các tù nhân có vẻ giống như đang bán một nhà tù để
  mua một nhà tù khác, để thay đổi cảnh quan và kiếm cơ hội nhằm kiếm được một
  chút gì đó trên đường đi. | 
| 
"The best day after a bad emperor is the first,"
  the Roman historian Tacitus once memorably observed. This third Arab
  awakening is in the scales of history. It has in it both peril and promise,
  the possibility of prison but also the possibility of freedom. | 
Sử gia người La mã Tacitus đã từng có nhận xét đáng nhớ:
  “Ngày tốt đẹp nhất sau thời đại của một vị hoàng đế tồi tệ là ngày đầu tiên”.
  Sự thức tỉnh thứ ba của Arập này nằm trong các nấc thang lịch sử. Nó chứa
  đựng trong nó hoàn cả hiểm họa lẫn hứa hẹn, cả khả năng bị giam cầm lẫn khả năng
  được tự do. | 
| 
FOUAD AJAMI is a
  Senior Fellow at Stanford University's Hoover Institution and Co-Chair of the
  Hoover Institution's Herbert and Jane Dwight Working Group on Islamism and
  the International Order. | 
Fouad Ajami là
  nghiên cứu sinh cao cấp tại Viện Hoover của Đại học Stanford và là đồng Chủ
  tịch của Nhóm công tác Hoover và Jane Dwight của Học viện Herbert nghiên cứu về
  Hồi giáo và giáo phái quốc tế. | 
| 
http://business.highbeam.com/409744/article-1G1-289121029/arab-spring-one-year-living-dangerously | |
Sunday, July 22, 2012
The Arab spring at one: a year of living dangerously MÙA XUÂN ARẬP: MỘT NĂM SỐNG TRONG NGUY HIỂM
Clinton Engineers Expansion Of Asian NATO To Contain China Clinton bố trí mở rộng NATO châu Á để kiềm chế Trung Quốc
|  | |
| 
Clinton Engineers
  Expansion Of Asian NATO To Contain China  | 
Clinton bố trí mở rộng NATO châu Á để kiềm chế Trung Quốc | 
| 
By: Rick Rozoff 
July 16, 2012 | 
Rick Rozoff 
16/7/2012 | 
| 
Eurasia Review | 
Eurasia Review | 
| 
The global proconsul and plenipotentiary of the world’s
  sole military superpower began a two-week tour of her empire’s provinces, old
  and new, in Asia and the Middle East in Paris on July 5 and 6 where she
  lambasted Russia and China for not attending the third Friends of Syria
  regime change conclave, threatening they would “pay a price” for their lack
  of subservience to Washington’s agenda in Syria and by implication worldwide. | 
Bà thống đốc toàn cầu, đại diện toàn quyền của siêu cường
  quân sự duy nhất của thế giới, đã bắt đầu một chuyến công du hai tuần đến các
  vùng miền thuộc đế quốc của bà, cả cũ lẫn mới, ở châu Á và Trung Đông. Tại
  Paris vào ngày 5 và 6 tháng 6, bà lên án Nga và Trung Quốc là đã không tham
  gia hội nghị “Những người bạn của Syria” lần thứ ba – tức là cuộc họp kín bàn
  về thay đổi chế độ ở Syria, dọa rằng họ sẽ phải “trả giá” vì đã không chịu
  tuân thủ chương trình nghị sự của Washington ở Syria, với hệ lụy toàn thế giới. | 
| 
Having served notice to the U.S.’s two main challengers in
  Eurasia, and the world, in such an unequivocal manner, Secretary of State
  Hillary Clinton flew into Afghanistan on the 7th to declare the war-ravaged
  country the U.S.’s latest major non-NATO ally, joining Argentina, Australia,
  Bahrain, Egypt, Israel, Japan, Jordan, Kuwait, Morocco, New Zealand,
  Pakistan, the Philippines, South Korea and Thailand in that category, then
  left for Japan to attend a Conference on Afghanistan in Tokyo. | 
Sau khi đã tuyên bố như thế với hai thách thức lớn nhất
  của Mỹ ở lục địa Âu-Á, và với thế giới, bằng một giọng mập mờ như thế, Ngoại
  trưởng Hillary Clinton bay sang Afghanistan vào ngày 7 để tuyên bố rằng đất
  nước bị chiến tranh tàn phá này là đồng minh ngoài NATO quan trọng mới đây
  của Mỹ, hiện diện cùng với Argentina, Australia, Bahrain, Ai Cập, Israel,
  Nhật Bản, Jordan, Kuwait, Morocco, New Zealand, Pakistan, Philippines, Hàn
  Quốc và Thái Lan trong danh mục này. Sau đó bà rời Afghanistan sang Nhật Bản
  để dự một hội nghị về Afghanistan tổ chức ở Tokyo. | 
| 
On July 9 she was in Mongolia, on the 10th in Vietnam, on
  the 11th in Laos and from the 11th-13th in Cambodia. | 
Vào ngày 9-7, bà có mặt ở Mông Cổ, và ngày 10, ở Việt Nam;
  ngày 11 sang Lào và từ 11 đến 13 thì ở Campuchia. | 
| 
She left the last-named nation for Egypt where she arrived
  on July 14, and from where she will depart for Israel to meet with the
  nation’s leaders on July 16 and 17. | 
Bà rời đất nước cuối cùng trong danh sách trên đây để sang
  Ai Cập vào ngày 14-7, rồi từ đó bay sang Israel để gặp gỡ các lãnh đạo nước
  này vào ngày 16 và 17-7. | 
| 
The five Asian countries she visited are all near China,
  three – Afghanistan, Laos and Vietnam – bordering it. Her trip followed a
  nine-day Asian tour by Defense Secretary Leon Panetta last month which took
  him to Singapore, Vietnam and India in the opening salvo of Washington’s
  strategic pivot toward the Asia-Pacific region. | 
Năm nước châu Á bà đã đi thăm đều nằm gần Trung Quốc. Ba
  trong số đó – Afghanistan, Lào và Việt Nam – còn tiếp giáp Trung Quốc. Chuyến
  đi của bà diễn ra sau một chuyến công du châu Á 9 ngày của Bộ trưởng Quốc
  phòng Leon Panetta tháng trước, trong đó ông Panetta đi thăm Singapore, Việt
  Nam và Ấn Độ, trong tràng pháo tay hoan hô sự chuyển hướng chiến lược của
  Washington về khu vực châu Á-Thái Bình Dương. | 
| 
Since her 13-day, seven-nation tour of the Asia-Pacific
  region two years ago, which took her to Joint Base Pearl Harbor-Hickam in
  Hawaii, the 17th Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) Regional
  Forum in Vietnam and from there to China, Cambodia, Malaysia, Papua New
  Guinea, New Zealand and Australia, Clinton has softened the political ground
  for the Pentagon to follow up with basing and other agreements with nations
  in the area. | 
Kể từ chuyến thăm 7 quốc gia, kéo dài 13 ngày của bà tới
  khu vực châu Á-Thái Bình Dương cách đây hai năm, trong đó bà tới thăm Căn cứ
  chung Trân Châu Cảng-Hickam ở Hawaii, Diễn đàn Khu vực ASEAN lần thứ 17 ở
  Việt Nam, rồi từ đó bay sang Trung Quốc, Cambodia, Malaysia, Papua New
  Guinea, New Zealand và Australia, bà Clinton đã làm dịu lập trường chính trị
  của Lầu Năm Góc, để theo đuổi việc lập căn cứ (basing) và những thỏa thuận
  khác với các quốc gia trong khu vực. | 
| 
Her current trip pursues the same objective, particularly
  in Mongolia and Indochina, where Washington has now acquired four partners
  which during the Cold War era were allies of the Soviet Union. (Cambodia
  after the overthrow of the Khmer Rouge in 1979.) | 
Chuyến đi lần này của bà cũng theo đuổi mục tiêu đó, đặc
  biệt là ở Mông Cổ và Đông Dương, nơi Washington bây giờ đã có được bốn đối
  tác vốn là đồng minh của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. (Campuchia,
  sau vụ lật đổ Khmer Đỏ năm 1979.) | 
| 
The U.S. State Department and Defense Department work so
  thoroughly in tandem as to be indistinguishable most of the time, from U.S.
  Africa Command to the Trans-Sahara Counterterrorism Partnership to the Global
  Peace Operations Initiative employed to train and integrate the militaries of
  scores of countries in Africa and Asia. | 
Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ phối hợp triệt để đến độ
  nói chung không thể phân biệt được họ với nhau, từ Bộ Tư lệnh Mỹ đặc trách
  châu Phi đến Đối tác Chống khủng bố Xuyên-Sahara, đến Sáng kiến Thực thi Hòa
  bình Toàn cầu được triển khai nhằm đào tạo và liên kết quân đội của hàng chục
  nước ở châu Phi và châu Á. | 
| 
In visiting Laos on July 11, Clinton was the first
  secretary of state to do so since John Foster Dulles was the guest of King
  Sisavang Phoulivong in 1955. | 
Khi thăm Lào vào ngày 11-7, bà Clinton trở thành Ngoại
  trưởng Mỹ đầu tiên tới nước này kể từ thời John Foster Dulles là khách của
  Vua Sisavang Phoulivong, năm 1955. | 
| 
Two years ago Clinton met with Laotian Foreign Minister
  Thongloun Sisoulith at the State Department to hold the two nations’
  highest-level talks since the Vietnam War. The visit was the first to the
  United States by a leading Laotian official since the ruling Lao People’s
  Revolutionary Party came to power in 1975. The year before a similar
  initiative was launched by the White House and State Department with fellow
  ASEAN member Myanmar which culminated last November in Clinton visiting the
  country and switching it from the Chinese to the U.S. column. | 
Cách đây hai năm, bà Clinton đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao
  Lào Thongloun Sisoulith tại Bộ Ngoại giao Mỹ để tổ chức đối thoại cấp cao
  nhất giữa hai nước tính từ thời chiến tranh Việt Nam. Chuyến thăm đó là
  chuyến thăm Mỹ đầu tiên của một quan chức lãnh đạo Lào, kể từ năm 1975 khi
  Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lên nắm chính quyền. Năm trước đó, một sáng kiến
  tương tự đã được Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao thực hiện với thành viên ASEAN là
  Myanmar, mà đỉnh điểm là vào tháng 11 khi bà Clinton thăm Lào và chuyển Lào từ
  trục Trung Quốc sang trục Mỹ. | 
| 
During Clinton’s hosting of the Laotian foreign minister
  in 2010, then-State Department Spokesman Philip Crowley stated: “The United
  States is committed to building our relationship with Laos as part of our
  broader efforts to expand engagement with Southeast Asia.” | 
Trong thời gian bà Clinton tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Lào
  hồi năm 2010, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Mỹ khi đó là Philip Crowley
  đã tuyên bố: “Hoa Kỳ cam kết xây dựng quan hệ với Lào như là một phần trong
  các nỗ lực to lớn hơn nhằm mở rộng sự tham dự vào Đông Nam Á”. | 
| 
Nine days later at the ASEAN Regional Forum in Hanoi,
  Clinton openly challenged China in asserting that “The United States…has a
  national interest in freedom of navigation, open access to Asia’s maritime
  commons, and respect for international law in the South China Sea,” adding
  “The United States is a Pacific nation, and we are committed to being an
  active partner with ASEAN.” 
That is, exploiting the ten-member organization (Brunei,
  Cambodia, Indonesia, Laos, Malaysia, Myanmar, the Philippines, Singapore,
  Thailand and Vietnam) against China, particularly in respect to island
  disputes in the South China Sea and East China Sea. In fact to add ASEAN
  members to mainstay American military allies in the Asia-Pacific – Australia,
  Japan, New Zealand, South Korea and Taiwan, with whom Washington has mutual
  defense treaties – in forming the nucleus of a rapidly evolving Asian NATO
  that will also encompass Afghanistan, Bangladesh, India, Kazakhstan, Kyrgyzstan,
  Mongolia, Nepal, Pakistan, Sri Lanka, Tajikistan, Timor-Leste, Turkmenistan
  and Uzbekistan. | 
Chín ngày sau, tại Diễn đàn Khu vực ASEAN tại Hà Nội, bà
  Clinton công khai thách thức Trung Quốc khi khẳng định rằng, “Mỹ có lợi ích
  quốc gia trong (việc bảo đảm quyền) tự do hàng hải, quyền tự do ra vào những
  vùng biển chung của châu Á, và tôn trọng luật quốc tế trên Biển Đông”. Bà nói
  thêm: “Hoa Kỳ là một quốc gia Thái Bình Dương, và chúng tôi cam kết sẽ là một
  đối tác chủ động của ASEAN”. 
Tức là, tận dụng tổ chức 10 nước (Brunei, Campuchia,
  Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt
  Nam) này chống lại Trung Quốc, nhất là trong vấn đề tranh chấp đảo ở biển Hoa
  Nam (tức Biển Đông) và biển Hoa Đông. Trên thực tế, là để đưa các thành viên
  ASEAN vào danh sách đồng minh quân sự chính thức của Mỹ ở châu Á-Thái Bình
  Dương – gồm Australia, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc và Đài Loan, những
  nước mà Washington đã ký với họ hiệp ước bảo vệ lẫn nhau – trong việc hình
  thành nên hạt nhân của một NATO châu Á phát triển nhanh chóng, sẽ bao gồm
  Afghanistan, Bangladesh, Ấn Độ, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Mông Cổ, Nepal,
  Pakistan, Sri Lanka, Tajikistan, Đông Timor, Turkmenistan và Uzbekistan. | 
| 
The Philippines of late has officially designated the
  South China Sea the West Philippine Sea, with the State Department likely to
  follow suit as it has with Russia’s South Kuril Islands, which it has
  referred to as (Japan’s) Northern Territories, and the Persian Gulf,
  frequently deemed the Arabian Gulf to taunt Iran. Cartographic aggression as
  it were. | 
Philippines cho tới gần đây đã chính thức gọi biển Đông là
  biển Tây Philippines, và Bộ Ngoại giao chắc chắn sẽ làm như chuyện từng xảy
  ra với quần đảo Nam Kuril của Nga, mà họ gọi là “lãnh thổ phía bắc” (của Nhật
  Bản), và vịnh Ba Tư (Péc-xích), thường được coi như vịnh Ảrập, để chế giễu
  Iran. Đó là sự công kích bằng bản đồ, không là cái gì khác. | 
| 
The month after Clinton’s attendance at the ASEAN Regional
  Forum in Vietnam two years ago, Vietnamese officials were hosted by the USS
  George Washington aircraft carrier off the nation’s coast and the USS John S
  McCain guided missile destroyer arrived in Da Nang to lead a joint exercise
  in the South China Sea, the first between the U.S. and unified Vietnam. | 
Hai năm về trước, sau khi bà Clinton tham dự Diễn đàn khu
  vực ASEAN ở Việt Nam, tháng sau đó, quan chức Việt Nam đã được hàng không mẫu
  hạm Mỹ mời lên thăm khi nó neo ngoài khơi Việt Nam, và được tàu khu trục gắn
  tên lửa định hướng John S McCain tiếp khi tàu này đến Đà Nẵng để tham gia tập
  trận chung ở Biển Đông – cuộc tập trận chung đầu tiên giữa Mỹ và Việt Nam
  thống nhất. | 
| 
While in Mongolia earlier this week, Clinton stated: “My
  trip reflects a strategic priority of American foreign policy today. After 10
  years in which we focused a great deal of attention on the conflicts in
  Afghanistan and Iraq, the United States is making substantially increased
  investments — diplomatic, economic, strategic and otherwise — in this part of
  the world. It’s what we call our pivot toward Asia.” | 
Đầu tuần này, trong khi đang ở Mông Cổ, bà Clinton tuyên
  bố: “Chuyến đi của tôi phản ánh mối quan tâm chiến lược trong chính sách đối
  ngoại của Mỹ ngày nay. Sau 10 năm tập trung chú ý rất nhiều vào xung đột ở
  Afghanistan và Iraq, Mỹ đang tăng cường đầu tư đáng kể – ngoại giao, kinh tế,
  chiến lược và những thứ khác – vào phần này của thế giới. Đó là cái mà chúng
  tôi gọi là sự chuyển hướng của Mỹ về châu Á”. | 
| 
She praised the government of President Tsakhia Elbegdorj
  for being a model democracy “in territory surrounded by Russia and China” as
  the Wall Street Journal phrased it, and celebrated recent reforms in Myanmar,
  now a friend of Washington. | 
Tờ Wall Street Journal trích dẫn lời bà khen ngợi chính
  quyền của Tổng thống Tsakhia Elbegdorj rằng họ đã trở thành một mô hình dân
  chủ “tại một lãnh thổ bị Nga và Trung Quốc bao vây”, và bà hoan nghênh các
  cải cách gần đây ở Myanmar, đất nước giờ đây là bạn của Washington. | 
| 
Next month the U.S. will launch the latest Khaan Quest
  multinational military exercise in Mongolia, which since 2003 have been
  conducted by U.S. Pacific Command to train local troops for deployment to,
  first, Iraq and afterward Afghanistan where they serve under NATO command. | 
Tháng tới, Mỹ sẽ tổ chức cuộc tập trận quân sự đa quốc gia
  mới nhất, Khaan Quest, ở Mông Cổ. Cuộc tập trận này đã được Bộ tư lệnh Hoa Kỳ
  tại Thái Bình Dương tổ chức từ năm 2003 để huấn luyện quân đội địa phương
  triển khai trước hết là tới Iraq, sau đó tới Afghanistan, hoạt động dưới
  quyền chỉ huy của NATO. | 
| 
In 2006 the exercise included, in addition to U.S. and
  Mongolian forces, troops from Bangladesh, Fiji, South Korea, Thailand and
  Tonga. South Korea and Tonga now have contingents attached to the NATO-run
  International Security Assistance Force in Afghanistan along with fellow
  Asia-Pacific nations Australia, Japan, Malaysia, New Zealand, Singapore,
  South Korea and Mongolia itself. | 
Hồi năm 2006, bên cạnh quân Mỹ và Mông Cổ, cuộc tập trận
  đã có cả quân đội từ Bangladesh, Fiji, Hàn Quốc, Thái Lan và Tonga. Hàn Quốc
  và Tonga giờ đã có những đạo quân nhỏ gắn với Lực lượng Hỗ trợ An ninh Quốc
  tế do NATO chỉ huy ở Afghanistan, cùng với các nước đồng minh châu Á-Thái
  Bình Dương là Australia, Nhật Bản, Malaysia, New Zealand, Singapore, Hàn Quốc
  và bản thân Mông Cổ. | 
| 
Khaan Quest 2007 included over 1,000 troops from the U.S.,
  the host country, Bangladesh, Brunei, Cambodia, Indonesia, South Korea, Sri
  Lanka and Tonga. | 
Khaan Quest 2007 bao gồm hơn 1000 lính từ Mỹ – nước chủ
  nhà, tới Bangladesh, Brunei, Campuchia, Indonesia, Hàn Quốc, Sri Lanka và
  Tonga. | 
| 
Khaan Quest 2008 added forces from India, Nepal and
  Thailand as well as NATO member France. | 
Khaan Quest 2008 có thêm các lực lượng đến từ Ấn Độ,
  Nepal, Thái Lan, cũng như thành viên NATO: Pháp. | 
| 
The next year’s exercise included troops from Cambodia,
  India, Japan and South Korea. | 
Cuộc tập trận năm sau sẽ có quân từ Campuchia, Ấn Độ, Nhật
  Bản và Hàn Quốc. | 
| 
Khaan Quest 2010 involved troops from four NATO nations –
  the U.S., Canada, France and Germany – as well as five Asian states:
  Mongolia, India, Japan, South Korea and Singapore. | 
Khaan Quest 2010 có quân đội từ bốn nước NATO: Mỹ, Canada,
  Pháp và Đức; cũng như 5 nước châu Á: Mông Cổ, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và
  Singapore. | 
| 
Last year’s exercise saw American and Mongolian forces
  joined by those from Australia, Cambodia, Canada, Germany, India, Indonesia,
  Japan, Singapore and South Korea. | 
Trong cuộc tập trận năm ngoái, quân Mỹ và Mông Cổ hoạt
  động bên cạnh quân đội Australia, Campuchia, Canada, Đức, Ấn Độ, Indonesia,
  Nhật Bản, Singapore và Hàn  Quốc. | 
| 
This March Mongolia became the first country to be granted
  the new NATO Individual Partnership and Cooperation Programme and has since
  been identified as one of eight members of NATO’s new Partners Across the
  Globe program. The other seven are also in the broader Asia-Pacific region:
  Afghanistan, Australia, Iraq, Japan, New Zealand, Pakistan and South Korea. | 
Tháng 3 năm nay, Mông Cổ trở thành nước đầu tiên được trao
  Chương trình Hợp tác và Đối tác Riêng của NATO, và từ đó đã được xác định là
  một trong 8 thành viên của chương trình Đối tác toàn cầu của NATO. Bảy thành
  viên kia cũng nằm trong khu vực mở rộng của châu Á-Thái Bình Dương, gồm:
  Afghanistan, Australia, Iraq, Nhật Bản, New Zealand, Pakistan và Hàn Quốc. | 
| 
Last month The Diplomat reported that China is
  increasingly wary of U.S. and NATO engagement with and recruitment of
  Mongolia. | 
Tháng trước, tờ The Diplomat đưa tin, Trung Quốc ngày càng
  cảnh giác trước sự can dự của Mỹ và NATO vào Mông Cổ cũng như hành động tuyển
  lựa Mông Cổ của họ. | 
| 
The magazine stated, “while Khaan Quest is becoming more
  infused with Asian powers, it remains a stage for Mongolia to display its
  strategic relationship with the United States and NATO,” noting that “it
  remains a stage for Mongolia to display its strategic relationship with the
  United States and NATO.” It mentioned that NATO granting the Individual
  Partnership and Cooperation Programme to Mongolia “mark[ed] the formalization
  of a relationship that has blossomed within the past decade. | 
Tờ báo này tuyên bố: “Trong khi Khaan Quest ngày càng thâm
  nhập sâu vào các siêu cường châu Á, vẫn còn một giai đoạn để cho Mông Cổ thể
  hiện quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ và NATO”. Họ nói, NATO trao quy chế
  Chương trình Hợp tác và Đối tác Riêng của NATO cho Mông Cổ là việc làm “đánh
  dấu sự hình thành một mối quan hệ đã trổ hoa trong thập niên qua”. | 
| 
In reference to Mongolia becoming NATO’s outpost between
  China and Russia, the source added: | 
Đề cập đến việc Mông Cổ trở thành tiền đồn của NATO giữa
  Trung Quốc và Nga, tờ báo này nói thêm rằng: | 
| 
“Cooperation between the two is expected to focus on
  building up the capacity of the MAF [Mongolian Armed Forces] as well as
  improving interoperability with NATO troops. Mongolia has been steadily
  improving its ties with NATO through its commitment of troops during the
  Kosovo conflict and its current efforts in Afghanistan. There more than 100
  MAF currently serving in Afghanistan as part of the International Security
  Assistance Force. Mongolia also committed troops to the NATO mission in
  Kosovo from 2005 to 2007.” | 
“Hoạt động hợp tác giữa hai bên được kỳ vọng là sẽ tập
  trung vào xây dựng năng lực của Lực lượng Vũ trang Mông Cổ (MAF) cũng như
  phát triển sự tương kết với quân đội NATO. Mông Cổ đã không ngừng cải thiện
  quan hệ của họ với NATO, một cách ổn định, thông qua những cam kết về quân
  đội, quân sự trong chiến tranh Kosovo và trong các nỗ lực quân sự hiện nay ở
  Afghanistan. Hơn 100 MAF hiện phục vụ tại Afghanistan như là một phần của Lực
  lượng Hỗ trợ An ninh Quốc tế. Mông Cô cũng đã cam kết gửi quân tới phục vụ
  các chiến dịch của NATO ở Kosovao từ năm 2005 tới năm 2007” | 
| 
Less than four months before Hillary Clinton arrived in
  Cambodia to attend the ASEAN heads of government meeting, the East Asia Summit
  Foreign Ministers Meeting and the U.S.-ASEAN Post-Ministerial Conference,
  U.S. Pacific Command and U.S. Army Pacific led the third annual Angkor
  Sentinel command post and field training exercises in Cambodia. The exercises
  are held under the auspices of the Global Peace Operations Initiative,
  managed by the U.S. State Department’s Bureau of Political-Military Affairs. | 
Không đầy bốn tháng trước khi Hillary Clinton sang
  Campuchia để dự hội nghị những người đứng đầu chính phủ các nước ASEAN, Hội
  nghị thượng đỉnh các bộ trưởng ngoại giao Đông Á và Hội nghị hậu bộ trưởng
  Mỹ-ASEAN, Bộ tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương và Quân đội Thái Bình Dương của Mỹ
  đã tổ chức tập trận chỉ huy Angkor Sentinel thường niên lần thứ ba và tập
  trận thực địa chung ở Campuchia. Các cuộc tập trận được tiến hành dưới sự bảo
  trợ của Sáng kiến Thực thi Hòa bình Toàn cầu, do Văn phòng các vấn đề chính
  trị-quân sự trực thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ tổ chức. | 
| 
Khaan Quest 2007 was also assisted by the Global Peace
  Operations Initiative – to train troops for deployment to Afghanistan – as
  were the second Shanti Doot exercise in Bangladesh in 2008 and the Garuda
  Shield 2009 exercise in Indonesia. | 
Khaan Quest 2007 còn được hỗ trợ bởi Sáng kiến Thực thi
  Hòa bình Toàn cầu – đào tạo quân đội để triển khai tới Afghanistan – cũng
  giống như cuộc tập trận Shanti Doot lần thứ hai ở Bangladesh năm 2008 và tập
  trận Garuda Shield năm 2009 ở Indonesia. | 
| 
Angkor Sentinel 2010 involved over 1,000 military
  personnel from 21 nations, among them the U.S., Cambodia, Britain, France,
  Germany, Italy, Australia, India, Indonesia, Japan, Mongolia and the
  Philippines. That is, from five NATO member states and seven prospective
  Asian NATO nations. Mongolian troops participate in Angkor Sentinel exercises
  and Cambodian ones in Khaan Quest exercises. | 
Angkor Sentinel 2010 có hơn 1000 nhân viên quân sự đến từ
  21 nước, trong số đó có Mỹ, Campuchia, Anh, Pháp, Đức, Ý, Australia, Ấn Độ,
  Indonesia, Nhật Bản, Mông Cổ và Philippines. Nghĩa là, từ 5 nước thành viên
  NATO và 7 nước triển vọng là thành viên NATO châu Á. Quân đội Mông Cổ tham
  gia tập trận Angkor Sentinel, còn quân Campuchia thì tham gia tập trận Khaan
  Quest. | 
| 
Last year’s Angkor Sentinel included military personnel
  from 26 nations. | 
Năm ngoái, Angkor Sentinel thu hút nhân viên quân sự từ 26
  nước. | 
| 
Next year’s exercise can be expected to include increased
  participation from fellow ASEAN member states like Laos, Malaysia, Singapore,
  Thailand and Vietnam. Other ASEAN members are also likely to join Singapore,
  the Philippines and Thailand in offering bases for the deployment of American
  troops, ships and aircraft. | 
Tập trận năm tới dự kiến sẽ có thêm nhiều quân đội tham
  dự, từ các nước thành viên ASEAN như Lào, Malaysia, Singapore, Thái Lan và
  Việt Nam. Các nước thành viên ASEAN khác chắc chắn cũng sẽ tham gia cùng
  Singapore, Philippines và Thái Lan trong việc cung cấp căn cứ cho Mỹ làm nơi
  triển khai quân đội, tàu và máy bay. | 
| 
The Obama administration and its NATO allies are
  constructing a military network throughout the length and breadth of the
  Asia-Pacific region to isolate and confront China and Russia. China in the
  first place. | 
Chính quyền Obama và các đồng minh NATO của họ đang xây
  dựng mạng lưới quân sự rộng và sâu trên khắp khu vực châu Á-Thái Bình Dương,
  để cô lập và để đương đầu với Trung Quốc và Nga, mà đầu tiên là Trung Quốc. | 
| 
Rick Rozoff is a
  journalist and blogger and many of his articles may be found at the Stop NATO
  blog. | 
Rick Rozoff là nhà
  báo, blogger, có nhiều bài đăng ở blog Stop NATO. | 
|  | 
Translated by Đỗ Quyên | 
|  |  | 
| 
http://www.eurasiareview.com/16072012-clinton-engineers-expansion-of-asian-nato-to-contain-china-oped/ | |
