| 
India and the South China Seas: The   Need for a Second Look | 
Ấn Độ và Biển Đông: Cần nhìn lại | 
| 
R.   S. Kalha - September 23, 2011 | 
R.   S. Kalha 23-9-2011 | 
| 
A   recent article in the Chinese newspaper ‘Global Times’ by the columnist Liu   Sheng cautioning India against going ahead with collaboration with Vietnam   for oil and gas exploration in the South China Sea, is a timely reminder of   the dangerous pitfalls that still exist in the Sino-Indian relationship. The   Global Times quoted Jiang Yu, a spokesperson of the Ministry of Foreign   Affairs of China, to state that ‘as for oil and gas exploration...we are   opposed to any country engaged in the waters under China’s jurisdiction. We   hope foreign countries do not get involved in the South China Sea dispute’.   Although India was not directly named, yet the finger clearly pointed towards   India. The paper also said that the oil reserves in the South China Sea were   not an insignificant 28 billion barrels. Understandably, this homily from the   Chinese, although vaguely worded, has received widespread coverage in the   print and visual media in India. ONGC has an investment of about US$ 225   million in Vietnam. | 
Một   bài báo gần đây trên báo Trung Quốc, tờ “Hoàn Cầu Thời báo” của Liu Sheng,   cảnh cáo Ấn Độ, chống lại việc nước này tiến tới hợp tác khai thác dầu khí   trên Biển Đông (nguyên văn: biển Hoa Nam) với Việt Nam. Bài viết này là lời   nhắc nhở đúng lúc về những cạm bẫy nguy hiểm vẫn còn tồn tại trong quan hệ   Trung-Ấn. Hoàn Cầu trích lời bà Khương Du, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung   Quốc, nói rằng “về vấn đề khai thác dầu khí, chúng tôi phản đối bất kỳ quốc   gia nào dính líu tới vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. Chúng tôi   hy vọng nước ngoài không can dự vào tranh chấp biển Hoa Nam”. Mặc dù Ấn Độ   không được nêu tên trực tiếp nhưng rõ ràng họ đang nói tới Ấn Độ. Bài báo còn   viết rằng các mỏ dầu trên Biển Đông không chỉ có trữ lượng 28 tỷ thùng. Dễ   hiểu là bài răn dạy đạo đức này của Trung Quốc, mặc dù chỉ ám chỉ mơ hồ,   nhưng đã được nhắc tới rất nhiều trên báo chí và các phương tiện báo in và   báo hình ở Ấn Độ. ONGC hiện đầu tư khoảng 255 triệu USD vào Việt Nam. | 
| 
The   question uppermost in the minds of most Indians is how should we react to   this piece of bluster? Should we just ignore this gratuitous ‘advice’ and go   ahead with exploration in collaboration with Vietnam or should we listen to   Chinese ‘advice’ and stay out of disputes that exist in the South China Sea?   The Chinese media quoting well known personalities from university ‘think   tanks’ in China seem to suggest that we are being pushed into such a course   of action by the ‘active support of the US’. While the columnist scrupulously   avoided attributing any malevolence to Vietnamese intentions, it pointedly   referred to the existence since June this year of a bilateral agreement   between China and Vietnam to settle all such disputes, ‘through negotiations   and consultations.’ A clear hint to India that China’s line to Vietnam was   still open! | 
Câu   hỏi đầu tiên trong tâm trí của hầu hết người Ấn Độ là chúng ta nên phản ứng   với bài viết hăm dọa này như thế nào? Chúng ta có nên phớt lờ cái “lời   khuyên” miễn phí này và tiếp tục hợp tác với Việt Nam thăm dò khai thác dầu   khí, hay là nên nghe theo “lời khuyên” của Trung Quốc và tránh xa những tranh   chấp hiện nay trên Biển Đông? Báo chí Trung Quốc dẫn lời những nhân vật nổi   tiếng tại các “think tank” (viện chiến lược, viện nghiên cứu – ND) của các   trường đại học ở Trung Quốc, dường như họ có ý nói rằng với “sự giúp đỡ tích   cực của Mỹ”, chúng ta đang bị đẩy sâu vào một loạt hành động. Tác giả đã rất   cẩn thận tránh việc đổ hết mọi sự xấu xa lên các dự định, kế hoạch của Việt   Nam, nhưng bài báo lại đề cập thẳng thừng tới một hiệp định song phương từ   hồi tháng 6 năm nay giữa Trung Quốc và Việt Nam, theo đó hai bên sẽ giải   quyết tất cả tranh chấp “thông qua thương lượng và tham vấn”. Một tín hiệu rõ   ràng gửi đến Ấn Độ, rằng lập trườngcủa Trung Quốc với Việt Nam vẫn là đường   lối mở. | 
| 
It   goes without saying that the most popular reaction would be to simply ignore   the Chinese and go ahead with the bilateral arrangement with Vietnam. After   all if India is considering an agreement with Vietnam, it would automatically   follow that India does consider these waters to be within Vietnamese   jurisdiction. That seems to be the position adopted by the government of   India when Foreign Minister Krishna told his Vietnamese counterpart Pham Binh   Minh that India would ‘go-ahead’ and that India’s position was based on the   1982 UN Convention on the Law of the Seas. However, the real test would be if   the rest of the countries involved in the South China Sea disputes such as   the Philippines, Malaysia, Brunei or even Taiwan also consider these waters   to be Vietnamese. If none of them have protested to either India or to   Vietnam over the proposed agreement, then China’s case becomes that much   weaker and would be pure bluster. And what is the legal position of the US,   Japan and perhaps South Korea? Not much is known publicly. Nevertheless, we   cannot simply dismiss China’s protests as irrelevant, for the implications   for India–China relations can be rather disturbing, including the security of   our borders. Nor should we base our reactions on jingoism, but conduct a   cool, calculated analysis of the emerging situation. | 
Dĩ   nhiên phản ứng phổ biến hơn cả vẫn là phớt lờ Trung Quốc và tiếp tục hợp đồng   đã ký với Việt Nam. Suy cho cùng nếu Ấn Độ xem xét việc ký một thỏa thuận với   Việt Nam thì Ấn Độ đã tự động phải tính đến việc vùng biển đó có thuộc quyền   tài phán của Việt Nam hay không rồi. Đây dường như là lập trường của chính   phủ Ấn Độ khi Ngoại trưởng Krishna nói với người đồng nhiệm Phạm Bình Minh   rằng, Ấn Độ sẽ “tiếp tục” và quan điểm của Ấn Độ hoàn toàn căn cứ vào Công   ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Tuy nhiên, thử thách thật sự sẽ nằm   ở việc, liệu các nước còn lại trong tranh chấp Biển Đông – gồm Philippines,   Malaysia, Brunei, hoặc thậm chí cả Đài Loan – cũng coi những vùng biển đó là   của Việt Nam hay không. Nếu không bên nào trong số họ phản đối Ấn Độ hoặc   Việt Nam về thỏa thuận đã đề xuất kia, thì khi đó Trung Quốc sẽ yếu thế hơn   nhiều và quan điểm của họ sẽ chỉ còn là hăm dọa thuần túy. Còn lập trường về   mặt pháp lý của Mỹ, Nhật Bản và có thể cả Hàn Quốc nữa, là gì? Không có nhiều   điều được công khai ở đây. Tuy nhiên, chúng ta không thể chỉ coi những lời   phản đối của Trung Quốc là không đúng; bởi lẽ quan hệ Ấn Độ – Trung Quốc có   những vấn đề khá phức tạp, trong đó có vấn đề an ninh trên biên giới. Chúng   ta cũng không nên phản ứng theo chủ nghĩa sô vanh, hiếu chiến, mà nên tiến   hành phân tích một cách lạnh lùng, có tính toán, về tình hình hiện nay. | 
| 
It   goes without saying that when China protests we should always pay very close   attention. In this case we would have to keep in mind the range of   possibilities that exist and the options available should China decide to   take its protests to the next stage; thereby triggering a confrontation. In   the past China has demonstrated that when it comes to her own backyard,   particularly the South China Sea, she is very sensitive and overtly   aggressive. Often recourse has been taken to not only physically harassing   the offending party, but cables and wires where work is in progress have been   deliberately cut. Should ONGC-Videsh, the contracting party in this case,   suffer a similar fate, what would be the reaction of the government of India?   It is extremely problematical whether the Indian Navy can do a power   projection just yet in the South China Sea to ward off the Chinese Navy. Nor   are the Vietnamese in any position to do so. To fold our tent after the   Chinese have initiated action would be a serious blow to our prestige. | 
Rõ   ràng là khi Trung Quốc phản đối, chúng ta cần luôn luôn chú ý đến họ. Trong   trường hợp này, chúng ta sẽ phải nhớ trong đầu một loạt khả năng có thể xảy   ra và điều mà Trung Quốc có thể lựa chọn, đó là quyết định đẩy sự phản đối   đến giai đoạn tiếp theo; từ đó kích ngòi nổ cho xung đột. Trong quá khứ,   Trung Quốc đã từng cho thấy rằng, hễ cứ động tới sân sau của họ, đặc biệt là   Biển Đông, là họ sẽ trở nên rất nhạy cảm và hung hăng một cách công khai. Thường   xuyên họ có các biện pháp để không chỉ quấy rối bên làm cho họ nổi giận, mà   họ còn cố ý cắt sạch những kênh liên lạc (cáp và không dây) mà qua đó công   việc đang tiến triển thuận lợi. Giả sử ONGC Videsh – đơn vị trúng thầu trong   trường hợp này – phải chịu số phận tương tự, thì chính quyền Ấn Độ nên phản   ứng ra sao? Sẽ cực kỳ rắc rối khi phải xác định liệu hải quân Ấn Độ có khả   năng thể hiện sức mạnh trên Biển Đông để chống lại Trung Quốc hay không. Mà   Việt Nam cũng không có ý định đó. Còn nếu sau khi Trung Quốc đã ra tay hành   động rồi mà ta nhổ trại rút quân thì sẽ là một đòn đánh nặng vào danh dự, uy   tín của Ấn Độ. | 
| 
We   would do well to keep in mind that we have a long unsettled border with   China. It is not possible to police every inch of this border. Therefore the   Chinese at present retain the option, if they do wish to exercise it, of   intruding several kilometres across the ‘Line of Actual Control’. As the LOAC   is not demarcated on the ground, both India and China have different   perceptions as to its actual alignment. The ground for creating mischief is   therefore available. | 
Chúng   ta phải hết sức ghi nhớ rằng chúng ta có một đường biên giới, đã từ lâu không   ổn định với Trung Quốc. Không thể nào kiểm soát từng mét trên đường biên giới   này. Do đó, hiện nay Trung Quốc vẫn đi theo cái cách xâm lấn vài kilômét qua   “Đường Kiểm soát Thực tế” (“Line of Actual Control” – LOAC), nếu họ muốn. Do   LOAC không được phân định trên bộ, nên cả Ấn Độ và Trung Quốc đều quan niệm khác   nhau về đường đi thực sự của nó. Từ đây nảy sinh cơ sở để đôi bên bất hòa. | 
| 
The   crux of the matter would be the role and attitude of the US and the only   force capable of thwarting the Chinese in the South China Sea – the US 7th   Fleet. In the recent past on Sino-Indian issues the attitude of the US has   been rather ambivalent. Even in the aftermath of the 1962 conflict Robert   Komer, an influential National Security Council staff member, wrote a memo   for President Kennedy on December 16, 1962 which highlighted the following: 
    ‘That it is as much in our strategic   interest to keep up a high degree of Sino-Indian friction as it is to prevent   from spilling over into a large scale war’. [FRUS 61-63 Vol. xix.] | 
Cái   nút của vấn đề sẽ là vai trò và thái độ của Mỹ và lực lượng duy nhất có khả   năng ngăn cản Trung Quốc trên Biển Đông – Hạm đội 7 của Hoa Kỳ. Trong quá khứ   gần đây, nói về vấn đề quan hệ Trung – Ấn, thái độ của Hoa Kỳ khá nước đôi.   Ngay cả sau cuộc xung đột năm 1962, với những hậu quả của nó, Rober Komer –   thành viên có ảnh hưởng trong Hội đồng An ninh Quốc gia – vẫn viết một bức   thư cho Tổng thống Kennedy vào ngày 16-12-1962, trong đó ông ta nhấn mạnh   những điều sau: 
“Sẽ   là lợi ích chiến lược của chúng ta (Mỹ) nếu ta duy trì mức độ mâu thuẫn cao   giữa Trung Quốc và Ấn Độ, vì điều này sẽ ngăn cản một cuộc chiến tranh quy mô   lớn” [FRUS 61-63 Vol. xix.] | 
| 
In   the present times the US is beset with economic problems with its public debt   which was US$ 6.4 trillion in 2008 constituting about 60 per cent of its GDP,   now having climbed to US$ 14.2 trillion or 98 per cent of its GDP. Only Italy   and Japan are worse off amongst the major powers. China is one of the biggest   holders of US debt. According to the well known US economist, Joseph   Stiglitz, the Iraq war alone cost the US some US $3 trillion and there is   still no end yet in sight for US involvement both in Iraq and Afghanistan.   Its armed forces are unduly stretched. It is for this reason that the US   turned down the pleas of its close NATO allies France and the UK and refused   to militarily intervene in the recent crisis in Libya. | 
Hiện   nước Mỹ đang ngổn ngang những vấn đề kinh tế với món nợ công 6,4 nghìn tỷ USD   trong năm 2008, chiếm tới 60% GDP, giờ đã lên tới 14,2 nghìn tỷ USD hay là   98% GDP. Trong các siêu cường, chỉ có Ý và Nhật Bản ở tình trạng tồi tệ hơn   Mỹ. Trung Quốc là một trong những chủ nợ lớn nhất của Mỹ. Theo nhà kinh tế   nổi tiếng của Mỹ, ông Joseph Stiglitz, chỉ riêng cuộc chiến Iraq đã ngốn của   Mỹ khoảng 3 nghìn tỷ USD và trước mắt vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt sự can   thiệp của Mỹ vào cả Iraq lẫn Afghanistan. Lực lượng vũ trang của Mỹ vẫn dàn trải   quá mức. Chính là vì lý do này mà Mỹ bác bỏ lời thỉnh cầu của hai đồng minh   thân cận trong NATO là Pháp và Anh, từ chối can thiệp quân sự vào khủng hoảng   gần đây ở Lybia. | 
| 
Given   the present predicament of the US, Indian policy planners would do well to   pay due heed to caution when dealing with a potentially explosive situation   that might develop in the South China Seas. There is no point in acting with   bravado when we do not have the necessary military capacity to take on the   Chinese in the South China Seas. It would be very wise indeed to take a hard   second look at our involvement in the disputed waters of the South China Sea! | 
Trước   những khó khăn hiện nay của Mỹ, các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ cần cố gắng   lưu tâm đầy đủ khi xử lý một tình huống tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ thành xung   đột trên Biển Đông. Làm ra vẻ hiên ngang chẳng có ích gì một khi chúng ta   không có năng lực quân sự cần thiết để đương đầu với Trung Quốc trên Biển   Đông. Quả thật sẽ là rất khôn ngoan nếu chúng ta nhìn lại sự tham gia của   mình vào vùng tranh chấp trên Biển Đông. 
Đỗ Quyên dịch từ IDSA | 
| 
Đại sứ R S Kalha là cựu Ngoại trưởng   Ấn Độ và là cựu thành viên của Ủy ban Nhân quyền Quốc gia. | 
Wednesday, September 28, 2011
India and the South China Seas: The Need for a Second Look Ấn Độ và Biển Đông: Cần nhìn lại
Is China Heading for Collapse? Liệu Trung Quốc có sắp sụp đổ?
| 
The   likely next leader of China, Xi Jinping | 
Ảnh:   Tập Cận Bình, có thể là lãnh đạo mới của Trung Quốc. | 
| 
Is China Heading for Collapse? | 
Liệu Trung Quốc có sắp sụp đổ? | 
| 
By Samuel A. Bleicher, September 13, 2011 | 
Samuel A Bleicher | 
| 
An   implicit social contract underlies the Chinese people’s relationship with its   government. The people accept the autocratic Communist Party of China (CPC)   regime with its corruption and minimal public participation, and the CPC   regime delivers a continuous and rapid improvement in the economic standard   of living. But that social contract is now at risk, as China is on an   unsustainable path that will result in economic stagnation or decline in the   coming decades.  | 
Có   một hợp đồng xã hội được ngầm hiểu, đặt nền tảng cho mối quan hệ giữa người   dân Trung Quốc với chính quyền. [Theo hợp đồng đó] người dân chấp nhận sự   chuyên chế của Ðảng Cộng sản Trung Quốc, với tệ nạn tham nhũng và sự tham gia   tối thiểu của công chúng [trong việc điều hành đất nước], chính quyền cộng   sản Trung Quốc không ngừng cải thiện nhanh đời sống kinh tế. Nhưng hợp đồng   xã hội đó đang có nguy cơ bị phá vỡ, do Trung Quốc đang trên con đường [phát   triển] không bền vững, sẽ dẫn đến sự trì trệ hoặc suy giảm kinh tế trong   những thập niên tới. | 
| 
There   are several culprits behind China's impending decline, with ecological limits   topping the list. In When a Billion Chinese Jump, for instance, Jonathan Watts   catalogues the current and impending ecological disasters:  destructive coal mining in dry western   provinces, over-utilization of fisheries, water shortages and industrial   water pollution, irreversible predation of ancient forests and delicate   grasslands – all exacerbated by the crippling effects of global climate   change. | 
Thủ   phạm đứng sau sự suy thoái đang đe dọa Trung Quốc là các giới hạn sinh thái,   hiện đứng đầu danh sách này. Chẳng hạn như, trong quyển sách khi một tỷ người   Trung Quốc hành động (Nguyên văn: When A Billion Chinese Jump), Jonathan   Watts liệt kê danh mục các thảm họa sinh thái hiện tại, cũng như các thảm họa   tiềm ẩn: khai thác mỏ than đến cạn kiệt ở các tỉnh miền Tây khô ráo, đánh bắt   cá và hải sản quá mức, thiếu nước và ô nhiễm nước công nghiệp, khai thác các   khu rừng nguyên sinh và đồng cỏ đến mức không thể phục hồi được, tất cả những   điều vừa kể càng làm tăng thêm hiệu ứng do sự thay đổi khí hậu toàn cầu. | 
| 
Then   there's the absence of good governance – reliable property rights, honest   bureaucracy, and evenhanded judicial oversight – which is not just socially   undesirable, but arguably a critical barrier to continued economic progress.   Reporting on recent studies that correlate economic progress with good   governance, Mark Whitehouse declares    in The Wall Street Journal that “China is making great progress in   lifting its people from the ranks of the world’s poorest.  But if the experience of other countries is   any indicator, it will need a revolution to achieve rich-nation status.” | 
Kế   đến là do sự điều hành thiếu hữu hiệu: các quyền sở hữu đáng tin cậy, nền hành   chính trung thực, sự giám sát pháp lý công bằng. Sự điều hành thiếu hữu hiệu   kể trên không những gây khó khăn về mặt xã hội, mà còn được coi như là chướng   ngại quan trọng, ngăn cản nền kinh tế tiếp tục phát triển. Những nghiên cứu   gần đây cho rằng, tiến bộ kinh tế tương quan với sự quản lý điều hành tốt,   Mark Whitehouse công bố trên báo Wall Street Journal rằng: “Trung Quốc đã đạt   được tiến bộ lớn trong việc giúp người dân thoát khỏi thứ hạng các nước nghèo   nhất. Nhưng nếu kinh nghiệm của các nước khác là một chỉ dấu nào đó, thì   Trung Quốc cần một cuộc cách mạng để trở thành một quốc gia giàu có“.       | 
| 
A   third stress on the Chinese system is the unsustainability of the   government's macroeconomic choices. The imbalances in China’s   investment-heavy, mercantilist economic structure have inevitably created,   according to Stratfor, “a race [not] between the Chinese and the Americans or   even China and the world” but rather “a race to see what will smash China   first, its own internal imbalances or the U.S. decision to take a more   mercantilist approach to international trade.”   | 
Một   sức ép thứ ba lên hệ thống của Trung Quốc là sự lựa chọn kinh tế vĩ mô của   chính phủ không bền vững. Theo Strafor, sự mất cân đối trong đầu tư ở Trung   Quốc, cấu trúc kinh tế theo kiểu vụ lợi, chắc chắn tạo ra “một cuộc chạy đua   không những giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ hoặc thậm chí giữa Trung Quốc và thế   giới” mà là “một cuộc đua để xem điều gì sẽ đập vỡ Trung quốc trước, sự mất   cân bằng nội tại của chính Trung Quốc hay quyết định của Hoa Kỳ thực hiện   biện pháp vụ lợi hơn đối với mậu dịch quốc tế“. | 
| 
As   one or more of these constraints cause extended economic stagnation or   decline, the CPC regime will be unable to deliver its promised economic   growth. The economic and social catastrophes on the horizon include   dramatically increased reliance on expensive imported raw materials,   significantly reduced export demand, riots by unemployed export workers and   recent college graduates, collapsing real estate prices, rapid inflation, and   urban food shortages.   | 
Khi   một hoặc nhiều sức ép kể trên gây ra sự trì trệ kéo dài hoặc suy thoái kinh   tế, chính quyền ÐCSTQ sẽ không thể đem lại tăng trưởng kinh tế như đã hứa hẹn.   Các thảm họa kinh tế và xã hội sắp xảy ra, gồm sự phụ thuộc vào các nguyên   liệu thô nhập khẩu đắt đỏ ngày nhiều, nhu cầu xuất khẩu bị giảm đáng kể, các   vụ bạo loạn do công nhân nghành xuất khẩu và các sinh viên đại học tốt nghiệp   bị thất nghiệp gần đây, sự sụp đổ trong ngành bất động sản, lạm phát tăng   nhanh và sự khan hiếm thực phẩm ở các vùng thành thị. | 
| 
Implicitly   or explicitly, many of the “unsustainable path” discussions assume that   economic stagnation or decline will destroy the CPC regime once it fails to   deliver its half of the social contract. Regime change analogies abound,   ranging from the historical collapse of Chinese dynasties and the collapse of   the Soviet Union and the communist regimes in its Eastern European allies to   the Color Revolutions of the 2000s and the recent Arab Spring uprisings in   Tunisia, Egypt Yemen, Bahrain, Libya, and Syria.  | 
Một   cách rõ ràng hay ngầm hiểu, nhiều điều trong các cuộc thảo luận về “con đường   không bền vững” cho rằng, sự trì trệ hoặc suy thoái kinh tế sẽ huỷ diệt chế   độ CSTQ, một khi chế độ này thất bại trong thực hiện được hợp đồng xã hội. Có   nhiều thay đổi chế độ tương tự, từ sự sụp đổ mang tính lịch sử của các triều   đại Trung Quốc và sự sụp đổ của Liên Xô cùng chế độ cộng sản ở các nước đồng   minh Ðông Âu, cho đến Cách Mạng màu trong những năm 2000, và gần đây là các   cuộc nổi dậy Mùa Xuân Ả Rập ở Tunisia, Ai cập, Yemen, Lybia và Syria. | 
| 
Most   of the characteristics of contemporary China, however, are crucially   different from those of the countries in which these regime changes occurred.   China’s distinctive features make it unlikely that the CPC regime will   suddenly disintegrate even in the face of continuing economic difficulties.   The real question is whether it will respond by evolving into a more open,   participatory regime or instead become an increasingly brutal and beleaguered   autocracy. Only the Chinese leadership and people can ultimately make the   crucial choices. The United States and the West need to walk softly to avoid   being tagged as the cause of China’s economic misery. | 
Tuy   nhiên, đặc tính của một nước Trung Quốc đương đại lại hoàn toàn khác so với   những nước đã có sự thay đổi chế độ vừa kể. Đặc thù của Trung Quốc khiến cho   chế độ CSTQ khó có thể tan rã đột ngột, ngay cả khi phải liên tục đối mặt với   khó khăn về kinh tế. Câu hỏi thực sự là, liệu chế độ này sẽ đáp ứng bằng cách   thay đổi thành một chế độ cởi mở hơn, một chế độ có sự tham gia của quần   chúng, hay một nền chuyên chế ngày càng tàn bạo và bị cô lập. Chỉ có giới   lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc là những người cuối cùng có thể thực hiện sự   lựa chọn hệ trọng này. Hoa Kỳ và phương Tây cần đi những bước thận trọng để   tránh bị cho là nguyên nhân gây ra sự nguy khốn về kinh tế ở Trung Quốc. | 
| 
Countervailing Cultural and Economic   Factors | 
Tác động của các yếu tố kinh tế và văn   hóa | 
| 
Despite   the easy analogies, China’s CPC regime will not inevitably follow the   examples of swift collapse of authoritarian regimes that occurred in the   Soviet Union or Mubarak's Egypt. China is in a category by itself because of   its demography and culture, its nationally integrated economic and political   structure, and the nature of public opposition. The notion that the end of   economic growth will cause the CPC regime to evaporate ignores these   realities of Chinese society.      | 
Mặc   dù có những điểm giống nhau có thể dễ dàng nhận ra, chế độ CSTQ chắc chắn sẽ   không sụp đổ giống như chế độ chuyên chế toàn trị ở Liên Xô hoặc chế độ   Mubarak ở Ai Cập. Trung Quốc thuộc loại khác, do vấn đề dân số và văn hóa,   cấu trúc kinh tế và chính trị hợp thành một thể thống nhất có tính quốc gia,   cũng như bản chất của sự đối kháng quần chúng. Quan niệm cho rằng, khi tăng   trưởng kinh tế chấm dứt sẽ làm cho chế độ CSTQ sụp đổ, đã bỏ qua yếu tố thực   tế về xã hội Trung Quốc. | 
| 
China's   distinctive character begins with its cultural homogeneity. Of China’s 1.3   billion people, 92 percent are Han Chinese who share linguistic, cultural,   religious, and philosophical perspectives, and a similar physical appearance   that minimizes divisive stereotyping. The peoples of the Autonomous Regions   of Guangxi, Inner Mongolia, Tibet, and Xinjiang are linguistically,   culturally, and physically distinct and do perceive themselves as non-Chinese   to varying degrees. But none of the 56 recognized domestic minorities exceeds   1.25 percent of China’s population. Tibetans, who have the most international   visibility, number fewer than 6 million people. Moreover, geographic   realities strongly tie these Autonomous Regions to China economically, and   the CPC regime is strengthening those ties through Han immigration.  | 
Đặc   thù của Trung Quốc trước hết là tính đồng nhất về văn hóa của nước này. Trong   số 1,3 tỷ dân thì 92% là người Hán, có cùng ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo và   các quan điểm triết lý, và thể chất tương tự, làm giảm thiểu sự chia rẽ. Dân   chúng ở các vùng tự trị Quảng Châu, Nội Mông, Tây Tạng, và Tân Cương có đặc   thù ngôn ngữ, văn hóa, diện mạo, và với nhiều mức độ khác nhau, họ xem mình   không phải người Hoa. Nhưng không một sắc tộc nào trong số 56 dân tộc thiểu   số ở Trung Quốc có đông hơn 1,25% dân số Trung Quốc. Tây Tạng là những người   được quốc tế biết rõ nhất, dân số cũng chưa tới 6 triệu người. Hơn nữa, thực   tế địa lý ràng buộc chặt chẽ giữa các vùng tự trị đó với Trung Quốc về mặt   kinh tế, và chế độ CSTQ đang thúc đẩy các mối liên hệ đó qua việc di cư người   Hán.   | 
| 
The   Soviet Union is the only “regime change scenario” country that even   approached China in terms of the size of its population. But the Soviet Union   was from the start a federation comprising separate republics with very   different languages, cultures, religions, and standards of living. Most of   the other countries that experienced regime change are much smaller and   culturally heterogeneous. Egypt, the largest of the Arab Spring countries,   has only 78 million people, about 90 percent of whom are Muslim. Five of   China’s 18 provinces are larger. The largest Color Revolution country,   Ukraine, has less than 50 million people, of whom over 20 percent are   ethnically and linguistically Russian.  | 
Liên   Xô là nước có “kịch bản thay đổi chế độ” duy nhất gần giống Trung Quốc về mặt   qui mô dân số, nhưng ngay từ đầu, Liên Xô đã là một liên bang, gồm các nước   cộng hòa tách biệt về ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo và có mức sống khác nhau.   Phần lớn những nước đã từng trải qua sự thay đổi chế độ là những nước nhỏ hơn   Trung Quốc rất nhiều và không đồng nhất về văn hóa. Ai Cập là nước lớn nhất   trong các nước xảy ra cách mạng Mùa Xuân Ả Rập, cũng chỉ có 78 triệu người,   và khoảng 90% dân số theo đạo Hồi. Năm trong mười tám tỉnh ở Trung Quốc có   dân số lớn hơn thế. Nước lớn nhất đã xảy ra Cách Mạng màu là Ukraine, có dân   số dưới 50 triệu người, trong đó có 20% là người sắc tộc và sử dụng tiếng Nga. | 
| 
China’s   culture has maintained substantial continuity, but its economic and social   structures have changed dramatically in the last 30 years. Most economic   activity is now part of an integrated whole, with state-owned and nominally   private corporations governmentally directed and cooperating to expand   production. About half the population lives in cities. The export-oriented   policies of “socialism with Chinese characteristics” make the wealthy coastal   regions deeply dependent on access to overseas markets and to inland labor   and raw materials.  | 
Văn   hóa Trung Hoa đã duy trì tính liên tục bền vững, nhưng cấu trúc kinh tế và xã   hội đã thay đổi một cách đột ngột trong 30 năm qua. Hầu hết các hoạt động   kinh tế giờ đây là một phần của một thể hợp nhất, với các công ty nhà nước và   tư nhân trên danh nghĩa do chính quyền chỉ đạo, hợp tác để mở rộng sản xuất.   Khoảng một nửa dân số sống ở thành thị. Chính sách định hướng xuất khẩu về   “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” đã khiến các vùng duyên hải giàu   có phụ thuộc nặng nề vào sự thâm nhập thị trường nước ngoài và nguồn lao động   nội địa, cũng như nguyên liệu thô. | 
| 
Unlike   dynastic China, agriculture is no longer the dominant element of China’s   economic system. The CPC regime’s finances are no longer dependent on   taxation of agricultural production. Instead it subsidizes rural China with funds   generated by exports. Its foreign exchange reserves would support food   imports through a typical drought and famine cycle. A peasant revolt like   those that strangled the imperial dynasties is unlikely to topple the current   regime. | 
Khác   với các triều đại Trung Quốc trước đây, nông nghiệp không còn là yếu tố chi   phối hệ thống kinh tế Trung Quốc. Nền tài chính của chế độ CSTQ không còn phụ   thuộc vào thuế của các sản phẩm nông nghiệp. Thay vào đó, Trung Quốc trợ cấp   các vùng nông thôn bằng ngân quĩ có được từ xuất khẩu. Nguồn dự trữ ngoại tệ   dùng để nhập khẩu thực phẩm trong giai đoạn đói kém và hạn hán. Một cuộc nổi   dậy của nông dân giống như thế đã từng bị các triều đại phong kiến đàn áp,   khó có thể xảy ra để lật đổ chế độ hiện tại. | 
| 
The   USSR’s planned economy was closed to foreign trade, relatively primitive in   its range of goods and services, and skewed to benefit Moscow and St.   Petersburg. Its European republics and allies correctly anticipated that they   could quickly improve their living standards by breaking from the Soviet   Union and opening trade with Western Europe. No similar incentive beckons any   Chinese regions, which already benefit from and rely on international trade.   A province that attempted to secede would suffer enormous adverse economic   consequences.  | 
Nền   kinh tế kế hoạch của Liên Xô không có sự trao đổi mậu dịch với nước ngoài,   các sản phẩm và dịch vụ còn tương đối thô sơ và bị lệch theo hướng có lợi cho   Moscow và St. Petersburg (2 trung tâm quyền lực chính trị của Liên Xô thời   bấy giờ – ND). Các nước cộng hòa ở châu Âu và các đồng minh Liên Xô đã dự   đoán chính xác rằng, có thể cải thiện nhanh mức sống bằng cách thoát khỏi   Liên Xô và mở cửa giao thương với Tây Âu. [Trong khi đó] không hề có sự thúc   đẩy tương tự ở một vùng nào của Trung Quốc vốn đã được hưởng lợi từ thương   mại quốc tế cũng như đang dựa vào mậu dịch quốc tế. Bất kỳ tỉnh nào cố tách   ra khỏi Trung Quốc sẽ chịu hậu quả nặng nề về mặt kinh tế. | 
| 
Although   China’s average income roughly matches the Color Revolution and Arab Spring   countries, over 200 million Chinese now enjoy an urban “middle-class” life.   Their economic status depends on manufacturing, construction, and   international trade and finance. China’s 2008 unemployment rate was 4   percent, and almost everyone is put to work, for both economic and cultural   reasons. The 2008 reported unemployment rates were about 30 percent in Libya,   14 percent in Tunisia, and 8 percent in Egypt – and that was before the   global financial crisis. Not counting their oil exports, these Arab countries   are among the least developed, least productive in the world.  | 
Mặc   dù thu nhập trung bình ở Trung Quốc gần bằng những nước đã trải qua cách mạng   Mùa xuân Ả Rập và Cách Mạng màu, hơn 200 triệu người Trung Quốc hiện đang   được hưởng đời sống “trung lưu” thành thị. Tình trạng kinh tế của họ phụ   thuộc vào sản xuất ở các xí nghiệp, xây dựng, thương mại quốc tế và tài   chính. Tỷ lệ thất nghiệp ở Trung Quốc năm 2008 là 4%, và hầu hết mọi người   đều có việc làm vì lý do kinh tế lẫn văn hóa. Tỷ lệ thất nghiệp năm 2008 được   báo cáo là 30% ở Lybia, 14% ở Tunisia và 8% ở Ai Cập và đó là con số trước   khi xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu. Không kể đến xuất khẩu dầu, những   nước Ả Rập này là những nước kém phát triển nhất, năng suất lao động kém hiệu   quả nhất trên thế giới. | 
| 
Countervailing Political Forces | 
Các lực lượng chính trị đối lập | 
| 
The   CPC regime now follows a well-defined corporate-style leadership succession   process with term limits, providing a degree of stability other Communist   regimes never achieved. The excesses of Mao and the “Gang of Four” caution   against allowing anything approaching one-man rule. China’s desire for   international respectability, along with a deep cultural bias favoring   consensus, discourages anything more radical than “muddling through.” The   regime’s opaque committee system is the antithesis of the “cult of   personality” found in almost all of the countries experiencing sudden regime   change. | 
Giờ   đây, chế độ CSTQ thực hiện theo mô hình lãnh đạo ở các tập đoàn công ty, với   các nhiệm kỳ đã được xác định rõ, đem lại một mức độ ổn định mà các chế độ   cộng sản khác chưa bao giờ đạt được. Sự quá đáng của Mao và “Bè lũ bốn tên”   cảnh báo chống lại bất cứ điều gì dẫn đến sự cai trị của một người. Trung   Quốc mong muốn được quốc tế tôn trọng, với khuynh hướng có tính văn hóa sâu   sắc, ủng hộ sự đồng thuận, ngăn cản bất cứ ý kiến cấp tiến nào, nên chỉ có   thể quyết định được những chuyện nhỏ mà mọi người đồng thuận (*). Chế độ ủy   ban không rõ ràng là sự tương phản của chủ nghĩa “sùng bái cá nhân”, có mặt ở   hầu hết các nước đã trải qua sự thay đổi chế độ đột ngột. | 
| 
The   CPC regime’s goal is a “harmonious society” based on a “scientific   development perspective.” Relatively few Chinese doubt the central   leadership’s desire to produce economic betterment, whatever they think of   its approach to human rights. It is harder for an opposition to coalesce   against committees operating by consensus than against a single highly   visible, self-aggrandizing leader. | 
Mục   tiêu của chế độ CSTQ là “một xã hội hài hòa” dựa trên “qui luật phát triển   khoa học”. Một số ít người Trung Quốc nghi ngờ giới lãnh đạo trung ương muốn   cải thiện kinh tế tốt hơn, bất cứ điều gì họ nghĩ tới, đều dẫn đến vấn đề   nhân quyền. Một lực lượng đối lập thống nhất chống lại các ủy ban hoạt động   theo phương pháp đồng thuận thì khó hơn là chống lại một cá nhân lãnh đạo tự   khoe khoang, tô vẽ, rất dễ nhìn thấy. | 
| 
Administratively,   the CPC regime is a single unified structure. Officials are rotated among the   provinces and typically have little personal connection to the jurisdictions   they run.  The army similarly operates   as a unified national organization. Senior military officers are CPC members   and participate actively. These arrangements encourage loyalty to the   national institutions and discourage alliances with any potential opposition   or secessionists.  | 
Về   mặt hành chính, chế độ CSTQ là một thể chế thống nhất. Quan chức trong các   tỉnh thay phiên nhau điều hành và thường ít có sự liên hệ với hệ thống pháp   lý mà họ điều hành. Tương tự, quân đội cũng hoạt động như một tổ chức quốc   gia thống nhất. Các sỹ quan quân đội cao cấp là đảng viên Ðảng Cộng sản, tham   gia một cách tích cực. Sự sắp đặt này nhằm cổ vũ cho sự trung thành đối với   thể chế quốc gia và ngăn chặn các liên minh đối lập hoặc các lực lượng ly   khai tiềm ẩn. | 
| 
China’s   deep economic and political involvement with the outside world makes   operating without an effective central government impractical. Splintering is   also psychologically anathema to most Chinese, who are schooled in the   experience of the 19th-century humiliation of “weak China” by imperialist   powers. Any foreign attempt at intervention would generate a unifying   backlash in the Chinese populace.  | 
Do   mối liên hệ sâu sắc về chính trị và kinh tế giữa Trung Quốc với thế giới bên   ngoài, hoạt động [của đất nước] sẽ không thực tế nếu thiếu [sự điều hành của]   một chính phủ trung ương hữu hiệu. Phá vỡ [sự thống nhất quốc gia] sẽ bị   nguyền rủa về mặt tâm lý đối với đa số người dân Trung Quốc, những người được   học về một nước Trung Quốc “yếu đuối” bị các cường quốc đế quốc làm nhục hồi   thế kỷ 19.  Bất kỳ sự can thiệp nào từ   bên ngoài cũng sẽ làm cho người dân Trung Quốc đoàn kết để chống lại. | 
| 
Moreover,   in our economically interconnected, nuclear-armed world, other nations want   to work with a single central regime that has the necessary economic,   political, and military authority. Continued recognition of the CPC regime by   international organizations and major powers would undermine opposition and   secessionist movements. The emergence of another “Warring States” period (or   a Taiwanese return to the Mainland) is unimaginable in the 21st century.   | 
Hơn   nữa, trong một thế giới được trang bị vũ khí nguyên tử và liên kết với nhau   về mặt kinh tế, các nước khác cũng muốn làm việc với một chế độ trung ương có   quyền hành về quân đội, chính trị và kinh tế. Việc các cường quốc và các tổ   chức quốc tế tiếp tục công nhận chế độ CSTQ sẽ phá hoại các phong trào đối   lập và ly khai. Thời kỳ “các nước trong tình trạng chiến tranh” xuất hiện trở   lại (hoặc đưa Ðài Loan trở về với Đại Lục) là điều không thể tưởng tượng có   thể xảy ra trong thế kỷ 21. | 
| 
Many   thousands of anti-government protests, demonstrations, riots, and acts of   violence take place in China every year. But almost all spring from local or   corporate misconduct: depraved business practices like food adulteration,   shoddy school construction, environmental contamination, or arbitrary   treatment of citizens who challenge official corruption. Opposition groups   often appeal for help from Beijing, which sometimes becomes the hero by   taking corrective action.  | 
Hàng   ngàn người biểu tình phản đối chính quyền, các vụ biểu tình, nổi loạn và các   hành động bạo lực đã xảy ra ở Trung Quốc hàng năm. Nhưng hầu như tất cả đều   phát sinh từ những hành vi tệ hại ở cấp địa phương hoặc công ty: các kiểu làm   ăn suy đồi [về đạo đức] như: giả mạo thực phẩm, xây dựng trường học bằng hàng   dỏm, làm ô nhiễm môi trường hoặc đối xử tuỳ tiện với những người dân dám thách   thức các quan chức tham nhũng. Các nhóm chống đối thường kêu gọi sự giúp đỡ   của [chính quyền] Bắc Kinh, thỉnh thoảng chính quyền cũng trở thành anh hùng   do thực hiện các hành động sửa sai. | 
| 
The   CPC regime has aggressively attacked any national groupings that it does not   recognize, whether religious (Falun Gong) or political (Charter 2008). Fear   of a Chinese “Jasmine revolution” and the few small Twitter-generated   demonstrations that did take place in 2011 spawned a pre-emptive response by   the Chinese security apparatus that included arrests and disappearances of   high-visibility “trouble-makers” like artist Ai Weiwei and 20 leading “rights   lawyers.” The regime also initiated highly sophisticated controls on   electronic communications.  These   actions neutralized whatever small immediate threat may have existed. | 
Chế   độ CSTQ tấn công dữ dội vào bất kỳ tổ chức quốc gia nào mà họ không công   nhận, dù là tổ chức tôn giáo (Pháp Luân công) hay chính trị (Tuyên ngôn   2008). Lo sợ về một cuộc “Cách mạng hoa nhài” ở Trung Quốc hay các cuộc biểu   tình nhỏ tổ chức trên mạng Twitter đã xảy ra trong năm 2011, các bộ phận an   ninh Trung Quốc đã phản ứng bằng cách đánh phủ đầu, kể cả việc bắt giữ và làm   biến mất những người “gây rối” như họa sĩ nổi tiếng Ngải Vị Vị và 20 luật sư   nhân quyền hàng đầu của nước này. Chế độ này cũng bắt đầu kiểm soát các   phương tiện liên lạc điện tử hết sức tinh vi. Những hành động đó đã vô hiệu   hóa bất kỳ mối đe dọa nhỏ nhặt nào có thể tồn tại mà họ thấy. | 
| 
Few   triggering events that could focus widespread anger at the national CPC   regime occur in contemporary China. Intra-party multi-candidate elections are   only held at the local level. Nothing of unifying significance comparable to   the rigged national elections in the Color Revolution countries is on the   horizon. Any serious opposition to the national regime faces great practical   difficulties in the absence of opportunities to create nationwide   organization and leadership.  | 
Thời   Trung Hoa đương đại chỉ có vài sự kiện có thể tập trung sự giận dữ ảnh hưởng   tới chế độ. Các cuộc bầu cử có nhiều ứng viên trong nội bộ đảng chỉ xảy ra ở   cấp địa phương. Chẳng có sự thống nhất quan trọng nào có thể so sánh được với   các cuộc bầu cử gian lận ở những nước xảy ra Cách Mạng màu. Bất kỳ sự chống   đối đáng kể nào đối với thể chế quốc gia này đều phải đối mặt với thực tế khó   khăn lớn, khi thiếu một tổ chức hoặc không có những người lãnh đạo ở tầm quốc   gia. | 
| 
The   widespread outrage about the recent high-speed train collision near Wenzhou,   and the subsequent cover-up and suppression of news, suggests the possibility   of a different kind of trigger. The National Railway Ministry is directly   responsible for the high-speed train program, so public hostility was   directed at the national CPC regime. The government has already fired three   senior Railway Ministry officials and will certainly compensate the injured   parties, but those actions do not address the public’s serious concerns about   policy, transparency, and due process.    A truly catastrophic event like the Fukushima nuclear plant meltdown   could arouse intense and continuing opposition to the CPC regime. Still, even   though nationally controlled projects, particularly nuclear energy   facilities, will become more common as China advances technologically, the   probability of a major disaster that could shake the CPC regime seems quite   small. | 
Sự   bất bình về tai nạn tàu cao tốc gần Ôn Châu xảy ra gần đây đã lan rộng trong   quần chúng và tiếp theo là sự che đậy bằng cách dập tắt các tin tức có liên quan,   cho thấy có khả năng [xảy ra] một kiểu châm ngòi khác [cho quần chúng]. Bộ   Ðường sắt Quốc gia chịu trách nhiệm trực tiếp về chương trình tàu cao tốc, và   vì vậy sự căm ghét của công chúng nhắm trực tiếp vào cấp trung ương của chế   độ CSTQ. Chính quyền đã sa thải 3 viên chức cao cấp trong Bộ Ðường sắt và   chắc chắn sẽ đền bù thiệt hại cho những người bị thương, nhưng các hành động   như thế không giải quyết được mối lo ngại sâu sắc của người dân về chính   sách, sự minh bạch, và xử lý vấn đề đúng luật. Một thảm họa lớn như vụ tai   nạn lò phản ứng hạt nhân Fukushima tan chãy có thể dấy lên sự chống đối chế   độ CSTQ mạnh mẽ và liên tục. Tuy nhiên, mặc dù các dự án được kiểm soát ở tầm   quốc gia, đặc biệt là các nhà máy năng lượng hạt nhân, sẽ trở nên phổ biến   hơn khi Trung Quốc tiến bộ hơn về mặt kỹ thuật, khả năng một tai nạn lớn có   thể làm rung chuyển chế độ CSTQ dường như rất nhỏ. | 
| 
What Will Happen to the CPC Regime? | 
Ðiều gì sẽ xảy ra với Trung Quốc | 
| 
The   “regime change scenario” examples suggest that people are motivated to bring   down authoritarian regimes when those governments pose an existential threat   to disenfranchised groups, fail to institute policies designed to address   high unemployment and/or rapid inflation, or engage in highly visible   malfeasance to preserve themselves in the face of massive public expressions   of opposition. None of these conditions currently applies to the Chinese   situation. | 
Những   ví dụ về ‘kịch bản thay đổi chế độ’ cho thấy, người dân bị thúc đẩy để lật đổ   các chế độ toàn trị khi chính quyền ở những nước này đe dọa sự sống còn của   các phe nhóm không đủ mạnh, thất bại trong việc lập chính sách giải quyết vấn   đề thất nghiệp và lạm phát cao, hoặc tham gia các hoạt động phi pháp trắng   trợn để tiếp tục nắm quyền, khi đương đầu với sự giận dữ của đông đảo quần   chúng chống đối. Những điều vừa kể, không có điều nào áp dụng vào tình hình   Trung Quốc hiện nay. | 
| 
Economic   decline will nevertheless inevitably bring changes. One likely result will be   more corrosive political infighting, as factions seek to protect their share   of a stagnating economic pie. Another is that China will be increasingly   preoccupied with internal challenges and less interested in playing a   leadership role, or perhaps even a responsible role, in global affairs.  | 
Tuy   nhiên, suy thoái kinh tế chắc chắn sẽ dẫn đến thay đổi. Một kết quả có thể   xảy ra [do suy thoái] sẽ là đấu đá chính trị nội bộ làm cho các phe phái suy   yếu hơn, khi tìm cách bảo vệ phần (kinh doanh, tài sản) của họ trong một nền   kinh tế trì trệ. Một kết quả khác nữa là Trung Quốc sẽ ngày càng bận tâm đối   phó với thách thức nội bộ và ít quan tâm đến vai trò lãnh đạo, hay thậm chí   vai trò đáp ứng trong quan hệ toàn cầu. | 
| 
To   allay intense dissatisfaction over continuing poor economic performance, the   CPC might not re-elect a president to a second term, or a president could   even resign before the end of his term. The conditions that generate the   economic decline, however, will not go away. No new president will be able to   arrest the decline. | 
Ðể   giảm bớt sự bất mãn cao độ [trong quần chúng] về việc điều hành kinh tế kém   cỏi liên tục kéo dài, ÐCSTQ có thể sẽ không bầu lại người giữ chức chủ tịch   thêm nhiệm kỳ thứ hai, hoặc thậm chí chủ tịch có thể từ chức trước khi kết   thúc nhiệm kỳ. Tuy nhiên, những điều làm cho kinh tế suy thoái sẽ không biến   mất. Không có chủ tịch mới nào sẽ có thể ngăn chặn được sự suy thoái. | 
| 
New   leadership may not satisfy the public for long, especially since replacements   will emerge from the same opaque process and the same cadre of CPC members.   Unlike a true election, this process will not generate public confidence in   the new leaders or any psychological investment in their success. Ironically,   an unscheduled change in CPC leadership is likely to be seen as an admission   of failure that inspires demands for more substantial changes in the   political system. The net result could be even more leadership paranoia,   cosmetic structural changes, and increasing influence or even de facto   control by the military and security bureaus.  | 
Ban   lãnh đạo mới có thể không làm vừa lòng công chúng được lâu, đặc biệt do sự   thay thế này cũng đến từ một quá trình [chọn lựa] không rõ ràng như cũ và   cũng từ những cán bộ cũ là đảng viên ĐCS Trung Quốc. Khác với một cuộc bầu cử   thực sự, quá trình thay thế lãnh đạo này sẽ không tạo ra sự tin tưởng trong   dân chúng về các nhà lãnh đạo mới, hay bất kỳ sự quan tâm nào đến sự thành   công của họ. Khôi hài hơn, sự thay đổi trong giới lãnh đạo ĐCSTQ không dự trù   trước có thể bị coi như thừa nhận thất bại, điều này thúc đẩy nhu cầu thay   đổi hệ thống chính trị thực sự hơn nữa. Kết quả cuối cùng có thể lại là sự lo   sợ hoang tưởng hơn trong giới lãnh đạo, dẫn tới sự thay đổi mang tính hình   thức, gia tăng ảnh hưởng hoặc thậm chí nắm quyền quân đội và các cơ quan an   ninh. | 
| 
Faced   with insurmountable economic and environmental problems, the CPC regime might   try various glasnost-like and perestroika-like reforms that provide broader   political participation. The goal would be to calm public frustrations and   give people a larger sense of buy-in to the regime’s policies.  | 
Do   phải đối phó với các vấn đề vô cùng khó khăn về môi trường và kinh tế, chế độ   ÐCSTQ có thể sẽ cố thử nhiều cách cải cách khác nhau như kiểu công khai   (glasnost) và đổi mới (perestroika), cho phép sự tham gia chính trị rộng rãi   hơn [trong dân chúng]. Mục tiêu của những cải cách này là giảm bớt nỗi bất   bình trong dân chúng, cho người dân có cảm giác lớn hơn trong việc tham gia   và ủng hộ chính sách của chế độ. | 
| 
This   strategy would include intensified efforts to reduce local corruption.   Allowing greater use of the courts, administrative hearings, the media, and   other processes to express and redress grievances could also help redirect public   anger from the streets. These steps might be the best strategy to ensure that   the CPC regime survives indefinitely through the hard times ahead. | 
Chiến   lược này gồm, gia tăng nỗ lực giảm bớt tệ nạn tham nhũng ở địa phương. Cho   phép sử dụng nhiều hơn hệ thống toà án, điều trần chính phủ, truyền thông và   các hệ thống khác để dân chúng bày tỏ nỗi bất bình, cũng như sửa sai, bồi   thường. Những điều vừa kể, có thể lái sự tức giận của công chúng sang hướng   khác, tránh sự nổi đậy. Những bước đi đó có lẽ là chiến thuật tốt nhất để bảo   đảm sự sống còn của chế độ về lâu dài, vượt qua thời kỳ khó khăn trước mắt. | 
| 
An   evolutionary expansion of public participation is not inevitable, however.   The current CPC regime apparently believes that any significant diffusion of   governing authority will lead to intolerable weakening or demise. | 
Tuy   vậy, việc mở rộng sự thay đổi để quần chúng tham gia [điều hành đất nước] là   điều tất yếu. Rõ ràng là chế độ CSTQ hiện nay tin tưởng rằng, bất kỳ sự phát   tán quyền lực cai trị đáng kể nào, cũng sẽ dẫn đến sự suy yếu không thể chấp   nhận được, hoặc dẫn đến sự kết thúc của chế độ.  | 
| 
The   possibility lurks that growing discontent over continuing economic stagnation   will prompt it to intensify the crackdown on actual or potential opposition   voices and organizations. One acute observer, James Fallows, thinks this   process has already begun to some degree in reaction to the Arab Spring. The   resulting increase in the influence of the military and security agencies   could tilt government policy toward even more oppressive authoritarianism.   Creeping militarism seems to be a characteristic of many authoritarian   regimes, and in this respect China may not be different.  | 
Một   khả năng tiềm ẩn khác là, khi nền kinh tế liên tục trì trệ, bất mãn sẽ gia   tăng, điều này sẽ thúc đẩy gia tăng cường độ đàn áp các tổ chức, cũng như đàn   áp những tiếng nói đối lập thật sự hoặc tiềm tàng. Ông James Fallows, một nhà   quan sát nhạy bén cho rằng, quá trình này đã bắt đầu, ở một mức độ nào đó là   các phản ứng của chính quyền đối với cách mạng Mùa Xuân Ả Rập. Kết quả là sự   gia tăng ảnh hưởng của quân đội và các cơ quan an ninh có thể đẩy chính sách   của chính quyền theo hướng đàn áp và độc tài hơn. Một đặc tính của nhiều chế   độ toàn trị đó là, dần dần biến thành chủ nghĩa quân phiệt và về mặt này có   lẽ Trung Quốc không phải là trường hợp ngoại lệ. | 
| 
Over   the long term, this approach seems likely to arouse greater public   dissatisfaction and more opposition as neither economic nor political   conditions improve. If authoritarianism and permanent economic slowdown are   accompanied by continued corruption, self-dealing, repression, and   unfairness, and if entrenched economic, political, and bureaucratic interests   deflect resources from the interests of the whole people, the CPC regime will   eventually face massive public opposition. In desperation, the regime might   even threaten its neighbors militarily, either as a calculated domestic   political ploy or as result of the leadership’s own fear and paranoia. The   outcome would likely be destructive both for China and the outside world. | 
Về   lâu dài, các biện pháp này dường như có thể phát sinh sự bất mãn và chống đối   nhiều hơn trong dân chúng khi điều kiện kinh tế và chính trị không được cải   thiện. Nếu sự chuyên chế toàn trị và kinh tế thường xuyên sa sút, kèm theo   nạn tham nhũng tiếp tục, tự tung tự tác, đàn áp, bất công, và nếu các quyền   lợi của giới công chức, chính trị và kinh tế làm cho các nguồn tài nguyên   chệch khỏi quyền lợi của toàn bộ dân chúng, chế độ CSTQ cuối cùng sẽ phải đối   mặt với sự chống đối của đông đảo quần chúng. Trong cơn tuyệt vọng, chế độ   này thậm chí có thể đe dọa các nước láng giềng bằng quân sự, hoặc một thủ   đoạn chính trị nội bộ có tính toán, hoặc là kết quả của một sự sợ hãi và hoang   tưởng trong giới lãnh đạo. Kết quả này có khả năng sẽ tàn phá cả Trung Quốc   lẫn thế giới bên ngoài.    | 
| 
The West and China's Decline | 
Phương tây và sự suy thoái của Trung   Quốc | 
| 
A   great deal of evidence suggests that China’s current growth is unsustainable   for a variety of reasons. If so, it faces hard times ahead, regardless of the   character of the governing regime. China’s decline, especially if it results   in chaotic conditions there, is likely to damage the economic well-being of   the United States and the international community, which are depending on   China to be the engine of global economic growth and a partner for peaceful   cooperation on nuclear proliferation. Long-term economic stagnation or   decline carries important implications for the foreign policies of the United   States and the international community. | 
Rất   nhiều bằng chứng cho thấy, sự tăng trưởng hiện nay của Trung Quốc không bền   vững do nhiều nguyên nhân. Nếu quả thực như vậy, Trung Quốc đang đối mặt với   khó khăn, bất kể đặc trưng của chế độ cai trị như thế nào. Sự suy thoái của   Trung Quốc, đặc biệt nếu gây ra tình trạng hỗn loạn ở đó, có thể gây thiệt   hại đến lợi ích kinh tế của Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế, vốn phụ thuộc vào   Trung Quốc như một cỗ máy cho sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu, cũng như một   đối tác về hợp tác hòa bình trong vấn đề kiểm soát phổ biến hạt nhân. Sự trì   trệ hoặc suy thoái  kinh tế lâu dài [ở   Trung Quốc] ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ và cộng đồng quốc   tế. | 
| 
Over   the last three decades the United States and Europe have followed a range of   policies designed to integrate China into the global economic and political   systems. In recent years, however, a growing chorus in Congress has argued   that it is time, now that China is so strong, to insist that it change its   self-interested policies on currency valuation, intellectual property   protection, and human rights. 
But   changing U.S. and European direction at this time could be just the wrong   move. | 
Trong   ba thập kỷ qua, Hoa Kỳ và châu Âu theo đuổi một loạt chính sách thiết kế nhằm   đưa Trung Quốc vào hệ thống kinh tế và chính trị toàn cầu. Tuy nhiên, trong   những năm gần đây, ngày càng có nhiều người trong Quốc Hội [Mỹ] lập luận   rằng, Trung Quốc hiện quá mạnh, đã đến lúc phải đòi Trung Quốc thay đổi chính   sách vụ lợi về định giá tiền tệ, bảo vệ sở hữu trí tuệ và các vấn đề nhân   quyền. 
Nhưng   thay đổi hướng đi của Mỹ và châu Âu trong lúc này có thể là bước đi không   thích hợp. | 
| 
Although   China may look like a rising economic and political competitor today, that   situation could quickly reverse. The wildly erroneous predictions of “Japan   as #1” three decades ago should warn the outside world not to over-react to   the “China threat.” Punitive U.S. measures in response to China’s   mercantilist trade and currency policies and disregard for intellectual   property rights, however justifiable on the merits, could create the   impression in China that the US has created, or at least hastened and   deepened its economic stagnation. The United States should avoid providing   the CPC regime any excuse to claim the United States is the cause of China’s   woes. If the Chinese people as a whole ever adopt that view, U.S.-China   relations could be poisoned for decades.  | 
Mặc   dù Trung Quốc hiện nay có vẻ giống một đối thủ chính trị và kinh tế đang trỗi   dậy, tình trạng đó có thể nhanh chóng bị đảo ngược. Các dự đoán sai lầm về   “Nhật Bản là số một” cách nay ba thập niên, nên dùng để cảnh báo thế giới bên   ngoài, không nên phản ứng quá mức về “mối đe dọa Trung Quốc“. Các biện pháp   trừng phạt của Hoa Kỳ trong việc đáp trả chính sách vụ lợi về tiền tệ và trao   đổi mậu dịch, cũng như không tuân thủ các quyền sở hữu trí tuệ, cho dù chính   đáng, nhưng có thể gây ấn tượng ở Trung Quốc, rằng Hoa Kỳ đã tạo ra, hay ít   nhất cũng đã thúc đẩy và làm cho kinh tế Trung Quốc suy thoái trầm trọng hơn.   Hoa Kỳ nên tránh, không để cho ÐCSTQ có bất cứ lý do nào cáo buộc Hoa Kỳ là   nguyên nhân gây ra các tai họa ở Trung Quốc. Nếu toàn bộ người dân Trung Quốc   xem Mỹ là nguyên nhân gây ra tai họa, thì quan hệ Mỹ – Trung có thể bị hủy   hoại trong nhiều thập kỷ.   | 
| 
The   United States and the international community should also recognize that, as   China’s economy deteriorates, any confrontational military maneuvers are   likely to be met with escalation rather than compromise. Confrontation would   tempt a struggling CPC regime to adopt a jingoistic, rally-’round-the-flag   patriotism. The CPC regime already inculcates and makes political use of   anti-Japanese feelings among Chinese born long after the end of World War II.   “Foreign threats” would serve both to encourage public unity and to justify   crushing whatever real or perceived internal opposition exists. It would also   favor increased military expenditures and distract people from adverse   economic and ecological developments. The United States should make serious   efforts to avoid becoming the new enemy. It will need to tread carefully to   avoid making China’s economic decline worse both for China and the rest of   the world.   | 
Hoa   Kỳ và cộng đồng quốc tế cũng nên nhìn nhận rằng, khi kinh tế Trung Quốc xấu   đi, bất kỳ sự vận động quân sự mang tính đối đầu nào cũng dễ gặp phải sự leo   thang [chống đối], hơn là sự nhân nhượng. Sự đối đầu có thể đẩy chế độ CSTQ   vốn đang chật vật, thực hiện chủ nghĩa yêu nước hiếu chiến, tập hợp dân chúng   đứng lên. Chế độ CSTQ đã tẩy não người dân và sử dụng tình cảm chống Nhật như   mục đích chính trị đối với những người Trung Quốc sinh ra sau Đệ nhị Thế   chiến rất lâu. Chiêu bài “mối đe doạ ngoại bang” sẽ được dùng để cổ vũ dân   chúng đoàn kết, cũng như biện hộ cho bất kỳ sự đàn áp nào đối với thành phần   đối lập trong nội bộ xuất hiện, dù đó là sự chống đối thực hay chỉ là   cảm  nhận. Chế độ CSTQ cũng ưu tiên gia   tăng chi tiêu quốc phòng và đánh lạc hướng quần chúng khỏi các diễn biến bất   lợi về sinh thái cũng như kinh tế. Hoa Kỳ nên thật sự cố gắng, tránh trở   thành kẻ thù mới của Trung Quốc. Mỹ cần đi những bước thận trọng để tránh làm   cho sự suy thoái kinh tế ở Trung Quốc càng tồi tệ hơn, cho cả Trung Quốc lẫn   các nước còn lại trên thế giới.   | 
| 
Foreign   Policy in Focus | 
Translated by Nguyễn Trùng Dương | 
| 
Ghi   chú của editor: 
(*) China’s desire for international   respectability, along with a deep cultural bias favoring consensus,   discourages anything more radical than “muddling through”: Do văn hóa Trung   Quốc không chấp nhận sự khác biệt, nên tất cả mọi người phải đồng thuận về   một vấn đề nào đó thì mới thông qua. Trên thực tế, con người vốn sinh ra đã   không giống nhau, nên rất khó có thể tìm sự đồng thuận của tất cả mọi người   trong cùng một vấn đề. Vì không chấp nhận ý kiến khác biệt, nên Trung Quốc   không thể thực hiện những quyết định lớn, bởi thiếu sự đồng thuận của tất cả   mọi người, mà chỉ có thể thực hiện những việc nhỏ. Điều này hoàn toàn trái   ngược với văn hóa Mỹ và phương Tây: chấp nhận sự khác biệt. | |
