MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Sunday, March 5, 2017

Can Putin Survive? Liệu Putin có thể sống sót?



Can Putin Survive?

Liệu Putin có thể sống sót?

George Friedman
Geopolitical Weekly
MARCH 17, 2015
George Friedman
Geopolitical Weekly
17/3/2015
Editor's Note: This week, we revisit a Geopolitical Weekly first published in July 2014 that explored whether Russian President Vladimir Putin could hold on to power despite his miscalculations in Ukraine, a topic that returned to prominence with his recent temporary absence from public view. While Putin has since reappeared, the issues highlighted by his disappearing act persist.

Lưu ý của biên tập viên: Tuần này, chúng tôi lại một địa chính trị trong tuần đầu tiên công bố vào tháng năm 2014 có khám phá ra rằng Tổng thống Nga Vladimir Putin có thể duy trì quyền lực mặc dù tính toán sai lầm của ông ở Ukraine, một chủ đề mà trở nên nổi tiếng với sự vắng mặt tạm thời gần đây của mình trước công chúng. Trong khi Tổng thống Putin đã xuất hiện trở lại kể từ khi, những vấn đề nổi bật bởi hành động biến mất của ông vẫn tồn tại.


There is a general view that Vladimir Putin governs the Russian Federation as a dictator, that he has defeated and intimidated his opponents and that he has marshaled a powerful threat to surrounding countries. This is a reasonable view, but perhaps it should be re-evaluated in the context of recent events.

Nhiều người cho rằng Vladimir Putin điều hành nước Nga như một kẻ độc tài, từng uy hiếp và loại trừ những kẻ chống đối, đồng thời tạo ra một mối đe dọa lớn đối với những nước xung quanh. Đó là một quan điểm hợp lý, nhưng có lẽ nó cần được suy xét lại trong hoàn cảnh những sự kiện gần đây.

Ukraine and the Bid to Reverse Russia's Decline

Ukraine is, of course, the place to start. The country is vital to Russia as a buffer against the West and as a route for delivering energy to Europe, which is the foundation of the Russian economy. On Jan. 1, Ukraine's president was Viktor Yanukovich, generally regarded as favorably inclined to Russia. Given the complexity of Ukrainian society and politics, it would be unreasonable to say Ukraine under him was merely a Russian puppet. But it is fair to say that under Yanukovich and his supporters, fundamental Russian interests in Ukraine were secure.

Ukraine và nỗ lực để đảo ngược sự suy thoái của nước Nga
Trước hết hiển nhiên phải bắt đầu từ Ukraine. Đây là quốc gia có ý nghĩa chiến lược quan trọng, được Nga xem như một nước đệm để chống lại phương Tây, và là con đường vận chuyển năng lượng sang châu Âu – một yếu tố nền tảng của kinh tế Nga. Ngày 1/1, Viktor Yanukovich, một người được xem là có thiên hướng thân Nga, vẫn là Tổng thống Ukraine. Với sự phức tạp của xã hội và chính trị Ukraine thì cũng khó để nói rằng, dưới sự cầm quyền của Yanukovich, Ukraine đơn giản chỉ là một con rối của Nga. Nhưng có thể nói khi Yanukovich và đồng sự còn đương nhiệm thì những lợi ích cơ bản của Nga tại Ukraine đã được bảo đảm.

This was extremely important to Putin. Part of the reason Putin had replaced Boris Yeltsin in 2000 was Yeltsin's performance during the Kosovo war. Russia was allied with the Serbs and had not wanted NATO to launch a war against Serbia. Russian wishes were disregarded. The Russian views simply didn't matter to the West. Still, when the air war failed to force Belgrade's capitulation, the Russians negotiated a settlement that allowed U.S. and other NATO troops to enter and administer Kosovo. As part of that settlement, Russian troops were promised a significant part in peacekeeping in Kosovo. But the Russians were never allowed to take up that role, and Yeltsin proved unable to respond to the insult.

Điều này cực kỳ quan trọng đối với Putin. Putin thay thế Boris Yeltsin vào năm 2000 một phần là do “thành tích” điều hành của Yeltsin trong chiến tranh Kosovo. Nước Nga lúc ấy đã liên minh với người Serbia và trước đó không muốn NATO khởi động cuộc chiến chống lại nước này. Tuy nhiên những yêu sách của Nga đã bị phương Tây phớt lờ. Mặt khác, khi cuộc không kích không đủ ép Belgrade đầu hàng, Moscow đã thương lượng một thỏa hiệp cho phép Mỹ và quân NATO thâm nhập và quản lý Kosovo. Theo thỏa thuận, quân đội Nga được hứa hẹn sẽ đóng một vai trò chính yếu trong việc gìn giữ hòa bình ở Kosovo. Tuy nhiên, trên thực tế quân Nga đã không bao giờ được cho phép thực thi vai trò đó. Yeltsin khi ấy đã không thể đáp trả lại sự sỉ nhục này.

Putin also replaced Yeltsin because of the disastrous state of the Russian economy. Though Russia had always been poor, there was a pervasive sense that it been a force to be reckoned with in international affairs. Under Yeltsin, however, Russia had become even poorer and was now held in contempt in international affairs. Putin had to deal with both issues. He took a long time before moving to recreate Russian power, though he said early on that the fall of the Soviet Union had been the greatest geopolitical disaster of the 20th century. This did not mean he wanted to resurrect the Soviet Union in its failed form, but rather that he wanted Russian power to be taken seriously again, and he wanted to protect and enhance Russian national interests.

Putin lên thay Yeltsin cũng vì tình trạng kinh tế thảm khốc của Nga. Tuy nước này trước nay vẫn nghèo, có một cảm giác rộng khắp là dẫu sao Nga cũng là một lực lượng cần được thừa nhận trên trường quốc tế. Tuy nhiên dưới thời Yeltsin, Nga càng nghèo hơn và bị quốc tế rẻ rúng. Putin phải giải quyết cả hai vấn đề này. Ông ta mất một thời gian dài để khôi phục lại sức mạnh của Nga mặc dù trước đó Putin đã nói sự sụp đổ của Liên Xô là tai họa địa chính trị lớn nhất của thế kỷ 20. Điều này không có nghĩa là ông ta muốn gầy dựng lại một Liên Xô đã tan rã, mà muốn sức mạnh của Nga được coi trọng trở lại, và ông muốn bảo vệ và phát huy những lợi ích quốc gia của Nga.

The breaking point came in Ukraine during the Orange Revolution of 2004. Yanukovich was elected president that year under dubious circumstances, but demonstrators forced him to submit to a second election. He lost, and a pro-Western government took office. At that time, Putin accused the CIA and other Western intelligence agencies of having organized the demonstrations. Fairly publicly, this was the point when Putin became convinced that the West intended to destroy the Russian Federation, sending it the way of the Soviet Union. For him, Ukraine's importance to Russia was self-evident. He therefore believed that the CIA organized the demonstration to put Russia in a dangerous position, and that the only reason for this was the overarching desire to cripple or destroy Russia. Following the Kosovo affair, Putin publicly moved from suspicion to hostility to the West.


Tình thế thay đổi khi Cách mạng Cam xảy ra tại Ukraine vào năm 2004. Năm đó, Yanukovich được bầu làm tổng thống trong tình trạng đầy uẩn khúc, và những người biểu tình đã buộc ông ta phải chấp nhận cuộc bầu cử lần hai. Kết quả là ông ta thất cử, và chính phủ thân phương Tây lên nắm quyền. Khi đó Putin cáo buộc rằng CIA và các tổ chức tình báo phương Tây đã dàn xếp các cuộc biểu tình. Một cách tương đối công khai, Putin cho rằng đây là thời điểm mà phương Tây có ý định phá hủy Liên bang Nga như đã từng làm với Liên bang Xô Viết. Tầm quan trọng của Ukraine đối với Nga là hiển nhiên. Vì thế Putin cho rằng CIA đã đứng sau các cuộc biểu tình ở Ukraine để đẩy Nga vào tình thế nguy hiểm, và điều này chỉ có thể được lý giải bởi mong muốn làm cho nước Nga sụp đổ. Sau sự kiện Kosovo, Putin đã ra mặt chuyển thái độ từ nghi ngờ sang thù địch đối với phương Tây.

The Russians worked from 2004 to 2010 to undo the Orange Revolution. They worked to rebuild the Russian military, focus their intelligence apparatus and use whatever economic influence they had to reshape their relationship with Ukraine. If they couldn't control Ukraine, they did not want it to be controlled by the United States and Europe. This was, of course, not their only international interest, but it was the pivotal one.

Từ 2004 đến 2010, Nga đã nỗ lực để xoay chuyển tình thế của cuộc Cách mạng Cam. Nga đã xây dựng lại quân đội, tập trung vào bộ máy tình báo, và tận dụng mọi ảnh hưởng về kinh tế để cải thiện quan hệ với Ukraine. Giả sử người Nga không thể kiểm soát được Ukraine, họ cũng không muốn để Mỹ và phương Tây làm được điều đó. Đây tất nhiên là lợi ích ngoại giao thiết yếu, tuy không phải là duy nhất của Nga.


Russia's invasion of Georgia had more to do with Ukraine than it had to do with the Caucasus. At the time, the United States was still bogged down in Iraq and Afghanistan. While Washington had no formal obligation to Georgia, there were close ties and implicit guarantees. The invasion of Georgia was designed to do two things. The first was to show the region that the Russian military, which had been in shambles in 2000, was able to act decisively in 2008. The second was to demonstrate to the region, and particularly to Kiev, that American guarantees, explicit or implicit, had no value. In 2010, Yanukovich was elected president of Ukraine, reversing the Orange Revolution and limiting Western influence in the country.

Việc Nga xâm lược Grudia có liên quan nhiều đến Ukraine hơn là vùng Caucasus (Cap-ca-dơ). Lúc đó Mỹ vẫn đang lấn sâu vào cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan. Dù Washington không có những ràng buộc chính thức với Grudia, nhưng hai bên có mối quan hệ khá thân thiết và có những đảm bảo ngầm. Nga có hai mục tiêu khi xâm chiếm Grudia. Thứ nhất, Nga muốn cho khu vực thấy rằng quân đội Nga đã phục hồi trở lại sau tình trạng lộn xộn hồi năm 2000, và đến 2008 đã có thể hành động quả quyết. Thứ hai là chứng minh cho khu vực mà đặc biệt là Kiev, rằng những bảo đảm của Hoa Kỳ, dù là công khai hay ẩn ý, cũng không hề có giá trị. Năm 2010, Yanukovich thắng cử trở thành tổng thống Ukraine, lật ngược tình thế thời Cách mạng Cam và từ đó hạn chế ảnh hưởng của phương Tây lên đất nước này.

Recognizing the rift that was developing with Russia and the general trend against the United States in the region, the Obama administration tried to recreate older models of relationships when Hillary Clinton presented Putin with a "reset" button in 2009. But Washington wanted to restore the relationship in place during what Putin regarded as the "bad old days." He naturally had no interest in such a reset. Instead, he saw the United States as having adopted a defensive posture, and he intended to exploit his advantage.

Khi nhận ra vết nứt ngày càng sâu rộng với Nga và xu hướng lánh xa Hoa Kỳ trong khu vực, chính quyền Obama đã nỗ lực tái tạo lại nhưng mối quan hệ trước đây khi Hillary Clinton đề nghị với Putin một “nút tái khởi động” quan hệ vào năm 2009. Nhưng Washington muốn phục hồi mối quan hệ trở lại thời điểm mà Putin cho là “những ngày xưa tồi tệ”. Theo lẽ tự nhiên, Putin không hề hứng thú với đề nghị này. Thay vào đó, ông ta nhận thấy động thái mang tính phòng thủ từ phía Hoa Kỳ, và dự định sẽ khai thác lợi thế của mình.
One place he did so was in Europe, using EU dependence on Russian energy to grow closer to the Continent, particularly Germany. But his high point came during the Syrian affair, when the Obama administration threatened airstrikes after Damascus used chemical weapons only to back off from its threat. The Russians aggressively opposed Obama's move, proposing a process of negotiations instead. The Russians emerged from the crisis appearing decisive and capable, the United States indecisive and feckless. Russian power accordingly appeared on the rise, and in spite of a weakening economy, this boosted Putin's standing.

Thế là Putin bắt đầu từ châu Âu, sử dụng sự phụ thuộc của Liên minh châu Âu vào nguồn năng lượng của Nga để thắt chặt quan hệ với khu vực, đặc biệt là Đức. Nhưng thời cơ chỉ đến trong giai đoạn chiến sự ở Syria. Lúc đó chính quyền Obama đe dọa sẽ không kích sau khi Damascus sử dụng vũ khí hóa học, để rồi về sau rút lại lời đe dọa đó. Nga đã phản đối mạnh mẽ động thái của Obama và thay vào đó đề nghị một tiến trình hòa giải. Như vậy, sau cuộc khủng hoảng chính trị ở Syria, Nga tỏ ra quyết đoán và có khả năng, trong khi Mỹ lại thiếu quyết đoán và vô dụng. Sức mạnh của Nga theo đó mà vươn lên và vị thế của Putin cũng được nâng cao, mặc cho nền kinh tế đang suy yếu.

The Tide Turns Against Putin

Events in Ukraine this year, by contrast, have proved devastating to Putin. In January, Russia dominated Ukraine. By February, Yanukovich had fled the country and a pro-Western government had taken power. The general uprising against Kiev that Putin had been expecting in eastern Ukraine after Yanukovich's ouster never happened. Meanwhile, the Kiev government, with Western advisers, implanted itself more firmly. By July, the Russians controlled only small parts of Ukraine. These included Crimea, where the Russians had always held overwhelming military force by virtue of treaty, and a triangle of territory from Donetsk to Luhansk to Severodonetsk, where a small number of insurgents apparently supported by Russian special operations forces controlled a dozen or so towns.

Gió đổi chiều bất lợi cho Putin

Những diễn biến ở Ukraine năm nay là thảm họa đối với Putin. Hồi tháng 1, Nga vẫn chi phối Ukraine. Đến tháng 2, Yanukovich chạy trốn khỏi Ukraine và chính phủ thân phương Tây lên nắm quyền. Putin mong đợi sẽ có một làn sóng nổi dậy chống chính quyền lâm thời từ miền Đông Ukraine sau khi Yanukovich bị lật đổ, nhưng điều này đã không xảy ra. Trong khi đó, chính phủ Kiev đã tự củng cố quyền hành với sự hỗ trợ của nhóm cố vấn phương Tây. Đến tháng 7, Nga chỉ kiểm soát vài khu vực nhỏ của Ukraine. Khu vực này bao gồm Crimea, nơi mà quân đội Nga trước nay vẫn toàn quyền chiếm cứ trên danh nghĩa hiệp ước, và một tam giác trải từ Donetsk đến Luhansk và Severodonetsk, những nơi mà một số nhỏ phiến quân kiểm soát khoảng hơn một chục thị trấn, rõ ràng với sự hỗ trợ từ lực lượng đặc nhiệm của Nga.

If no Ukrainian uprising occurred, Putin's strategy was to allow the government in Kiev to unravel of its own accord and to split the United States from Europe by exploiting Russia's strong trade and energy ties with the Continent. And this is where the crash of the Malaysia Airlines jet is crucial. If it turns out — as appears to be the case — that Russia supplied air defense systems to the separatists and sent crews to man them (since operating those systems requires extensive training), Russia could be held responsible for shooting down the plane. And this means Moscow's ability to divide the Europeans from the Americans would decline. Putin then moves from being an effective, sophisticated ruler who ruthlessly uses power to being a dangerous incompetent supporting a hopeless insurrection with wholly inappropriate weapons. And the West, no matter how opposed some countries might be to a split with Putin, must come to grips with how effective and rational he really is.

Nếu không có cuộc nổi dậy nào xảy ra, chiến thuật của Putin là để mặc cho chính phủ Kiev tự tan rã, đồng thời tách Mỹ ra khỏi châu Âu bằng cách lợi dụng những liên kết chặt chẽ về thương mại và năng lượng của Nga với khu vực. Đến lúc này thì tai nạn máy bay của Malaysia Airlines trở nên then chốt. Nếu quả thực Nga đã cung cấp hệ thống phòng không cho quân ly khai và đưa người vào để điều khiển hệ thống đó (bởi việc điều khiển đòi hỏi quá trình huấn luyện kỹ càng), thì Nga sẽ phải chịu trách nhiệm trong việc bắn rơi máy bay. Điều đó có nghĩa là chiến thuật tách châu Âu ra khỏi Hoa Kỳ cũng khó mà đạt được. Putin theo đó cũng thay đổi: từ một lãnh đạo có năng lực, sắc sảo, một người sử dụng quyền lực một cách tàn nhẫn, trở thành một kẻ bất lực nguy hiểm, tiếp tay cho một cuộc nổi loạn vô vọng với những vũ khí hoàn toàn bị đặt nhầm chỗ. Và dù một số nước có thể phản đối việc đối đầu với Putin nhưng phương Tây đã phải chấp nhận thực tế về mức độ “hiệu quả” và “lý trí” của ông ta.

Meanwhile, Putin must consider the fate of his predecessors. Nikita Khrushchev returned from vacation in October 1964 to find himself replaced by his protege, Leonid Brezhnev, and facing charges of, among other things, "harebrained scheming." Khrushchev had recently been humiliated in the Cuban missile crisis. This plus his failure to move the economy forward after about a decade in power saw his closest colleagues "retire" him. A massive setback in foreign affairs and economic failures had resulted in an apparently unassailable figure being deposed.


Trong khi đó, Putin phải suy ngẫm về kết cục của những người tiền nhiệm. Nikita Khrushchev trở về nước sau kỳ nghỉ năm 1964 chỉ để nhận ra mình đã bị thay thế bởi người mình bảo hộ là Leonid Brezhnev, rồi bị kết tội “tính toán khinh suất” (“harebrained scheming”) bên cạnh những cáo buộc khác. Không lâu trước đó, Khrushchev đã bị mất mặt vì vụ khủng hoảng tên lửa Cuba. Thêm vào đó, thất bại trong việc phát triển kinh tế sau một thập kỷ nắm quyền cũng khiến cho những đồng sự thân cận nhất cho ông ta “về hưu”. Bước trượt dài trong ngoại giao và kinh tế đã khiến cho một nhân vật lừng lẫy như thế cuối cùng bị phế truất.

Russia's economic situation is nowhere near as catastrophic as it was under Khrushchev or Yeltsin, but it has deteriorated substantially recently, and perhaps more important, has failed to meet expectations. After recovering from the 2008 crisis, Russia has seen several years of declining gross domestic product growth rates, and its central bank is forecasting zero growth this year. Given current pressures, we would guess the Russian economy will slide into recession sometime in 2014. The debt levels of regional governments have doubled in the past four years, and several regions are close to bankruptcy. Moreover, some metals and mining firms are facing bankruptcy. The Ukrainian crisis has made things worse. Capital flight from Russia in the first six months stood at $76 billion, compared to $63 billion for all of 2013. Foreign direct investment fell 50 percent in the first half of 2014 compared to the same period in 2013. And all this happened in spite of oil prices remaining higher than $100 per barrel.

Kinh tế của Nga nay tuy không thảm hại như thời Khrushchev hay Yeltsin, nhưng gần đây đang lao dốc và quan trọng hơn là không đáp ứng được mong đợi. Sau khi phục hồi từ khủng hoảng năm 2008, tỉ lệ tăng trưởng GDP của Nga đã giảm đi, và theo dự đoán của ngân hàng trung ương thì năm nay GDP sẽ không tăng. Với những khó khăn và áp lực hiện tại, chúng tôi đoán là kinh tế Nga sẽ sớm rơi vào khủng hoảng trong năm 2014. Mức nợ của chính quyền địa phương đã tăng gấp đôi trong vòng 4 năm qua, và có vài nơi đang ở gần bờ vực phá sản. Một số hãng khai khoáng và luyện kim cũng tương tự. Khủng hoảng chính trị ở Ukraine càng làm cho tình hình tồi tệ hơn. Chỉ 6 tháng đầu năm nay, dòng vốn chảy ra khỏi Nga đã lên tới 76 tỉ đô la, trong khi con số này ở mức 63 tỉ cho cả năm 2013. Đầu tư nước ngoài giảm 50% trong nửa đầu năm 2014 so với cùng kỳ năm 2013. Việc giá dầu vẫn đạt mức cao 100 đô la/thùng vẫn không thể cứu vãn được tình hình.


Putin's popularity at home soared after the successful Sochi Winter Olympics and after the Western media made him look like the aggressor in Crimea. He has, after all, built his reputation on being tough and aggressive. But as the reality of the situation in Ukraine becomes more obvious, the great victory will be seen as covering a retreat coming at a time of serious economic problems. For many leaders, the events in Ukraine would not represent such an immense challenge. But Putin has built his image on a tough foreign policy, and the economy meant his ratings were not very high before Ukraine.

Sự ủng hộ trong nước với Putin đã tăng lên sau thành công của Thế Vận hội mùa đông Sochi, và sau khi báo đài phương Tây khiến Putin trông như một kẻ xâm lược ở Crimea. Dẫu sao thì Putin cũng luôn gây dựng danh tiếng cho mình qua sự cứng rắn và hung hăng. Nhưng khi thực tế ở Ukraine càng rõ ràng hơn, thắng lợi vĩ đại này sẽ được coi như là nhằm che đậy một sự thoái lui trong giai đoạn kinh tế đang nguy khốn.  Đối với nhiều nhà lãnh đạo thì sự kiện ở Ukraine không mang lại một thách thức lớn đến vậy. Nhưng với Putin thì khác, bởi ông ta đã gắn hình ảnh của mình với chính sách ngoại giao cứng rắn, và hơn nữa, tình trạng kinh tế đồng nghĩa với việc tỉ lệ ủng hộ đối với Putin cũng không được cao trước khi khủng hoảng Ukraine xảy ra.

Imagining Russia After Putin

In the sort of regime that Putin has helped craft, the democratic process may not be the key to understanding what will happen next. Putin has restored Soviet elements to the structure of the government, even using the term "Politburo" for his inner Cabinets. These are all men of his choosing, of course, and so one might assume they would be loyal to him. But in the Soviet-style Politburo, close colleagues were frequently the most feared.

Viễn cảnh nước Nga thời hậu Putin

Dưới thể chế mà Putin đang góp công gầy dựng, quá trình dân chủ dường như không phải là chìa khóa để hiểu được những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Putin đã khôi phục những đặc tính thời Liên Xô trong cơ cấu chính phủ, và dùng cả từ “Bộ Chính trị” (“Politburo”) cho những nhóm nội các bên trong. Tất nhiên đây là nhóm những người được Putin đích thân chọn lựa và được cho là sẽ trung thành với ông ta. Nhưng nếu nhìn lại “Bộ Chính trị” kiểu Liên Xô, những người đồng sự thân cận thường là những kẻ đáng sợ nhất.

The Politburo model is designed for a leader to build coalitions among factions. Putin has been very good at doing that, but then he has been very successful at all the things he has done until now. His ability to hold things together declines as trust in his abilities declines and various factions concerned about the consequences of remaining closely tied to a failing leader start to maneuver. Like Khrushchev, who was failing in economic and foreign policy, Putin could have his colleagues remove him.


Mô hình Bộ Chính trị được thiết lập để giúp nhà lãnh đạo tập hợp đồng minh từ các bè phái. Putin rất giỏi việc này, và cũng rất thành công trong những gì ông đã làm cho đến nay. Tuy nhiên, khả năng gắn kết mọi thứ của Putin sẽ giảm đi khi niềm tin với khả năng đó suy giảm, và khi các phe cánh bắt đầu tìm cách ra tay do lo ngại về việc tiếp tục gắn kết với một lãnh đạo đang thất thế. Giống như Khrushchev, người từng thất bại trong chính sách kinh tế và đối ngoại, Putin cũng có thể bị chính đồng sự của mình phế truất.

It is difficult to know how a succession crisis would play out, given that the constitutional process of succession exists alongside the informal government Putin has created. From a democratic standpoint, Defense Minister Sergei Shoigu and Moscow Mayor Sergei Sobyanin are as popular as Putin is, and I suspect they both will become more popular in time. In a Soviet-style struggle, Chief of Staff Sergei Ivanov and Security Council Chief Nicolai Patryushev would be possible contenders. But there are others. Who, after all, expected the emergence of Mikhail Gorbachev?

Thật khó để biết một cuộc khủng hoảng thừa kế sẽ xảy ra thế nào, khi mà quá trình thừa kế theo hiến pháp tồn tại song song với chính phủ không chính thức của Putin. Xét theo lập trường dân chủ, Bộ trưởng Quốc phòng Sergei Shoigu và Thống đốc Moscow Sergei Sobyanin cũng được lòng dân như Putin, và tôi đoán là họ sẽ sớm được ủng hộ nhiều hơn nữa. Nếu xét theo kiểu tranh giành quyền lực thời Xô Viết, Chủ nhiệm Văn phòng Tổng thống Sergei Ivanov và Chủ tịch Hội đồng An ninh Nicolai Patryushev cũng là những đối thủ tiềm năng. Nhưng vẫn còn có những người khác nữa. Rốt cục, có mấy ai dự đoán được sự nổi lên của Mikhail Gorbachev?

Ultimately, politicians who miscalculate and mismanage tend not to survive. Putin miscalculated in Ukraine, failing to anticipate the fall of an ally, failing to respond effectively and then stumbling badly in trying to recoup. His management of the economy has not been exemplary of late either, to say the least. He has colleagues who believe they could do a better job, and now there are important people in Europe who would be glad to see him go. He must reverse this tide rapidly, or he may be replaced.

Những nhà chính trị gặp sai lầm trong tính toán và điều hành thì cuối cùng khó mà tồn tại được. Putin đã toan tính sai ở Ukraine, khi không dự đoán được sự sụp đổ của một đồng minh, để không phản ứng được một cách hiệu quả rồi sau đó là gặp cú vấp nặng nề khi cố gắng tái diễn cuộc đảo chính. Việc điều hành kinh tế của Putin gần đây cũng không có gì đáng kể. Các đồng sự của ông tin rằng họ có thể làm tốt hơn, và giờ đây có những người quan trọng ở châu Âu sẽ vui mừng nếu ông mất chức. Putin phải nhanh chóng đảo ngược tình hình, nếu không ông có thể bị thay thế.

Putin is far from finished. But he has governed for 14 years counting the time Dmitri Medvedev was officially in charge, and that is a long time. He may well regain his footing, but as things stand at the moment, I would expect quiet thoughts to be stirring in his colleagues' minds. Putin himself must be re-examining his options daily. Retreating in the face of the West and accepting the status quo in Ukraine would be difficult, given that the Kosovo issue that helped propel him to power and given what he has said about Ukraine over the years. But the current situation cannot sustain itself. The wild card in this situation is that if Putin finds himself in serious political trouble, he might become more rather than less aggressive. Whether Putin is in real trouble is not something I can be certain of, but too many things have gone wrong for him lately for me not to consider the possibility. And as in any political crisis, more and more extreme options are contemplated if the situation deteriorates.

Putin vẫn còn lâu mới hết thời. Nhưng ông ta đã điều hành trong suốt 14 năm, tính cả lúc Dmitri Medvedev chính thức nắm quyền, và đó là một quãng thời gian dài. Putin có thể khôn khéo phục hồi lại chỗ đứng, nhưng theo tình hình hiện nay, tôi đoán là những suy nghĩ âm thầm đang dấy lên trong đầu những đồng sự của ông ta. Chính Putin mỗi ngày phải cân nhắc lại những lựa chọn của mình. Việc lùi bước trước phương Tây và chấp nhận nguyên trạng ở Ukraine quả là khó khăn, khi xét đến việc Kosovo ngày trước đã tạo bệ phóng quyền lực cho ông cũng như những phát biểu của ông về Ukraine trong nhiều năm qua. Nhưng không có gì chắc chắn về tình hình hiện tại. Nước bài ẩn trong tình huống này là nếu Putin nhận thấy mình đang gặp rắc rối nghiêm trọng, ông ta có thể trở nên càng hung hăng hơn. Tôi không thể chắc chắn liệu Putin có gặp rắc rối thật sự hay không, nhưng đó là một khả năng khi mà gần đây có quá nhiều thứ xảy ra bất lợi với ông ta. Cũng như trong bất cứ cuộc khủng hoảng chính trị nào, những lựa chọn ngày càng cực đoan sẽ được xem xét khi tình hình diễn tiến xấu đi.

Those who think that Putin is both the most repressive and aggressive Russian leader imaginable should bear in mind that this is far from the case. Lenin, for example, was fearsome. But Stalin was much worse. There may similarly come a time when the world looks at the Putin era as a time of liberality. For if the struggle by Putin to survive, and by his challengers to displace him, becomes more intense, the willingness of all to become more brutal might well increase.

Những ai từng nghĩ rằng Putin là nhà lãnh đạo Nga áp bức và hung hăng nhất thì nên xem lại vì điều này không đúng. Ví dụ, Lenin rất đáng sợ. Nhưng Stalin càng tệ hơn. Tương tự, rồi đến một lúc nào đó, thế giới sẽ nhìn lại thời Putin như một giai đoạn phóng khoáng tự do. Nếu cuộc tranh đấu giữa một bên là Putin để sống sót và bên kia là những kẻ thách thức để thay thế ông ta trở nên gay gắt hơn thì khả năng là tất cả các bên sẽ càng sẵn lòng trở nên ngày một tàn nhẫn hơn.






Translated by Nguyễn Phương Tú


https://www.stratfor.com/weekly/can-putin-survive#axzz39JiWDijf

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn