MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Monday, October 19, 2015

VIETNAM’S BOOK PEOPLE A new exodus is taking place from Vietnam. Tị nạn giáo dục: Một làn sóng di dân mới đang thoát khỏi Việt Nam

VIETNAM’S BOOK PEOPLE
A new exodus is taking place from Vietnam.

Tị nạn giáo dục: Một làn sóng di dân mới đang thoát khỏi Việt Nam



Vietnam National Economics University
Trường ĐH Kinh tế-ĐHQG


By Kris Hartley
The Diplomat
October 04, 2015

Kris Hartley
The Diplomat
04-10-2015

More than two decades after the emigration of Vietnam’s “boat people” reached its apex, a new exodus is underway. Increasing numbers of university-aged Vietnamese students are pursuing degrees abroad. These new emigrants – who can perhaps be termed “Book People” – see high value in degrees from American, British, and Australian schools. Further, many remain in their host countries after graduation, attracted by high paying jobs matching their skill sets. Two factors can reverse this loss of talent: growth in domestically owned high-value-added industries and continued improvement of domestic universities. These strategies could also be a roadmap for the many countries facing similar emigration challenges.

Hơn hai thập niên sau cuộc di cư của “thuyền nhân” Việt Nam đạt mức cao nhất, một cuộc di cư mới lại đang diễn ra. Ngày càng có nhiều sinh viên Việt Nam ở độ tuổi đại học đang tìm kiếm bằng cấp ở nước ngoài. Những di dân mới – có thể được gọi là “book people” – nhận biết giá trị cao của bằng cấp từ trường học ở Mỹ, Anh và Úc. Hơn nữa, nhiều người đã ở lại các nước mà họ theo học sau khi tốt nghiệp, do bị thu hút bởi các công việc lương cao, phù hợp với năng khiếu của họ. Có hai phương cách có thể đảo ngược tình trạng chảy máu tài năng này: sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp quốc nội có giá trị gia tăng cao và tiếp tục cải thiện các trường đại học quốc nội. Hai chiến lược này cũng có thể là lộ trình cho những nước đang phải đối mặt với những thách thức về di dân tương tự.



According to the Pew Research Center, the number of Vietnamese students studying in the United States increased sevenfold between 2000 and 2014 (from 2,266 to 16,579). The same report shows that more than one third of Vietnamese students in the United States study business. Is this an indictment of Vietnam’s ability to educate the next generation of industry leaders? In a recent article, a former Vietnamese education minister admonished the country’s education system, saying “University education is so bad. Text books are full of unnecessary, tedious theory.” In the same article, a Vietnamese civil servant and mother of overseas students described the system as “all pressure and cheating.” Complaints about rote memorization and stifled creativity are also stubbornly persistent.

Theo Trung tâm Nghiên cứu Pew, số lượng sinh viên Việt Nam du học tại Hoa Kỳ tăng gấp 7 lần từ năm 2000 đến năm 2014 (từ 2.266 đến 16.579). Thăm dò này cho thấy rằng, hơn một phần ba số sinh viên Việt Nam ở Mỹ học về kinh doanh. Đây có phải là một bằng chứng về khả năng tệ hại của Việt Nam trong việc giáo dục những nhà lãnh đạo công nghiệp cho thế hệ kế tiếp? Trong một bài báo gần đây, một cựu bộ trưởng giáo dục Việt Nam than phiền về hệ thống giáo dục của đất nước, đã nói rằng “Giáo dục đại học thật là tệ hại. Sách giáo khoa đầy dẫy lý thuyết tẻ nhạt, không cần thiết”. Trong cùng bài báo, một nữ công chức Việt Nam và là mẹ của sinh viên du học mô tả hệ thống “toàn là thúc ép và dối trá”. Than phiền về việc học vẹt và bóp nghẹt sáng tạo vẫn thường xuyên xảy ra.


In addition to these push-factors, pull-factors are driving the emigration of Book People. Some countries aggressively recruit foreign students to boost tuition revenue. For example, in 2014 the Canadian government announced its intent to double the size of foreign student enrolment to nearly half a million by 2022; Vietnam was identified as a “priority market,” along with China, Brazil, and India. In a September CBC article, a staff member at an Ottawa university (unranked in Canada’s top 50) described the recruitment of foreign students as “fiercely competitive,” indication that demand remains robust even for lesser-known institutions.


Ngoài những yếu tố lực đẩy này, những yếu tố lực kéo cũng đang khuyến khích luồng di cư của dân tị nạn giáo dục. Một số nước tích cực khuyến dụ sinh viên nước ngoài để tăng doanh thu học phí. Ví dụ, vào năm 2014, chính phủ Canada thông báo ý định tăng gấp đôi số lượng ghi danh học của sinh viên nước ngoài lên khoảng nửa triệu vào năm 2022; Việt Nam được xác định là một “thị trường ưu tiên”, cùng với Trung Quốc, Brazil và Ấn Độ. Trong một bài báo tháng 9 trên nhật báo CBC, một nhân viên tại một trường đại học ở Ottawa (không thuộc hàng 50 trường đứng đầu của Canada) đã mô tả việc tuyển dụng sinh viên nước ngoài là sự cạnh tranh rất “khốc liệt”,” dấu hiệu cho thấy nhu cầu vẫn còn nhiều, ngay cả đối với các học viện kém nổi tiếng.


Vietnamese universities are not retreating quietly. Investment in facilities and recruitment of international teaching staff are popular dimensions for competition. A campus construction arms race has recently driven American universities into profligate spending binges on dormitories, sports facilities, and student recreation centers. Many campuses now resemble lavish country clubs, even inspiring new rankings. Not to be outdone, FTP University in Ho Chi Minh City recently unveiled plans for a “green” campus whose architectural grandeur would appear to rival that of the world’s wealthiest universities.


Các đại học Việt Nam cũng không rút lui trong lặng lẽ. Đầu tư vào cơ sở và tuyển dụng đội ngũ giảng viên quốc tế là xu hướng phổ biến trong cạnh tranh. Một cuộc chạy đua xây dựng cơ sở đại học gần đây đã khiến các trường đại học Mỹ nhảy vào cuộc đua xây dựng ký túc xá, sân chơi thể thao, và trung tâm giải trí cho sinh viên. Nhiều phân khoa đại học hiện nay giống như các câu lạc bộ xa hoa của giới trưởng giả, thậm chí được lọt vào các loại xếp hạng mới [thay vì xếp hạng theo học vấn, có loại xếp hạng theo mức tân kỳ của cơ sở học viện]. Không chịu thua kém, Đại học FTP ở thành phố Hồ Chí Minh vừa công bố kế hoạch cho một khuôn viên trường “xanh”, mà kiến trúc hùng vĩ của nó mang lại hình ảnh của các trường đại học giàu có nhất thế giới.


Education is typically relevant in discussions about economic growth. No country wishes to be forced into a labor cost war, because the chase to the bottom produces an untenable competitive position. Higher productivity through skill development is therefore a common strategy. However, high value-added production can be as nomadic as low value-added, and the coming decades are likely to see increased global competition for investment as educational attainment spreads. In economies like Vietnam, industrial production – regardless of its value level – is still driven directly or indirectly by foreign firms. Even a move up the ranks of production value does not change the fact that many industry jobs, including those taken by university-educated engineers, are offered by foreign owner-investors with little interest in host countries besides their labor cost advantage. How can a country move beyond this cycle of value-added leapfrogging?


Giáo dục là vấn đề cần phải đề cập khi thảo luận về tăng trưởng kinh tế. Không một quốc gia nào muốn bị rơi vào một cuộc chiến tranh chi phí lao động rẻ, bởi vì cuộc rượt đuổi ở dưới thấp sẽ tạo ra một vị thế cạnh tranh không bền vững. Do đó năng suất cao thông qua việc phát triển kỹ năng là một chiến lược thông thường. Tuy nhiên, sản xuất [các mặt hàng] giá trị gia tăng cao có thể phải linh động như [các mặt hàng] giá trị gia tăng thấp, và người ta có thể sẽ phải chứng kiến sự cạnh tranh về đầu tư toàn cầu khi nhu cầu tìm kiếm giáo dục lan rộng. Trong nền kinh tế như Việt Nam, sản xuất công nghiệp – bất kể mức giá trị của nó – vẫn còn bị lệ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào các doanh nghiệp nước ngoài. Ngay cả việc tiến lên mức thang giá trị gia tăng cũng không thay đổi thực tế rằng, nhiều việc làm trong ngành công nghiệp, bao gồm cả việc ở cấp kỹ sư, được trường đại học đào tạo, được các nhà đầu tư – chủ sở hữu nước ngoài mướn, chỉ vì lợi thế chi phí lao động rẻ. Làm thế nào một quốc gia có thể thoát ra khỏi chu kỳ giá trị gia tăng này để nhảy vọt được?

High-skill production is ultimately still “line” work; it is neither management nor ownership. Transformative economic growth will not occur until the means of production are owned and managed more by domestic firms than by foreign firms. This is not to suggest that foreign firms have no place in Vietnam. However, the increased presence and competitiveness of domestically owned firms would better circulate profit and capital back into the Vietnamese economy; the country could move away from its reliance on outsourcing and towards self-sufficiency. This perspective advocates neither isolationism nor protectionism. Stronger domestic firms can and should exploit international markets and invest abroad. The absence of trade restrictions and industrial subsidies would also keep competitive pressure on these firms to innovate. To this end, building domestic firm capacity should be a ground-up endeavor, supported by quality education and pro-developmental public policies.


Loại sản xuất kỹ năng cao cuối cùng vẫn là công việc “dây chuyền”; chúng không phải quản trị mà cũng không phải sở hữu. Mô hình tăng trưởng kinh tế chuyển biến sẽ không xảy ra cho đến khi các phương tiện sản xuất thuộc sở hữu và quản lý của nhiều doanh nghiệp quốc nội hơn nước ngoài. Điều này không có nghĩa là các công ty nước ngoài không có phận sự tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự gia tăng số lượng và sự cạnh tranh của các doanh nghiệp quốc nội sẽ giúp luân chuyển lợi nhuận và vốn tốt hơn vào kinh tế Việt Nam; đất nước có thể thoát ra khỏi sự phụ thuộc vào việc thuê mướn bên ngoài và hướng tới tự túc. Quan điểm này không cổ súy chủ nghĩa biệt lập và cũng không bảo hộ mậu dịch. Doanh nghiệp quốc nội mạnh hơn có thể và nên khai thác các thị trường quốc tế và đầu tư ra nước ngoài. Hủy bỏ các hạn chế thương mại và trợ cấp công nghiệp cũng sẽ giữ áp lực cạnh tranh lên các công ty để họ tiếp tục cải tiến. Cuối cùng, xây dựng năng lực cho các doanh nghiệp quốc nội phải là một nỗ lực từ dưới lên, với sự hỗ trợ của những chính sách giáo dục có chất lượng và thiên về phát triển công cộng.


The question is how education can contribute to achieving this goal. Vietnamese students must think entrepreneurially, and the country’s university system should prepare them accordingly. The recent proliferation of business programs – many in for-profit institutions – does not seem to be slowing the exodus of Book People. In a 2013 article, a former RMIT-Vietnam president expressed his surprise about the number of RMIT graduates starting their own businesses. Perhaps Western-style education (within or outside Vietnam) attracts people who are already entrepreneurially inclined, but the skills learned in foreign universities may also be shaping students’ career strategies and business philosophies in new ways.


Câu hỏi đặt ra là, làm thế nào giáo dục có thể góp phần để đạt tới mục tiêu này. Sinh viên Việt Nam phải có đầu óc kinh doanh, và hệ thống đại học của đất nước nên chuẩn bị đầy đủ cho họ. Sự gia tăng gần đây của các chương trình học về kinh doanh – nhiều chương trình trong các học viện tư nhân – dường như không thể làm chậm luồng di cư của người “tị nạn giáo dục”. Trong một bài báo năm 2013, một cựu hiệu trưởng đại học RMIT – Việt Nam, tỏ ra ngạc nhiên về số lượng sinh viên tốt nghiệp của RMIT ra mở cơ sở kinh doanh riêng. Có lẽ kiểu giáo dục Tây Phương (trong hoặc ngoài Việt Nam) thu hút những người đã có khuynh hướng kinh doanh, nhưng các kỹ năng thu thập được ở các trường đại học nước ngoài cũng có thể định hình chiến lược nghề nghiệp và triết lý kinh doanh của sinh viên theo hướng mới.


Vietnam has made remarkable economic progress since the 1986 Doi Moi reforms. Growth would not have been possible without the ingenuity and ambition of the Vietnamese people. Indeed, the country recently improved its global ranking by 19 places (to #54) in the World Intellectual Property Organization’s global innovation index. Further, the country’s secondary school system has recently generated attention for its #12 ranking in the math and science portion of the international PISA tests. However, a worrying portion of Vietnam’s vast and youthful creative potential continues to be lost to the West.


Việt Nam đã đạt được tiến bộ kinh tế đáng kể từ cuộc Đổi Mới năm 1986. Tăng trưởng sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự khéo léo và tham vọng của người dân Việt Nam. Thật vậy, Việt Nam gần đây đã tiến lên 19 bậc (tới thứ 54) trong bảng xếp hạng toàn cầu về sáng tạo của Tổ chức Tài sản Trí tuệ Thế giới. Hơn nữa, hệ thống trường trung học của nước này gần đây đã tạo sự chú ý do đứng thứ 12 về toán và khoa học trong các bài kiểm tra PISA quốc tế. Tuy nhiên, một phần đáng lo ngại về tiềm năng sáng tạo to lớn và trẻ trung của Việt Nam tiếp tục mất mát vào tay phương Tây.


Vietnam must work aggressively to boost the image of its higher education system, not only in the global rankings but also among its own citizens. To compete successfully for talent, domestic universities must continue to fine-tune their curricula and instructional style in the more footloose image of Western universities. This is what the market currently demands, and would be an important step towards transformative economic growth.

Việt Nam phải làm việc tích cực để thúc đẩy hình ảnh hệ thống giáo dục đại học của mình, không chỉ trong bảng xếp hạng toàn cầu mà còn trong số các công dân của mình. Để cạnh tranh thành công về tài năng, các trường đại học trong nước phải tiếp tục chỉnh đốn chương trình và phong cách giảng dạy mang hình ảnh tự do hơn của các trường đại học phương Tây. Đây là những gì thị trường hiện nay đòi hỏi, và sẽ là một bước quan trọng hướng tới sự tăng trưởng kinh tế có năng lực chuyển biến.

Kris Hartley is a Visiting Lecturer in Economics at Vietnam National University – Ho Chi Minh City, and a PhD Candidate at the Lee Kuan Yew School of Public Policy, National University of Singapore.
Kris Hartley là giảng viên thỉnh giảng về Kinh tế tại Đại học Quốc gia Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh, và là một ứng viên tiến sĩ tại Trường Chính sách Công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore.

Translated by Trần Văn Minh
http://thediplomat.com/2015/10/vietnams-book-people/

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn