MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Wednesday, June 20, 2012

The China syndrome Hội chứng Trung Quốc




The China syndrome

Hội chứng Trung Quốc
Jun 9th 2012
9/6/2012

AirSea Battle is now the Pentagon’s priority, but it has its critics

Chiến lược “Chiến tranh Không – Hải” hiện là ưu tiên của Lầu Năm Góc, nhưng chiến lược này vẫn vấp phải không ít chỉ trích.

FOR the best part of a decade, the demands of industrial-scale counter-insurgency campaigns have determined America’s spending priorities and obsessed its strategic thinkers. But now a new military fashion has taken over. Last weekend, at the Shangri-La Dialogue in Singapore for Asian defence ministers, Leon Panetta fleshed out what America’s “rebalance” towards Asia will mean in terms of military resources.


Trong nửa thập kỷ, nhu cầu về các chiến dịch chống nổi dậy ở cấp độ kỹ nghệ đã xác định các ưu tiên chi tiêu của Mỹ và ám ảnh các nhà tư tưởng chiến lược của nước này. Nhưng ngày nay, mốt quân sự mới đã vượt lên trên. Tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã bổ sung  ý nghĩa gì về nguồn lực quân sự của chính sách "tái cân bằng" của Mỹ hướng tới châu Á.

The secretary of defence announced that, by 2020, 60% of America’s warships, including six aircraft-carrier groups, would be stationed in the Asia-Pacific theatre. In addition, he mentioned a range of other “investments” to ensure that despite China’s fast-growing military might, America would still be able to “rapidly project military power if needed to meet our security commitments” in the region. Among them will be new ships that can operate close to an enemy’s shoreline, and fast attack submarines; missile-defence interceptors under development with Japan; beefed-up cyber-warfare and communications systems; and a new long-range bomber that can strike deep into enemy territory.

Ông Panetta tuyên bố rằng đến năm 2020, 60% tàu chiến Mỹ, trong đó có 6 nhóm tàu sân bay, sẽ được cử đến sân khấu châu Á - Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, ông cũng nhắc tới một loạt "đầu tư" khác nhằm đảm bảo rằng bất chấp sức mạnh quân sự ngày càng gia tăng nhanh chóng của Trung Quốc, Mỹ sẽ vẫn có khả năng "nhanh chóng huy động sức mạnh quân sự khi cần thiết để thực hiện các cam kết an ninh của chúng tôi" trong khu vực. Trong số này sẽ có các tàu mới có thể hoạt động ngay gần bờ biển của một kẻ thù, và các tàu ngầm tấn công nhanh; các máy bay đánh chặn tên lửa đang chế tạo với Nhật Bản; các hệ thống thông tin và tăng cường chiến tranh mạng; và một máy bay ném bom tầm xa mới có thể tấn công vào tận sâu trong lãnh thổ của kẻ thù.


Now that America is leaving Iraq and winding down the war in Afghanistan, as Barack Obama optimistically puts it, the administration has space to worry about the potential of China and (to a lesser extent) Iran to erode America’s ability to project force in regions of vital interest. The result is both a diplomatic surge, designed to reassure America’s Asian allies that it will do whatever is needed to shield them from Chinese bullying; and the development by the Pentagon of AirSea Battle, a new strategy devised to defeat the so-called anti-access/area denial (A2/AD) capabilities that are being deployed by technologically sharp strategic rivals, above all China.

Hiện Mỹ đang rời Iraq và giảm bớt cam kết tại cuộc chiến ở Afghanistan. Khi Tổng thống Barack Obama lạc quan thông báo điều này, thì chính quyền Mỹ lại có lý do để lo ngại về tiềm năng của Trung Quốc và Iran trong việc làm xói mòn khả năng Mỹ thể hiện sức mạnh trong những khu vực lợi ích sống còn. Kết quả là một làn sóng ngoại giao, nhằm tái trấn an các đồng minh châu Á của Mỹ rằng Washington sẽ làm mọi cách cần thiết để bảo vệ họ khỏi đạn pháo của Trung Quốc; và bên cạnh đó là việc Lầu Năm Góc phát triển chiến lược Đấu tranh Không-Biển, một chiến lược mới nhằm đánh bại các năng lực được gọi là chống can thiệp và phong tỏa khu vực (A2/AD) mà các kẻ thù chiến lược có công nghệ sắc bén như Trung Quốc sẽ huy động.


“Anti-access” is the ability to prevent an opposing force from entering an area of operations; “area denial” is the ability to impose severe costs on the enemy’s freedom of action once it has got in. The spread of precision-guided weapons now allows ambitious regional powers to bar nearby seas and skies to an adversary, even when that adversary is militarily stronger.

"Chống tiếp cận" là năng lực ngăn cản một lực lượng đối thủ tiếp cận một khu vực chiến dịch; "phong tỏa khu vực" là khả năng gây ra những mất mát lớn một khi kẻ thù có sự tự do hành động. Sự lan rộng của các vũ khí điều khiển từ xa chính xác hiện cho phép các cường quốc đầy tham vọng trong khu vực ngăn chặn đối thủ tiếp cận các vùng biển và vùng trời gần, ngay cả khi đối thủ là một nước mạnh về quân sự.


To that end, the Chinese are spending heavily on anti-ship cruise and ballistic missiles, maritime bombers, missile- and torpedo-carrying submarines and fast patrol boats, all intended to make operations within the “first island chain” (see map) too risky for American carriers. They are also working on anti-satellite and cyber-weapons intended to “blind” the communications networks American forces rely on. Since the end of the cold war, America’s troops have relied on operating from bases and carriers that opponents could not threaten. That has now changed.

Để đạt được điều đó, Trung Quốc đang chi nhiều cho tên lửa đạn đạo và hành trình chống hạm, máy bay ném bom trên biển, tàu ngầm gắn ngư lôi và tên lửa và các tàu tuần tra nhanh, tất cả đều nhằm thực hiện các chiến dịch trong "chuỗi đảo thứ nhất" vốn có nguy cơ cao trước các tàu sân bay của Mỹ. Họ cũng đang tìm cách chế tạo các vũ khí mạng và chống vệ tinh nhằm "vô hiệu hóa" các mạng thông tin mà các lực lượng Mỹ dựa vào để hành động. Từ sau chiến tranh Lạnh, binh lính Mỹ đã dựa vào sự điều khiển từ các căn cứ quân sự và tàu sân bay mà kẻ thù không thể đe dọa. Mọi chuyện giờ đã thay đổi.


In spite of this, AirSea Battle and its most recent manifestation, the Joint Operating Access Concept, are controversial. Some critics see it as an attempt by the navy and the air force, after a decade of relative neglect, to grab the lion’s share of a shrinking defence budget—already being trimmed by about $480 billion over the next ten years.

Bất chấp điều này, chiến lược Chiến tranh Không - Biển và biểu hiện gần đây nhất của nó là Khái niệm Tiếp cận hoạt động chung, đang gây tranh cãi. Một số người chỉ trích thấy đây là một âm mưu của các lực lượng hải quân và không quân, sau một thập kỷ tương đối bị quên lãng, nay muốn tước lấy phần lớn chiếc bánh ngân sách đang bị thu hẹp - dự kiến sẽ giảm xuống còn 480 tỷ USD trong 10 năm tới.

Others fear that although the concept does not mention China by name, it is the only opponent with the range of capabilities the new thinking is designed to counter. (Significantly, the Chinese defence minister did not attend the Shangri-La get-together; see article.) And whereas the 1980s predecessor of AirSea Battle, AirLand Battle, was intended to meet the real threat of a thrust by Soviet forces into Western Europe, the threat from China to America and its regional allies is harder to define. In a speech last month at the Joint Warfighting Conference, General James Cartwright, vice-chairman of the joint chiefs of staff until last year, said of AirSea Battle: “To some, it’s becoming the Holy Grail…[but] it’s neither a doctrine nor a scenario.” Worst of all, said General Cartwright, “AirSea Battle is demonising China. That’s not in anybody’s interest.”

Những người khác lo ngại rằng dù khái niệm này không nêu rõ tên Trung Quốc, nhưng đây là đối thủ duy nhất có các năng lực mà ý tưởng mới đang nhằm chống lại. (Điều đáng nói là Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc đã không tham dự cuộc gặp Shangri-La). Và trong khi tiền thân của chiến lược Chiến tranh Không - Biển trong những năm 1980, là Chiến tranh Không - Bộ, đã có ý định đáp lại các mối đe dọa của sức mạnh của các lực lượng Liên Xô tạ Tây Âu, thì mối đe dọa của Trung Quốc với Mỹ và các đồng minh trong khu vực lại rất khó xác định. Trong một phát biểu hồi tháng trước tại Hội thảo Chiến tranh chung, Tướng James Cartwright, cựu Phó Tổng tham mưu trưởng liên quân, nói về Chiến tranh Không - Biển như sau: "Đối với một số người, đây đã trở thành chiếc Chén Thánh ... nhưng đây không phải là một học thuyết hay một kịch bản". Trong trường hợp tệ nhất, Tướng Cartwright nói, "Chiến tranh Không - Biển sẽ biến Trung Quốc thành quỷ dữ. Điều này không có lợi cho ai cả".


Nathan Freier, of the Washington-based Centre for Strategic and International Studies, argues in a recent paper that although conflict with China “might be the most lethal set of circumstances from a traditional military standpoint, it is also the least likely and the most speculative.” North Korea, Pakistan and Iran (with their actual or putative nuclear arsenals) and even Syria all represent more realistic A2/AD challenges, which might well require the insertion of the ground forces that AirSea Battle ignores.

Nathan Freier, thuộc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế, có trụ sở tại Washington, lập luận trong một tài liệu gần đây rằng dù xung đột với Trung Quốc "có thể gây sát thương nhiều nhất theo một quan điểm quân sự truyền thống, nhưng cũng ít khả năng xảy ra và chỉ mang tính chất suy đoán". Triều Tiên, Pakistan và Iran (với kho vũ khí hạt nhân hiện tại hoặc giả định) và cả Syria đều có thách thức A2/AD thực tế hơn, đòi hỏi phải kết hợp với các lực lượng trên bộ mà Chiến tranh Không - Biển không tính tới.


Other critics, such as Noel Williams, an adviser on strategy to the marine corps, point to the risk of escalation—because of the dependence on deep strike against Chinese targets on land—and to the absence of ideas about what happens without ground forces once a strike is made.


Những người chỉ trích khác, như Noel Williams, một cố vấn về chiến lược cho lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ, thì chỉ ra nguy cơ leo thang - vì sự phụ thuộc vào cuộc tấn công sâu chống lại các mục tiêu trên bộ ở Trung Quốc - và sự thiếu vắng các ý tưởng về điều gì sẽ xảy ra nếu không có các lực lượng bộ binh khi một cuộc tấn công được tiến hành.


Colonel Gian Gentile, a professor at the United States Military Academy, complained in 2009 that counter-insurgency campaigns had become “a strategy of tactics”. He meant that the tactical tail was wagging the strategic dog. AirSea Battle is an impressive tactical response to a specific military problem. Whether it addresses the strategic ambiguities inherent in America’s complex relationship with China is less clear.

Đại tá Gian Gentile, một giáo sư Viện Hàn lâm quân sự Mỹ, than phiền năm 2009 rằng các chiến dịch chống nổi dậy đã trở thành "một chiến lược gồm các chiến thuật". Ông hàm ý cái đuôi chiến thuật vẫy sau con chó chiến lược. Chiến tranh Không - Biển là một lời đáp chiến thuật ấn tượng cho một vấn đề quân sự đặc biệt. Chưa rõ liệu nó có giải quyết sự mập mờ chiến lược cố hữu trong quan hệ phức tạp của Mỹ với Trung Quốc hay không.



Translated by Châu Giang




http://www.economist.com/node/21556587

Asia’s First Toilet Discovered In Southern Vietnam - Nhà vệ sinh đầu tiên của châu Á được phát hiện ở Nam Bộ


Asia's First Toilet Discovered In Southern Vietnam

Asia’s First Toilet Discovered In Southern Vietnam - Nhà vệ sinh đầu tiên của châu Á được phát hiện ở Nam Bộ
 
By | Featured Research
June 18, 2012
Researchers have discovered what may be the earliest toilet in Southeast Asia, giving clues as to how the region evolved from a traditional hunter gatherer society to a farming community.
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...
AsianScientist (Jun. 18, 2012) – The possible discovery of the earliest toilet in Southern Vietnam could give up clues about how Southeast Asia evolved from a traditional hunter gatherer society to a farming community, new research from The Australian National University reveals.
Dr. Marc Oxenham led a team of Australian and Vietnamese specialists on a seven-week archaeological excavation of a 3,300 to 3,700 year old Neolithic village site in Southern Vietnam earlier this year.
‘Rach Nui’ is a five-meter tall ancient human-made mound surrounded by small tidal streams and mangrove swamps. The site is about 30 km south of modern-day Ho Chi Minh City.
The team believe they found Vietnam’s earliest latrine when they stumbled across more than 30 preserved feces belonging to humans and dogs that contained fish and shattered animal bones.
“A detailed analysis of these will provide a wealth of information on both the diet of humans and dogs at Rach Nui, but also on the types of parasites each had to contend with,” Oxenham said.
Oxenham said about 4000 years ago, major economic, behavioral, and genetic changes led to Southeast Asians swapping a lifestyle of hunting, gathering and fishing for farming.
“These hunter gatherers were highly mobile, always moving from place to place to find food resources. The agriculturists had a more sedentary, stable existence, and because they stayed in one place, they were able to grow crops. And of course, population size grows with a much more stable food source.”
“So what we tend to find in places like Southern Vietnam is a lot more evidence of these people in the landscape. Because they were sedentary and the population size was expanding, they left mounds like Rach Nui with evidence of their lives. Their trash built up over time in once place.”
Oxenham said the team uncovered the remnants of multiple living or housing platforms, built up over many generations from crushed shell, pottery and dried branches, fired to produce cement-like floors.
The team also found betel nut – a red palm fruit chewed extensively in Southeast Asia for stimulant properties – and foxtail millet – the first time foxtail has ever been found to have been grown in Vietnam at this very early period of time.
“The presence of foxtail millet is really exciting. It not only confirms that this community was growing domesticated crops at this time, but this variety of millet is from China and may provide clues into the origins of farming in Southern Vietnam, and indeed, Southeast Asia as a whole,” Oxenham said.
Oxenham added that the menu of the Rach Nui community differed from other Neolithic communities, and, apart from pigs and dogs, tended to include animals found in swampy environments such as crocodiles, turtles, macaques and monitor lizards, catfish, shellfish, and mud crabs.

The End of the Asian Miracle Sự kết thúc của phép mầu ở châu Á






The End of the Asian Miracle

Sự kết thúc của phép mầu ở châu Á

BY ANTOINE VAN AGTMAEL
JUNE 11, 2012

ANTOINE VAN AGTMAEL
1/6/2012



The investment guru who coined the term "emerging markets" returns from Asia, finds that the slowdown is real, and offers five game-changing events that are reshaping the global economy.

Bậc thầy về đầu tư, người đã đặt ra thuật ngữ “thị trường mới trỗi dậy”, vừa từ châu Á trở về, nhận thấy rằng, sự suy giảm kinh tế là có thực và cung cấp 5 sự kiện chuyển hóa, đang định hình lại nền kinh tế toàn cầu.

Foreign Policy introduces "Trip Report," a new feature that takes readers behind closed doors with some of the world's sharpest minds for an intimate, unfiltered look at subjects ranging from the European economic crisis to the course of the war in Afghanistan. Think of it as a new kind of intelligence -- a backstage pass to rooms you haven't been cleared into before.

Chính sách đối ngoại giới thiệu "Báo cáo chuyến đi", một mục mới đưa độc giả vào đằng sau các cánh cửa đóng kín với một số đầu óc sắc bén nhất thế giới để có một cái nhìn sát sao, không bị gạn lọc, về các đối tượng khác nhau, từ cuộc khủng hoảng kinh tế châu Âu tới diễn biến cuộc chiến tranh ở Afghanistan. Hãy suy nghĩ về nó như một loại hình mới của trí thông minh - một lối đi hậu trường dẫn bạn tới các phòng trước đây bạn chưa đặt chân vào.

Where I went: I recently returned from a two-week trip to Asia, visiting India, Thailand, Hong Kong, China, Taiwan, and South Korea. I've been to these countries many times over the past 25 years in my capacity as chief investment officer and later chairman of Emerging Markets Management and AshmoreEMM. During my trip I met with a number of high-level policymakers, bankers, company executives, investors, think tanks, and scholars. But where there was once almost universal optimism, this time I came away with a very different sense. A few years ago there was a widespread feeling that the developed world had fallen off its pedestal -- that Asia had not only escaped the global financial crisis but that its system was somehow superior. That overconfidence seems gone now. Instead, there is a sense of vulnerability. There is more awareness of the political Achilles' heel of their own path of development and even new economic concerns about challenges to their newly acquired competitive edge.

Nơi tôi đã đi: Gần đây, tôi đã trở về từ một chuyến đi hai tuần đến châu Á, viếng thăm Ấn Độ, Thái Lan, Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc. Tôi đã đến các nước này nhiều lần trong vòng 25 năm qua, với tư cách là giám đốc đầu tư và sau này là Chủ tịch Công ty Emerging Markets Management và AshmoreEMM. Trong chuyến đi, tôi đã gặp một số nhà hoạch định chính sách cấp cao, giám đốc ngân hàng, giám đốc điều hành công ty, nhà đầu tư, nhà nghiên cứu và các học giả. Nhưng, nơi mà tôi đã từng gần như lạc quan mọi thứ, lần này tôi rời khỏi với một cảm giác rất khác. Vài năm trước, một cảm giác lan rộng rằng thế giới phát triển đã rơi khỏi bệ của nó, rằng châu Á đã không những thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, mà hệ thống của nó còn tốt hơn. Sự quá tự tin đó hiện nay dường như không còn nữa. Thay vào đó là một cảm giác dễ bị tổn thương. Càng có thêm nhận thức về nhược điểm chính trị liên quan đến con đường phát triển riêng của họ và ngay cả các mối quan ngại mới về kinh tế, về các thách thức đối với lợi thế cạnh tranh mà họ vừa có được.


The takeaway: Confidence about political stability and effectiveness has been shaken in China, India, and other emerging markets. The Arab Spring was a shock wave that not only brought to light misdeeds of autocratic regimes but also created economic uncertainties for the future. In BRICs at two ends of the political spectrum, political stability has turned out to be more fragile than earlier assumed. The Bo Xilai case in China has raised questions about the legitimacy of the whole political succession process. And Prime Minister Manmohan Singh's disappointing performance in India (some business leaders even told me he had "lost it") has created gridlock in New Delhi while emboldening states.

Điều tôi thấu hiểu: Sự tự tin về ổn định chính trị và hiệu quả đã bị lung lay ở Trung Quốc, Ấn Độ và các thị trường mới trỗi dậy khác. Mùa xuân Ả Rập là một làn sóng xung kích, không chỉ đưa ra ánh sáng những hành động xấu xa của các chế độ độc tài, mà nó còn tạo ra tình trạng không rõ ràng về kinh tế trong tương lai. Trong nhóm các nước như Brasil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi (gọi tắt là BRICS), ở hai đầu phạm vi chính trị, ổn định chính trị hóa ra mỏng manh hơn người ta nghĩ trước đó. Trường hợp Bạc Hy Lai ở Trung Quốc đã đặt ra các câu hỏi về tính hợp pháp của toàn bộ quá trình kế nhiệm chính trị. Và thất vọng về cách điều hành của Thủ tướng Ấn Độ, Manmohan Singh, (thậm chí một số lãnh đạo doanh nghiệp còn nói với tôi rằng ông ấy đã “thất bại”), đã tạo ra sự bế tắc ở New Delhi trong khi thúc đẩy các tiểu bang [làm việc nhiều hơn].


At the height of the financial crisis, local elites and the broader population in India and China viewed indecision, stagnation in policymaking, corruptive power of vested interests, and lack of leadership as major problems in the United States, Europe, and Japan -- but these same people are now concerned that they face similar problems. On the positive side, turmoil from Tunisia to Myanmar has brought hope and a feeling of empowerment. The sudden transformation now under way in Myanmar has re-energized Southeast Asia and the Association of Southeast Asian Nations as a sizable, relevant, and vital economic entity nestled between the two emerging regional superpowers, China and India.


Ở đỉnh cao của cuộc khủng hoảng tài chính, giới ưu tú trong nước và rộng hơn là dân chúng ở Ấn Độ và Trung Quốc, xem sự do dự, trì trệ trong việc hoạch định chính sách, lạm quyền để bảo đảm đặc lợi, và thiếu kỹ năng lãnh đạo, là vấn đề lớn ở Nhật Bản, Châu Âu, và Hoa Kỳ – nhưng những người này hiện lo ngại rằng họ phải đối mặt với các vấn đề tương tự. Về mặt tích cực, bất ổn từ Tunisia đến Miến Điện đã mang lại hy vọng và cảm giác về chuyển giao quyền hành. Sự biến đổi đột ngột hiện đang diễn ra ở Miến Điện đã tiếp thêm sức mạnh cho khu vực Đông Nam Á và Hiệp hội các nước Đông Nam Á như một thực thể kinh tế quan trọng, thích hợp và đáng kể, và nằm giữa hai siêu cường mới trỗi dậy trong khu vực, đó là Trung Quốc và Ấn Độ.


The other big question involves the economic future of the leading emerging market -- China. Who would have thought a decade ago that the United States would lose its unquestioned AAA credit status? Until recently, it would have been equally unthinkable that questions are now being raised about whether China will remain the unquestioned manufacturing champion. Its wages have risen, its currency is more expensive, its labor surplus has evaporated, its population is aging fast, and other emerging markets are emulating its impressive infrastructure. Bangladesh, Vietnam, the Philippines, and Thailand (and one day, perhaps Myanmar) are mentioned more often as places where global manufacturers are looking to set up new plants. Even the United States now is seen as a place that manufacturers are turning to. Slower growth in China and India is becoming accepted as a new reality.


Một câu hỏi lớn khác liên quan đến tương lai kinh tế của Trung Quốc, đất nước đang dẫn đầu thị trường mới trỗi dậy. Một thập niên trước, có ai nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ bị mất điểm tín dụng AAA mà họ luôn nắm giữ? Cho đến gần đây, điều tương tự không thể nghĩ tới là, các câu hỏi hiện đang được đặt ra về việc liệu Trung Quốc có chắc chắn sẽ là nhà sản xuất hàng đầu. Tiền lương gia tăng, tiền tệ tăng giá trị, thặng dư lao động bị mất đi, dân số đang già đi nhanh chóng, và các thị trường mới trỗi dậy khác đang cạnh tranh về cơ sở hạ tầng đầy ấn tuợng. Bangladesh, Việt Nam, Philippines, và Thái Lan (và một ngày nào đó, có thể là Myanmar) thường xuyên được nhắc tới như là những nơi mà các nhà sản xuất toàn cầu đang tìm kiếm để thiết lập các nhà máy mới. Ngay cả Hoa Kỳ hiện cũng được xem như là một nơi mà các nhà sản xuất đang hướng tới. Tăng trưởng chậm lại ở Trung Quốc và Ấn Độ đang được thừa nhận như là một thực tế mới.


Conventional wisdom debunked: For the past five years or so, the idea had become commonplace that the United States was losing the race for global competitiveness. In my own book, The Emerging Markets Century, I wrote about how the rise of China and India was shifting the competitive edge and how some emerging multinationals (from Samsung Electronics in South Korea to Embraer in Brazil) were becoming world-class companies. All of that remains true; emerging markets remain the place to be for the next decade at least. But, interestingly, the creative, competitive response I had expected seems to be coming even faster than I had thought. In fact, the United States may be doing better than we thought, and China and other rising powers may not be doing quite as well as believed.


Quan điểm chung đã bị bác bỏ: 5 năm trước hay lâu hơn nữa, ý kiến đã trở nên phổ biến rằng Hoa Kỳ đang thất bại trong cuộc chạy đua cạnh tranh toàn cầu. Trong cuốn sách của tôi, Kỷ nguyên của các thị trường mới trỗi dậy, tôi đã viết về sự trỗi dậy của Trung Quốc và Ấn Độ đang chuyển lợi thế cạnh tranh ra sao và một số công ty đa quốc gia mới (từ Samsung Electronics ở Hàn Quốc đến Embraer ở Brazil) đã trở thành các công ty tầm cỡ thế giới như thế nào. Tất cả những điều nói trên vẫn còn đúng, các thị trường mới trỗi dậy vẫn còn tồn tại trong ít nhất mười năm nữa. Tuy nhiên, thú vị thay, sự hưởng ứng cạnh tranh và sáng tạo mà tôi mong đợi dường như đến nhanh hơn tôi nghĩ. Thật vậy, Hoa Kỳ có thể đang làm tốt hơn chúng ta nghĩ, Trung Quốc và các nước đang trỗi dậy khác có thể không làm tốt như chúng ta đã tưởng.




We have all come to assume that the developed world lost its drive or "will to win," ceding manufacturing to emerging markets. China and India built impressive manufacturing platforms or back-office strengths based on a belated unleashing of private-sector initiative, low labor costs, and impressive investment in infrastructure. China and others gained a near monopoly on making cheap goods cheaply. Consumers in the United States began to feel that China had won the battle for shelf space in Walmart.
Tất cả mọi người đều cho rằng, các nước phát triển đã bị mất phương hướng hay đánh mất “khả năng giành chiến thắng”, nhượng lại việc sản xuất cho các thị trường mới trỗi dậy. Trung Quốc và Ấn Độ đã xây các cơ sở sản xuất ấn tượng hay điểm mạnh của cơ quan hậu bị, dựa trên sự gỡ bỏ muộn màng như việc khởi xướng khu vực kinh tế tư nhân, chi phí lao động thấp, và đầu tư vào cơ sở hạ tầng một cách ấn tượng. Trung Quốc và các nước khác gần như đã giành độc quyền trong việc sản xuất hàng hóa với giá rẻ. Người tiêu dùng ở Mỹ bắt đầu cảm thấy Trung Quốc đã giành chiến thắng ở các kệ hàng trong siêu thị Walmart.


American infrastructure fell way behind in building a 21st-century network of roads, rails, bridges, pipelines, airports, and communications technology. Political antagonism combined with the budget and debt crises had placed the onus on "expense cutting" instead of rebuilding infrastructure to remain export-competitive and promote manufacturing. America's traditional brands had lost some of their luster: No longer was General Motors the pride of global automaking; iPhones were neat, but made in China. Meanwhile, India's Tata Corp. bought iconic brands like Jaguar, Land Rover, and Tetley Tea. China's Geely bought Volvo, while Lenovo purchased IBM's computer division. In South Korea, Samsung and Hyundai became major players; in Taiwan, HTC came from nowhere to be a recognized and respected brand name. To cap it all off, it seemed an irreversible trend: The United States had missed the boat in becoming a "green" leader in a more environmentally conscious world as it ceded ground to mass production in China and innovation in Europe.


Cơ sở hạ tầng của Mỹ bị thụt lùi trong việc xây dựng một mạng lưới đường bộ, đường ray, cầu cống, đường ống dẫn, sân bay, và công nghệ truyền thông thế kỷ 21. Sự đối lập chính trị cùng với khủng hoảng ngân sách và nợ nần đã đặt trách nhiệm vào việc “cắt giảm chi phí”, thay vì xây dựng lại cơ sở hạ tầng để duy trì cạnh tranh xuất khẩu và thúc đẩy sản xuất. Các thương hiệu truyền thống của Mỹ đã không còn là niềm vinh dự của họ: General Motors không còn là niềm tự hào của nhà sản xuất xe hơi toàn cầu, iPhone thì tinh xảo nhưng sản xuất ở Trung Quốc. Trong khi đó, Tập đoàn Tata của Ấn Độ đã mua lại thương hiệu mang tính biểu tượng như Jaguar, Land Rover, và Tetley Tea. Geely của Trung Quốc mua lại Volvo, cùng lúc, Lenovo đã mua lại bộ phận máy tính của IBM. Ở Hàn Quốc, Samsung và Hyundai đã trở thành đấu thủ lớn, ở Đài Loan, HTC từ vô danh trở thành một thương hiệu được công nhận và ngưỡng mộ. Tóm lại, dường như có một xu hướng không thể đảo ngược: Hoa Kỳ đã bị nhỡ chuyến tàu trong việc trở thành nước dẫn đầu về công nghệ “xanh” trong một thế giới có ý thức về môi trường hơn, khi [Mỹ] nhượng lại sân chơi sản xuất hàng loạt cho Trung Quốc và công nghệ mới cho châu Âu.


But as I saw on my travels, the story is beginning to change. I now believe the despair and fear felt by many in the United States is misplaced. In fact, there are early signs that the United States may be regaining some of its lost competitiveness in manufacturing and that China is losing some ground, especially against other emerging markets. Game-changers in the making: As I see it, there are five game-changers now happening in emerging markets:



Nhưng trong chuyến đi của mình, tôi nhận thấy câu chuyện đang bắt đầu thay đổi. Bây giờ tôi tin nỗi thất vọng và lo sợ mà nhiều người ở Mỹ cảm nhận, được đặt không đúng chỗ. Thật vậy, có những dấu hiệu sớm cho thấy rằng Hoa Kỳ có thể giành lại một số năng lực cạnh tranh mà họ đánh mất trong việc sản xuất và Trung Quốc đang mất dần một số sân chơi, đặc biệt cạnh tranh với các thị trường mới trỗi dậy khác. Những chuyển hóa sắp tới: Theo tôi nhận thấy, hiện có 5 chuyển hóa đang diễn ra ở những thị trường mới trỗi dậy.


1.      The shale gas explosion
2.      The erosion of low-cost advantage
3.      The burden of aging populations
4.      The smartphone revolution
5.      The fighting spirit of smarter competition

1. Sự bùng nổ về khí đốt
2. Lợi thế sản xuất với chi phí thấp bị suy giảm
3. Gánh nặng của lão hóa dân số
4. Cuộc cách mạng về điện thoại thông minh
5. Tinh thần cạnh tranh thông minh hơn


These five game-changers constitute nothing short of quiet revolutions, and they will have a huge impact over the next decade, completely reshaping the competitive landscape. You'll soon see the effect in earnings, margins, growth, and foreign direct investment.

Năm sự chuyển hóa này tạo ra các cuộc cách mạng thầm lặng, và chúng sẽ có tác động rất lớn trong thập kỷ tới, hoàn toàn định hình lại cảnh quan cạnh tranh. Bạn sẽ sớm thấy ảnh hưởng của thu nhập, lợi nhuận, tăng trưởng và đầu tư trực tiếp nước ngoài.


1. The shale gas explosion: The United States is becoming a low-cost producer of energy again, as a result of vast new discoveries of natural gas. The glut has made natural gas prices of $2 to $2.50 per 1 million BTU equivalent to oil at about $12 to $15 per barrel, which is quite an incentive to use more gas for electricity, petrochemicals, industrial applications, trucking, and even cars. In contrast, China and Japan are now forced to import gas at much higher prices of $13 to $17 per 1 million BTU. Supercheap gas is also making the United States a great place to invest again for energy-intensive industries. For example, the Chilean company Methanex recently moved its production of petrochemicals from Chile to Texas, and Orascom Construction in Egypt is building a fertilizer plant in the United States. This will be a true game-changer for the next decade and will help make manufacturing more competitive in the United States.


1. Sự bùng nổ về khí đốt: Hoa Kỳ lại trở thành nước sản xuất năng lượng với chi phí thấp do những khám phá mới đây về lượng khí đốt khổng lồ. Sự dư thừa đó làm cho giá khí đốt tự nhiên từ 2 – 2,5 đô cho mỗi 1 triệu BTU, tương đương khoảng 12-15 đô cho một thùng dầu thô, điều này hoàn toàn giúp người ta sử dụng nhiều khí đốt hơn điện, hóa chất từ dầu mỏ, các ứng dụng công nghiệp, vận chuyển bằng xe tải, và thậm chí cả xe hơi. Ngược lại, Trung Quốc và Nhật Bản hiện buộc phải nhập khẩu khí đốt với giá cao hơn nhiều, từ 13 – 17 đô cho mỗi 1 triệu BTU. Khí đốt siêu rẻ cũng làm cho Hoa Kỳ trở thành một nơi tuyệt vời để đầu tư thêm cho các ngành công nghiệp tiêu tốn nhiều năng lượng. Ví dụ, công ty Methanex của Chile gần đây đã di chuyển việc sản xuất các sản phẩm hóa dầu từ Chile đến Texas (Mỹ), và công ty Orascom Construction của Ai Cập đang xây dựng một nhà máy phân bón ở Mỹ. Đây sẽ là một sự chuyển hóa thật sự trong thập kỷ tới và sẽ giúp việc sản xuất ở Mỹ cạnh tranh hơn.


- In the future, gas will be king rather than oil. In a decade, gas prices may no longer be set by oil prices, but the other way round.
   

- Tương lai, khí đốt sẽ làm vua chứ không phải là dầu. Trong một thập kỷ, giá khí đốt sẽ không còn lệ thuộc vào giá dầu, mà ngược lại [giá dầu sẽ dựa vào giá khí đốt].
        

- As the United States is winning the lower-carbon energy race, it is becoming more energy independent. In fact, the liquid natural gas facilities built to import gas from Russia and Qatar may be used in a few years to export gas to Asia.
    
- Khi Mỹ đang thắng trong cuộc chạy đua sản xuất năng lượng không tạo ra nhiều khí carbon, Mỹ đang trở thành nước độc lập về năng lượng hơn. Thật vậy, các cơ sở khí đốt lỏng được xây dựng để nhập khẩu khí đốt từ Nga và Qatar có thể sẽ được sử dụng trong vài năm tới để xuất khẩu khí đốt sang châu Á.

- China has its own shale gas but the United States has a major head start in geology, technology, and pipelines. It will take China several years to catch up. India's offshore gas production has been disappointing and slow. Thailand will run out of gas in ten years, though Myanmar will bring on line large new supplies.

- Trung Quốc có mỏ khí đá phiến, nhưng Hoa Kỳ có được thuận lợi quan trọng về địa chất, công nghệ và đường ống dẫn. Phải mất vài năm Trung Quốc mới theo kịp. Việc sản xuất khí đốt ngoài khơi của Ấn Độ thì chậm chạp và không như mọi người mong đợi. Thái Lan sẽ không còn khí đốt trong mười năm, mặc dù Myanmar sẽ cung cấp thêm với số lượng lớn.

2. The erosion of the low-cost advantage: China is no longer the place for manufacturing. Wages in China and India have been rising at 15-20 percent over the past five years. Meanwhile, stagnant wage growth in the United States and the rising Chinese yuan has devalued the dollar on a trade-weighted basis.

2. Lợi thế sản xuất với chi phí thấp bị suy giảm: Trung Quốc không còn là nơi sản xuất hàng hóa. Tiền lương ở Trung Quốc và Ấn Độ đã tăng 15-20% trong 5 năm qua. Trong khi đó, tiền lương lại giảm ở Hoa Kỳ, và việc đồng nhân dân tệ của Trung Quốc tăng giá đã làm giảm giá trị của đồng Mỹ kim, ảnh hưởng đến trao đổi thương mại.


- A large wage gap remains but even narrowing it will have a big impact. In a dinner speech at the Brookings Institution, Jeff Immelt of GE claimed that an American factory worker can be competitive at $15 per hour with a $3 worker in China.

- Một khoảng cách lớn về tiền lương vẫn còn nhưng ngay cả khi được thu hẹp lại, sẽ có tác động lớn. Trong một bài phát biểu tại bữa ăn tối ở Viện Brookings, Jeff Immelt của hãng GE nói rằng, một công nhân ở một nhà máy sản xuất ở Mỹ có thể cạnh tranh ở mức 15 đô một giờ với một công nhân Trung Quốc lĩnh lương 3 đô một giờ.

- Unit labor costs in the United States, according to OECD data, have declined from 100 to 88 since 1995, better than anywhere in the developed world except Sweden (80). For comparison, Spain (135) and Italy (120) are much higher. That's good news for U.S. global competitiveness.

- Theo dữ liệu của OECD (ND: Organization for Economic Co-operation and Development, tức Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế), chỉ số tiền lương ở Hoa Kỳ đã giảm từ 100 xuống còn 88 kể từ năm 1995, tốt hơn so với bất cứ nước phát triển nào khác, ngoại trừ Thụy Điển (80). Để so sánh, Tây Ban Nha là 135 và Ý là 120, cao hơn ở Mỹ nhiều. Đó là tin tốt cho khả năng cạnh tranh toàn cầu của Mỹ.

- According to several manufacturers I met with who have plants in China, China now suffers from a lack of technologically trained manpower. Bangladesh and Vietnam are now lower-cost manufacturing centers than China -- even Thailand, the Philippines, and Mexico are becoming wage competitive.

- Theo một số nhà sản xuất mà tôi đã gặp, những người này có nhà máy sản xuất ở Trung Quốc, thì Trung Quốc hiện bị thiếu nhân lực được đào tạo về công nghệ. Bangladesh và Việt Nam là trung tâm sản xuất hàng hóa với chi phí thấp hơn so với Trung Quốc – ngay cả Thái Lan, Philippines và Mexico có thể cạnh tranh về lương bổng [với Trung Quốc].

- Productivity per manufacturing worker is also better in the United States than widely assumed. Hyundai, for example, has car plants in South Korea, the United States, China, and India and "unit per hour" production is actually highest in Alabama.

- Năng suất lao động của mỗi công nhân ở Hoa Kỳ cũng tốt hơn mọi người nghĩ. Chẳng hạn như Hyundai có nhà máy sản xuất xe hơi ở Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Ấn Độ và “lượng xe sản xuất mỗi giờ” thực sự cao nhất ở Alabama.

- World-class Indian car axle maker Bharat Forge found that Chinese workers in its plants had only 40 percent of the productivity of other workers. The Pune hub (near Mumbai) has become much more competitive because of trained labor and better transportation (a container trip to the port used to take at least two days but now only four hours and the port is more efficient).

- Bharat Forge, hãng sản xuất trục xe hơi đẳng cấp thế giới của Ấn Độ nhận thấy rằng, công nhân Trung Quốc trong các nhà máy của họ chỉ làm được có 40% năng suất của công nhân các nước khác. Trung tâm Pune (gần Mumbai) trở nên cạnh tranh hơn vì lao động được đào tạo và vận chuyển tốt hơn (một container đi ra cảng thường mất ít nhất hai ngày, nhưng bây giờ chỉ mất bốn giờ và cảng được sử dụng hiệu quả hơn).

- Of course, China's enormous competitive advantage is not just in wages but also in its scale for assembly-type production, infrastructure, internal competition, and growing domestic market. These advantages are not going to disappear overnight but are now being questioned.

- Dĩ nhiên, lợi thế cạnh tranh rất lớn của Trung Quốc không chỉ về tiền lương mà còn về quy mô sản xuất lắp ráp, hạ tầng, cạnh tranh trong nước và phát triển thị trường trong nước. Những lợi thế này sẽ không biến mất qua đêm, mà hiện đang được đặt câu hỏi.

3. The burden of aging populations: This is no longer a theoretical problem, but a very real one, especially in China. Demographics will make their power felt this coming decade as they never have before and change the competitive picture. China and South Korea, along with Europe and Japan, are aging fast. India and Africa still have large untapped labor pools, though they need to be better trained. Consider these statistics about China's demographics:

3. Gánh nặng về dân số bị lão hóa: không còn là vấn đề lý thuyết, mà đây là vấn đề rất thực tế, đặc biệt ở Trung Quốc. Vấn đề nhân khẩu học sẽ làm cho họ cảm thấy rằng, thập kỷ tới không phải là thập kỷ mà họ đã từng trải qua trước đây và nó sẽ thay đổi triển vọng cạnh tranh. Dân số Trung Quốc và Hàn Quốc, cùng với dân số châu Âu và Nhật Bản đang già đi nhanh chóng. Ấn Độ và châu Phi vẫn còn có số lượng lao động lớn chưa được khai thác, mặc dù số lao động này cần được đào tạo tốt hơn. Hãy xem những số liệu thống kê về dân số Trung Quốc:


    - There were 26 million births in 1987 but only 15 million today.
    - With a fully employed migrant labor pool there are now increasing labor shortages, with 1.08 job opportunities for each job seeker.
    - The increase in China's working population has shrunk from 10 million to 3 million per year and will be negative by 2018, if not sooner.
    - Within 20 years, its retired (60-plus) population will double from 180 million to 360 million (bigger than the entire U.S. population). A professional family now worries already about having to take care of four elderly parents. The support ratio was 5:1 and will be 2:1 in the not too distant future.
    - The savings rate will drop, and entitlements (now unfunded liabilities) will increase. According to some Chinese economists, the Chinese economy won't be able to grow more than 6 to 7 percent by the end of this decade without collapsing under the burden of these unfunded liabilities.
    - In the meantime, proposals to reform health care and pensions, an urgent necessity, have gathered dust as vested interests and political indecision have delayed action.


    - Có 26 triệu ca sinh nở vào năm 1987 nhưng hiện nay chỉ 15 triệu.
    - Với lượng lao động di cư được thuê mướn hoàn toàn, hiện đang gia tăng tình trạng thiếu lao động, mỗi người tìm việc có tới 1,08 cơ hội có việc làm.
    - Dân số trong độ tuổi làm việc ở Trung Quốc đã giảm từ 10 triệu xuống còn 3 triệu mỗi năm và sẽ xuống con số âm vào năm 2018, hoặc sẽ sớm hơn.
    - Trong 20 năm tới, dân số đến tuổi nghỉ hưu (60 tuổi trở lên) sẽ tăng gấp đôi, từ 180 triệu lên tới 360 triệu (lớn hơn tổng số dân số Hoa Kỳ). Một gia đình có nghề nghiệp hiện đang lo lắng về việc phải chăm sóc bốn cha mẹ già. Tỷ lệ hỗ trợ là 5:1 và sẽ còn 2:1 trong tương lai không xa.
    - Tỷ lệ tiết kiệm sẽ giảm, tiền trợ cấp phúc lợi xã hội (hiện đang bị thiếu hụt do không được cấp ngân quỹ) sẽ tăng. Theo một số kinh tế gia Trung Quốc, thì kinh tế Trung Quốc sẽ không thể tăng trưởng hơn 6-7% vào cuối thập niên này mà không bị sụp đổ do gánh nặng của những khoản nợ này chưa được cấp vốn.
    - Trong khi đó, các đề xuất cải cách chăm sóc sức khỏe và lương hưu, một nhu cầu khẩn cấp, thì bị bỏ mặc do các lợi ích riêng và sự do dự về chính trị đã trì hoãn hành động.


4. The smartphone revolution: The speed with which everyone in the world -- not just the rich, the elites, or developed economies -- embraced mobile phones has been astounding. The same is now beginning to happen with smartphones and tablets as prices rapidly drop to an "affordable" level of $120 (without subsidies) thanks to competition from Chinese clones.


4 – Cuộc cách mạng về điện thoại thông minh: Tốc độ mà mọi người trên thế giới – không chỉ những người giàu có, giới tinh hoa, hay ở các nước phát triển – sử dụng điện thoại di động là đáng kinh ngạc. Với điện thoại thông minh và máy tính bảng cũng đã bắt đầu xảy ra tuơng tự, khi giá cả giảm nhanh xuống tới mức “có thể chấp nhận được” là 120 đô (không có trợ cấp), nhờ sự cạnh tranh từ các phiên bản Trung Quốc.


    - Within five years, several billion people will be "addicted" to smartphones -- emailing, browsing, taking photos and videos, making video calls, using myriad apps, streaming, and playing games.
    - The smart-pad will bring high-quality education to the masses around the globe. Taking classes online or being part of an interactive presentation will be as commonplace as Googling today.
    - Bandwidth, good infrastructure, and monthly costs (which are rivaling the cost of food for poor families) will become increasingly important.
    - Interestingly again, in the speedy world of smartphones, China is falling behind in its telecom infrastructure (despite an otherwise great infrastructure). China was already behind in the past generation (3G) of telecom infrastructure because it unsuccessfully tried to sell the world on its own 3G standard, something the Koreans learned to avoid earlier. It will not issue licenses for its newest version of 4G (TD-LTE) until 2014.
    - Moreover, even though the traditional Internet cafes are increasingly being replaced by more than 1 million hot spots, for home Wi-Fi China has only just started to make a major investment.
    - It is interesting to watch that, despite competition from the clones, in the premium-brand sector, Apple's iPhone (assembled by a Taiwanese firm in China with key components from Samsung) has become a status symbol in China and elsewhere, even in Seoul's "Samsung city."


    - Trong 5 năm, vài tỷ người sẽ bị “nghiện” điện thoại thông minh – gửi email, lướt web, chụp ảnh và thu hình, thực hiện các cuộc gọi video, sử dụng vô số các ứng dụng và các trò chơi.
    - Smart-pad sẽ mang lại chất lượng giáo dục cao cho dân chúng khắp toàn cầu. Tham gia các lớp học trực tuyến hoặc một bài thuyết trình sẽ bình thường như xài Google ngày nay.
    - Băng thông, kết cấu hạ tầng tốt và chi phí hàng tháng (so sánh với chi phí thức ăn cho các gia đình nghèo) ngày càng trở nên quan trọng hơn.
    - Điều thú vị nữa là, với tốc độ phát triển của điện thoại thông minh trên thế giới, Trung Quốc đang bị tụt lại phía sau về cơ sở hạ tầng viễn thông (mặc dù kết cấu hạ tầng khác tốt hơn). Trung Quốc đã bị tụt lùi về cơ sở hạ tầng viễn thông của thế hệ trước (3G) do họ thất bại trong việc cố bán cho thế giới điện thoại 3G tiêu chuẩn riêng của họ, điều mà Hàn Quốc đã biết để tránh trước đó. Sẽ không cấp giấy phép cho phiên bản mới nhất của 4G (TD-LTE), cho đến năm 2014.
    - Hơn nữa, mặc dù hơn 1 triệu điểm nóng về mạng không dây (Wi-Fi) ngày càng thay thế việc truy cập internet ở các quán cà phê internet truyền thống, nhưng Trung Quốc đã chỉ mới bắt đầu thực hiện một đầu tư lớn.
    - Mặc dù cạnh tranh từ các phiên bản [điện thoại], thật là thú vị để quan sát, lĩnh vực thương hiệu chất lượng, iPhone của Apple (được 1 công ty Đài Loan ở Trung Quốc lắp ráp, với các thành phần chủ chốt của Samsung) đã trở thành thương hiệu uy tín ở Trung Quốc và các nơi khác, ngay cả ở “thành phố Samsung” của Seoul.


5. The fighting spirit of smarter competition: It seemed for a while that the United States would leave the manufacturing to emerging markets and focus instead on innovation, design, finance, and super-high-value-added manufacturing. It is now widely recognized that this was a losing strategy. As Andy Grove of Intel once observed, for every manufacturing job generated in the United States by the computer industry, 10 are outsourced to emerging markets. For job creation, it is important to realize that there are many more "makers" than "thinkers." While R&D is spreading around the world, a lot of key innovation remains in the United States, Japan, and Europe. Indeed, leading companies there have adjusted to compete in a world with huge markets outside their borders and aggressively competing emerging world class companies. They are competing smarter and are fighting back. For example:


5. Tinh thần cạnh tranh thông minh hơn: Dường như có thời điểm Hoa Kỳ nhường việc sản xuất lại cho các thị trường mới trỗi dậy và tập trung vào việc sáng chế, thiết kế, tài chính, và sản xuất các mặt hàng công nghệ cao. Hiện nhiều người nhận ra rằng chiến lược này đã thất bại. Andy Grove của Intel đã có lần nhận ra, cứ mỗi công việc sản xuất được ngành công nghiệp máy tính thực hiện ở Mỹ, thì có 10 công việc được thuê ở các nước có thị trường mới trỗi dậy. Để tạo việc làm, điều quan trọng cần nhận ra rằng, có nhiều người “sản xuất” hơn là “người sáng tạo”. Trong khi việc nghiên cứu và phát triển (R&D) đang lan rộng khắp thế giới, rất nhiều việc sáng chế quan trọng vẫn còn là công việc của Hoa Kỳ, Nhật Bản và châu Âu. Thật vậy, các công ty hàng đầu đã điều chỉnh để cạnh tranh trong một thế giới với thị trường khổng lồ ở nước ngoài và tích cực cạnh tranh với các công ty đẳng cấp thế giới đang trỗi dậy. Họ đang cạnh tranh khéo léo hơn và đang phản công lại. Ví dụ:


- Apple, Qualcomm, Google, Amazon, Facebook, YouTube, Twitter, and Bloomberg are just some examples of new "brands" and of companies at the leading edge of innovation which did not exist or were tiny a decade ago. Today's world could not live without their inventions, used by millions around the world and which are constantly imitated.

- Apple, Qualcomm, Google, Amazon, Facebook, YouTube, Twitter, và Bloomberg chỉ là một số ví dụ về “các thương hiệu” mới của các công ty ở nhóm dẫn đầu về sáng kiến mà một thập niên trước các công ty này rất nhỏ hoặc chưa từng có mặt trên thị trường. Thế giới ngày nay không thể sống mà không có các phát minh của họ, được hàng triệu người trên thế giới sử dụng và liên tục bị bắt chước.

- Not only big companies like Caterpillar but many small companies in the United States have adapted to competition from emerging markets by specializing in technologically advanced, higher value, high-precision manufacturing that integrate electronics and use sophisticated automation.

- Không chỉ các công ty lớn như Caterpillar, mà nhiều công ty nhỏ ở Hoa Kỳ đã thích nghi với sự cạnh tranh từ các thị trường mới trỗi dậy bằng cách chuyên về công nghệ tiên tiến, giá trị cao hơn, độ chính xác cao trong sản xuất để tích hợp các thiết bị điện tử và sử dụng các thiết bị tự động hóa tinh vi.
- American firms hire hundreds of thousands of software engineers in India (and thus from potential Indian competitors).
- Các công ty Mỹ thuê hàng trăm ngàn kỹ sư phần mềm ở Ấn Độ (và do đó từ các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của Ấn Độ).

- When smartphone baseband chip designer Qualcomm saw that a Taiwanese competitor became the "go to" source for Chinese clones for low-cost processor chips, it dropped its prices and forced it on the defensive. It could do so because it is a price setter with high margins rather than a price taker.

- Khi Qualcomm, hãng thiết kế các chip xử lý cho điện thoại thông minh, nhận thấy rằng, đối thủ cạnh tranh Đài Loan sản xuất các con chip giá rẻ cho các [điện thoại thông minh] phiên bản Trung Quốc, Qualcomm đã giảm giá và buộc họ phải ở thế phòng thủ. Họ có thể làm như vậy bởi vì Qualcomm là công ty lập giá (price setter) với lợi nhuận cao, không phải là phía chấp nhận giá (price takker) (*).

With some jealousy it is said these days in Asia that 90 percent of profits go to Apple and 10 percent to China. This gives these companies enormous pricing power and high margins. What most people don't realize is how concentrated the key parts of the smartphone industry are. There are less than a handful of companies that design the most expensive chips in the smartphone (based mostly on ARM architecture), and they are mostly made by two fabrication firms (TSMC and Samsung). China is way behind in this area. There are also only a handful of companies that make the touch screens for smartphones.

Một số ý kiến ganh tỵ nói rằng những ngày này ở châu Á, 90% lợi nhuận dành cho Apple và 10% dành cho Trung Quốc. Điều đó cho phép các công ty này có thế mạnh rất lớn về giá cả và lợi nhuận cao. Điều mà hầu hết mọi người không nhận ra là, những phần quan trọng của ngành công nghiệp điện thoại thông minh có quyền hành như thế nào. Có rất ít công ty thiết kế loại chip đắt tiền nhất cho điện thoại thông minh (chủ yếu dựa vào kiến trúc vi xử lý ARM), và chủ yếu được hai công ty sản xuất, TSMC và Samsung. Trung Quốc còn đang ở khá xa trong lĩnh vực này. Chỉ có rất ít công ty sàn xuất màn hình cảm ứng cho điện thoại thông minh.

Infrastructure, especially in the United States, fell way behind but, while this remains a political football, more attention is being paid to the importance of infrastructure as a source of competitiveness. There were less "shovel-ready" infrastructure projects than initially believed for the stimulus but the ultimate return on investment may be higher. The United States has regained a bit of ground in the global infrastructure race as new airports, pipelines, and local projects come on stream and shale gas is being developed.


Cơ sở hạ tầng, đặc biệt ở Hoa Kỳ, bị tụt lại phía sau, nhưng đây là vấn đề chính trị, tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng sẽ được chú ý hơn khi được xem là nguồn lực cạnh tranh. Có ít dự án về cơ sở hạ tầng “được xúc tiến” hơn là lúc đầu người ta nghĩ để kích thích [đầu tư], nhưng lợi ích cuối cùng trong việc đầu tư có thể cao hơn. Hoa Kỳ đã giành lại được một ít sân chơi trong cuộc đua về cơ sở hạ tầng toàn cầu như: sân bay mới, các đường ống và các dự án địa phương đi vào hoạt động và khí đá phiến đang được khai thác.


No more can we maintain a blind reliance on mega-emerging markets to sustain future global growth. After a decade of 10-plus percent growth in China and a shorter period of 8-10 percent growth in India, the remainder of this decade is likely to bring only 6-7 percent growth, a fact to which the rest of the world will have to adjust reluctantly -- as it struggles with its own problems and growth of less than half that rate. We all took the rapid growth of China and India for granted too easily. This will be a rude awakening for those who like to project past trends forward.


Chúng ta không thể tiếp tục tin cậy mù quáng vào các thị trường mới trỗi dậy để duy trì tăng trưởng toàn cầu trong tương lai. Sau một thập niên tăng trưởng hơn 10% ở Trung Quốc, và ở Ấn Độ tăng trưởng từ 8-10% trong một thời gian ngắn hơn, những năm còn lại của thập niên này có khả năng chỉ tăng trưởng 6-7%, một thực tế đối với các nước còn lại trên thế giới phải điều chỉnh một cách miễn cưỡng – khi phải vật lộn với các vấn đề riêng của mình và tăng trưởng ít hơn phân nửa tốc độ đó. Tất cả chúng ta đều xem việc tăng trưởng nhanh chóng của Trung Quốc và Ấn Độ là hiển nhiên quá dễ dàng. Đây sẽ là sự đánh thức đột ngột cho những người thích dùng các xu hướng trong quá khứ để dự đoán tương lai.


But there is a new reason for optimism. The shift in China to less dependence on exports and less aggressive investment in fixed assets in favor of higher consumption of anything from food, clothing and smartphones to healthcare, travel and education will gradually dissolve the large export surpluses and create a more balanced and sustainable global economy.


Nhưng có một lý do mới để lạc quan. Sự thay đổi ở Trung Quốc ít phụ thuộc hơn vào xuất khẩu và bớt đầu tư nhiều vào tài sản cố định để ủng hộ việc tiêu thụ cao hơn vào bất cứ điều gì, từ thực phẩm, quần áo và điện thoại thông minh cho tới chăm sóc sức khỏe, du lịch và giáo dục sẽ dần dần biến mất lượng thặng dư xuất khẩu lớn và tạo ra một nền kinh tế toàn cầu cân bằng và bền vững hơn.


This will be a different era for Asia. Sure, the region's emerging markets proved themselves much more resilient in the global financial crisis and came out of it faster and in better shape. China's fast-acting stimulus, in many ways, was a major turning point and saved the world from deeper problems. But the challenges of the next decade require a more sustained approach: balancing growth with inflation and local consumption with export dependence and relentless investment is critical, particularly if policy makers we want to ensure a smooth path to a future growth model.
Đây sẽ là một kỷ nguyên khác cho châu Á. Chắc chắn, các thị trường mới trỗi dậy trong khu vực đã chứng minh rằng, những thị trường này vững vàng hơn trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và ra vượt qua nhanh hơn và dư sức vượt qua. Bằng nhiều cách, sự khuyến khích tác động nhanh của Trung Quốc là một bước ngoặt lớn và cứu thế giới khỏi các vấn đề sâu sắc hơn. Nhưng những thách thức trong thập niên kế tiếp đòi hỏi cách tiếp cận bền vững hơn: tăng trưởng cân đối với lạm phát, tiêu thụ trong nước với phụ thuộc vào xuất khẩu và không ngừng đầu tư thì rất quan trọng, đặc biệt với các nhà hoạch định chính sách, chúng ta muốn bảo đảm con đường bằng phẳng đi tới một mô hình tăng trưởng cho tương lai.




Antoine van Agtmael là người đặt ra thuật ngữ “thị trường mới trỗi dậy” khi còn là giám đốc đầu tư ở Tổng công ty Tài chính Quốc tế (International Finance Corporation) năm 1981. Ông là tác giả cuốn sách kỷ nguyên của các thị trường mới trỗi dậy và là người sáng lập Emerging Markets Manangement và cựu Chủ tịch của AshmoreEMM.
Foreign Policy


Ghi chú:

(*) price setter: tức phía ra giá, không bị ảnh hưởng bởi thị trường; price taker: phía chấp nhận giá, tức giá cả lệ thuộc vào giá thị trường.




Translated by Dương Lệ Chi


http://www.foreignpolicy.com/articles/2012/06/11/the_end_of_the_asian_miracle