MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Thursday, May 17, 2012

The Rise of China and Maritime Security in South-east Asia Sự trỗi dậy của Trung Quốc và an ninh biển ở Đông Nam Á



The Rise of China 
and Maritime Security 
in South-east Asia 

Sự trỗi dậy của Trung Quốc và an ninh biển ở Đông Nam Á

By Carlyle A. Thayer
Today Online
(Singapore), 15 February 2012.
Carlyle A. Thayer
Today Online (Singapore), 15 /2/ 2012.

Introduction 

China’s  rise  and  growing  assertiveness  in  the  South  China  Sea  has  placed  maritime  issues at the top of the regional security agenda. This essay explores the implications of  China’s  rise  in  seven  parts.  Part  one  considers  the  changing  perceptions  of  Southeast  Asian  states  regarding  China’s  rise.  Part  two  discusses  the  growth  of  Chinese  naval  power.  Part  three  focuses  on  Chinese  assertiveness  in  the  South  China  Sea  in  2011,  while part four reviews regional responses to Chinese assertiveness. Parts five and six,  respectively,  analyse  the  new  U.S.  national  military  strategy  and  ASEAN  and  ASEAN centric regional security architecture. The paper concludes that Southeast Asia is “ripe  for  rivalry”  due  to  intractable  sovereignty  disputes  in  the  South  China  Sea,  rising  resource nationalism and naval force modernization programs now underway.  
Mở đầu

Sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự quyết đoán ngày càng gia tăng về tranh chấp ở biển Đông đã đưa vấn đề an ninh biển lên hàng đầu trong nghị trình trình an ninh khu vực. Bài viết này đưa ra các giả thuyết về sự trỗi dậy của Trung Quốc trong 7 phần. Phần một xem xét nhận thức thay đổi của các nước Đông Nam Á đối với sự lớn mạnh của Trung Quốc. Phần hai nói về sự phát triển của sức mạnh hải quân Trung Quốc. Phần ba chú trọng vào tính quyết đoán của Trung Quốc ở khu vực biển Đông trong năm 2011, và phần bốn xem lại phản ứng của các nước trong khu vực đối với sự quyết đoán của Trung Quốc. Phần năm và sáu, phân tích chiến lược quân sự quốc gia mới của Hoa Kỳ và mô hình an ninh khu vực lấy ASEAN làm trung tâm. Bài này kết luận rằng, Đông Nam Á nên “chuẩn bị sẵn sàng để đối đầu” do các tranh chấp chủ quyền ở biển Đông khó giải quyết, chủ nghĩa quốc gia về tài nguyên đang gia tăng và các chương trình hiện đại hóa lực lượng hải quân đang diễn ra.

Southeast Asia and China’s Rise 

Regional  autonomy.  After  the  Association  of  Southeast  Asian  Nations  (ASEAN)  was  formed in 1967 its members adopted two major approaches to relations with external  powers.  First,  ASEAN  member  states  promoted  the  concept  of  regional  autonomy  to  prevent  any  one  power  from  exercising  hegemony  over  Southeast  Asia.  ASEAN’s  assertion of regional autonomy took two firms. It involved the expansion of membership  from its initial core of five to ten of Southeast Asia’s eleven states.1

Đông Nam Á và sự trỗi dậy của Trung Quốc

Nền tự trị khu vực. Sau khi Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập năm 1967, các nước thành viên chấp nhận hai phương thức chính để liên hệ với các cường quốc bên ngoài. Phương thức đầu tiên, các nước thành viên ASEAN đưa ra khái niệm tự trị khu vực để ngăn cản bất cứ cường quốc nào dùng sức mạnh lấn át Đông Nam Á. Việc ASEAN xác định tự trị khu vực qua hai hình thức, gồm sự gia tăng số thành viên, từ 5 nước thành viên ban đầu lên đến 10 trong số 11 nước Đông Nam Á (1).


ASEAN’s assertion of  regional  autonomy  also  took  the  form  of  political  declarations  and  treaties  covering  Southeast  Asia  as  a  whole  such  as  the  Declaration  of  a  Zone  of  Peace,  Freedom  and  Neutrality (1971), the ASEAN Treaty of Amity and Cooperation (1976) and the Southeast  Asia NuclearWeapons Free Zone Treaty (1995). In recent years ASEAN has advanced the  concept  of  regional  autonomy  by  ratifying  the  ASEAN  Charter  and  setting  the  goal  of  creating  an  ASEAN  Community  by  2015.  ASEAN’s  second  approach  in  relations  with  external powers has been to assert its centrality in the region’s security architecture. For  example,  when  the  ASEAN  Regional  Forum  (ARF)  was  established  in  1994  ASEAN  insisted that it be in “the driver’s seat” as the sole chair.                                                         
Việc đòi quyền tự trị trong khu vực ASEAN cũng mang hình thức tuyên bố chính trị và các hiệp ước bao trùm Đông Nam Á như một khối, chẳng hạn như Tuyên bố về Khu vực Hòa bình Tự do và Trung lập (năm 1971), Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác ASEAN (năm 1976) và Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á Phi Hạt nhân (năm 1995). Trong những năm gần đây, ASEAN đã đề xuất khái niệm tự trị khu vực bằng cách phê chuẩn Hiến chương ASEAN và đề ra mục tiêu thành lập một Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Phương thức thứ hai của ASEAN trong quan hệ với các nước bên ngoài là khẳng định tính trung tâm của mô hình an ninh khu vực. Thí dụ, khi Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) được thành lập năm 1994, ASEAN đòi hỏi phải là người “tài xế” duy nhất.




Southeast  Asian  states  seek  to  advance  their  national  interests  through  bilateral  relations with each other and with the major external powers. At the same time, ASEAN  states seek to promote their national interests multilaterally through ASEAN.   China’s  economic  rise.  China’s  economic  rise  was  initially  viewed  by  Southeast  Asian  states  as  a  challenge  because  of  fears  that  it  would  lead  to  a  diversion  of  trade  and  investment  from  Southeast  Asia.  ASEAN  states  also  feared  being  pulled  into  China’s  orbit  in  a  dependent  relationship  as  supplier  of  raw  materials.  Another  source  of  concern  was  the  impact  Chia’s  rise  would  have  on  U.S.  economic  ties  to  the  region.

Các nước Đông Nam Á muốn gia tăng lợi ích quốc gia của họ qua quan hệ song phương với nhau và với các cường quốc lớn bên ngoài. Trong khi đó, các nước ASEAN cũng tìm cách đẩy mạnh lợi ích quốc gia đa phương qua ASEAN. Sự trỗi dậy về kinh tế của Trung Quốc. Lúc đầu, sự trỗi dậy về kinh tế của Trung Quốc được các nước ASEAN xem như là một thách thức, do lo ngại rằng điều này sẽ tạo nên sự chuyển hướng mậu dịch và đầu tư từ Đông Nam Á. Các nước ASEAN cũng lo sợ bị kéo vào quỹ đạo của Trung Quốc trong quan hệ lệ thuộc như một nguồn cung cấp nguyên liệu thô. Một mối lo ngại khác là, ảnh hưởng của sự trỗi dậy của Trung Quốc lên các mối quan hệ kinh tế của Hoa Kỳ đối với khu vực.


Many Southeast Asian states rely on access to the U.S. market for their wellbeing. They  held concerns that the U.S. would adopt protectionist policies at their expense.   A major turning point in perceptions towards China occurred during the Asian Financial  Crisis  of  199798  when  China’s  supportive  policies  were  contrasted  with  those  of  the  International  Monetary  Fund  (supported  by  the  United  States)  that  imposed  conditionality on its loans. China not only refrained from devaluing its currency but also  contributed  to  regional  bail  out  packages.  Southeast  Asian  states  now  came  to  view  China’s rise as an opportunity and the main engine of regional growth. In recent years  fears of a U.S. retreat behind protectionist walls has been allayed by U.S. promotion of  Trade and Investment Framework Agreements and the TransPacific Partnership.
Nhiều nước Đông Nam Á dựa vào thị trường Hoa Kỳ để phát triển đất nước. Họ lo ngại Hoa Kỳ sẽ áp dụng các chính sách bảo hộ mậu dịch sẽ gây ảnh hưởng tới họ. Một bước ngoặt chính yếu đối với quan điểm về Trung Quốc đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng tài chánh châu Á năm 1997 – 1998 khi các chính sách hỗ trợ của Trung Quốc tương phản với các chính sách của quỹ Tiền tệ Quốc tế (do Hoa Kỳ hỗ trợ) đặt điều kiện vay mượn tiền. Trung Quốc không những không hạ giá đồng nguyên mà còn đóng góp vào các gói trợ giúp trong vùng. Giờ đây, các nước Đông Nam Á xem sự trỗi dậy của Trung Quốc là một cơ hội và động cơ chính cho sự phát triển toàn vùng. Trong những năm gần đây, nỗi lo sợ Hoa Kỳ sẽ rút về sau bức tường bảo hộ mậu dịch đã giảm bớt do sự cổ động của Hoa Kỳ về Hiệp định Khung về Thương mại và Đầu tư, và Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình dương.



In  sum,  by  the  late  1990s  China  was  perceived  to  be  Southeast  Asia’s  indispensable  –  but  not  only    economic  partner.  For  example,  China  and  ASEAN  entered  into  a  Free  Trade  Agreement  that  came  into  force  in  January  2010  for  ASEAN’s  six  developed  economies and will come into effect for ASEAN’s four least developed members in 2015. 

Tóm lại, cuối thập niên 1990, Đông Nam Á xem Trung Quốc là một đối tác kinh tế không thể thiếu, nhưng không phải là đối tác duy nhất. Ví dụ, Trung Quốc và ASEAN đã ký Hiệp ước Thương mại Tự do với 6 nước thành viên có nền kinh tế phát triển của ASEAN, có hiệu lực từ tháng 1 năm 2010 và sẽ có hiệu lực với 4 nước thành viên kém phát triển nhất của ASEAN vào năm 2015.

China’s military modernization. In the early 1990s China was viewed as a military threat  to the region due to its assertive sovereignty in the South China Sea. In 1992 and 1995,  while  not  naming  China,  ASEAN  issued  two  declarations  of  concern  urging  states  to  refrain  from  force  or  the  threat  of  force  in  resolving  their  territorial  disputes.  In  1997  China began to promote it new security concept. And in 2002, China and ASEAN signed a  Declaration  on  Conduct  of  Parties  in  the  South  China  Sea.  As  a  result  of  these  developments the “China threat” receded.
Việc hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc. Đầu thập niên 1990, Trung Quốc được coi như là mối đe dọa quân sự cho khu vực vì sự khẳng định chủ quyền của họ ở biển Đông.  Năm 1992 và 1995, trong khi không nêu tên Trung Quốc, ASEAN ban hành hai tuyên bố với mối lo ngại, yêu cầu các nước hạn chế việc sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ. Năm 1997, Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh quan điểm an ninh mới. Và vào năm 2002, Trung Quốc và ASEAN ký Tuyên bố Ứng xử của Các bên ở biển Đông. Kết quả của những diễn biến này là mối “đe dọa của Trung Quốc” giảm dần.



China’s  economic  power  has  provided  the  foundation  for  the  modernization  and  transformation of its armed forces. In many respects this is a normal development. For  example,  China’s  increased  reliance  on  maritime  trade  routes  to  export  goods  and  to  import  natural  resources  has  resulted  in  a  need  to  protect  these  sea  lines  of  communication (SLOCs). China’s military modernization is also directed at reunification  with  Taiwan  and  preventing  it  from  declaring  independence.  After  the  Taiwan  Straits  crisis  of  199596,  when  Chinese  attempts  to  intimidate  Taiwan  resulted  in  U.S.  naval  intervention,  China  has  sought  to  develop  what  the  Pentagon  terms  antiaccess/area denial capabilities to keep U.S. aircraft carrier task forces at bay in the Western Pacific. 

Sức mạnh kinh tế của Trung Quốc đã tạo nền móng cho việc hiện đại hóa và biến đổi của lực lượng vũ trang. Trên nhiều phương diện, đây là sự phát triển bình thường. Ví dụ, sự lệ thuộc của Trung Quốc ngày càng nhiều vào các tuyến đường giao thương hàng hải để xuất khẩu hàng hóa và nhập khẩu nguyên liệu thiên nhiên, đã đưa đến nhu cầu bảo vệ các tuyến đường giao thông hàng hải này (SLOCs). Việc hiện đại hóa quân đội Trung Quốc cũng nhắm tới việc sáp nhập với Đài Loan và ngăn cản không cho Đài Loan tuyên bố độc lập. Sau cuộc khủng hoảng tại eo biển Đài Loan năm 1995-1996, khi nỗ lực hăm dọa Đài Loan của Trung Quốc dẫn đến sự can thiệp của hải quân Hoa Kỳ, Trung Quốc tìm cách phát triển khả năng, mà Lầu Năm Góc đặt tên là khả năng chống tiếp cận/ từ chối khu vực, để giữ chân lực lượng tàu sân bay Hoa Kỳ ở Tây Thái Bình dương.

In February 2012 it was reported that China would double defence expenditures within  three years from U.S.$ 119.8 billion in 2011 to U.S. $238.2 billion by 2015. This would mean  that  China’s  defence  budget  will  be  larger  that  the  combined  total  of  the  next  twelve  biggest  defence  budgets  in  the  AsiaPacific  (and  three  times  larger  that  Japan’  projected 2015 defence budget).2 

Tháng 2 năm 2012, báo cáo cho biết Trung Quốc sẽ gia tăng gấp đôi chi tiêu quốc phòng trong vòng 3 năm từ 119,8 tỷ đô la trong năm 2011, lên tới 238,2 tỷ đô la vào năm 2015. Điều này có nghĩa là ngân sách quốc phòng Trung Quốc sẽ lớn hơn tổng ngân sách quốc phòng của 12 nước có chi tiêu lớn nhất khu vực châu Á-Thái Bình Dương (và gấp 3 lần ngân sách quốc phòng của Nhật Bản dự trù cho năm 2015) (2).

China’s increased military prowess also has implications for the South China Sea where  Vietnam, the Philippines, Malaysia and Brunei have conflicting territorial and maritime  disputes  with  China.  China’s  increasing  assertiveness  has  raised  regional  security  concerns  about  China’s  strategic  intentions  and  its  challenge  to  U.S.  primacy.  Several  Southeast  Asian  states  have  sought  reassurance  from  the  United  States  that  it  will  continue  to  remain  engaged  in  the  region.  The  United  States  has  responded  to  these  concerns by declaring it has a national interest in the freedom and safety of navigation  and over flight in the maritime commons nd unimpeded commerce.

Việc gia tăng khả năng quân sự của Trung Quốc cũng liên quan tới biển Đông, nơi Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei có tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải với Trung Quốc. Sự khẳng định mạnh mẽ của Trung Quốc đã đưa đến mối quan ngại cho an ninh khu vực về những ý định chiến lược của Trung Quốc và sự thách thức đối với vai trò chính yếu của Hoa Kỳ. Nhiều quốc gia Đông Nam Á đã tìm kiếm sự bảo đảm của Hoa Kỳ trong việc tiếp tục có mặt trong vùng. Hoa Kỳ đã đáp lại các quan ngại này bằng cách tuyên bố, Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia trong vấn đề tự do và an toàn giao thông hàng hải, đường hàng không, trong vùng biển quốc tế và mậu dịch không bị cản trở.

ASEAN and the great powers. The major challenge to Southeast Asia’s strategic interests  is  the  potential  for  great  power  rivalry  to  undermine  ASEAN  centrality  and  regional  autonomy. Major power rivalry could spill over and affect ASEAN cohesion as individual  members  calculate  whether  alignment  with  a  major  external  power  is  a  better  guarantee of their national security than ASEAN multilateralism. ASEAN states prefer a  balance  among  the  major  powers  and  do  no  want  to  become  involved  in  a  dispute  between them or be forced to choose sides.  

ASEAN và các đại cường. Thách thức lớn đối với lợi ích chiến lược của Đông Nam Á là khả năng tranh chấp của các đại cường có thể làm hại tính trung tâm và tự trị khu vực của ASEAN. Sự tranh chấp của các cường quốc có thể dâng cao và ảnh hưởng sự bền chặt của ASEAN, vì các thành viên sẽ cân nhắc, liệu nghiêng về một cường quốc có bảo đảm cho an ninh quốc gia của họ hơn là đa phương với ASEAN hay không. Các nước ASEAN thiên về sự cân bằng giữa các siêu cường và không muốn can dự vào tranh chấp giữa họ hoặc bị bắt buộc phải chọn đứng về phía bên nào.


In sum, Southeast Asian states have responded to China’s rise by seeking to enmesh it in  ASEANcentric  multilateral  institutions.  ASEAN  seeks  to mitigate  rivalry between China  and  the  United  States  through  strategies  that  promote  economic  interdependence,  commitment to ASEAN norms, and soft balancing. 
Tóm lại, các nước Đông Nam Á đã đáp lại sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng cách dựa vào các thể chế đa phương của ASEAN trung tâm. ASEAN tìm cách làm giảm sự đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc qua chiến lược đẩy mạnh sự hỗ tương kinh tế, sự cam kết với các nguyên tắc ASEAN và cân bằng mềm dẻo.


Growth of Chinese naval power

China’s  military  transformation  is  the  product  of  several  factors.  First,  China’s  spectacular  economic  rise  has  provided  the  basis  for  increased  defence  spending  that  has led in turn to the modernization of all military services. Second, China is fixated on  Taiwan  and  national  reunification  and  therefore  seeks  to  forestall  intervention  by  the  United States in Taiwan contingencies by extending its naval reach beyond the first to  the  second  island  chain.3 Third,  China’s  rise  has  raised  the  salience  of  protecting  its  major SLOCs from the Gulf of Arabia to its eastern seaboard. Fourth, Chinese resource  nationalism  has  raised  the  importance  of  the  South  China  Sea  with  respect  to  oil,  gas  and mineral resources and sovereignty claims. Fifth, as China becomes a global power  with widespread economic and  political interests, it  will need to develop a blue water  navy to protect its interests much further afield. 

Sự phát triển của sức mạnh hải quân Trung Quốc

Sự biến đổi quân sự của Trung Quốc là sản phẩm của nhiều yếu tố. Đầu tiên, sự phát triển kinh tế ngoạn mục của Trung Quốc đã tạo nền tảng cho gia tăng chi tiêu quốc phòng, và điều này dẫn đến công cuộc hiện đại hóa tất cả các ngành quân sự. Thứ hai, Trung Quốc chú tâm đến sự thống nhất với Đài Loan, và vì thế cố ngăn cản sự can thiệp của Hoa Kỳ vào vấn đề này, bằng cách gia tăng ảnh hưởng của hải quân ra khỏi chuỗi đảo thứ nhất tới chuỗi đảo thứ hai (3). Thứ ba, sự trỗi dậy của Trung Quốc nảy sinh nhu cầu bảo vệ đường giao thương hàng hải từ vịnh Ả Rập tới khu vực bờ biển phía đông của Trung Quốc. Thứ tư, chủ nghĩa bảo vệ tài nguyên quốc gia của Trung Quốc nêu lên tầm quan trọng của Biển Đông về nguồn dầu khí và khoáng sản và lợi ích chính trị, Trung Quốc sẽ cần phát triển lực lượng hải quân trên biển để bảo vệ lợi ích ngoài khơi.

Several  of  the  factors  promoting  China’s  military  buildup  intersect  with  respect  to  Southeast  Asia’s  maritime  domain  and  the  South  China  Sea  in  particular.  This  is  most  evident  in  the  modernization  of  the  South  Sea  Fleet  and  the  construction  of  a  major  naval  base  at  Yalong  Bay  on  the  southern  coast  of  Hainan  Island  on  the  northern  reaches of the South China Sea.  

Nhiều yếu tố khuyến khích việc tăng cường quân sự của Trung Quốc liên quan tới khu vực biển Đông Nam Á, đặc biệt là biển Đông. Điều này thể hiện rõ ràng nhất qua việc hiện đại hóa hạm đội Nam hải và xây dựng căn cứ hải quân chính tại vịnh Yalong ở bờ biển phía nam đảo Hải Nam, thuộc phía bắc của Biển Đông.

The facilities at Yalong Bay include piers, docks and underground submarine pens. The  People’s  Liberation  Army  Navy  (PLAN)  stations  several  major  surface  combatants,  amphibious  landing  craft,  conventional  and  nuclear  submarines  at  Yalong.  Continued  construction  indicates  that  Yalong  will  be  able  to  accommodate  larger  surface  combatants  such  as  assault  ships  and  eventually  one  or  more  aircraft  carriers.    The  South Sea Fleet has the important mission of securing the Strait of Qiongzhou to protect  southern China and Hainan Island. The development of a naval base at Yalong may be  seen as defensive in motivation.


Các thiết bị ở vịnh Yalong bao gồm cầu tàu, bến tàu và hầm chứa tàu ngầm dưới mặt biển. Hải quân Trung Quốc (PLAN) đóng tại Yalong nhiều tàu chiến chủ lực, tàu đổ bộ, tàu ngầm thường và tàu ngầm hạt nhân. Việc tiếp tục xây cất cho thấy, Yalong có khả năng sẽ là nơi đồn trú của những tàu chiến lớn hơn, như tàu tấn công và cuối cùng là một hay nhiều tàu sân bay. Hạm đội Nam Hải có sứ mạng quan trọng trong việc giữ an ninh eo biển Quỳnh Châu để bảo vệ phía Nam Trung Quốc và đảo Hải Nam. Việc phát triển căn cứ hải quân ở Yalong có thể được xem với lý do phòng ngự.

China regularly conducts major naval exercises to showcase the growing prowess of the  PLAN. In 2010 China conducted three major naval exercises and one major exercise the  following year related to the South China Sea. The first exercise was held in early April  2010 and involved the longrange deployment of sixteen warships from the PLAN drawn  from the North Sea, East Sea and South Sea Fleets. The PLAN flotilla conducted live firing  exercises north of the Philippines before steaming toward the Malacca Straits. Up until  this  exercise  China’s  South  Sea  Fleet  was  the  only  fleet  to  operate  in  the  South  China  Sea.


Trung Quốc thường tổ chức những cuộc tập trận hải quân lớn để chứng tỏ khả năng lớn mạnh của PLAN. Trong năm 2010, Trung Quốc thực hiện 3 cuộc tập trận hải quân lớn và một cuộc vào năm 2011, liên quan tới biển Đông. Cuộc diễn tập đầu tiên được thực hiện đầu tháng 4 năm 2010, gồm việc khai triển tầm xa với 16 chiến hạm của PLAN, đến từ các hạm đội Bắc Hải, Đông Hải và Nam Hải. Đội tàu của PLAN thực hiện các cuộc diễn tập có bắn đạn thật ở phía bắc Philippines trước khi tiến về eo biển Malacca. Tính cho tới cuộc diễn tập này, hạm đội Nam Hải là hạm đội duy nhất hoạt động trong khu vực Biển Đông.

The second naval exercise was conducted in late July 2010. It was the largest of its kind  and  involved  twelve  of  China’s  most  modern  warships  from  each  of  its  fleets.  This  exercise  was  notable  for  the  Chinese  media  coverage  of  live  missile  firings  and  the presence of senior commanders from the Central Military Commission and the PLA Chief  of Staff, General Chen Bingde.4 In November 2010 the PLA Marine Corps held the third  major  exercise  in  the  South  China  Sea  involving  more  than  100  ships,  submarines  and  aircraft and 1,800 marines. In November 2011, China conducted naval exercises in the  Western Pacific.5


Cuộc diễn tập hải quân lần thứ hai được tiến hành vào cuối tháng 7 năm 2010. Đây là cuộc diễn tập lớn nhất, gồm 12 chiến hạm hiện đại nhất trong mỗi hạm đội của Trung Quốc. Cuộc diễn tập này đáng chú ý do truyền thông Trung Quốc truyền trực tiếp việc bắn tên lửa và sự có mặt của các chỉ huy cao cấp đến từ Quân ủy Trung ương và Tổng tham mưu trưởng PLA, tướng Trần Bỉnh Đức (4). Tháng 11 năm 2010, thủy quân lục chiến PLA thực hiện cuộc diễn tập quan trọng thứ ba trên biển Đông, gồm hơn 100 tàu chiến, tàu ngầm, máy bay, và 1.800 lính thủy quân lục chiến. Vào tháng 11 năm 2011, Trung Quốc tiến hành diễn tập hải quân trong khu vực Tây Thái Bình dương (5).

The  first  island  chain  refers  to  the  line  of  islands  that  runs  north–south  from  the  Kuriles,  Japan,  the  Ryukyu  Islands,  Taiwan,  the  Philippines,  and  Indonesia.  The  second  island  chain  extends  further  east  of  China’s  coast  and  includes  a  line  running  northsouth  from  the  Kuriles  through  Japan,  the  Bonins,  the  Marianas, the Carolines, and Indonesia.

Chuổi đảo đầu tiên đề cập đến các tuyến hải đảo mà chạy theo hướng Bắc-Nam từ đảo Kuriles, Nhật Bản, quần đảo Ryukyu, Đài Loan, Philippines, và Indonesia. Các chuỗi đảo 2 mở rộng hơn nữa về phía đông bờ biển Trung Quốc và bao gồm một tuyến theo hướng bắc-nam từ Kuriles qua Nhật, Bonins, Marianas, Carolines, và Indonesia.
These  four  PLAN  exercises  can  be  viewed  as  a  demonstration  by  China  that  it  is  now  capable  of deploying  beyond  the  first  island  chain  to  the  second.  The  implications  are  clear: China is developing the capacity to sustain larger naval deployments in the Spratly  archipelago and further south for longer periods.
Bốn cuộc diễn tập này có thể xem như sự phô trương của Trung Quốc về khả năng khai triển xa khỏi chuỗi đảo thứ nhất ra tới chuỗi đảo thứ hai. Các tín hiệu rõ ràng là: Trung Quốc đang phát triển khả năng duy trì các cuộc triển khai hải quân trong khu vực quần đảo Trường Sa và xa hơn nữa về phía nam, trong thời gian lâu dài.

Satellite  imagery  has  confirmed  the  presence  of  a  single  Chinese  Type  094  Jinclass  nuclear  submarine  at  Yalong  since  late  2007.  The  Type094  is  a  secondgeneration  nuclear  powered  ballistic  missile  submarine (SSBN)  and  represents  China’s  most  lethal  naval strike weapon. This marks the first permanent deployment on an SSBN to China’s  South Sea Fleet. Five more Chinese Jinclass SSBNs are expected to become operational  in coming years and Yalong Bay is expected to become their home base.


Hình ảnh vệ tinh đã xác nhận sự hiện diện của một tàu ngầm hạt nhân duy nhất của Trung Quốc loại 094, hạng Jin, tại vịnh Yalong từ cuối năm 2007. Loại 094 là loại tàu ngầm hạt nhân trang bị tên lửa đạn đạo (SSBN) thế hệ thứ hai và tượng trưng cho loại vũ khí tấn công ghê gớm nhất của hải quân. Thời điểm này đánh dấu sự triển khai đầu tiên của một SSBN của hạm đội Nam Hải, Trung Quốc. Năm chiếc SSBN hạng Jin khác của Trung Quốc sẽ đi vào hoạt động trong những năm tới và vịnh Yalong sẽ trở thành căn cứ chính.

The development of a naval base in Yalong Bay has strategic implications for the balance  of  power  in  the  AsiaPacific.  Analysis  of  construction  activities  indicates  Yalong  will  be  capable  of  housing  nuclear  submarines  capable  of  launching  intercontinental  ballistic  missiles.  Portions  of  the  base  are  being  built  underground  to  provide  facilities  that  cannot be easily monitored. When these facilities are completed they will provide China  with the potential capability to station a substantial proportion of its submarinebased  nuclear deterrent capabilities there.  
Việc phát triển căn cứ hải quân ở vịnh Yalong mang ý nghĩa chiến lược về sự cân bằng quyền lực trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Phân tích về những hoạt động xây cất cho biết Yalong có thể chứa tàu ngầm nguyên tử có khả năng phóng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa. Một phần của căn cứ được xây dưới mặt đất để cung cấp cơ sở phòng ốc không thể bị theo dõi dễ dàng. Khi các công trình này khi hoàn tất, chúng sẽ tạo cho Trung Quốc khả năng dung chứa một phần đáng kể khả năng phòng ngự bằng tàu ngầm hạt nhân ở nơi này.


China’s most modern strategic nuclear submarine is not yet fully operational but when it  is the submarine is expected to carry twelve Sea Launched Ballistic Missiles. This class of  submarine  will  be  even  more  potent  if  China  succeeds  in  equipping  the  missiles  with  multiple warheads. Chinese nuclear subs will be able to patrol and fire from concealed  positions  in  deep  waters  off  Hainan  island  if  China  can  develop  the  necessary  operational skills. At the same time, China has extended the airfield on Woody Island in  the  Paracel  islands,  consolidated  its  facilities  at  Fiery  Cross  Reef  in  the  Spratly  archipelago,  and  maintains  a  continuing  naval  presence  at  Mischief  Reef  off  the  west  coast of the Philippines.
Tàu ngầm hạt nhân chiến lược hiện đại nhất của Trung Quốc chưa hoạt động hoàn toàn, nhưng khi bắt đầu, chúng có thể mang 12 tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm.  Loại tàu ngầm này sẽ có hiệu lực hơn nếu Trung Quốc thành công trong việc trang bị tên lửa với nhiều đầu đạn. Tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc có thể đi tuần và bắn từ vị trí bí mật trong vùng nước sâu ngoài khơi đảo Hải Nam, nếu Trung Quốc có thể phát triển kỹ năng hoạt động cần thiết. Trong khi đó, Trung Quốc đã nối dài phi đạo trên đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa, xây dựng các cơ sở tại Đá Chữ Thập, thuộc quần đảo Trường Sa, và duy trì sự có mặt liên tục của hải quân tại Đá Vành Khăn ngoài khơi bờ biển phía tây Philippines.

In  sum,  China  has  developed  an  enhanced  capability  to  exercise  its  sovereignty  claims  over the South China Sea and protect its vital SLOCs through the Malacca and Singapore  Straits  as  well  as  the  capacity  to  surge  expeditionary  forces  into  the  South  China  Sea  from  these  bases  with  a  considerably  shortened  logistics  tail.  By  extension,  China  will  also have the capacity to  interdict the  same SLOCs on which Japan, Taiwan and South Korea are dependent. These developments portend a greater Chinese capacity to assert  regional influence and to challenge U.S. naval supremacy.  

Tóm lại, Trung Quốc đã phát triển năng lực đáng kể để thực hiện các tuyên bố chủ quyền trên khu vực biển Đông và bảo vệ các tuyến đường giao thông hàng hải quan trọng xuyên qua eo biển Malacca và Singapore, cũng như khả năng đưa lực lượng tiên phong từ các căn cứ này vào khu vực biển Đông với một cái đuôi hậu cần ngắn đáng kể. Thêm vào đó, Trung Quốc sẽ có khả năng ngăn chặn các đường giao thông hàng hải mà Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc lệ thuộc vào. Các diễn tiến này báo hiệu Trung Quốc có khả năng lớn hơn để áp đặt ảnh hưởng khu vực và thách thức ưu thế hải quân Hoa Kỳ.

The  deployment  of  nuclear  submarines,  including  ballistic  missile  submarines,  has  introduced  a  new  geostrategic  dimension  to  the  regional  balance  of  power.  Chinese  nuclear submarine deployments will attract the continuing attention of the U.S. Navy in  conducting  military  survey/intelligence  gathering  in  the  waters  off  Hainan.  New  developments in U.S. military technology will see the introduction of more sophisticated  undersea drones and unmanned systems for intelligence gathering, reconnaissance and  surveillance  such  as  Large  Diameter  Unmanned  Underwater  Vehicles  and  Persistent  Littoral Undersea Surveillance Systems. According to Mark Valencia, the deployment of  these new systems “will generate tensions and more frequent crises; they will produce  defensive  reactions  and  escalatory  dynamics;  and  they  will  lead  to  less  stability  in  the  most affected regions, especially in Asia.”6 
Việc triển khai tàu ngầm hạt nhân, gồm tàu ngầm trang bị tên lửa đạn đạo, đã giới thiệu một kiểu địa chiến lược mới đối với sự cân bằng quyền lực khu vực. Các hoạt động của tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc sẽ gây sự chú ý liên tục của hải quân Hoa Kỳ qua việc tiến hành thu thập tin tức và quan sát vùng biển ngoài khơi đảo Hải Nam. Những phát triển mới về kỹ thuật quân sự của Hoa Kỳ sẽ cho ra tàu ngầm không người lái (undersea drones) tinh vi và các hệ thống máy móc tự động để thu thập tin tức tình báo, do thám và theo dõi như thiết bị tự hành không người lái đường kính lớn (Large Diameter Unmanned Underwater Vehicles) và hệ thống do thám thường trực dưới nước vùng duyên hải (Persistent Littoral Undersea Surveillance Systems). Theo Mark Valencia, sự khai triển các hệ thống mới này “sẽ tạo nên căng thẳng và khủng hoảng thường xuyên hơn; chúng sẽ sinh ra những phản ứng phòng vệ và gia tăng tính năng động; và sẽ dẫn đến mất ổn định trong các khu vực bị tác động nhất, đặc biệt là Á châu”. (6)

Chinese assertiveness in the South China Sea in 2011 

During  the  first  half  of  2011  China  embarked  on  pattern  of  aggressively  asserting  its  sovereignty claims in the South China Sea by targeting the commercial operations of oil  exploration ships in waters claimed by the Philippines and Vietnam. China’s actions not  only  raised  regional  tensions  but  also  provoked  the  Philippines  to  align  more  closely  with  the  United  States  and  take  steps  to  beef  up  its  capacity  for  territorial  defence.  Vietnam  responded  by  calculated  displays  of  resolve  to  defend  national  sovereignty  including    livefiring  exercise.  The  subsections  below  examine  each  of  these  case  studies. 

Sự quyết đoán của Trung Quốc trong vùng biển Đông năm 2011

Suốt nửa năm đầu của năm 2011, Trung Quốc áp dụng thái độ hiếu chiến để khẳng định các tuyên bố chủ quyền của họ ở biển Đông, bằng cách nhắm vào hoạt động thương mại của các tàu thăm dò dầu khí trong vùng biển chủ quyền của Philippines và Việt Nam. Hành động của Trung Quốc không những tạo nên căng thẳng trong khu vực mà còn khuyến khích Philippines xích lại gần Hoa Kỳ hơn và thực hiện các bước để gia tăng khả năng phòng thủ lãnh thổ. Việt Nam đáp trả bằng các cuộc phô trương có tính toán về quyết tâm bảo vệ chủ quyền quốc gia, gồm tập trận có bắn đạn thật. Các phần sau đây sẽ xem xét từng trường hợp này.

China and the Philippines 

According to the Philippines Department of Foreign Affairs, in the fourth quarter of 2010  China  increased  its  presence  in  the  Spratly  Islands. 7  The  Philippines  recorded  six  incursions into its waters in the first five months of 2011.8  Three major incidents stand  out.  On  25  February  a  Chinese  missile  frigate  ordered  three  Filipino  fishing  vessels  to  leave the waters off Jackson Atoll and fired a burst of three shots to hurry them along.9  On  2  March  two  Chinese  patrol  boats  threatened  to  ram  the  MV  Veritas  Voyager,  a  survey vessel operating in the Reed Bank area off Palawan Island, in order to force it to  halt  seismic  testing.10 The  third  major  incident  took  place  on  24  May  when  Filipino fishermen  witnessed  a  China  Maritime  Surveillance  vessel  and  PLAN  ships  unloading  steel  posts,  building  materials  and  a  buoy  near  Iroquois  ReefAmy  Douglas  Bank  one  hundred nautical miles off Palawan.11 

Trung Quốc và Philippines

Theo Bộ Ngoại giao Philippines, vào quý tư năm 2010, Trung Quốc gia tăng sự hiện diện tại quần đảo Trường Sa (7). Philippines ghi nhận 6 lần xâm phạm vào vùng biển của họ trong 5 tháng đầu năm 2011 (8). Ba sự cố lớn nổi bật. Vào ngày 25 tháng 2, một tàu chiến trang bị tên lửa của Trung Quốc đã ra lệnh cho 3 tàu đánh cá Philippines phải rời vùng biển ngoài khơi cồn san hô Jackson và bắn một loạt 3 phát súng để xua đuổi (9). Vào ngày 2 tháng 3, hai tàu tuần tra của Trung Quốc đe dọa đâm vào tàu Veritas Voyager, là tàu thăm dò địa chấn hoạt động trong khu vực bãi Cỏ Rong ngoài khơi Palawan, để buộc tàu thăm dò ngừng ngay công việc thăm dò địa chấn (10). Sự cố thứ ba xảy ra vào ngày 24 tháng 3 khi ngư dân Philippines chứng kiến một tàu hải giám và tàu Hải quân Trung Quốc thả những cột thép, dụng cụ xây cất và phao nổi xuống gần Iroquois Reef-Amy Douglas Bank, cách đảo Palawan khoảng 100 hải lý (11).

Chinese  actions  led  the  Philippines  to  officially  declare  its  waters  the  West  Philippine  Sea.  The  Philippine  government  also  responded  to  these  incidents  through  diplomatic  protests to the Chinese Embassy and by raising the matter with the United Nations.
Các hành động của Trung Quốc đã làm cho Philippines chính thức tuyên bố vùng biển của họ là Biển Tây Philippines. Chính phủ Philippines cũng đáp lại các sự cố này qua các cuộc biểu tình trước tòa đại sứ Trung Quốc và đưa vấn đề ra Liên Hiệp Quốc.

China and Vietnam 

During  the  first  half  of  2011,  Chinese  assertiveness  directed  against  Vietnam  included  the unilateral imposition of an annual fishing ban and, more significantly, Chinese state  ships  took  the  unprecedented  action  of  interfering  in  the  commercial  activities  of  oil  exploration vessels operating within Vietnam’s Exclusive Economic Zone (EEZ). 

Trung Quốc và Việt Nam

Trong sáu tháng đầu năm 2011, sự quyết đoán của Trung Quốc nhắm tới Việt Nam, gồm việc đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh cá hàng năm và đáng chú ý hơn, tàu hải giám Trung Quốc đã có hành động táo bạo can thiệp vào các hoạt động thương mại của các tàu thăm dò dầu khí đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ).

On  11  May  2011,  the  Haikou  Municipal  Government,  Hainan  province,  issued  an  announcement  imposing  China’s  annual  unilateral  fishing  ban  in  the  South  China  Sea  from 16 May – 1 August ostensibly to protect dwindling fish stocks during the spawning  season. In previous years Chinese state vessels chased and boarded Vietnamese fishing  boats  and  seized  their  catches  and  communications  equipment,  arrested  Vietnamese  fishermen until payment of hefty fines, or rammed and sank Vietnamese fishing craft. In  2011, there were only two reported major incidents. On 1 June, Chinese military vessels  threatened to use their guns against a Vietnamese fishing boat operating in waters near  the  Spratly  archipelago.12 A  more  serious  incident  took  place  on  5  July  when  armed  Chinese  naval  troops  reportedly  beat  the  skipper  of  a  Vietnamese  fishing  boat,  threatened  the  crew,  and  then  forced  the  boat  to  leave  contested  waters  near  the  Paracel Islands.13

Ngày 11 tháng 5 năm 2011, chính quyền thành phố Hải Khẩu, thuộc tỉnh Hải Nam, đưa ra thông báo đơn phương ra lệnh cấm đánh cá trong khu vực biển Đông từ ngày 16 tháng 5 tới ngày 1 tháng 8 với lý do bảo vệ nguồn cá bị giảm trong mùa sinh đẻ. Những năm trước đó, tàu hải giám Trung Quốc rượt đuổi và nhảy lên tàu đánh cá Việt Nam, tịch thu hết các mẻ cá bắt được và dụng cụ liên lạc, và bắt giữ ngư dân cho tới khi nhận được số tiền phạt lớn, hay đâm chìm tàu cá Việt Nam. Trong năm 2011 có 2 sự cố chính. Vào ngày 1 tháng 6, tàu hải quân Trung Quốc đe dọa bắn tàu đánh cá Việt Nam hoạt động trong vùng biển gần quần đảo Trường Sa (12). Một sự cố nghiêm trọng hơn xảy ra vào ngày 5 tháng 7 khi lính hải quân Trung Quốc đánh đập thuyền trưởng của một tàu đánh cá Việt Nam, hăm dọa thủy thủ đoàn, và ép buộc tàu này phải rời vùng biển tranh chấp gần quần đảo Hoàng Sa (13).

On 26 May 2011, three China Maritime Surveillance ships accosted the Binh Minh 02, a  Vietnamese  seismic  survey  ship  operating  in  Block  148  within  Vietnam’s  EEZ.  A  China  Maritime  Surveillance  ship  cut  the  cable  towing  seismic  monitoring  equipment.14 The  Binh  Minh  02  was  forced  to  return  to  port  for  repairs.15 On  9  June  2011,  according  to  Vietnam’s Ministry of Foreign Affairs, a second “premeditated and carefully calculated”  incident  occurred  when  a  Chinese  fishing  boat  equipped  with  a  “cable  cutting  device”  snared the cable of the Viking II seismic survey ship operating in survey Block 13603 in  the  vicinity  of  Vanguard  Bank.16 A  third  cable  cutting  incident  reportedly  occurred  in June  but  Vietnam  decided  not  to  publicise  the  matter.17 Vietnam,  like  the  Philippines,  protested each incident to Chinese authorities.  

Vào ngày 26 tháng 5 năm 2011, ba tàu hải giám Trung Quốc ép sát tàu Bình Minh 02, là tàu thăm dò địa chấn của Việt Nam, đang hoạt động tại lô 148 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Một tàu hải giám Trung Quốc đã cắt cáp thăm dò (14). Tàu Bình Minh 02 đành phải trở về bến để sửa chữa (15). Vào ngày 9 tháng 6 năm 2011, theo Bộ Ngoại giao Việt Nam, một sự cố “có âm mưu từ trước và được tính toán kỹ lưỡng” xảy ra khi một tàu đánh cá Trung Quốc trang bị “dụng cụ cắt cáp”, đã cắt dây cáp của tàu Viking II, là thăm dò địa chấn đang hoạt động trong lô 136-03, thuộc vùng phụ cận của Bãi Tư Chính (16). Một sự cố cắt cáp thứ ba được biết xảy ra vào tháng 6 nhưng phía Việt Nam đã không công bố sự việc (17). Cũng như Philippines, Việt Nam đã phản đối lên các nhà chức trách Trung Quốc đối với từng sự cố xảy ra.

Regional responses to Chinese assertiveness  China’s rapid military modernization, coupled with its assertive behaviour in the South  China  Sea,  has  created  a  security  dilemma  for  regional  states.  This  has  led  several  Southeast Asian states to undertake force modernization programs of their own aimed  at  developing  antiaccess/areadenial  capabilities. 18

Phản ứng của các nước trong khu vực đối với sự hiếu chiến của Trung Quốc

Việc gia tăng hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc, cùng với hành động hung hăng của họ trong khu vực Biển Đông, đã tạo nên một tình trạng bế tắc về an ninh cho các quốc gia trong vùng. Điều này đã làm nhiều quốc gia Đông Nam Á bắt đầu các chương trình canh tân quân đội của mình nhắm tới việc phát triển khả năng chống tiếp cận/từ chối khu vực (18).

The  subsections  below  review  developments in the Philippines, Vietnam and elsewhere in the region.  The  Philippines.  In  2011,  in  response  to  Chinese  assertiveness  in  its  EEZ  and  Kalayaan  Island Group, the Philippines drew up a new defence strategy focused on both internal  security  operations  and  external  territorial  defence.  The  Aquino  Administration  allocated P11 billion to support force modernisation of the AFP. Of this figure P8 billion  will come from the proceeds of the Malampaya Natural Gas and Power Project and the  remaining P3 billion will come from the AFP’s current modernisation funds. Starting in  2012, the government will implement a fiveyear modernization program totalling P40  billion. 

Các phần sau đây sẽ xem lại các hoạt động của Philippines, Việt Nam và các nước khác trong vùng.
Philippines. Trong năm 2011, để chống lại sự hung hãn của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế và nhóm đảo Kalayaan, Philippines soạn một chiến lược phòng thủ mới, chú trọng vào cả hoạt động an ninh quốc nội lẫn phòng thủ lãnh thổ bên ngoài. Chính quyền Aquino đã bỏ ra 11 tỷ peso để hỗ trợ hiện đại hóa Lực lượng Vũ trang Philippines (AFP). Trong đó, 8 tỷ peso sẽ do Mỏ Khí đốt Malampaya và Dự án năng lượng tài trợ và phần còn lại sẽ lấy từ ngân quỹ hiện đại hóa AFP. Bắt đầu từ năm 2012, chính phủ Philippines sẽ tiến hành chương trình hiện đại hóa 5 năm, với tổng kinh phí là 40 tỷ peso.

In March 2011, AFP Chief of Staff General Eduardo Oban announced plans to upgrade  the airfield on PagAsa island. Two months later a Philippine navy study recommended  the  acquisition  of  submarines  as  a  “deterrent  against  future  potential  conflicts.”19 In  September 2011, immediately after President Benigno Aquino’s state visit to Beijing, he  announced that 4.95 billion pesos would be allocated to top up the defence budget.20  These funds were earmarked for the purchase a naval patrol vessel, six helicopters and  other military equipment in order to secure the Malampaya oil and gas project.  


Tháng 3 năm 2011, Tổng Tư lệnh AFP, tướng Eduardo Oban loan báo, kế hoạch nâng cấp phi trường trên đảo Pag-Asa. Hai tháng sau đó, một nghiên cứu của hải quân Philippines khuyên nên mua tàu ngầm với mục đích “ngăn cản những xung đột có thể xảy ra trong tương lai” (19). Vào tháng 9 năm 2011, ngay sau chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Tổng thống Benigno Aquino, ông tuyên bố dành thêm 4,96 tỷ peso cho ngân sách quốc phòng (20). Số tiền này được dành riêng để mua một tàu tuần tra hải quân, 6 trực thăng và các vũ khí quân sự khác để bảo vệ dự án dầu khí Malampaya.

In 2011, the Philippines took delivery of a former U.S. Coast Guard Weather Endurance  Cutter and assigned it to operate in waters off Palawan in Western Command with the  mission of protecting the Philippines’ EEZ. The Philippine is expected to receive a second  cutter  in  2012.  The  Philippines  also  expects  to  take  delivery  of  three  new  Taiwan manufactured MultiPurpose Attack Craft and procure a third U.S. Coast Guard Cutter.21  
Trong năm 2011, Philippines thu nhận một tàu tuần duyên của Hoa Kỳ và đưa ra hoạt động ở khu vực ngoài khơi đảo Palawan thuộc Bộ Chỉ huy miền Tây với sứ mạng bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Philippines đang chờ nhận một chiếc thứ hai vào năm 2012. Philippines cũng sắp nhận 3 tàu tấn công đa năng mới do Đài Loan sản xuất và một tàu thứ ba của Tuần duyên Hoa Kỳ (21).




The  Philippines  has  presented  the  Pentagon  with  a  “wish  list”  of  new  equipment  including:  coastal  radar,  longrange  patrol  aircraft,  strategic  sea  lift  vessels,  offshore  patrol boats, naval helicopters, air defence radar, six jet trainers, surface attack aircraft, antiship missiles, and a submarine.22                                                            

Philippines đã trao cho Lầu Năm Góc một “danh sách mong muốn” với các loại vũ khí mới bao gồm: hệ thống ra-đa ven biển, máy bay tuần tiễu hoạt động tầm xa, tàu vận chuyển, tàu tuần dương, trực thăng hải quân, ra-đa phòng không, 6 huấn luyện viên phản lực, chiến đấu cơ tấn công trên mặt biển, tên lửa chống hạm, và một tàu ngầm (22).

The  Philippines  has  also  reached  out  to  Japan  and  South  Korea.  In  September  2011,  during  President  Aquino’s  visit  to  Tokyo,  he  and  Prime  Minister  Noda  agreed  to  strengthen maritime security ties by holding frequent highlevel defence discussions and  by  stepping  up  cooperation  between  their  Coast  Guards  and  “defencerelated  authorities.” Prime Minister Noda agreed to increase the involvement of Japan’s Coast  Guard  in  training  their  Filipino  counterparts. 23  Following  a  visit  by  South  Korea’s  President  Lee  Myungbak  to  Manila  in  November  2011,  President  Aquino  announced  that the Philippines would purchase military equipment form Seoul. The Department of  National  Defense  was  reported  to  be  drawing  up  a  list  including  aircraft,  helicopters,  boats and other military equipment.

Philippines cũng vươn tới Nhật Bản và Nam Hàn. Tháng 9 năm 2011, trong chuyến viếng thăm Tokyo của Tổng thống Aquino, ông và Thủ tướng Noda đồng ý củng cố mối quan hệ an ninh biển bằng cách thường xuyên tổ chức những buổi thảo luận cấp cao về phòng thủ, và gia tăng hợp tác giữa lực lượng tuần duyên hai nước và “các viên chức liên quan tới phòng thủ”. Thủ tướng Noda đồng ý gia tăng sự tham gia của lực lượng tuần duyên Nhật trong việc huấn luyện những người đồng nhiệm Philippines (23). Sau đó là chuyến viếng thăm Manila của Tổng thống Lee Myung-bak vào tháng 11 năm 2011, Tổng thống Aquino loan báo rằng, Philippines sẽ mua vũ khí của Seoul. Bộ Quốc phòng cho biết đã soạn thảo một danh sách gồm máy bay, trực thăng, tàu và những thiết bị quân sự khác.

Vietnam. In 2009, in a major development, Vietnam announced that it would procure six  conventional diesel powered Kiloclass submarines from Russia. These are scheduled to  be  delivered  in  2014.  The  Kiloclass  submarines  are  likely  to  be  equipped  with  sea skimming 3M54 Klub antiship missiles with a range of 300 kilometres. 
Việt Nam. Năm 2009, trong một bước tiến mạnh bạo, Việt Nam loan báo sẽ đặt mua 6 chiếc tàu ngầm chạy bằng dầu diesel loại Kilo của Nga. Các tàu ngầm này sẽ được giao vào năm 2014. Tàu ngầm loại Kilo có lẽ được trang bị tên lửa chống hạm 3M-54 Klub với tầm hoạt động 300 cây số.



In 2011, Vietnam stepped up its force modernization program when it took delivery of  four  additional  Su30MK2  multirole  jet  fighters.  These  are  expected  to  be  equipped  with the Kh59MK antiship cruise missile with a range of 115 km. Vietnam currently has  on order sixteen more Su30MK2 jet fighters.24 Also in 2011, Vietnam also took delivery  of two Gephardclass guided missile frigates armed with Kh35E antiship missiles with a  range  of  130  km  and  two  Svetlyak  class  missile  Patrol  Boats.25 In  addition,  Vietnam  launched its first indigenously built gunship and troop transport.26  In October, while on  a  tour  of  the  Netherlands,  Prime  Minister  Nguyen  Tan  Dung  gave  his  approval  for the  purchase  of  four  Sigmaclass  corvettes,  two  of  which  are  slated  for  construction  in  Vietnam.27  


Năm 2011, Việt Nam gia tăng chương trình hiện đại hóa quân đội khi nhận thêm 4 chiến đấu cơ phản lực đa năng Su-30MK2. Các chiến đấu cơ này sẽ trang bị tên lửa hành trình chống hạm Kh-59MK với tầm hoạt động 115 cây số. Việt Nam hiện đang đặt mua thêm 16 chiếc chiến đấu cơ phản lực Su-30MK2 (24). Cũng trong năm 2011, Việt Nam nhận 2 tàu khu trục có tên lửa hành trình, loại Gephardt, trang bị tên lửa chống hạm Kh-35E với tầm hoạt động 130 cây số và hai tàu  tuần tra có trang bị tên lửa loại Svetlyak (25). Ngoài ra, Việt Nam đã hạ thủy tàu chuyên chở binh lính và có vũ trang, tự sản xuất đầu tiên (26). Tháng 10 [năm 2011], trong chuyến công du ở Hòa Lan, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chấp thuận mua 4 chiến tàu hộ tống nhỏ, loại Sigma, hai trong số bốn chiếc đó dự kiến sẽ được ráp tại Việt Nam (27).

In  2011,  Vietnam  beefed  up  its  coastal  defences  by  acquiring  its  second  Bastion  land based  antiship  ballistic  missile  system.  Vietnam  reportedly  has  also  acquired  Israeli  Extended  Range  Artillery  Munitions    a  ballistic  missile  effective  beyond  150  km.  In  October  2011,  President  Truong  Tan  Sang  made  a  state  visit  to  India  and  requested  Indian assistance in four areas: submarine training, conversion training for pilots to fly  Sukhoi30s, transfer of medium sized patrol boats, and modernization of port facilities                                                          at Nha Trang.28 The local media reported that India was considering whether or not to  sell  Vietnam  its  BrahMos  supersonic  cruise  missile. 29  In  February  2012,  Russia  announced  it  will  coproduce  the  Uran  antiship  missile  (SSN25  Switchblade)  with  Vietnam.30 

Năm 2011, Việt Nam gia tăng phòng thủ ven biển bằng cách mua hệ thống tên lửa Bastion thứ hai, là loại tên lửa đạn đạo chống hạm có căn cứ trên đất liền. Tin tức cho biết, Việt Nam cũng đặt mua của Do Thái hệ thống đạn pháo tầm xa, tên lửa đạn đạo có tầm ảnh hưởng ngoài 150 cây số. Tháng 10 năm 2011, Chủ tịch Trương Tấn Sang chính thức viếng thăm Ấn Độ và yêu cầu Ấn Độ giúp đỡ trong 4 lãnh vực: huấn luyện điều hành tàu ngầm, huấn luyện cho phi công sử dụng máy bay Sukhoi-30s, chuyển giao tàu tuần duyên cỡ trung, và hiện đại hóa các phương tiện kỹ thuật cho các bến cảng ở Nha Trang (28). Báo chí địa phương đưa tin, Ấn Độ đang cứu xét có nên bán cho Việt Nam tên lửa hành trình siêu thanh BrahMos hay không (29). Tháng 2 năm 2012, Nga loan báo sẽ cùng sản xuất tên lửa chống hạm Uran (SS-N-25 Switchblabe) với Việt Nam (30).

In  November  2011,  Vietnam  announced  a  $3.3  billion  defence  budget  for  2012,  a  reported  rise  of  35%  over  2010.  According  to  IHS  Jane’s  Vietnam’s  annual  naval  procurement budget has increased by 150% since 2008 to US $276 million in 2011. The  naval  budget  is  projected  to  rise  to  $400  million  by  2015.31 Vietnam  is  seeking  to  develop an antisubmarine warfare capability by acquiring either the U.S. P3 Orion of  the Spanish Airbus Military C295.32 

Tháng 11 năm 2011, Việt Nam thông báo ngân sách quốc phòng cho năm 2012 là 3,3 tỷ đô la, tăng 35% so với năm 2010. Theo tờ IHS Jane’s (chuyên phân tích quốc phòng và tình báo), ngân sách mua vũ khí của hải quân Việt Nam tăng 150% kể từ năm 2008, lên tới 276 triệu đô la trong năm 2011. Ngân sách hải quân được dự kiến sẽ tăng lên 400 triệu đô la vào năm 2015 (31). Việt Nam đang tìm cách phát triển khả năng chiến đấu chống tàu ngầm bằng cách đặt mua P-3 Orion (loại máy bay 4 động cơ chống tàu ngầm do hãng Lockheed chế tạo) của Hoa Kỳ hay máy bay quân sự C295 của hãng Airbus Military, Tây Ban Nha (32).

Regional.  According  to  one  noted  regional  security  analyst,  naval  acquisitions  in  Asia  “have become especially disturbing, with undeniable signs of actionreaction dynamics”  and Northeast Asia in particular is witnessing an “emerging naval arms race.”33 Defence  analysts  estimate  that 86  submarines  will  be  added  to  the  fleets  in  the  AsiaPacific  by  2020 of which 30 will be Chinese.34 China currently has the largest submarine fleet and  most  extensive  plans  to  expand  its  numbers  including  the  Type  095  nuclear  attack  submarine (SSN) and Type 094 Jinclass SSBN.
Khu vực. Theo một nhà phân tích an ninh khu vực có tiếng, việc thu mua vũ khí hải quân ở châu Á “đã trở nên vô cùng phiền toái, với những dấu hiệu không thể chối cãi về động cơ giữa tác dụng và phản tác dụng”, và nhất là vùng Đông Bắc Á châu đang chứng kiến một “cuộc chạy đua vũ trang hải quân đang trỗi dậy” (33). Các nhà phân tích quốc phòng dự đoán rằng 86 chiếc tàu ngầm sẽ được gia tăng cho các hạm đội trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương vào năm 2020, trong số đó 30 chiếc sẽ là của Trung Quốc (34). Trung Quốc hiện có hạm đội tàu ngầm lớn nhất và những kế hoạch lớn nhất để gia tăng số lượng bao gồm tàu ngầm tấn công hạt nhân loại 095 (SSN) và loại 094 thuộc hạng Jin (SSBN).

As noted above, China is expected to base  both  attack and  ballistic  missile  submarines  at Yulin  Naval  Base  on  Hainan  Island.  This  prospect has led Australia, Malaysia, the Philippines, Singapore and the United States to  step up investment in their antisubmarine warfare capabilities. Security analysts warn  that the proliferation of submarine fleets may be destabilizing in times of tensions and  crises due to the complexities of command and control. 

Như đã đề cập ở trên, Trung Quốc dự định sẽ đậu các tàu ngầm trang bị tên lửa tấn công và tên lửa đạn đạo tại căn cứ hải quân Ngọc Lâm (Yulin) ở đảo Hải Nam. Viễn ảnh này đã làm cho Úc, Malaysia, Philippines, Singapore và Hoa Kỳ gia tăng đầu tư vào khả năng chiến đấu chống tàu ngầm. Các nhà phân tích an ninh cảnh báo rằng sự gia tăng nhanh của những hạm đội tàu ngầm có thể gây bất ổn trong lúc xảy ra căng thẳng và khủng hoảng do tính chất phức tạp của hệ thống chỉ huy và kiểm soát.

In  Southeast  Asia  the  conventional  submarine  has  become  the  new  hallmark  of  naval  acquisitions.  Vietnam’s  purchase  of  Kiloclass  submarines  is  part  of  a  regional  trend.35  Indonesia, the first country in Southeast Asia to acquire submarines, has indicated it will  replace them with newer South Korean models. Indonesia reportedly will boost defence  spending  by  35%  in  2012.36 Singapore  has  upgraded  its  submarine  fleet  by  taking  delivery  of  two  Archerclass  submarines  in  2011.37 Singapore  reportedly  is  also  in  the  market for four or five P3C Orion maritime patrol aircraft.38 Malaysia has acquired two  Scorpeneclass  submarines.  Both  the  Singaporean  and  Malaysian  submarines  are  equipped  with  Air  Independent  Propulsion  systems.  Thailand  and  the  Philippines  are  currently considering acquiring their own conventional submarines.

Ở Đông Nam Á, tàu ngầm loại thường đã trở thành tiêu chuẩn mới để hải quân thu mua. Việc đặt mua tàu ngầm hạng Kilo của Việt Nam là một phần của xu hướng trong khu vực (35). Indonesia là nước đầu tiên ở Đông Nam Á đặt mua tàu ngầm, cho biết họ sẽ thay thế tàu cũ với kiểu tàu mới hơn của Hàn Quốc. Được biết, Indonesia sẽ đẩy mạnh chi tiêu quốc phòng lên 35% trong năm 2012 (36). Singapore đã cải tiến hạm đội tàu ngầm của họ qua việc mang về 2 chiếc tàu ngầm hạng Archer trong năm 2011 (37). Singapore cũng đang đặt mua 4 hoặc 5 chiếc máy bay tuần tiễu trên biển loại P-3C (38). Malaysia đã mua về 2 chiếc tàu ngầm hạng Scorpene. Cả hai loại tàu ngầm của Singapore và Malaysia được trang bị với hệ thống lực đẩy không cần không khí. Thái Lan và Philippines đang chuẩn bị đặt mua tàu ngầm cho riêng họ.

Australia’s  2009  Defence  White  Paper  set  out  plans  to  construct  twelve  new  conventional submarines. Recently, it was reported that “visiting U.S. Navy officials have  repeatedly raised the issue of the lack of availability of Australia’s troubled Collinsclass  submarines,  as  well  as  the  lack  of  progress  on  Australia’s  planned  new  class  of  submarines.”  This  pressure  has  prompted  the Gillard  Government  to  place  the  matter  before Cabinet.39 
Sách trắng quốc phòng của Úc năm 2009 đã đề ra kế hoạch đóng 12 tàu ngầm mới, loại thường. Gần đây, báo chí đưa tin “các viên chức Hải quân Hoa Kỳ thăm viếng thường nêu ra vấn đề là không có các tàu ngầm hạng Collins, cũng như không có tiến triển đối với các tàu ngầm loại mới đã lên kế hoạch của Úc”. Áp lực này đã hối thúc chính quyền Gillard đưa ra vấn đề trước nội các (39).



Regional  force  modernization  has  and  will  continue  to  result  in  the  introduction  of  increased numbers of warships equipped with new technologies and weapons systems.  A  recent  review  of  regional  force  modernization  over  the  last  decade  highlights  the  introduction of new capabilities such as “standoff precisionstrike, longrange airborne  and  undersea  attack,  stealth,  mobility  and  expeditionary  warfare  and,  above  all,  new  capacities  when  it  comes  to  greatly  improved  command,  control  communications,  computing,  intelligence,  surveillance  and  reconnaissance  (C4ISR)  networks.” 40  This  review  concludes,  “new  types  of  armaments  promise  to  significantly  upgrade  and  modernize the manner of war fighting in the region… [and] fundamentally change the  concept and conduct of warfare.”41 
Việc hiện đại hóa quân sự trong khu vực đã và sẽ tiếp tục gia tăng số lượng các tàu chiến được trang bị hệ thống vũ khí và kỹ thuật mới. Phân tích gần đây về việc hiện đại hóa này trong thập niên qua chỉ ra những khả năng mới như “tấn công chính xác từ xa, khả năng bay xa, tấn công dưới đáy biển, khả năng tàng hình, lưu động và chiến tranh viễn chinh, và trên hết, những khả năng mới trong việc giúp cải tiến mạng lưới thông tin chỉ huy, điều khiển liên lạc, mạng lưới vi tính, tình báo, thăm dò và do thám (C4ISR)” (40). Phân tích này kết luận, “những loại vũ khí mới hứa hẹn sự nâng cấp đáng kể và hiện đại hóa phương cách chiến đấu trong khu vực… (và) thay đổi từ toàn bộ quan niệm và hành vi chiến tranh” (41).



According to Vice Admiral Scott Swift, Commander U.S. Seventh Fleet, his prime concern  is  not  the  outbreak  of  a  major  conflict  but  “any  tactical  trigger  with  strategic  implications… I do have concerns about a specific brushup that could result in a tactical  miscalculation…” 42  In  sum,  regional  sea  lanes  are  set  to  become  more  “crowded,  contested and vulnerable to armed strife.”43 

Theo Phó Đô đốc Scott Swift, Tư lệnh Đệ thất Hạm của Mỹ, mối quan tâm lớn của ông không phải là sự bùng nổ một cuộc xung đột lớn mà là “bất cứ động cơ chiến thuật với chủ đích chiến lược nào… Tôi quan tâm về một sự phô trương nào đó có thể dẫn đến một tính toán sai lầm chiến thuật…” (42) Tóm lại, các tuyến đường hàng hải trong khu vực có khuynh hướng trở nên “đông đúc, chật chội và dễ xảy ra đụng độ quân sự” (43).

The new U.S. national military strategy 

On coming to office in 2009, Obama Administration officials quickly asserted that “the  United States is back in Asia.” The United States promptly acceded to the ASEAN Treaty  of  Amity  and  Cooperation,  appointed  a  permanent  ambassador  to  the  ASEAN  Secretariat and revived the annual ASEANUnited States leaders meeting. When Chinese  assertiveness  in  the  South  China  Sea  raised  regional  security  concerns,  both  the  U.S.  Secretary of State and Secretary of Defense used visits to the region to declare that the  United States had a national interest in safety of navigation and over flight in the South  China Sea.  


Chiến lược quân sự quốc gia mới của Hoa Kỳ

Khi nhậm chức vào năm 2009, các quan chức trong chính phủ Obama đã nhanh chóng khẳng định rằng “Hoa Kỳ trở lại Châu Á”. Hoa Kỳ lập tức tham gia Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác ASEAN, bổ nhiệm đại sứ thường trực vào Ban Bí thư ASEAN và phục hồi lại Hội nghị các Lãnh đạo ASEAN – Hoa Kỳ hàng năm. Khi sự quyết đoán của Trung Quốc ở biển Đông nêu lên mối quan ngại về an ninh khu vực, cả Ngoại trưởng lẫn Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã sử dụng những chuyến viếng thăm trong khu vực để tuyên bố rằng Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia trong vấn đề an toàn giao thông đường biển và đường hàng không trong khu vực biển Đông.

The  United  States  has  responded  to  China’s  naval  buildup  and  development  of  anti access/area  denial  capabilities  by  strengthening  its  posture  on  Guam,  stepping  up  weapons  and  equipment  sales  to  the  Philippines,  negotiating  new  arrangements  with  Australia  giving  the  U.S.  greater  access  to  training  facilities  near  Darwin,  and  basing  Combat Littoral Ships in Singapore.44 

Hoa Kỳ đáp trả lại việc tăng cường hải quân và phát triển khả năng chống tiếp cận/ từ chối khu vực của Trung Quốc, bằng cách củng cố lực lượng ở đảo Guam, gia tăng việc bán vũ khí và chiến cụ cho Philippines, thương lượng với Úc để sử dụng căn cứ huấn luyện gần Darwin nhiều hơn, và đưa tàu chiến đấu ven biển đồn trú ở Singapore (44).

In direct response to Chinese naval modernization, the U.S. also has deployed thirtyone  of its fiftythree fast attack submarines to the Pacific and stepped up its antisubmarine  warfare program. Eighteen of the U.S. subs are homeported in Pearl Harbor; the others  are based in Guam.45 In late Juneearly July 2010, in a calculated demonstration of naval  power,  the  USS  Florida,  USS  Michigan,  and  USS  Ohio  submarines,  simultaneously  surfaced  in  Diego  Garcia  (Indian  Ocean),  Busan  (South  Korea)  and  Subic  Bay  (the  Philippines),  respectively.46 Each  of  these  submarines  has  been  modified  to  carry  154  conventional Tomahawk cruise missiles.


Phản ứng trực tiếp với việc hiện đại hóa hải quân Trung Quốc, Hoa Kỳ cũng đã triển khai 31 trong số 53 tàu ngầm tấn công nhanh tới Thái Bình Dương và đẩy mạnh chương trình chiến tranh chống tàu ngầm. 18 tàu trong số tàu ngầm đó đóng ở cảng nội địa là Trân Châu cảng; các tàu khác đồn trú ở đảo Guam (45). Cuối tháng 6, đầu tháng 7 năm 2010, trong một cuộc biểu dương sức mạnh hải quân có tính toán, tàu ngầm USS Florida, USS Michigan và USS Ohio đồng loạt nổi lên mặt nước tại Diego Garcia (Ấn Độ Dương), Busan (Nam Hàn) và Subic Bay (Philippines) (46). Mỗi tàu ngầm này đã được canh tân để mang 154 tên lửa hành trình Tomahawk.

More recently, the United States has announced that with its withdrawal from Iraq and  eventual  withdrawal  from  Afghanistan,  it  will  “rebalance”  its  force  posture  and  quarantine  defence  cuts  in  the  AsiaPacific.  The  heightened  importance  of  the  Asia Pacific  was  underscored  in  January  2012  with  the  release  of  a  new  national  defense  strategy,  Sustaining  U.S.  Global  Leadership:  Priorities  for  21st  Century  Defense.  This  document stated: 


Gần đây, Hoa Kỳ loan báo rút quân khỏi Iraq và sau đó là Afghanistan. Hoa Kỳ sẽ tái cân bằng lực lượng và sẽ không cắt giảm chi tiêu quân sự đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Tầm quan trọng của châu Á – Thái Bình Dương được nhấn mạnh trong tài liệu phát hành tháng 1 năm 2012, về chiến lược quốc phòng mới ,Giữ vững vai trò lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ: các ưu tiên cho quốc phòng của thế kỷ 21. Tài liệu này đã nêu rõ:

U.S. economic and security interests are inextricably linked to developments in the  arc extending from the Western Pacific and East Asia into the Indian Ocean region  and South Asia creating a mix of evolving challenges and opportunities. Accordingly,  while  the  U.S.  military  will  continue  to  contribute  to  security  globally,  we  will  of  necessity  rebalance  toward  the  AsiaPacific  region.  Our  relationships  with  Asian  allies and key  partners are critical to  the future  stability and growth of the  region.  We will emphasize our existing alliances, which provide a vital foundation for AsiaPacific security. We will expand our networks of cooperation with emerging partners  throughout the AsiaPacific to ensure collective capability and capacity for securing  common interests [emphasis in original].47

Lợi ích kinh tế và an ninh của Hoa Kỳ gắn liền với sự phát triển trong vòng cung trải dài từ Tây Thái Bình Dương và Đông Á Châu tới Ấn Độ Dương và Nam Á, tạo nên một sự trộn lẫn giữa những thách thức và cơ hội. Theo đó, trong khi quân đội Hoa Kỳ tiếp tục đóng góp vào an ninh toàn cầu, chúng ta cần tái cân bằng [ảnh hưởng] đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Các mối quan hệ của chúng ta với các đồng minh châu Á và đối tác chính thì rất quan trọng cho sự ổn định và phát triển trong tương lai khu vực. Chúng ta sẽ chú tâm tới các đồng minh hiện tại, họ cung cấp nền tảng quan trọng cho an ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Chúng ta sẽ mở rộng mạng lưới hợp tác với các đối tác mới trong toàn bộ khu vực châu Á – Thái Bình Dương, để bảo đảm phương cách làm việc tập thể và khả năng bảo đảm lợi ích chung (bản gốc nhấn mạnh điều này) (47).

Finally,  the  United  States  is  developing  an  airsea  battle  concept  to  counter  China’s  development of areadenial/antiaccess capabilities. The airsea battle concept is being  drawn  up  to  enable  the  United  States  to  prevail  in  conflicts  where  areadenial/anti access capabilities are well developed. According to the new U.S. defense strategy one  of  the  ten  main  missions  for  U.S.  armed  forces  is  to  “project  power  despite  anti access/area denial challenges.”48
Cuối cùng, Hoa Kỳ đang nghiên cứu khái niệm chiến tranh trên biển và trên không để đối đầu với khả năng chống tiếp cận/ từ chối khu vực của Trung Quốc. Khái niệm chiến tranh trên biển và trên không được thảo ra để giúp Hoa Kỳ đánh bại trong những cuộc xung đột mà khả năng chống tiếp cận/từ chối khu vực được phát triển mạnh.  Theo chiến lược phòng thủ mới của Hoa Kỳ, một trong mười nhiệm vụ chính của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ là “phô trương sức mạnh bất chấp các thách thức của chống tiếp cận/từ chối khu vực”(48).


In response to China’s use of asymmetric capabilities,  including  electronic  and  cyber  warfare,  ballistic  and  cruise  missiles,  advanced  air  defences, mining and other methods, “to complicate our operational calculus,” the U.S.  military  will  invest  as  required  to  ensure  its  ability  to  operate  effectively  in  antiaccess  and  area  denial  (A2/AD)  environments.  This  will  include  implementing  the  Joint  Operational Access Concept, sustaining our undersea capabilities, developing a new  stealth bomber, improving missile defenses, and continuing efforts to enhance the  resiliency  and  effectiveness  of  critical  spacebased  capabilities  [emphasis  in  original].49
Để đáp lại việc sử dụng khả năng bất đối xứng của Trung Quốc, gồm chiến tranh điện tử và chiến tranh mạng, tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình, các hệ thống phòng không hiện đại, đặt mìn và những phương pháp khác, “làm phức tạp sự tính toán hoạt động của chúng ta”, quân đội Hoa Kỳ sẽ đầu tư theo nhu cầu để bảo đảm khả năng hoạt động hiệu quả trong môi trường chống tiếp cận/từ chối khu vực (A2/AD). Điều này sẽ bao gồm thực hiện Khái niệm Tiếp cận Hoạt động chung, duy trì khả năng hoạt động dưới đáy biển, chế tạo máy bay ném bom tàng hình mới, cải tiến hệ thống phòng thủ tên lửa và tiếp tục các nỗ lực nâng cao tính bền bỉ và hiệu quả của khả năng phòng thủ quan trọng từ không gian (bản chính nhấn mạnh điều này) (49).

At  the  same  time  the  United  States  has  repeatedly  sought  to  engage  with  China  to  manage  their  relations.  The  U.S.  and  China  currently  have  nearly  fifty  mechanisms  for  coordination and collaboration on strategic policy issues. The Obama Administration has  sought  to  manage  its  relations  with  China  through  new  mechanisms  such  as  the  Strategic and Economic Dialogue and Consultations on AsiaPacific Affairs. The Pentagon  consistently  has  sought  to  keep  channels  of  communication  open  with  China  through  their  joint  Military  Maritime  Consultative  Council  and  other  bilateral  defence  dialogue  mechanisms.

Trong khi đó, Hoa Kỳ liên tục tìm cách giữ vững quan hệ với Trung Quốc. Hiện nay, Hoa Kỳ và Trung Quốc có gần 50 cơ cấu hoạt động để phối hợp và hợp tác với nhau về các vấn đề chính sách chiến lược. Chính quyền Hoa Kỳ tìm cách điều chỉnh mối quan hệ với Trung Quốc qua các cơ cấu mới như Đối thoại Kinh tế – Chiến lược và Tham vấn về Các vấn đề châu Á – Thái Bình Dương. Lầu Năm Góc thường xuyên mở các kênh liên lạc thông tin với Trung Quốc qua Hội đồng Cố vấn Quân sự Hàng hải chung và các cơ cấu đối thoại phòng thủ song phương khác.

The Obama Administration’s new defense strategy states with respect to China:  Over the long term, China’s emergence as a regional power will have the potential to  affect  the  U.S.  economy  and  our  security  in  a  variety  of  ways.  Our  two  countries  have a strong stake in peace and stability in East Asia and an interest in building a  cooperative  bilateral  relationship.  However,  the  growth  of  China’s  military  power  must be accompanied by greater clarity of its strategic intentions in order to avoid  causing friction in the region.50

Chiến lược phòng thủ mới của chính phủ Obama liên quan tới Trung Quốc, cho biết:
Về lâu dài, sự trỗi dậy của Trung Quốc như là một cường quốc khu vực, có khả năng tác động lên kinh tế và an ninh Hoa Kỳ trên nhiều mặt. Hai nước chúng ta có lợi ích lớn đối với hòa bình và ổn định ở Đông Á và lợi ích trong việc xây dựng quan hệ song phương trong tinh thần hợp tác. Tuy nhiên, sự phát triển sức mạnh quân sự của Trung Quốc phải đi kèm theo sự minh bạch trong ý định chiến lược để tránh gây nên sự va chạm trong vùng (50).

Nevertheless  it  is  clear  that  continued  U.S.  arms  sales  to  Taiwan  and  U.S.  intelligence  gathering in China’s EEZ will remain major irritants. Tensions in ChinaU.S. relations are  being  transmitted  to  Southeast  Asia.  Manila  and  Washington  have  breathed  new  life  into their 1951 Mutual Defense Treaty through arms and equipment sales and military  exercises. The United States and Vietnam have stepped up modest defence cooperation  activities  to  include  a  new  senior  leaders’  dialogue,  signing  of  a  Memorandum  of  Understanding  on  defence  cooperation  and  the  initiation  of  lowlevel  naval  exchange  activities. In sum, U.S. diplomatic intervention in the South China Sea issue has provoked  a  negative  if  not  hostile  reaction  by  China.  China  has  criticized  U.S.Philippines  naval  exercises as untimely and warned both Manila and Hanoi that they are playing with fire  by  encouraging  U.S.  intervention.  China  views  the  U.S.  as  an  outside  power  whose  intervention will only complicate matters.

Tuy nhiên, rõ ràng là việc Hoa Kỳ tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan và thu thập thông tin tình báo trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc vẫn là những khúc mắc chính. Căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ được chuyển sang Đông Nam Á. Manila và Washington đã phục hồi Hiệp ước Phòng thủ chung năm 1951 qua việc mua bán vũ khí, chiến cụ và diễn tập quân sự. Hoa Kỳ và Việt Nam đã gia tăng các hoạt động hợp tác phòng thủ đơn giản nhất, gồm một cuộc đối thoại giữa các lãnh đạo cấp cao mới, ký kết một Bản Ghi nhớ về hợp tác phòng thủ và bắt đầu các hoạt động trao đổi hải quân cấp thấp. Tóm lại, sự can thiệp ngoại giao của Hoa Kỳ vào vấn đề Biển Đông đã đem lại phản ứng tiêu cực, nếu không phải thù địch của Trung Quốc. Trung Quốc chỉ trích các cuộc diễn tập hải quân giữa Hoa Kỳ và Philippines là không đúng lúc và cảnh cáo cả Manila lẫn Hà Nội rằng họ đang đùa với lửa bằng cách khuyến khích sự can thiệp của Hoa Kỳ. Trung Quốc xem Hoa Kỳ là cường quốc bên ngoài mà sự can thiệp của họ sẽ chỉ làm phức tạp vấn đề.

ASEAN and ASEANcentric regional security architecture  

In July 2011, China and the ASEAN member states adopted the Guidelines to Implement  the DOC after seven years of startstop negotiations. Since the Guidelines were adopted  no  major  incidents  have  occurred  in  the  South  China  Sea  between  China  and  the  claimant  states.  The  tensions  that  marked  the  first  half  of  2011  have  abated.  China  hosted the first meeting of the Joint Working Group to implement the DOC Guidelines in  January 2012.51  
ASEAN và cấu trúc an ninh khu vực với ASEAN làm trung tâm

Tháng 7 năm 2011,  Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN chấp thuận các Nguyên tắc Hướng dẫn Thực thi Tuyên bố Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) sau 7 năm thương thảo đứt đoạn. Từ khi các nguyên tắc hướng dẫn được phê chuẩn, đã không có cuộc sự cố lớn nào xảy ra trong khu vực biển Đông giữa Trung Quốc và các nước đòi chủ quyền. Căng thẳng trong nửa năm đầu của năm 2011 đã giảm xuống. Trung Quốc tổ chức cuộc họp đầu tiên của Nhóm Cộng tác chung để thực thi Nguyên tắc Hướng dẫn của Tuyên bố Ứng xử (DOC) vào tháng 1 năm 2012 (51).

At the time the original DOC was adopted it was characterized as the first step towards a  more  binding  Code  of  Conduct  for  the  South  China  Sea.  With  the  adoption  of  the  Guidelines  to  Implement  the  DOC  ASEAN  members  have  decided  to  proceed  with  drawing  up  a  draft  COC.  In  November  2011,  ASEAN  Senior  Officials  commenced  discussions on what activities and projects to include in a code of conduct. According to  an  Indonesian  official,  once  agreement  is  reached  the  draft  COC  will  be  presented  to  China “to determine what, when, where and how the project would be carried out.”52  

Vào lúc bản DOC đầu tiên được chấp thuận, nó được xem như là bước đầu để đi tới cách hành xử có tính ràng buộc hơn trong khu vực biển Đông. Với sự chấp thuận Nguyên tắc Hướng dẫn để thực thi bản DOC, các thành viên ASEAN quyết định tiến tới việc soạn thảo bản nháp Quy tắc Ứng xử (COC). Tháng 11 năm 2011, viên chức cao cấp ASEAN bắt đầu các cuộc bàn thảo về những hoạt động và các chương trình nào sẽ đưa vào COC. Theo một viên chức Indonesia, một khi đạt được sự đồng thuận, bản thảo COC sẽ được đưa cho Trung Quốc “để xác định điều gì, khi nào, ở đâu và chương trình sẽ được thực hiện như thế nào”. (52).

On  the  face  of  it  China’s  discussions  with  ASEAN  member  states  represents  a  positive  development  that  could  lead  to  the  adoption  of  confidence  building  measures  and  a  lowering  of  tensions.  However,  if  China  seeks  to  play  on  divisions  among  ASEAN  claimants and engage in a protracted diplomatic game to keep U.S. intervention at bay,  this could arouse suspicions and scupper the diplomatic process. 

Bề ngoài, các cuộc thảo luận của Trung Quốc với các nước thành viên ASEAN cho thấy một bước tiến tích cực có thể dẫn tới sự chấp thuận các biện pháp xây dựng lòng tin và giảm bớt căng thẳng. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc tìm cách chia rẽ giữa các nước đòi chủ quyền và sử dụng trò chơi ngoại giao câu giờ để giữ chân, không cho Hoa Kỳ can thiệp, thì sẽ gây nên ngờ vực và nhận chìm tiến trình ngoại giao.

The East Asian security architecture is currently evolving as a result of the expansion of  the East Asia Summit (EAS) to include the United States and Russian Federation. At the  2011  EAS  informal  leaders’  retreat,  sixteen  of  its  eighteen  members  raised  concerns  over maritime security issues. China was the only country to argue that the EAS was not  an  appropriate  venue  for  such  discussions.  Nevertheless,  the  EAS  Chair’s  concluding  summary noted that maritime security has been established as a legitimate agenda item.                                                          

Hiện nay, cơ cấu an ninh Đông Á đang thành hình từ kết quả của sự mở rộng Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), gồm có Hoa Kỳ và Liên bang Nga. Tại một cuộc gặp gỡ không chính thức giữa các lãnh đạo EAS năm 2011, 16 trong số 18 thành viên nêu lên sự quan ngại về các vấn đề an ninh hàng hải. Trung Quốc là nước duy nhất biện luận rằng EAS không phải là nơi thuận tiện cho các cuộc thảo luận này. Tuy nhiên, phần tóm tắt kết luận của chủ tịch EAS đã ghi nhận vấn đề an ninh hàng hải là đề tài thảo luận trong nghị trình.

For  the  new  regional  security  architecture  to  be  effective  there  must  be  some  streamlining of policy advice to the EAS from other multilateral arrangements currently  considering  maritime  security  issues.  For  example,  there  are  a  number  of  overlapping  arrangements  under  the  auspices  of  ASEAN  and  the  ASEAN  Regional  Forum  charged  with maritime security and South China Sea issues:


Để cơ cấu an ninh khu vực mới có hiệu quả, phải có sự sắp xếp hợp lý các bộ phận cố vấn cho EAS, từ những sự dàn xếp đa phương khác hiện tại, cân nhắc các vấn đề an ninh hàng hải. Ví dụ, có nhiều bộ phận chồng chéo nhau dưới sự bảo hộ của ASEAN, Diễn đàn Khu vực ASEAN phụ trách an ninh hàng hải và các vấn đề của Biển Đông:

ASEAN Defence Ministers Meeting (ADMM).

The ASEAN Defence Ministers met for  the  first  time  in  May  2006  and  began  the  process  of  institutionalizing  defence  cooperation  on  a  regional  basis.  The  ASEAN  Defence  Ministers  are  now  sectoral  members of the ASEAN Political Security Council established under ASEAN’s Charter.  The ADMM brought under its umbrella what had been separate informal meetings  of  the  ASEAN  service  chiefs  (army,  navy  and  air  and  military  intelligence)  that  had  been  conducted  outside  the  official  ASEAN  framework.  At  the  4th  ADMM  in  May  2010,  it  was  agreed  that  ASEAN  navies  would  cooperate  to  patrol  their  maritime  boundaries.  
Hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM).

Các bộ trưởng quốc phòng ASEAN gặp nhau lần đầu tiên vào tháng 5 năm 2006 và bắt đầu tiến trình cơ cấu hóa hợp tác phòng thủ trên căn bản khu vực. Các bộ trưởng quốc phòng ASEAN đang là thành viên đại diện khu vực của Hội đồng An ninh Chính trị ASEAN được thành lập theo Hiến chương ASEAN. ADMM đã đem vào dưới trướng những cuộc họp riêng lẻ không chính thức với các lãnh đạo hành chánh ASEAN (như lục quân, không quân, hải quân và tình báo quân sự) và hoạt động bên ngoài cơ chế chính thức ASEAN. Tại ADMM lần thứ tư vào tháng 5 năm 2010, ADMM đã đồng ý cho hải quân các nước ASEAN hợp tác tuần tiễu trên lãnh hải của họ.

ASEAN Navy Chiefs Meeting (ANCM).

Maritime security issues fall under the purview  of the ANCM. The prospects of practical cooperation among ASEAN navies does not  appear  good.  At  the  most  recent  ANCM5  in  Vietnam  in  2011  there  was  disagreement  over  a  number  of  issues  including  the  formal  name  of  the  meeting,  how  often  it  should  meet,  conducting  joint  patrols,  and  a  proposal  for  an  ASEAN  communications protocol when navy ships passed each other at sea.  


Hội nghị Lãnh đạo Hải quân các nước ASEAN (ANCM).

Vấn đề an ninh hàng hải nằm trong phạm vi trách nhiệm của ANCM. Viễn ảnh về sự hợp tác thực sự giữa hải quân các nước ASEAN không mấy khả quan. Tại hội nghị ANCM thứ 5, hội nghị gần đây nhất, ở Việt Nam năm 2011 đã xảy ra bất đồng về một số vấn đề, bao gồm tên chính thức cho hội nghị, bao lâu họp một lần, việc thực hiện tuần tra chung, và đề xuất về thể thức thông tin liên lạc trong ASEAN khi các tàu hải quân gặp nhau ngoài khơi.

ASEAN Defence Ministers Meeting Plus (ADMM Plus). 

The ADMM was expanded in  October 2010 to include eight of ASEAN’s dialogue partners: Australia, China, India,  Japan,  New  Zealand,  Russia,  South  Korea  and  the  United  States.  At  this  meeting  it  was  agreed  that  the  ADMM  Plus  would  meet  every  three  years  with  the  second  meeting scheduled for Brunei in 2013. The inaugural ADMM Plus meeting set up the  ASEAN Defence Seniors Meeting Plus (ADSOM Plus) and five Expert Working Groups  (maritime  security,  humanitarian  assistance/disaster  relief,  peacekeeping,  military  medicine and counterterrorism).  


Hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng (ADMM Plus).

ADMM được mở rộng vào tháng 10 năm 2010 đưa thêm 8 đối tác đối thoại của ASEAN: Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Nga, Hàn Quốc và Hoa Kỳ. ADMM Plus đã đồng ý tại cuộc họp này là ADMM Plus sẽ họp 3 năm một lần với lần họp thứ 2 sẽ diễn ra ở Brunei vào năm 2013. Buổi họp đầu tiên của ADMM Plus đã thành lập Hội nghị Mở rộng các Viên chức Cao cấp Quốc phòng (ADSOM Plus) và 5 nhóm Chuyên gia (an ninh hàng hải, cứu trợ nhân đạo, thiên tai, giữ gìn hòa bình, y tế quân đội và chống khủng bố).

ADMM Plus Expert Working Group on Maritime Security (EWG on MS). 

The ADMM  Plus EWG on MS is cochaired by Malaysia and Australia. It held its first meeting in  Perth  in  July  2011  and  discussed  information  sharing.  The  terms  of  reference  for  EWG on MS were approved in October 2011. In February 2012, Malaysia hosted the  second EWG on MS that focused on specific initiatives for practical cooperation and  capacity building. Malaysia tabled a Concept Paper on establishing a mechanism to  support the work and implement the decisions of the EWG on MS. The EWG on MS  is scheduled to meet  twice a year and  report  its  deliberations to the  ADSOM Plus.  The third meeting will be held in Malaysia in August 2012.

Nhóm Chuyên gia Hỗn hợp thuộc tổ Công tác An ninh Hàng hải của ADMM Plus (EWG on MS).

Malaysia và Úc là đồng chủ tịch của EWG on MS. Buổi họp đầu tiên xảy ra ở Perth (Úc) vào tháng 7 năm 2011 và thảo luận về việc trao đổi tin tức. ‘EWG on MS’ đã thông qua các phạm vi có liên quan vào tháng 10 năm 2011. Vào tháng 2 năm 2012, Malaysia tổ chức ‘EWS on MS’ lần thứ nhì, chú trọng vào các vấn đề hợp tác thực tiễn và xây dựng tiềm lực. Malaysia đưa ra Bản Khái niệm về việc thành lập một cơ chế để hỗ trợ công việc và thực hiện các quyết định của ‘EWS on MS’. ‘EWS on MS’ quyết định họp mỗi năm 2 lần và báo cáo các quyết định cho ADSOM Plus. Cuộc họp thứ ba sẽ được tổ chức ở Malaysia vào tháng 8 năm 2012.

ASEAN Maritime Forum (AMF).

ASEAN established the AMF in 2010 under the terms  of  the  ASEAN  Political  Security  Community  Blueprint.53 The  second  meeting  of  the AMF was held in Thailand in August 2011 and proposed expanding its membership  to include dialogue partners in a separate meeting (AMF Plus). The AMF is focused  on a comprehensive approach to maritime issues and has so far not dealt with South  China Sea issues in detail.54 

Diễn đàn Hàng hải ASEAN (AMF).

ASEAN thành lập AMF vào năm 2010 dưới điều khoản của Kế hoạch Cộng đồng An ninh Chính trị ASEAN (53). Cuộc họp thứ hai của AMF được tổ chức tại Thái Lan hồi tháng 8 năm 2011 và đề nghị mở rộng thành viên gồm các đối tác đối thoại thành hội nghị mở rộng khác (AMF Plus). Hội nghị AMF tập trung vào một phương pháp tổng quát về các vấn đề lãnh hải và cho đến nay, vẫn chưa giải quyết các vấn đề biển Đông một cách chi tiết (54).

ARF InterSessional Meeting on Maritime Security (ARF ISM on Maritime Security).

In  2009, the ASEAN Regional Forum established the ARF ISM on MS and later approved  its Work Plan at the at the 44th ASEAN Ministerial Meeting in July 2011.55 The ISM on  Maritime  Security  focuses  on  information  sharing,  capacity  building,  and  training  rather than practical activities such as South China Sea CBMs. 

Hội nghị giữa mùa của Diễn đàn Khu vực ASEAN về An ninh Hàng hải (ARF ISM on MS).

Trong năm 2009, Diễn Đàn Khu vực ASEAN (ARF) thành lập ‘ARF ISM on MS’ và sau đó phê chuẩn kế hoạch làm việc tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN thứ 44 vào tháng 7 năm 2011 (55). Hội nghị giữa mùa về an ninh hàng hải chú trọng về trao đổi thông tin, xây dựng tiềm lực, và huấn luyện thay vì các hoạt động thực tiễn như các hội nghị xây dựng lòng tin về biển Đông.

The evolution of the regional security architecture is at a nascent stage and it is unclear  how an expanded EAS will relate to the already existing multilateral security institutions.  On  the  one  hand,  the  current  evolution  of  the  regional  security  architecture  may  be  viewed as a positive development since it brings together all the major actors, including  the U.S. and China at head of state/government level. On the other hand, if China feels  that  other  external  powers  are  ganging  up  on  it,  the  EAS  process  may  become  deadlocked.  Of  the  eight  dialogue  partners,  five  are  either  allies  or  close  strategic  partners (U.S., Japan, South Korea, Australia, New Zealand).

Sự tiến triển của cơ cấu an ninh khu vực đang ở giai đoạn khởi đầu và chưa rõ Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) mở rộng sẽ liên quan như thế nào với các thể chế an ninh đa phương hiện có. Một mặt, sự tiến triển hiện tại của cơ cấu an ninh khu vực có thể được xem là sự phát triển tích cực vì lôi kéo được các diễn viên chính, bao gồm các giới chức đứng đầu chính phủ của Hoa Kỳ và Trung Quốc. Mặt khác, nếu Trung Quốc cảm thấy các cường quốc bên ngoài quy tụ lại để chống nước này, thì tiến trình EAS có thể trở nên bế tắc. Trong 8 đối tác đối thoại, 5 đối tác là đồng minh hay đối tác chiến lược thân cận (Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, New Zealand)

Conclusion 

What lies ahead? The future security environment of the South China Sea region will be  influenced  by  five  major  overlapping  trends.  These  trends  contain  both  stabilizing  and  destabilizing  elements.  The  five  trends  are:  ChinaASEAN  discussions  on  confidence building measures; increased regional maritime enforcement capabilities; regional force  modernization; ChinaU.S. rivalry; and the evolution of the regional security architecture. 
Kết luận

Những gì đang chờ đợi phía trước? Môi trường an ninh ở khu vực biển Đông trong tương lai của sẽ bị tác động bởi 5 khuynh hướng chính chồng chéo lên nhau. Các khuynh hướng này có đủ các các yếu tố cân bằng lẫn bất ổn. Năm khuynh hướng là: thảo luận giữa Trung Quốc và ASEAN về cách thức xây dựng lòng tin; gia tăng khả năng thực thi hàng hải trong khu vực; hiện đại hóa quân sự trong khu vực; sự đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc; và sự tiến triển của cơ cấu an ninh khu vực.

China’s aggressive assertion of sovereignty over the South China Sea in the first half of  2001 has raised the security stakes not only for Southeast Asian states. This paper has  drawn  attention  to  serious  incidents  involving  Chinese  state  vessels  including  a  PLAN  warship  with  Filipino  and  Vietnamese  fishing  boats  and  survey  vessels.  Chinese  aggressive assertiveness in the South China Sea has now become an international issue  that must be addressed multilaterally by all concerned stakeholders.
Sự quyết đoán hiếu chiến của Trung Quốc về chủ quyền trên biển Đông trong sáu tháng đầu năm 2011 đã nêu ra những rủi ro về an ninh không chỉ cho các quốc gia Đông Nam Á. Bài viết này đã lưu ý các cuộc sự cố nghiêm trọng giữa các tàu của chính phủ Trung Quốc, gồm có một chiến hạm của Hải quân Trung quốc với các tàu đánh cá Philippines, và Việt Nam, tàu các thăm dò của Việt Nam. Sự quyết đoán hung hăng của Trung Quốc trong vùng biển Đông đang trở thành một vấn đề quốc tế và phải được giải quyết theo cách thức đa phương bởi tất cả các quốc gia có lợi ích liên quan.

International  diplomatic  pressure  has  resulted  in  the  adoption  of  Guidelines  to  implement the DOC by ASEAN member states and China. These guidelines offer grounds  for cautious optimism in the shortterm that tensions in the South China Sea will abate  as  the  countries  concerned  adopt  positive  confidence  building  and  other  cooperative                                                          measures. There is even the possibility that ASEAN and China could reach agreement on  a Code of Conduct in 2012.
Sức ép ngoại giao quốc tế đã đưa tới sự phê chuẩn các hướng dẫn thực thi Bản Tuyên bố Ứng xử của Các bên ở Biển Đông (DOC) của các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc. Các hướng dẫn này đặt nền tảng cho sự lạc quan thận trọng trong ngắn hạn, rằng các căng thẳng ở biển Đông sẽ giảm khi các quốc gia quan tâm chấp nhận việc xây dựng lòng tin và các biện pháp hợp tác khác. Có khả năng ASEAN và Trung Quốc có thể đạt được thỏa thuận về Quy tắc Ứng xử trong năm 2012.

Dampening tensions may be the first step towards a longterm settlement but lowering  tensions is not sufficient to bring about a resolution of unresolved sovereignty claims. At  the heart of the matter is the ninedash line ushaped map that China submitted to the  United Nations Commission on the Limits of Continental Shelf in May 2009. On the face  of it China’s map lays claims to virtually all of the South China Sea over which it claims  “indisputable sovereignty” on the basis of “historic rights.” China’s nine dash marks cut  deeply into the EEZs that have been declared by Vietnam and the Philippines. Under the  United Nations Convention on Law of the Sea littoral states have sovereignty over these  waters and continental shelves for the exploitation of natural resources such as fisheries  and oil and gas deposits on the ocean floor. China must clarify its claims.

Giảm bớt căng thẳng có lẽ là bước khởi đầu cho một giải pháp lâu dài nhưng không đủ để mang lại một thỏa thuận cho các tuyên bố chủ quyền chưa giải quyết. Vấn đề quan trọng là bản đồ 9 đoạn đứt khúc hình chữ U mà Trung Quốc đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm Lục địa của Liên Hiệp quốc hồi tháng 5 năm 2009. Bên ngoài, bản đồ Trung Quốc đã đòi chủ quyền hầu như toàn bộ biển Đông, với lập luận “chủ quyền không thể tranh cãi” dựa trên “chủ quyền lịch sử”. Đường 9 đoạn của Trung Quốc cắt sâu vào vùng đặc quyền kinh tế mà Việt Nam và Philippines đã tuyên bố. Theo Công ước về Luật Biển của Liên Hiệp quốc, các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với các vùng biển và thềm lục địa này để khai thác tài nguyên thiên nhiên, như tôm cá và dầu khí dưới đáy biển. Trung Quốc phải làm rõ các tuyên bố của họ.

Chinese  assertiveness  has  been  counterproductive  from  Beijing’s  perspective.  The  Aquino Administration is now committed to modernizing its armed forces for territorial  defence of its maritime domain. This goal has driven the Philippines to revive its 1951  alliance  with  the  United  States.  Vietnam,  while  tentatively  stepping  up  defence  cooperation  with  the  U.s.,  continues  to  embark  on  a  robust  program  of  naval  force  modernization. 

Sự quyết đoán của Trung Quốc đã trở nên phản tác dụng, theo quan điểm của Bắc Kinh. Chính phủ Aquino quyết tâm hiện đại hóa các lực lượng vũ trang để bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải của họ. Mục tiêu này đã khiến Philippines vực dậy hiệp ước liên minh năm 1951 với Hoa Kỳ. Việt Nam, trong lúc gia tăng hợp tác phòng thủ với Hoa Kỳ, tiếp tục bắt tay vào chương trình hiện đại hóa hải quân.

Security analysts warn that expanded submarine fleets may be destabilizing in times of  tensions  and  crises  due  to  the  complexities  of  command  and  control.  In  addition,  the  proliferation of regional submarine fleets has led many states to step up investment in  antisubmarine warfare capabilities.56 

Finally,  new  developments  in  military  technology  will  see  the  introduction  of  more  sophisticated  aerial  and  undersea  drones  and  unmanned  systems  for  intelligence  gathering, reconnaissance, surveillance and strike. According to Mark Valencia:
Các nhà phân tích an ninh cảnh báo rằng việc gia tăng các hạm đội tàu ngầm có thể làm mất ổn định trong thời gian căng thẳng và khủng hoảng, do tính phức tạp của hệ thống chỉ huy và kiểm soát. Hơn nữa, việc mở rộng của các hạm đội tàu ngầm trong khu vực khiến nhiều nước đầu tư thêm vào khả năng chiến tranh chống tàu ngầm (56).

Cuối cùng, sự phát triển kỹ thuật quân sự mới sẽ cho ra nhiều máy bay và tàu ngầm không người lái tinh vi, và các hệ thống tự động để thu thập thông tin tình báo, do thám, quan sát và tấn công. Theo Mark Valencia:

The  situation  is  presently  beyond  international  control.  Thus  continued  intrusive  probes are likely to generate frustration and resentment that may translate into the  forcible  halting  of  such  ‘intrusions’  when  and  if  detected.  The  scale  and  scope  of  maritime  and  airborne  intelligence  collection  activities  are  likely  to  continue  to  expand  rapidly  in  many  countries,  involving  levels  and  sorts  of  activities  quite  unprecedented  in  peacetime.  They  will  not  only  become  more  intensive;  they  will  generally  be  more  intrusive.  Indeed  stepped  up  drone  missions  may  even  be  considered a  prelude  to  impending  warfare.  They  will  generate  tensions  and  more  frequent crises; they will produce defensive reactions and escalatory dynamics; and  they will lead to less stability in the most affected regions, especially in Asia.57

Tình hình hiện đã vượt khỏi sự kiểm soát quốc tế. Vì thế những hành động thăm dò có tính cách xâm phạm dễ dẫn đến mất lòng tin và giận dữ, có thể đưa tới hành động sử dụng vũ lực để chấm dứt sự “xâm phạm” đó khi và nếu bị phát hiện. Mức độ và phạm vi của các hoạt động thu thập tin tức tình báo trên không và dưới biển tiếp tục gia tăng nhanh tại nhiều quốc gia, gồm nhiều loại và nhiều mức độ hoạt động chưa từng thấy trong thời bình. Không những chúng trở nên mạnh bạo hơn mà còn có tính cách xâm lấn hơn. Thật vậy, việc gia tăng những phi vụ do thám có thể được xem là sự chuẩn bị cho chiến tranh đang đến gần. Chúng sẽ gây ra căng thẳng và càng khủng hoảng thường xuyên hơn; chúng sẽ tạo ra những phản ứng phòng thủ và tính năng động nâng cao; và chúng sẽ dẫn tới giảm bớt ổn định ở các khu vực bị tác động nhất, đặc biệt ở khu vực châu Á (57).

The  ASEANcentric  regional  security  architecture  is  an  inchoate mixture of  multilateral  mechanisms with overlapping responsibilities. If ASEAN does not develop greater unity  and  cohesion  it  will  be  unable  to  maintain  its  centrality  in  the  region’s  security  architecture.  This  state  of  affairs  will  only  undermine  ASEAN’s  attempt  to  promote  regional autonomy as great power tensions are transmitted into Southeast Asia. In sum,  Southeast Asia is “ripe for rivalry” due to the transmission of the tensions arising from  SinoU.S.  rivalry  into  a  region  characterised  by  intractable  sovereignty  disputes  in  the  South  China  Sea,  rising  resource  nationalism,  and  regional  force  modernization  programs. 

Cơ cấu an ninh khu vực với trung tâm ASEAN là một sự pha trộn mới mẻ của cơ chế đa phương với nhiều trách nhiệm chồng chéo nhau. Nếu ASEAN không gia tăng tính thống nhất cao và gắn kết hơn nữa, nó sẽ không thể giữ vững tính trung tâm trong cơ cấu an ninh khu vực. Tình trạng này sẽ chỉ làm suy yếu sự cố gắng của ASEAN để đẩy mạnh sự tự trị khu vực khi căng thẳng giữa các cường quốc được chuyển qua Đông Nam Á. Tóm lại, Đông Nam Á đã “chín mùi để đối địch” do các căng thẳng xãy ra giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã chuyển tới khu vực, được đánh dấu bởi các xung đột chủ quyền không thể xác định trong vùng biển Đông, chủ nghĩa quốc gia tài nguyên gia tăng, và các chương trình hiện đại hóa quân đội.

Emeritus  Professor,  The  University  of  New  South  Wales  at  the  Australian  Defence  Force  Academy,  Canberra. Email: c.thayer@adfa.edu.au.    
Giáo sư danh dự, đại học New South Wales, Viện Nghiên cứu Quốc phòng Úc, Canberra. Email: c.thayer@adfa.edu.au


Translated by Trần Văn Minh

Ghi chú:
(1) Đông Timor chưa là thành viên.
(2) (Theo Today Online của Singapore, ngày 15/2/2012).
(3) Chuỗi đảo thứ nhất nói về dãy đảo hướng bắc nam, từ quần đảo Kuriles, Nhật Bản, quần đảo Ryukyu, Đài Loan, Philppines và Indonesia. Chuỗi đảo thứ hai cách xa  phía đông bờ biển Trung Quốc hơn, gồm một dãy chạy dài hướng bắc nam từ quần đảo Kuriles qua Nhật Bản, quần đảo Bonins, quần đảo Marianas, quần đảo Carolines và Indonesia. 
(4) Theo Tân Hoa xã, ngày 29 tháng 7 năm 2010.
(5) Theo báo The Economic Times, ngày 23 tháng 11 năm 2011.
(6) Mark J Valencia, “Biển Đông, Hoạt động Quân sự và Luật biển”, tài liệu đệ trình lên Hội đồng Quốc tế về Các vấn đề Chính sách và Luật cơ bản trong khu vực Biển Đông: Cách nhìn của Hoa Kỳ và Âu châu, do Cơ quan Nghiên cứu Hoa Kỳ và châu Âu cùng Trung tâm nghiên cứu châu Á -Thái Bình Dương đồng bảo trợ, Academia, Taipei, Đài Loan, ngày 7-8 tháng 10 năm 2011.
(7) Theo ABS-CBN News, ngày 3 tháng 6 năm 2011.
(8) Theo Philippine Daily Inquirer, ngày 3 tháng 6 năm 2011.
(9) Theo ABSCBN News, ngày 3 tháng 6 năm 2011.
(10) Theo BBC News AsiaPacific, ngày 8 tháng 3 năm 2011.
(11) Theo the Philippine Star, ngày 1 tháng 6 năm 2011.
(12) Theo báo Thanh Niên, ngày 10 tháng 6, 2011.
(13) Theo Associated Press, ngày 13 tháng 7, 2011.
(14) Theo báo PetroViet, “Báo cáo sự cố tàu Trung Quốc cắt cáp thăm dò địa chấn của tàu Bình Minh 02 vào lúc 5h58’, ngày 26/05/2011”.
(15) Theo DPA, ngày 6 tháng 6, 2011.
(16) Theo Agence France Presse (AFP), ngày 9 tháng 6 năm 2011 và Bloomberg Businessweek, ngày 9 tháng 6 năm 2011.
(17) Theo Carlyle A. Thayer, “South China Sea: Third Cable Cutting Incident?”-  Thayer Consultancy Background Briefing, 1 July 2011. Có tại Scribd.com.
(18) Theo Robert Karniol, “Vietnam chuẩn bị để bảo vệ tốt hơn các tuyên bố chủ quyền ở biển Đông”, báo The Straits Times, ngày 10-1- 2012.
(19) Theo Philippine Daily Inquirer, ngày 17 tháng 5 năm 2001.
(20) Theo AFP, 7-9-2011.
 (21) Theo Reuters, ngày 13 tháng 4 năm 2011 và AFP ngày 3 tháng 9 năm 2011.
(22) Theo The Philippine Star, ngày 24 tháng 8 năm 2011.
(23) Theo The Wall Street Journal, ngày 28 tháng 9 năm 2011.
(26) Theo đài BBC tiếng Việt, ngày 3 tháng 10 năm 2011.
(27) Theo đài BBC tiếng Việt, ngày 18 tháng 10 năm 2011.
(28) Theo báo The Hindu, ngày 9 tháng 11 năm 2011.
(29) Theo Business Insider, ngày 20 tháng 9 năm 2011.
(30) Theo thông tấn xã Nga RIA Novosti, ngày 15 tháng 2 năm 2012.
(31) Trích trong báo The Economic Times, ngày 14 tháng 11 năm 2011.
(32) Theo Aviation Week, ngày 17 tháng 2 năm 2012.
(33) Theo  giáo sư Desmond Ball, “Asia’s Naval Arms Race,” tài liệu đưa ra tại cuộc họp bàn tròn thứ 25 của tổ chức châu Á – Thái Bình dương, ISIS Malaysia, Kuala Lumpur, ngày 29 tháng 5 đến ngày 1 tháng 6, 2011.
(34) Theo Business Week, ngày 25 tháng 11 năm 2011.
(35)  Theo Aviation Week, ngày 17 tháng 2 năm 2012.
(36) Theo Al Jazeera.net, ngày 7 tháng 11 năm 2011.
(37) Theo The Straits Times, ngày 3 tháng 12 năm 2011.
(38) Theo Flight Global, ngày 15 tháng 12 năm 2011.
(39) Theo The Australian Financial Review, ngày 24 tháng 11 năm 2011.
(40) Theo Richard  A.  Bitzinger,  “Một cuộc chạy đua vũ trang mới? Giải thích các vụ mua bán vũ khí của ở ĐNA gần đây”. Contemporary Southeast Asia, 31(1), tháng 4- 2010, 6364.
(41) Theo Bitzinger, “Một cuộc chạy đua vũ trang mới? Giải thích các vụ mua bán vũ khí của ở ĐNA gần đây” 64.
(42) Trích từ The China Post, ngày 10 tháng 11 năm 2011.
(43) Rory Medcalf and Raoul Heinrichs, Crisis and Confidence: Major Powers and Maritime Security in Indo Pacific Asia (Sydney: Lowy Institute for International Policy, June 2011), 3.
(44) Theo Checkpoint Washington, ngày 18-11- 2011.
(45)  Theo Navy Times, ngày 21-7- 2010.
(46) Theo The Chosun Ilbo, ngày 8 tháng 7, 2010  và Time Magazine, ngày 8 tháng 7 năm 2010.
 (47)   Theo Sustaining U.S. Global Leadership: Priorities for 21st Century Defense (tháng 1-2012), 2.
(48) Theo cùng sách này, 4.
(49) Theo cùng sách này, 45.
 (50) Theo cùng sách này,2.
 (51) Theo Business World, ngày 29 tháng 11 năm 2011.
 (52) Theo Antara, ngày 14 tháng 11, 2011.
(53) theo “Kế hoạch hành động Hà Nội (được tổ chức ở Hà Nội) để thực hiện Chủ trương của Diễn đàn Khu vực ASEAN”, ngày 20 tháng 5 năm 2010, mục 3.
(54) Theo “bản lên tiếng của chủ tịch của Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN thứ 19 tại Bali, ngày 17 tháng 11, 2011”, Mục 14-17 (hợp tác lãnh hải).
(55) Theo Diễn đàn Khu vực ASEAN, “Bản thảo kế hoạch làm việc về an ninh lãnh hải: khuông mẫu để thảo luận”, ARF ISM on MS thứ 2, Auckland, 29-30 tháng 3- 2010; “Tóm lược của đồng chủ tịch Hội nghị ARF giữa mùa về an ninh lãnh hải, Tokyo, Nhật Bản, 14-15 tháng 2- 2011”; và “AM/PMC/thứ 18 ARF thứ 44, Indonesia năm 2011, tuyên bố của chủ tịch, ARF thứ 18, 23 tháng 7-2011, Bali, Indonesia”, Mục 41.
(56) Theo Aviation Week.
 (57) Mark J Valencia, “Biển Đông, Các Hoạt động Quân sự và Luật biển”, Tài liệu đệ trình lên Hội nghị Quốc tế về Các vấn đề Chính sách và Luật cơ bản trong khu vực Biển Đông: Quan điểm của Hoa Kỳ và Âu châu, đồng bảo trợ bởi Cơ quan Nghiên cứu Hoa Kỳ và Âu châu và Trung tâm nghiên cứu châu Á – Thái Bình Dương, Academia, Taipei, Đài Loan, ngày 7-8 tháng 10-2011 và Mark Valencia, “Sự cố Hoàn hảo: Sự thật và Hậu quả”, China Security, 5(2), mùa xuân 2009, 26.   


http://www.scribd.com/doc/91880303/Thayer-The-Rise-of-China-and-Maritime-Security-in-Southeast-Asia