MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Friday, April 27, 2012

Addressing U.S.-China Strategic Distrust Giải quyết vấn đề Mỹ-Trung Quốc. Sự hoài nghi chiến lược


 


Addressing U.S.-China Strategic Distrust

Giải quyết vấn đề Mỹ-Trung Quốc. Sự hoài nghi chiến lược

Kenneth Lieberthal and Wang Jisi
Kenneth Lieberthal and Wang Jisi


A stable, cooperative relationship with the United States is in the best interest of China in its road to modernization. Since the end of the Cold War, the PRC leadership has consistently demonstrated the desire to “increase trust, reduce trouble, develop cooperation, and refrain from confrontation” in U.S.-China relations. Beijing has assured Washington, especially in the last few years when it has seen more worries in America about China strategic intentions, that China does not seek to challenge or supplant the role of the U.S. in the world, and that China-U.S. cooperation must be based on mutual strategic trust. The Chinese leadership has also taken measures to manage domestic media and public opinion to reduce excessive nationalist sentiment directed at the U.S. Meanwhile, in Beijing’s view, it is U.S. policies, attitude, and misperceptions that cause the lack of mutual trust between the two countries.

Một mối quan hệ hợp tác ổn định với Hoa Kỳ là một trong những lợi ích tốt nhất của Trung Quốc trên con đường hiện đại hoá của nó. Kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, lãnh đạo Trung Quốc đã luôn thể hiện mong muốn “tăng trưởng tin tưởng, giảm bớt phiền hà, phát triển hợp tác, và kiềm chế đối đầu” trong quan hệ Mỹ-Trung Quốc. Bắc Kinh đã cam đoan với Washington, đặc biệt là trong những năm gần đây, khi được thấy nhiều lo lắng ở Mỹ về các ý định chiến lược của Trung Quốc, rằng Trung Quốc không tìm cách thách thức hoặc thay thế vai trò của Mỹ trên thế giới, và rằng hợp tác Trung Quốc – Hoa Kỳ phải được dựa trên sự tin tưởng chiến lược lẫn nhau. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng đã thực hiện các biện pháp quản lý các phương tiện truyền thông trong nước và ý kiến ​​công chúng để giảm bớt tình cảm dân tộc chủ nghĩa quá mức nhằm vào Hoa Kỳ. Trong khi đó, theo quan điểm của Bắc Kinh, những chính sách của Mỹ, quan điểm, và những nhận thức sai lầm đã gây ra thiếu tin cậy lẫn nhau giữa hai nước.

Chinese distrust of the United States has persisted ever since the founding of the People’s Republic of China (PRC) in 1949. In the 1950s and the 1960s, the PRC viewed the U.S. as the most ferocious imperial power and the gravest political and military threat. When the Soviet Union became China’s archenemy in the late 1960’s, the U.S. threat diminished but did not disappear, particularly in political and ideological terms. Throughout the years since China embarked upon reform and opening in 1978, Chinese distrust of the U.S. has manifested itself in many and varying dimensions, ranging from fears of American interference in China’s internal politics to suspicions of American attempts to prevent China from becoming a great global power.

Trung Quốc mất lòng tin với Hoa Kỳ đã tồn tại liên tục suốt từ ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) vào năm 1949. Trong những năm 1950 và những năm 1960, Trung Quốc xem Mỹ như là quyền lực đế quốc dữ dội nhất và chính trị lẫn quân sự đe dọa nguy hiểm nhất . Khi Liên Xô trở thành kẻ thù không đội trời chung trong những năm cuối thập niên 1960, mối đe dọa Hoa Kỳ giảm bớt nhưng không biến mất, đặc biệt là về chính trị và tư tưởng. Nhiều năm qua, kể từ khi Trung Quốc bắt tay vào cải cách và mở cửa vào năm 1978, mất lòng tin của Trung Quốc với Mỹ đã thể hiện trên nhiều kích thước khác nhau, từ lo ngại về việc Mỹ can thiệp vào chính trị nội bộ của Trung Quốc đến nghi ngờ nỗ lực của Mỹ ngăn chặn Trung Quốc trở thành một cường quốc quan trọng trên toàn cầu.


In short, China’s strategic distrust of the United States is deeply rooted, and in recent years it seems to have deepened. The distrust is reflected not only in some official pronouncements, but also, and most strikingly, in the news media, the internet and blogosphere, and the educational system. The official thinking and the popular sentiments reinforce and interact with each other.

Nói vắn tắt, sự nghi ngờ chiến lược của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ đã ăn sâu bén rể, và trong những năm gần đây có vẻ như đã làm sâu sắc thêm. Mất lòng tin được phản ánh không chỉ ở một số tuyên bố chính thức, mà còn, và nổi bật nhất, trong những tin tức truyền thông, internet và thế giới blog, và hệ thống giáo dục. Suy nghĩ của các quan chức và những tình cảm đại chúng củng cố và tương tác với nhau.

Structural changes in the international system

Since 1949, China’s changing assessments of the international strategic structure have caused many readjustments of Beijing’s foreign policy thinking, especially its perceptions of the United States. After the Tiananmen political storm and sea changes in the Soviet bloc in 1989, Deng Xiaoping called for a cautious, non-confrontational approach toward the United States, which is widely known in China as the posture of taoguangyanghui, or “keeping a low profile.” To a large measure, this approach was premised on the fact—and the assessment —that China’s power and international status were far weaker than those of America, and that the global balance at that moment tilted toward Western political systems, values, and capitalism. Deng’s ideas and policies regarding the United States were followed for two decades by the two successive leaderships headed by Jiang Zemin and Hu Jintao.

Thay đổi cấu trúc trong hệ thống quốc tế.

Từ năm 1949, việc thay đổi đánh giá của Trung Quốc về cơ cấu chiến lược quốc tế đã gây ra nhiều điều chỉnh ở quan điểm chính sách đối ngoại của Bắc kinh, đặc biệt là nhận thức của nó đối với Hoa Kỳ. Sau cơn bão chính trị Thiên An Môn và biển thay đổi trong khối Liên Xô vào năm 1989, Đặng Tiểu Bình yêu cầu một sự thận trọng, cách tiếp cận không đối đầu thận trọng đối với Hoa Kỳ, được biết đến rộng rãi ở Trung Quốc như là tư thế “thao quang dưỡng hối” (ẩn mình chờ thời} , hay “giữ một hồ sơ thấp” ( giỏi che thực lực ). Một biện pháp lớn, cách tiếp cận này đã là tiền đề trên thực tế– và đánh giá — quyền lực và vị thế quốc tế của Trung Quốc yếu hơn hơn so với người Mỹ, và lúc đó sự cân bằng toàn cầu nghiêng về phía các giá trị, hệ thống chính trị Tây phương, và chủ nghĩa tư bản. Ý tưởng của Đặng Tiểu Bình và các chính sách liên quan đến Hoa Kỳ được theo đuổi trong hai thập kỷ bởi hai nhà lãnh đạo kế tiếp hàng đầu là Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào.

Since 2008, several developments have reshaped China’s views of the international structure and global trends, and therefore of its attitude toward the United States. First, many Chinese officials believe that their nation has ascended to be a firstclass power in the world and should be treated as such. China has successfully weathered not only the 1997-98 Asian financial crisis but also the 2008-09 global financial crisis; the latter, in Chinese eyes, was caused by deep deficiencies in the U.S. economy and politics. China has surpassed Japan as the world’s second largest economy and seems to be the number two in world politics, as well. Chinese leaders took great pride in hosting the Beijing Olympics in 2008 and the Shanghai Expo in 2010, along with some other major events that were also unprecedentedly grandiose. China’s outer space projects and advanced weaponry have also contributed to Beijing’s self confidence. Chinese leaders do not credit these successes to the United States or to the U.S.-led world order.

Từ năm 2008, một số phát triển đã định hình lại quan điểm của Trung Quốc về cấu trúc quốc tế và xu hướng toàn cầu, và do đó, thái độ của nó đối với Hoa Kỳ. Đầu tiên, nhiều quan chức Trung Quốc tin rằng quốc gia của họ đã lên tới một cường quốc hàng đầu trên thế giới và nên được đối xử như vậy. Trung Quốc đã thành công vượt qua không chỉ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-98 mà còn cả cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-09, sau này, trong mắt Trung Quốc, chúng bị gây ra bởi sự thiếu hụt sâu sắc trong nền kinh tế và chính trị của Mỹ. Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản như là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và dường như cũng là số hai trong chính trị thế giới. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã khoác lấy niềm tự hào to lớn trong việc đăng cai tổ chức Thế vận hội Bắc Kinh năm 2008 và Hội chợ triển lãm Thượng Hải năm 2010, cùng với một số sự kiện lớn khác mà cũng hoành tráng chưa từng có. Các dự án Không gian và các loại vũ khí tiên tiến của Trung Quốc cũng đã đóng góp vào sự tự tin của Bắc Kinh. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc không ghi nhận những thành công này liên quan đến Hoa Kỳ hoặc trật tự thế giới do Hoa Kỳ lãnh đạo.

Second, the United States is seen in China generally as a declining power over the long run. America’s financial disorder, alarming deficit and unemployment rate, slow economic recovery, and domestic political polarization are viewed as but a few indications that the United States is headed for decline. To be sure, China’s top leadership has been sober-minded enough to observe the resilience of U.S. power and not to have reached the conclusion that America’s superpower status is seriously challenged as of now.

Thứ hai, Hoa Kỳ được nhìn thấy ở Trung Quốc nói chung, là một sức mạnh đang suy tàn về lâu về dài. Rối loạn tài chính của Mỹ, thâm hụt đáng báo động và tỷ lệ thất nghiệp, phục hồi kinh tế chậm chạp, và sự phân cực chính trị trong nước được xem như là một số dấu hiệu cho thấy rằng Hoa Kỳ đang đứng trên đầu dốc suy sụp. Đúng như thế, lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc đã có đủ nghiêm túc, quan sát khả năng phục hồi quyền lực của Mỹ và không đi đến kết luận rằng vị thế siêu cường của Mỹ đang bị thách thức nghiêm trọng vào lúc này.


In fact, China’s leaders realize that a downturn in the U.S. economy would definitely jeopardize China’s economic development, including its exports and the value of its savings in U.S. treasury bonds. Yet, Beijing still sees the lack of confidence and competence of the United States on the global stage and a quite chaotic picture in U.S. national politics. The power gap between China and the U.S. has narrowed considerably. In 2003 when America launched the Iraq War, its GDP was 8 times as large as China’s, but today it is less than 3 times larger. It is now a question of how many years, rather than how many decades, before China replaces the United States as the largest economy in the world.

Trong thực tế, các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận ra rằng suy thoái kinh tế ở Mỹ chắc chắn sẽ gây nguy hiểm cho phát triển kinh tế của Trung Quốc, bao gồm cả xuất khẩu và giá trị tiết kiệm của nó trong trái phiếu kho bạc Mỹ. Tuy nhiên, Bắc Kinh vẫn còn thấy thiếu tin tưởng và khả năng của Hoa Kỳ trên trường quốc tế, và hình ảnh hết sức lộn xộn trong nền chính trị quốc gia Mỹ. Khoảng cách quyền lực giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã thu hẹp đáng kể. Năm 2003 khi nước Mỹ phát động cuộc chiến Iraq, GDP của nó lớn gấp 8 lần Trung Quốc, nhưng ngày nay nó đã mất đi 3 lần lớn hơn. Một câu hỏi là bao nhiêu năm, chứ không phải là bao nhiêu thập kỷ, Trung Quốc sẽ thay thế Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất trên thế giới.

Third, from the perspective of China’s leaders, the shifting power balance between China and the United States is part of an emerging new structure in today’s world. While the Western world at large is faced with economic setbacks, emerging powers like India, Brazil, Russia, and South Africa join China in challenging Western dominance. These countries are referred to collectively as the BRICS and BASIC, with their leaders meeting regularly. Their coordination of economic and foreign policies serves as a counterweight to Western predominance. The G20 is replacing the G8 as a more effective and probably more viable international mechanism. The IMF, the World Bank, and other international organizations and regimes now have to take the aspirations and interests of the emerging powers more seriously.

Thứ ba, từ quan điểm của các nhà lãnh đạo của Trung Quốc, chuyển đổi cân bằng quyền lực giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ là một phần của một cấu trúc mới, đang nổi lên trong thế giới ngày nay. Trong khi thế giới phương Tây rộng lớn đang phải đối mặt với những thất bại kinh tế ; đang nổi lên các sức mạnh như Ấn Độ, Brazil, Nga, và Nam Phi tham gia với Trung Quốc thách thức sự thống trị của phương Tây. Những quốc gia này gọi chung là BRIC và BASIC, với việc các nhà lãnh đạo của họ gặp gở nhau thường xuyên. Phối hợp của họ trên kinh tế và chính sách đối ngoại phục vụ như là một đối trọng với ưu thế của phương Tây. G20 thay thế G8 như là một cơ chế quốc tế hiệu quả hơn và có thể khả thi hơn. IMF, Ngân hàng Thế giới, và các tổ chức quốc tế khác và các chế độ hiện nay phải có những nguyện vọng và lợi ích của việc mới nổi lên những sức mạnh thật sự này.

Fourth, it is a popular notion among Chinese political elites, including some national leaders, that China’s development model provides an alternative to Western democracy and experiences for other developing countries to learn from, while many developing countries that have introduced Western values and political systems are experiencing disorder and chaos. The China Model, or Beijing Consensus, features an all-powerful political leadership that effectively manages social and economic affairs, in sharp contrast to some countries where “color revolutions” typically have led to national disunity and Western infringement on their sovereign rights.

Thứ tư, một khái niệm phổ biến trong giới tinh hoa chính trị Trung Quốc, bao gồm cả một số nhà lãnh đạo quốc gia, rằng mô hình phát triển của Trung Quốc cung cấp một thay thế cho nền dân chủ phương Tây, và kinh nghiệm cho các nước đang phát triển khác học hỏi từ đó, trong khi nhiều nước đang phát triển đã đưa vào các giá trị và hệ thống chính trị phương Tây đang rối rắm và hỗn loạn. Mô hình TrungQuốc, hoặc Đồng thuận Bắc Kinh, tính năng lãnh đạo chính trị nắm hết mọi quyền lực, qua đó quản lý xã hội và các vấn đề kinh tế có hiệu quả, trái ngược hẳn với một số quốc gia , ở đó “Cuộc cách mạng màu” thường dẫn đến mất đoàn kết quốc gia và Phương Tây xâm phạm quyền chủ quyền của họ


Obviously, the above Chinese observations are not readily shared in America. Many of China’s political elites, therefore, suspect that it is the United States, rather than China, that is “on the wrong side of history.” In the past when they respected America for its affluence and prowess, it was somewhat credible; now this nation is no longer that awesome, nor is it trustworthy, and its example to the world and admonitions to China should therefore be much discounted.

Rõ ràng, các quan sát của Trung Quốc ở trên là không dễ dàng được chia sẻ ở Mỹ. Nhiều người trong giới tinh hoa chính trị của Trung Quốc, do đó, nghi ngờ rằng Hoa Kỳ, chứ không phải là Trung Quốc, “Ở phía sai trái của lịch sử.” Trong quá khứ, khi họ tôn trọng Mỹ trước sự giàu có và năng lực của nó, nó đã phần nào đáng tin cậy, bây giờ quốc gia này không còn là tuyệt vời, cũng không còn đáng tin cậy, và tấm gương của nó với thế giới và sự răn bảo của nó với Trung Quốc do đó, nên được giảm đi nhiều hơn.

It is strongly believed in China that the ultimate goal of the United States in world affairs is to maintain its hegemony and dominance and, as a result, Washington will attempt to prevent the emerging powers, in particular China, from achieving their goals and enhancing their stature. According to typical Chinese understanding of world history, American politicians are true believers of “the law of the jungle,” and their promotion of democracy and human rights are in reality policy tools to achieve goals of power politics. This cynicism is so widespread that no one would openly affirm that the Americans truly believe in what they say about human rights concerns. The rise of China, with its sheer size and very different political system, value system, culture, and race, must be regarded in the United States as the major challenge to its superpower status. America’s international behavior is increasingly understood against this broad backdrop.

Tin tưởng mạnh mẽ ở Trung Quốc rằng, mục tiêu cuối cùng của Hoa Kỳ trong những vấn đề thế giới là duy trì quyền bá chủ và sự thống trị của nó, và kết quả là, Washington sẽ cố gắng ngăn chặn các quyền lực mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc, để đạt được mục tiêu và nâng cao tầm vóc của họ. Theo sự hiểu biết điển hình của Trung Quốc về lịch sử thế giới, các chính trị gia Mỹ đúng là tín đồ của “luật rừng”, và sự khuyến khích của họ về dân chủ và nhân quyền, là những công cụ của chính sách thực dụng, để đạt được mục tiêu quyền lực chính trị. Sự hoài nghi này quá phổ biến cho đến nổi không một ai công khai khẳng định rằng người Mỹ thật sự tin vào những gì họ nói về những quan tâm đối với nhân quyền. Sự nổi lên của Trung Quốc, với quy mô và hệ thống chính trị rất khác nhau, hệ thống giá trị, văn hóa và chủng tộc, phải được nhìn nhận tại Hoa Kỳ như là thách thức chính đối với vị thế siêu cường của nó. Những hành vi quốc tế của Mỹ ngày càng được am hiểu căn cứ vào sự xếp đặt rộng lớn này.

Political and value systems

Since the very early days of the PRC, it has been a constant and strong belief that the U.S. has sinister designs to sabotage the Communist leadership and turn China into its vassal state. Such alleged designs are referred to as America’s “strategy of peaceful evolution” against socialism. U.S. sympathies toward, and support for, anti-Communist demonstrations in Eastern Europe before the collapse of the Soviet bloc, the “color revolutions” in the former Soviet states, and the “Arab Spring” in 2011, and support for democratic reforms in Myanmar are all manifestations of U.S. schemes to this effect.

Hệ thống chính trị và hệ thống giá trị.

Kể từ những ngày đầu của Trung Quốc, nó đã kiên định và có niềm tin mạnh mẽ rằng, Mỹ có những thiết kế độc ác để phá hoại sự lãnh đạo của Cộng sản và biến Trung Quốc thành nước chư hầu của nó. Thiết kế bị cáo buộc như vậy được gọi là “chiến lược diễn biến hòa bình” của Mỹ chống lại chủ nghĩa xã hội. Mỹ cảm tình đối với, và hỗ trợ cho : các cuộc biểu tình chống Cộng ở Đông Âu trước khi khối Xô Viết sụp đổ ; “Cách mạng màu” ở các bang Xô Viết cũ ; và “Mùa xuân Ả Rập” 2011 ; và hỗ trợ cho các cải cách dân chủ ở Myanmar là tất cả các biểu hiện âm mưu của Mỹ đối với hiệu ứng này.
The Communist Party of China (CPC) has long guarded against the influence of American ideology, as its advocacy of such ideas as civil rights, political and religious freedom, and Western democracy is unacceptable to the governing ideology of China. Chinese officials and mainstream commentators categorically reject the idea that China should conduct political reform that might lead to Western-type democracy. Wu Bangguo, chairman of the Standing Committee of the National People’s Congress, stated in May 2011 that, “…on the basis of China’s conditions, we have made a solemn declaration that we will not employ a system of multiple parties holding office in rotation; diversify our guiding thought; separate executive, legislative and judicial powers; use a bicameral or federal system;
or carry out privatization.”

Đảng Cộng sản Trung Quốc (CPC) từ lâu đã được bảo vệ chống lại ảnh hưởng hệ tư tưởng của Mỹ, như sự ũng hộ của nó đối với các ý tưởng về quyền dân sự, tự do chính trị và tôn giáo, và Dân chủ phương Tây là không thể chấp nhận được đối với sự quản lý tư tưởng của Trung Quốc. Quan chức Trung Quốc và các nhà bình luận dòng chính dứt khoát bác bỏ ý tưởng rằng Trung Quốc nên tiến hành cải cách chính trị, mà có thể dẫn đến dân chủ kiểu phương Tây. Ngô Bang Quốc, Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trung quốc, công khai vào tháng năm 2011 rằng, “… trên cơ sở điều kiện của Trung Quốc, chúng tôi thực hiện một tuyên bố long trọng rằng chúng tôi sẽ không sử dụng một hệ thống đa đảng tổ chức cơ chế luân chuyển, đa dạng hóa tư duy chỉ đạo của chúng tôi, tách rời các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp; sử dụng một hệ thống lưỡng viện hoặc liên bang ; hoặc thực hiện tư nhân hóa “.

Leading Chinese observers continue to view U.S. policy toward China as aimed to “Westernize” and “divide” the country. They vehemently denounce American sympathy and support for the Dalai Lama, whom they regard as a political figure trying to separate Tibet from the rest of China. Their distrust of American intentions deepened after the violent riot in Lhasa in March 2008, which was seen as resulting from the longstanding American encouragement of the Tibetan “separatists” living abroad. The horrible violence in Urumqi in July 2009 exacerbated Chinese indignation against American efforts, as it was reported by the Chinese media that the Uighur political activist Rebiya Kadeer had staged the killings, and that she and her separatist organization were funded and backed by the U.S. government. It is widely believed in the Chinese leadership that the Americans orchestrated awarding the Nobel Peace Prize to Liu Xiaobo in October 2010. Liu had been sentenced to 11 years for “inciting subversion” against the Chinese government. It is a notable fact that all the existing political forces arrayed against the Communist Party of China, including the Falun Gong, have established their bases in, and are seen as being backed by, the United States.

Các nhà quan sát hàng đầu Trung Quốc tiếp tục xem chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc là nhằm để “Âu hóa” và “phân chia” đất nước. Họ kịch liệt tố cáo sự cảm thông và hỗ trợ của Mỹ đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, người mà họ coi như là một nhân vật chính trị cố gắng tách Tây Tạng với phần còn lại của Trung Quốc. Mất lòng tin của họ về các ý định của Mỹ sâu sắc thêm sau cuộc nổi loạn dử dội ở Lhasa trong năm 2008, được xem như là kết quả từ việc khuyến khích lâu dài của Hoa Kỳ với người “Tây Tạng ly khai” sống ở nước ngoài. Bạo lực khủng khiếp ở Urumqi vào tháng Bảy 2009 làm trầm trọng thêm sự phẫn nộ của Trung Quốc, chống lại những nổ lực của Mỹ , như nó đã được tường trình bởi các phương tiện truyền thông Trung Quốc rằng, nhà hoạt động chính trị Uighur, Rebiya Kadeer, đã tổ chức những vụ giết người, và rằng cô ấy và tổ chức ly khai của cô đã được tài trợ và được chống lưng bởi chính phủ Mỹ. Tin tưởng rộng rãi trong lãnh đạo Trung Quốc rằng Mỹ sắp trao giải thưởng Giải Nobel Hòa bình cho ông Lưu Hiểu Ba trong tháng 10 năm 2010. Liu đã bị kết án đến 11 năm với tội danh “kích động lật đổ” chống lại chính phủ Trung Quốc. Đó là một thực tế đáng chú ý rằng tất cả các lực lượng chính trị đang tồn tại đã dàn trận chống lại Đảng Cộng sản Trung Quốc, bao gồm cả các học viên Pháp Luân Công, đã thiết lập căn cứ của họ, và cũng được xem như là được chống lưng bởi, Hoa Kỳ.


China has built increasingly powerful and sophisticated institutions, especially counterintelligence and cybersecurity forces, to safeguard domestic political stability. There is a strong conviction that the CIA and a lot of seemingly-aboveboard American NGOs and companies are in fact gathering sensitive data from China with hostile intent. In early 2010, Google’s open criticism of China’s alleged official interference in its work in China triggered a fierce response from Beijing. It was
deeply suspected in China’s political circles that the U.S. government was backing Google in inflaming anti-government sentiment among China’s netizens.

Trung Quốc đã xây dựng những thể chế ngày càng mạnh mẽ và tinh vi, đặc biệt là các lực lượng phản gián và an ninh không gian mạng, để bảo vệ sự ổn định chính trị trong nước. Có một sự tin chắc rằng CIA và rất nhiều tổ chức phi chính phủ Mỹ và các công ty, có bề ngoài thẳng thắn nhưng trong thực tế thu thập các dữ liệu nhạy cảm từ Trung Quốc với ý định thù địch. Đầu năm 2010, Google mở ra những chỉ trích can thiệp, bị cáo buộc chính thức là của nhà nước Trung Quốc trong những công việc của nó tại Trung Quốc, gây ra một phản ứng quyết liệt từ Bắc Kinh. Đó là nghi ngờ sâu sắc trong giới chính trị của Trung Quốc rằng, chính phủ Mỹ đã hổ trợ Google trong việc kích động tình cảm chống chính phủ trong các cư dân mạng của Trung Quốc.

American involvement in the “color revolutions” in Central Asian states and some other former Soviet states, as well as the American attitude toward the Arab Spring in 2011, have further solidified the notion that the United States would sabotage the rule of the CPC if it saw similar developments and opportunities in China. Given the increased emphasis in China today on internal political stability, the resulting strategic distrust of U.S. intentions is deepening.

Mỹ tham gia vào “cuộc cách mạng màu” ở Trung Á và một số nước thuộc Liên Xô cũ khác, cũng như thái độ của Mỹ đối với mùa xuân Ả Rập vào năm 2011, tiếp tục củng cố quan điểm cho rằng Hoa Kỳ sẽ phá hoại các quy tắc của Đảng Cộng sản Trung quốc, nếu nó nhìn thấy sự phát triển và cơ hội tương tự tại Trung Quốc. Với sự nhấn mạnh ngày càng tăng ở Trung Quốc ngày hôm nay về sự ổn định chính trị nội bộ, kết quả không tin tưởng chiến lược về các ý định của Mỹ đang ngày càng sâu sắc hơn.
National Security Issues

Some high-ranking Chinese officials have openly stated that the United States is China’s greatest national security threat. This perception is especially widely shared in China’s defense and security establishments and in the Communist Party’s ideological organizations. Several recent developments have contributed to China’s deepening distrust of U.S. strategic intentions in the national security arena. First, despite the remarkable improvement of relations between Beijing and Taipei since the KMT returned to power in May 2008, the United States has continued to provide Taiwan with advanced weapons aimed at deterring the Mainland. This is viewed as pernicious in Chinese eyes and has added to the suspicion that Washington will disregard Chinese interests and sentiment as long as China’s power position is secondary to America’s.
Những vấn đề an ninh quốc gia

Một số quan chức cấp cao Trung Quốc đã công khai tuyên bố rằng Hoa Kỳ là mối đe dọa an ninh quốc gia lớn nhất của Trung Quốc. Nhận thức này đặc biệt là được chia sẻ rộng rãi trong quốc phòng, và cơ sở an ninh cũng như trong tổ chức tư tưởng Đảng Cộng sản Trung Quốc. Một số phát triển gần đây đã đóng góp làm sâu sắc thêm sự mất lòng tin của Trung Quốc đối với các ý đồ chiến lược của Mỹ trong đấu trường an ninh quốc gia. Đầu tiên, mặc dù cải thiện đáng kể quan hệ giữa Bắc Kinh và Đài Bắc kể từ khi Quốc Dân Đảng trở lại nắm quyền tháng 5 năm 2008, Hoa Kỳ đã tiếp tục ủng hộ Đài Loan với các vũ khí tiên tiến nhằm ngăn chặn Đại lục. Điều này được xem như là nguy hại trong mắt Trung Quốc và thêm vào mối nghi ngờ rằng Washington sẽ không đếm xỉa đến các lợi ích và tình cảm của Trung Quốc, chỉ cần vị thế sức mạnh của Trung Quốc không quan trọng là đủ đối với Mỹ.



Second, while the Obama administration has reassured the Chinese leadership that it has no intention of containing China, the U.S. Navy and Air Force have intensified their close-in surveillance activities against China. At times, U.S. spy planes and ships are so close to Chinese borders that the PLA is seriously alarmed at operational levels. The Chinese military leadership views these activities as deliberately provocative, as no other countries in today’s world, not even Russia, are under such daily American military pressure.

Thứ hai, trong khi chính quyền Obama cam kết với các lãnh đạo Trung Quốc rằng nó không có ý định kềm chế Trung quốc, Hải quân và Không quân Mỹ đã tăng cường các hoạt động giám sát chặt chẽ của họ chống lại Trung Quốc. Đôi khi, máy bay gián điệp và tàu Mỹ ở quá gần biên giới Trung Quốc mà quân đội Trung Quốc đã báo động nghiêm trọng ở các cấp độ hoạt động. Chỉ huy quân sự Trung Quốc xem các hoạt động này là cố ý khiêu khích, là không hề có nước nào khác trong thế giới ngày nay, thậm chí không cả nước Nga, đang theo đuổi áp lực quân đội Hoa Kỳ hàng ngày như vậy.


Third, Washington has strengthened security ties with a number of China’s neighbors, including most recently India and Vietnam, two states that once fought border wars and still have territorial disputes with China. Intensified U.S. military exercises joined by its allies have caused more Chinese apprehensions. Chinese officials have paid special attention to the Obama administration’s statements of a new pivot of America’s strategic focus to Asia, made during the APEC meetings in Hawaii and the East Asia Summit in Indonesia in November 2011. In Beijing’s interpretation, many of Washington’s latest actions in Asia, including the decisions to deploy on rotation U.S. marines in Darwin, Australia, encourage Myanmar (Burma) to loosen domestic political control, and strengthen military ties with the Philippines, are largely directed at constraining China. America’s “meddling” in the South China Sea
territorial disputes by asserting freedom of navigation concerns there is particularly disturbing to Beijing.

Thứ ba, Washington đã tăng cường quan hệ an ninh với một số nước láng giềng của Trung Quốc, bao gồm gần đây nhất là Ấn Độ và Việt Nam, hai quốc gia đã từng chiến đấu trong chiến tranh biên giới và vẫn còn có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Tăng cường các buổi diển tập quân sự của Mỹ có tham gia của các đồng minh đã gây ra nhiều sự e sợ của Trung Quốc. Các quan chức Trung Quốc đã quan tâm đặc biệt đến báo cáo của chính quyền Obama về một trục mới trong chiến lược trọng tâm ở châu Á của Mỹ, trong các cuộc họp APEC ở Hawaii và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á tại Indonesia trong tháng mười một 2011. Trong giải thích của Bắc Kinh, nhiều hành động mới nhất của Washington ở châu Á, bao gồm cả các quyết định triển khai luân phiên thủy quân lục chiến Mỹ ở Darwin, Úc ; khuyến khích Myanmar (Miến Điện) nới lỏng kiểm soát chính trị trong nước, và tăng cường quan hệ quân sự với Philippines, chủ yếu hướng vào chế ngự Trung Quốc. “Can thiệp” của Mỹ vào tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa) bằng cách khẳng định những quan tâm về tự do hàng hải, đặc biệt có ảnh hưởng đến Bắc Kinh.


Economic Issues

In recent years, there have been accumulated Chinese misgivings that the U.S. is using China-U.S. economic frictions as a scapegoat for American economic failures. U.S. trade protectionism is widely viewed in China as a sign of American losses in international competition. In Chinese eyes, America’s trade deficit with China is largely caused by its export controls resulting from political prejudices against China. Meanwhile, the United States is seen as setting up numerous political obstacles for Chinese companies to invest in America and merge with or acquire American companies. American pressures on China to revalue its currency are generally viewed as a high-handed, unreasonable way to serve the interests of the United States at the expense of China’s economy and of Chinese laborers.

Những vấn đề kinh tế.

Trong những năm gần đây, đã tích lũy những nghi ngại của Trung Quốc rằng, Hoa Kỳ đang sử dụng những va chạm kinh tế Trung Quốc- Hoa Kỳ như là một giơ đầu chịu báng cho những thất bại kinh tế của Mỹ. Chính sách Bảo hộ thương mại Mỹ xem Trung Quốc như là một dấu hiệu tổn thất của Mỹ trong cạnh tranh quốc tế. Trong mắt của Trung Quốc, thương mại của Mỹ thâm hụt với Trung Quốc phần lớn là do kiểm soát xuất khẩu, hậu quả từ định kiến ​​chính trị chống lại Trung Quốc. Trong khi đó, Hoa Kỳ được xem là trở ngại rất nhiều về chính trị cho các công ty Trung Quốc đầu tư tại Mỹ và kết hợp với, hoặc tiếp cận các công ty Mỹ. Áp lực của Mỹ đối với Trung Quốc định giá lại tiền tệ của nó, thường được xem như là thói trịch thượng, cung cách bất hợp lý để phục vụ lợi ích của Hoa Kỳ ở phí tổn của nền kinh tế của Trung Quốc và của người lao động Trung Quốc.

Since the beginning of the global financial crisis, China’s huge holdings of U.S. treasury bonds have become a more controversial domestic political issue. Due to the devaluation of U.S. dollar, the fluctuations of the U.S. financial markets, and the August 2011 debt ceiling battle, there are increased doubts about the necessity and wisdom of keeping so large a portion of Chinese savings in the United States. “Kidnapping,” “cheating,” “stealing,” “plundering,” and “irresponsible” are but a few of the words the Chinese are using to express their mistrust of U.S. debt instruments. To be sure, China’s economic and political leaders continue to see few alternatives to purchasing American debt instruments. But Beijing’s domestic political circumstances make this a very difficult issue for any who want to defend the decisions to hold or increase those financial assets.

Kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, trái phiếu kho bạc Mỹ do Trung Quốc nắm giữ rất lớn đã trở thành một vấn đề chính trị trong nước gây ra nhiều tranh luận. Do sự mất giá của đồng đô la Mỹ, biến động của thị trường tài chính Hoa Kỳ, và trận chiến nợ quá cở vào tháng Tám 2011, gia tăng nghi ngờ về sự cần thiết và sự khôn ngoan của việc, giữ một phần rất lớn tiền tiết kiệm của Trung Quốc tại Hoa Kỳ. “Bắt cóc”, “ăn gian”, “ăn cắp”, “cướp bóc”, và “vô trách nhiệm” chỉ là một vài từ mà Trung Quốc đang sử dụng để bày tỏ sự thiếu tin cậy của họ đối với các công cụ nợ của Hoa Kỳ. Đúng như thế, các nhà lãnh đạo chính trị và kinh tế của Trung Quốc tiếp tục xem xét các lựa chọn thay thế, trong việc mua các khoản nợ của Mỹ. Tuy nhiên, những điều kiện ảnh hưởng đến chính trị trong nước của Bắc Kinh làm cho vấn đề này rất khó khăn cho bất kỳ người nào muốn bảo vệ các quyết định để giữ hoặc tăng những tài sản tài chính đó.

With a weakened U.S. dollar in the global financial markets, Beijing has had more doubts about the sustainability of the U.S. dollar as the global reserve currency and feels some urgency to internationalize the Renminbi. At the same time, China also suspects that the United States will create obstacles to the RMB’s becoming an international currency. Many believe that U.S. global hegemony is sustained essentially by the dominance of the U.S. dollar, and see the United States as having in the past sought to constrain the rise of the Euro. The Obama administration’s recent plans to finalize and eventually expand the Trans-Pacific Partnership (TPP) is viewed in Beijing as an effort to compete with China’s growing economic ties with other Asian economies and limit the circulation of the RMB.

Với một đồng đô la Mỹ suy yếu trong thị trường tài chính toàn cầu, Bắc Kinh đã có nghi ngờ thêm về tính bền vững của đồng đô la Mỹ là đồng tiền dự trữ toàn cầu, và cảm thấy một số thúc bách cần quốc tế hoá đồng Nhân dân tệ. Đồng thời, Trung Quốc cũng nghi ngờ rằng Hoa Kỳ sẽ tạo ra những trở ngại đối với việc Nhân dân tệ trở thành tiền tệ quốc tế. Nhiều người tin rằng quyền bá chủ toàn cầu của Mỹ được duy trì chủ yếu bởi sự thống trị của đồng đô la Mỹ, và thấy Hoa Kỳ như là có trong quá khứ, đã tìm cách hạn chế sự nổi lên của đồng Euro. Các kế hoạch gần đây của chính phủ Obama hoàn thiện và cuối cùng mở rộng quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được xem ở Bắc Kinh như là một pháo đài để cạnh tranh với quan hệ kinh tế đang gia tăng của Trung Quốc với các nền kinh tế châu Á khác và hạn chế việc lưu thông của nhân dân tệ.

Energy and Climate Change

The George W. Bush administration was regarded by many Chinese officials as representing the interests of oil oligarchies, and the Iraq War and U.S. policy toward the Middle East were seen as driven by the desire to control global oil supplies. While these Chinese suspicions continue today, the Obama administration’s designated projects to develop clean energy are seen as similarly self-interested. To a great number of Chinese economists and opinion leaders, the whole discourse of climate change is a Western conspiracy, which is designed first of all to prevent China and other developing countries from catching up. They believe that by creating the impression that climate change is caused by human activities and that reducing carbon emission provides the solution, the Westerners seek to be able to make profits by selling their low-carbon technologies and constraining the rise of economies like China’s that still must vastly expand production and infrastructure development to
meet the needs of a society that is still transitioning out of poverty and towards a predominantly middle class society.

Năng lượng và Biến đổi khí hậu

Chính quyền George W. Bush được nhìn thấy bởi nhiều quan chức Trung Quốc là đại diện cho lợi ích của những tập đoàn dầu lửa đầu sỏ, và chiến tranh Iraq và chính sách của Mỹ đối với Trung Đông được xem như được thúc đẩy bởi mong muốn kiểm soát nguồn cung cấp dầu lửa toàn cầu. Trong khi những nghi ngờ này của Trung Quốc vẫn tiếp tục đến ngày hôm nay, những dự án được thiết kế của chính quyền Obama về phát triển năng lượng sạch được xem như có tính tư lợi tương tự. Đối với một số lượng lớn các nhà lãnh đạo ý kiến và nhà kinh tế của Trung Quốc, thảo luận về khí hậu thay đổi là một âm mưu của phương Tây, được thiết kế trước tiên, để ngăn chặn Trung Quốc và các nước đang phát triển khác khỏi theo kịp Mỹ. Họ tin rằng bằng việc tạo nên ấn tượng rằng thay đổi khí hậu được gây ra bởi các hoạt động của con người, và rằng việc giảm khí thải carbon cung cấp các giải pháp, chẵng qua là phương Tây tìm cách để có thể tạo lợi nhuận bằng cách bán các công nghệ các-bon thấp của họ và hạn chế sự gia tăng của các nền kinh tế như Trung Quốc, mà qua đó vẫn còn phải mở rộng rất lớn việc sản xuất và phát triển cơ sở hạ tầng để đáp ứng nhu cầu của một xã hội vẫn còn đang thoát nghèo và hướng tới một xã hội chủ yếu là trung lưu.


Chinese leaders, many of whom have technical and scientific backgrounds, may be more impressed with the mainstream scientific findings about climate change and may not believe in such conspiracy theories. China is truly interested in strengthening cooperation with America and Europe in developing clean energy. However, there is a political risk to echoing Western calls for a green economy with too much enthusiasm, as China’s high speed economic growth has to depend on fossil fuels for many decades to come.

Lãnh đạo Trung Quốc, nhiều người trong số họ có nền tảng kỹ thuật và khoa học, có thể gây ấn tượng với dòng chính những phát hiện khoa học về biến đổi khí hậu và có thể không tin vào lý thuyết âm mưu như vậy. Trung Quốc thực sự quan tâm đến việc tăng cường hợp tác với Mỹ và châu Âu trong việc phát triển năng lượng sạch. Tuy nhiên, có một rủi ro chính trị để lặp lại, Phương Tây kêu gọi cho một nền kinh tế xanh với sự nhiệt tình quá nhiều, khi tăng trưởng kinh tế tốc độ cao của Trung Quốc phải phụ thuộc vào nhiên liệu hình thành từ phân hủy của động-thực vật tự ngàn xưa trong nhiều thập kỷ tới.

Diplomacy

The perceived changing power balance between China and the United States has prompted many Chinese to expect, and aspire to, a more “can-do” PRC foreign policy, and the Chinese leadership clearly recognizes these sentiments. If Beijing in the past was somewhat tolerant toward U.S. arms sales to Taiwan and military surveillance around China’s borders, it should now have enough courage and resolve to “punish” the Americans for such deeds. So far Beijing has been prudent in response to the Obama administration’s “pivot to Asia” rhetoric and related diplomatic and military moves, but how much
longer it should remain so is debated in China.

Ngoại giao

Thay đổi nhận thức cân bằng quyền lực giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã khiến nhiều người Trung Quốc mong đợi, và mong muốn, một chính sách ngoại giao của Trung Quốc “có thể – làm” nhiều hơn, và các lãnh đạo Trung Quốc rõ ràng nhận ra những tâm tình này. Nếu Bắc Kinh trong quá khứ là một vài cái gì đó khoan dung đối với việc Hoa Kỳ bán vũ khí cho Đài Loan và giám sát quân sự chung quanh biên giới của Trung Quốc, bây giờ nó sẽ có đủ can đảm và quyết tâm “trừng phạt” người Mỹ về những hành động như vậy. Cho đến nay, Bắc Kinh đã thận trọng trong việc phản ứng với khoa trương “trục châu Á” của chính quyền Obama và liên quan đến những chuyển hướng ngoại giao và quân sự, nhưng nó nên vẫn còn được cân nhắc như vậy ở Trung Quốc trong bao lâu.

China’s criticisms of, and resistance to, some of America’s international policies and actions toward the Korean Peninsula, Iran, Syria, and elsewhere reflect the suspicion that they are based on injustice and narrow U.S. self-interest that will directly or indirectly affect China’s interests.

Những lời chỉ trích của Trung Quốc, và khả năng chống, đối với một số chính sách và hành động quốc tế của Mỹ đối với bán đảo Triều Tiên, Iran, Syria, và các nơi khác phản ánh sự nghi ngờ rằng chúng dựa trên bất công và tư lợi hẹp hòi của Mỹ qua đó, trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của Trung Quốc.

Beijing remains officially committed to the denuclearization of the Korean Peninsula and would be deeply disturbed by any new move North Korea might take toward nuclear weaponry or proliferation. However, some Chinese leaders hold the view that it is the United States, rather than North Korea, that should be held more responsible for tensions on the Korean Peninsula. After all, over 60 years ago China fought the Korean War, siding with North Korea against the United States and South Korea to keep American troops away from an area bordering China’s northeast provinces. Today, it is still in China’s best interest to help North Korea maintain its domestic stability. Given the present security threat posed to China by the United States in East Asia, a friendly relationship with Pyongyang is of vital importance. It is a widely held view in Beijing that the United States would like to see “regime change” in Pyongyang and that American pressures on the North Korean government are aimed at undermining or overthrowing it at China’s expense.


Bắc Kinh vẫn còn chính thức cam kết phi hạt nhân hóa Bán đảo Triều Tiên và sẽ thực sự bị xáo trộn bởi bất kỳ chuyển dịch mới nào mà Bắc Triều Tiên có thể có đối với kỷ thuật chế tạo hoặc phổ biến vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, một số nhà lãnh đạo Trung Quốc giữ quan điểm rằng đó là Hoa Kỳ, chứ không phải là Bắc Triều Tiên, nên được tổ chức có trách nhiệm hơn cho những căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên. Sau tất cả, hơn 60 năm trước, Trung Quốc đã chiến đấu ở Chiến tranh Triều Tiên, đứng về phía Bắc Triều Tiên chống lại Hoa Kỳ và Hàn Quốc để buộc quân đội Mỹ ra khỏi một khu vực tiếp giáp với các tỉnh đông bắc của Trung Quốc. Hôm nay, nó vẫn là lợi ích tốt nhất của Trung Quốc để giúp đỡ Bắc Triều Tiên duy trì sự ổn định trong nước họ. Với mối đe dọa an ninh hiện nay đặt ra cho Trung Quốc bởi Hoa Kỳ ở Đông Á, một mối quan hệ thân thiện với Bình Nhưỡng là có tầm quan trọng sống còn. Nó là một cái nhìn rộng rãi được theo đuổi ở Bắc Kinhrằng, Hoa Kỳ muốn thấy “thay đổi chế độ” ở Bình Nhưỡng và rằng áp lực của Mỹ với chính phủ Bắc Triều Tiên là nhằm mục đích phá hoại hay lật đổ, gây bất lợi ở Trung Quốc .

Beijing’s policy toward Iran is also facing a dilemma. On the one hand, China supports the principle of nonproliferation together with the United States and its European allies. On the other hand, the Chinese are concerned that Washington’s high-handed position toward Teheran is driven more by an American desire to change the political structure of Iran and the geopolitical picture in the Middle East than by its declared goal of keeping the Iranians from obtaining nuclear weapons. China is not ready to support more U.S. sanctions against Iran by cutting off its own trade relations with Teheran.

Chính sách của Bắc Kinh đối với Iran cũng phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Một mặt, Trung Quốc hỗ trợ các nguyên tắc không phổ biến hạt nhân cùng với Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu của nó. Mặt khác, Trung Quốc lo ngại rằng vị trí ưu thế của Washington đối với Teheran được thúc đẩy bởi một mong muốn của Mỹ, là muốn thay đổi cấu trúc chính trị của Iran và bức tranh địa chính trị ở Trung Đông nhiều hơn so với tuyên bố mục tiêu là, buộc người Iran rời bỏ thủ đắc vũ khí hạt nhân. Trung Quốc chưa sẵn sàng hỗ trợ nhiều hơn lệnh trừng phạt của Mỹ chống lại Iran bằng cách cắt đứt quan hệ thương mại riêng của mình với Teheran.


Although the turbulence in the Arab world since early 2011 is not viewed in Beijing as necessarily stirred up by, and beneficial to, the U.S., the Chinese government was perturbed by the forceful intervention of the Western world in Libya in 2011.


Mặc cho sự hỗn loạn trong thế giới Ả Rập kể từ đầu năm 2011, không được xem xét ở Bắc Kinh như là nhất thiết phải khuấy động như thế, và có lợi, cho Mỹ, chính phủ Trung Quốc đã bị nhiễu loạn bởi các can thiệp mạnh mẽ của thế giới phương Tây ở Libya vào năm 2011.

Further advance of U.S. schemes in the region, now being unfolded in Syria, would be seen as detrimental to regional stability at the expense of China. Therefore, China joined Russia and some other countries in opposing international efforts to delegitimize the current Syrian government and support the opposition forces in that country.

Việc thúc đẩy phối hợp tiếp tục của Mỹ trong khu vực, bây giờ đang bộc lộ ra ở Syria, sẽ được xem như là bất lợi cho sự ổ định khu vực, không có lợi cho Trung Quốc. Do đó, Trung Quốc gia nhập cùng Nga và một số các quốc gia khác trong việc phản đối những nỗ lực quốc tế không công nhận tính hợp pháp của chính phủ Syria hiện tại và hỗ trợ lực lượng đối lập trong quốc gia đó.

America’s counter-terrorism efforts around the world are viewed in Beijing as a means to expand U.S. spheres of interest in the Middle East, Central Asia, and elsewhere. At the beginning of the 21st century, especially after September 11, 2001, when Washington became preoccupied with counter-terrorism and the wars in Iraq and Afghanistan, China foresaw a 20-year long strategic opportunity in foreign affairs, during which it could focus on domestic tasks centered on economic growth. However, since the Obama administration’s decision
to pull American troops out of Iraq and Afghanistan, there has arisen a stronger Chinese suspicion that the United States will move its strategic spearhead away from the Greater Middle East and redirect it at China as its greatest security threat. The recent pronouncements about America’s “pivot to Asia” tend
to reinforce this suspicion.

Nỗ lực chống khủng bố của Mỹ trên toàn thế giới được xem ở Bắc Kinh như một phương tiện để mở rộng các lĩnh vực có lợi ích ở Trung Đông, Trung Á, và các nơi khác. Tại thời điểm bắt đầu thế kỷ 21, đặc biệt là sau 11 tháng 9 năm 2001, khi Washington trở nên bận tâm với chống khủng bố và các cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan, Trung Quốc đã nhìn thấy trước một cơ hội chiến lược trường kỳ 20 năm trong các vấn đề nước ngoài, khoảng thời gian mà nó có thể tập trung vào các nhiệm vụ trong nước, cân bằng tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, kể từ khi quyết định của chính quyền Obama kéo quân Mỹ ra khỏi Iraq và Afghanistan, đã phát sinh một sự nghi ngờ mạnh mẽ hơn của Trung Quốc rằng Hoa Kỳ sẽ di chuyển mũi nhọn chiến lược của nó ra khỏi Trung Đông và chuyển hướng nó vào Trung Quốc như là mối đe dọa an ninh lớn nhất của nó. Các tuyên bố gần đây về “trục châu Á” của Mỹ có xu hướng để củng cố nghi ngờ này.

The Chinese have taken note of a series of American diplomatic moves seemingly directed at China. These include Washington’s involving itself in China’s territorial disputes with a few Southeast Asian countries, notably Vietnam and the Philippines, over the South China Sea. Although the U.S. official position on this issue remains “neutral,” it looks obvious to the Chinese that the Americans would like to drive a wedge between China and ASEAN and keep the issue alive. U.S. calls for freedom of navigation in the South China Sea are clearly working against China’s territorial claims. Other unfriendly U.S. diplomatic moves include the strengthening of U.S.-India ties. When India is referred to by Americans as “the largest democratic country in the world,” the connotation for China is obvious.

Người Trung Quốc đã từng lưu ý về một loạt chính sách ngoại giao của Mỹ dường như di chuyển hướng vào Trung Quốc. Chúng bao gồm việc thu hút chính bản thân Washington trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc với các nước Đông Nam Á, đáng chú ý là Việt Nam và Philippines, trên vùng biển Đông ( biển Nam Trung Quốc). Mặc dù quan điểm chính thức của Mỹ về vấn đề này vẫn còn “trung lập”, nó có vẻ rỏ ràng với Trung Quốc rằng, Mỹ muốn gây chia rẻ giữa Trung Quốc và ASEAN, và tiếp tục giử lại vấn đề. Mỹ kêu gọi tự do hàng hải ở biển Đông ( biển Nam Trung Hoa ) là rõ ràng hoạt động chống lại các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Những động thái ngoại giao không thân thiện khác của Hoa Kỳ bao gồm việc tăng cường các quan hệ Mỹ-Ấn Độ. Khi Ấn Độ được gọi bởi người Mỹ là “đất nước dân chủ lớn nhất trên thế giới”, ý nghĩa ám chỉ đối với Trung Quốc là rõ ràng.

China sees many American activities in the world as violation of the principle of noninterference in other countries’ domestic affairs. China’s policies toward a number of developing countries, such as Myanmar, Sudan, and Zimbabwe, are in sharp contrast with American positions. American criticisms of Chinese diplomatic practices in these countries are perceived as depriving China of gaining access to the natural resources there and therefore as part of the global American effort to complicate and constrain China’s rise.

Trung Quốc nhìn thấy nhiều hoạt động của Mỹ trên thế giới như là sự vi phạm nguyên tắc không can thiệp vào những công việc nội bộ của những quốc gia khác. Các chính sách của Trung Quốc đối với một số quốc gia đang phát triển như Myanmar, Sudan và Zimbabwe, tương phản sắc nét với quan điểm của Mỹ. Sự chỉ trích về những thực hành ngoại giao của Trung Quốc ở những nước này, được hiểu như là tước đi của Trung Quốc việc thiết lập mối quan hệ tiếp cận với các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đó, và do đó như là một phần nổ lực của Mỹ trên toàn cầu để gây rắc rối và hạn chế sự thăng tiến của Trung Quốc.

Kenneth Lieberthal is Senior Fellow in Foreign Policy
and in Global Economy and Development and is Director of the John L. Thornton China Center at the Brookings Institution.

_Kenneth Lieberthal là thành viên cao cấp trong Chính Sách Đối Ngoại và trong “Nền Kinh Tế Toàn Cầu và Phát Triển” và là Giám đốc Trung tâm John L. Thornton Trung Quốc tại Viện Brookings.

Wang Jisi is Director of the Center for International and Strategic Studies and Dean of the School of International Studies at Peking University.
_ Wang Jisi là Giám đốc của Trung tâm Quốc tế và Nghiên Cứu Chiến Lược và là Chủ nhiệm khoa của Trường Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Bắc Kinh.


Translated by BHM


www.brookings.edu/~/media/Files/rc/papers/2012/0330_china_lieberthal/0330_china_lieberthal.pdf

Survey shows best, worst paid doctors -- and many regrets Khảo sát: bác sĩ có thu nhập tốt nhất, bác sĩ có thu nhập thấp nhất và những hối tiếc






Survey shows best, worst paid doctors -- and many regrets

Khảo sát: bác sĩ có thu nhập tốt nhất, bác sĩ có thu nhập thấp nhất và những hối tiếc

By Kim Painter, USA TODAY
4/26/2012 3:42 PM

Kim Painter, NƯỚC MỸ NGÀY NAY
2012/04/26 3:42 PM
Increasing numbers of U.S. doctors regret their career choices --- even while taking in salaries average Americans might consider pretty sweet. Those salaries remain much sweeter for some specialists than others, though, according to an annual survey of physician pay from Medscape/WebMD.

Số lượng ngày càng tăng các bác sĩ Mỹ hối tiếc về lựa chọn nghề nghiệp của họ --- ngay cả khi mức lương trung bình của người Mỹ có thể xem là khá hậu hĩnh. Nhưng tiền lương đối với một số chuyên ngành vẫn còn hậu hĩnh hơn nhiều so với các ngành khác, một cuộc khảo sát hàng năm về thù lao của bác sĩ do Medscape / WebMD thực hiện cho biết.

Among the highest-paid doctors, according the survey of 24,000 physicians:

    Radiologists: $315,000
    Orthopedic surgeons: $315,000
    Cardiologists: $314,000
    Anesthesiologists: $309,000
    Urologists: $309,000

Theo một khảo sát gồm 24.000 bác sĩ thì trong số các bác sĩ được trả lương cao nhất có:

    X-quang: $315.000
    Bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình: $315.000
    Tim mạch: $314.000
    Bác sĩ gây mê: $309.000
    Tiết niệu: $309.000

Among the lowest paid:

    Pediatricians: $156,000
    Family medicine doctors: $158,000
    Internal medicine doctors: $165,000
    Diabeticians/endocrinologists: $168,000
    Psychiatrists: $170,000

Trong số các bác sỹ được trả lương thấp nhất có:

    Bác sĩ nhi khoa: $156.000
    Bác sĩ y học gia đình: $158.000
    Bác sĩ y học nội bộ: $165.000
    Bác sỹ tiểu đường / nội tiết: $168.000
    Bác sĩ tâm thần: $170.000
You'll notice that the doctors most people see most often -- the pediatricians, family doctors and internists who handle regular checkups and most illnesses -- make the least money. But pay for so-called "primary care" doctors is rising a bit, the survey shows, as pay for some big-money specialists declines. Those radiologists and orthopedic surgeons at the top of the pay heap actually made 10% less in the past year; general surgeons made 12% less.

Chúng ta thấy rằng các bác sĩ mà hầu hết mọi người thường xuyên đến khám nhất là bác sĩ nhi khoa, bác sĩ nội khoa, và bác sĩ gia đình; họ thường xuyên kiểm tra sức khỏe và điều trị hầu hết các bệnh – nhưng lại kiếm ít tiền nhất. Nhưng khảo sát này cho thấy thù lao cho bác sĩ chăm sóc “sức khỏe ban đầu” có tăng lên đôi chút, trong khi chi trả cho một số các chuyên khoa đắt tiền có giảm. Chuyên gia X-quang và phẫu thuật chỉnh hình đứng đầu bảng lương đã giảm thu nhập 10% trong năm qua, bác sĩ phẫu thuật tổng quát giảm lương 12%.

In comments accompanying the survey, many physicians said they feared changes in the health care system would mean lower incomes in years to come, Medscape reports. Maybe that's one reason just 54% said they would choose a career in medicine again, down from 69% percent in 2011.

Phát biểu ý kiến ​​kèm theo cuộc khảo sát này, nhiều bác sĩ cho biết họ lo sợ thay đổi trong hệ thống chăm sóc sức khỏe có nghĩa là thu nhập sẽ thấp hơn trong những năm tới, báo cáo của Medscape cho biết. Có lẽ đó là một trong những lý do chỉ 54% nói rằng họ sẽ chọn nghề y, ít hơn con số 69% năm 2011.

For now, just 11% say they consider themselves "rich" -- and 45% agree that "my income probably qualifies me as rich, but I have so many debts and expenses that I don't feel rich."

Bây giờ, chỉ 11% nói rằng họ tự coi mình là "giàu có" và 45% đồng ý rằng "thu nhập của tôi có thể đủ điều kiện để tôi là người giàu, nhưng tôi có rất nhiều khoản nợ và chi phí khiến tôi không còn cảm thấy giàu nữa."


http://yourlife.usatoday.com/health/healthyperspective/post/2012-04-26/survey-shows-best-worst-paid-doctors----and-many-regrets/681256/1