MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Monday, February 20, 2012

THE SECRET GARDEN 6- KHU VƯỜN BÍ MẬT 6





CHAPTER 21



Chapter XXI: BEN WEATHERSTAFF

Chương 21: LÃO BEN WEATHERSTAFF

One of the strange things about living in the world is that it is only now and then one is quite sure one is going to live forever and ever and ever. One knows it sometimes when one gets up at the tender solemn dawn-time and goes out and stands alone and throws one's head far back and looks up and up and watches the pale sky slowly changing and flushing and marvelous unknown things happening until the East almost makes one cry out and one's heart stands still at the strange unchanging majesty of the rising of the sun--which has been happening every morning for thousands and thousands and thousands of years.

Một trong những điều lạ lùng về cuộc sống nơi trần thế là thỉnh thoảng có người dám cả quyết rằng họ sẽ sống mãi mãi. Đôi khi người ta có cơ hội cảm nhận điều đó, khi thức dậy vào lúc bình minh uy nghiêm mà dịu dàng, một mình ra khỏi nhà, ngước nhìn bầu trời nhợt nhạt đang từ từ hồng lên, với bao điều tuyệt vời không ai hay biết đang diễn ra cho tới khi cả phương Đông bừng sáng, và ta thảng thốt kêu lên, trái tim lặng đi trước vẻ uy nghi đường bệ muôn đời không đổi thay của cảnh mặt trời mọc – là điều vẫn xảy ra mỗi sáng từ muôn triệu năm qua.

One knows it then for a moment or so. And one knows it sometimes when one stands by oneself in a wood at sunset and the mysterious deep gold stillness slanting through and under the branches seems to be saying slowly again and again something one cannot quite hear, however much one tries. Then sometimes the immense quiet of the dark blue at night with millions of stars waiting and watching makes one sure; and sometimes a sound of far-off music makes it true; and sometimes a look in some one's eyes.

Trong khoảng khắc, ta nhận ra điều đó. Và đôi khi ta lại nhận ra khi đứng một mình trong rừng vào buổi hoàng hôn, khi màu vàng tĩnh lặng thẳm sâu huyền bí chiếu xiên qua vòm cây như đang chậm rãi nhắc đi nhắc lại một điều gì đó ta hầu như không nghe thấy cho dù có cố gắng đến đâu. Rồi đôi khi sự im lặng mênh mang của màn đêm xanh thẳm cùng hàng triệu vì sao đang mong ngóng dõi theo khiến ta cảm nhận điều đó thật rõ ràng; và một nốt nhạc trầm vẳng tới biến mọi chuyện thành sự thật; hay đôi lúc, là nhờ một ánh nhìn trong mắt ai.

And it was like that with Colin when he first saw and heard and felt the Springtime inside the four high walls of a hidden garden. That afternoon the whole world seemed to devote itself to being perfect and radiantly beautiful and kind to one boy. Perhaps out of pure heavenly goodness the spring came and crowned everything it possibly could into that one place. More than once Dickon paused in what he was doing and stood still with a sort of growing wonder in his eyes, shaking his head softly.

Cảm xúc ấy đang dâng trào trong Colin khi lần đầu nó được nhìn, nghe và cảm nhận mùa xuân ngay giữa bốn bức tường cao ngất của một khu vườn được giấu kín. Buổi chiều hôm ấy, dường như cả thế giới đã dâng hiến cho riêng một đứa trẻ vẻ đẹp hoàn hảo, rạng rỡ cùng sự bao dung của mình. Mấy bận Dickon dừng bước, sững người lại, mắt lộ vẻ mỗi lúc một ngạc nhiên, rồi khẽ lắc đầu.

"Eh! it is graidely," he said. "I'm twelve goin' on thirteen an' there's a lot o' afternoons in thirteen years, but seems to me like I never seed one as graidely as this 'ere."

- Ôi! Thật là huy hoàng, - Dickon bảo. - Tớ mười hai tuổi, sắp bước sang tuổi mười ba rồi. Đã có bao buổi chiều trong suốt mười hai năm qua, nhưng tớ dường như chưa thấy buổi chiều nào lộng lẫy như buổi hôm nay.

"Aye, it is a graidely one," said Mary, and she sighed for mere joy. "I'll warrant it's the graidelest one as ever was in this world."

"Does tha' think," said Colin with dreamy carefulness, "as happen it was made loike this 'ere all o' purpose for me?"

"My word!" cried Mary admiringly, "that there is a bit o' good Yorkshire. Tha'rt shapin' first-rate--that tha' art."

- Đúng, đây là một buổi chiều huy hoàng, - Mary nói, rồi thở dài luyến tiếc.

- Tớ dám đánh cuộc rằng đây là buổi chiều huy hoàng nhất chưa từng thấy trên thế gian này.

- Cậu nghĩ thế sao, - Colin nói với sự cẩn trọng trong , dường như mọi thứ xảy ra là có chủ đích dành cho mình? "

- Nghe mình nói đây! - Mary ngưỡng mộ kêu lên - Cậu đã nói tiếng Yorkshire tốt hơn rồi đó. Cậu cừ thật đấy.

And delight reigned. They drew the chair under the plum-tree, which was snow-white with blossoms and musical with bees. It was like a king's canopy, a fairy king's. There were flowering cherry-trees near and apple-trees whose buds were pink and white, and here and there one had burst open wide.

Chúng kéo chiếc xe tới dưới gốc mận hoa trắng xóa có bầy ong đang vo ve. Cây mận trông như một bức trướng của nhà vua, một vị vua trong những câu chuyện cổ. Mấy cây anh đào gần đó đang nở hoa, kề bên dăm ba cây táo đầy nhựng nụ hoa nửa hồng nửa trắng, một vài nụ đã nở tung ra…

Between the blossoming branches of the canopy bits of blue sky looked down like wonderful eyes. Mary and Dickon worked a litle here and there and Colin watched them. They brought him things to look at--buds which were opening, buds which were tight closed, bits of twig whose leaves were just showing green, the feather of a woodpecker which had dropped on the grass, the empty shell of some bird early hatched. Dickon pushed the chair slowly round and round the garden, stopping every other moment to let him look at wonders springing out of the earth or trailing down from trees. It was like being taken in state round the country of a magic king and queen and shown all the mysterious riches it contained.

Giữa đám cành nhánh đang trổ hoa dệt nên tấm trướng ấy, ẩn hiện mấy mảnh trời xanh đang ngó xuống như những con mắt tò mò. Mary và Dickon quanh quẩn làm việc, còn thằng Colin ngồi xem. Chúng chỉ cho thằng bé mấy nụ này sắp nở, dăm nụ kia còn phong kín, những đoạn cành có lá non mọc ra, chiếc lông vũ của một con chim gõ kiến vừa rơi nhẹ xuống thảm cỏ, và cả chiếc vỏ trứng của con chim nào đó vừa nở sớm. Dickon chầm chậm đẩy chiếc xe vòng quanh khu vườn, thỉnh thoảng dừng lại để Colin được nhìn những thứ diệu kỳ đang nhú lên khỏi mặt đất hoặc buông xuống từ trên cây. Cảnh tượng ấy khiến người ta liên tưởng đến các chuyến vi hành trong giang sơn của đức vua và hoàng hậu để thưởng ngoạn non nước đẹp tươi.

"I wonder if we shall see the robin?" said Colin.

"Tha'll see him often enow after a bit," answered Dickon. "When th' eggs hatches out th' little chap he'll be kep' so busy it'll make his head swim. Tha'll see him flyin' backward an' for'ard carryin' worms nigh as big as himsel' an' that much noise goin' on in th' nest when he gets there as fair flusters him so as he scarce knows which big mouth to drop th' first piece in. An' gapin' beaks an' squawks on every side. Mother says as when she sees th' work a robin has to keep them gapin' beaks filled, she feels like she was a lady with nothin' to do. She says she's seen th' little chaps when it seemed like th' sweat must be droppin' off 'em, though folk can't see it."

- Chúng mình sẽ gặp chim ức đỏ chứ? -Colin hỏi.

- Từ giờ trở đi cậu sẽ được gặp chim ức đỏ thường xuyên, - Dickon trả lời.

- Hễ ổ trứng nở ra lũ chim non là nó phải bận bịu lắm. Rồi cậu sẽ được thấy cảnh tượng nó bay đi bay về tha những con sâu còn to bằng nó, đám chim non nhớn nhác giành ăn trong tổ khiến cho nó bối rối không biết cái miệng nào to nhất để mớm cho miếng mồi đầu tiên. Mỏ chúng cứ há hoác ra, miệng kêu chiêm chiếp rầm rĩ. Mẹ tôi bảo khi bà thấy những việc con chim ức đỏ phải làm để cho đầy mỏ lũ con của nó, bà có cảm giác mình như một phu nhân suốt ngày chẳng động đậy chân tay. Bà bảo bà đã thấy bọn chim non dường như cũng toát cả mồ hôi trong khi chẳng ai thấy điều đó cả.

This made them giggle so delightedly that they were obliged to cover their mouths with their hands, remembering that they must not be heard. Colin had been instructed as to the law of whispers and low voices several days before. He liked the mysteriousness of it and did his best, but in the midst of excited enjoyment it is rather difficult never to laugh above a whisper.

Câu chuyện khiến chúng khúc khích cười vui vẻ đến nỗi phải đưa tay bịt miệng, sợ nhỡ có người nghe thấy. Từ mấy ngày trước, Colin đã được dặn dò phải thì thầm, nói khẽ. Nó thích sự bí ẩn vây quanh chuyện này, nhưng giữa lúc niềm vui đang dâng lên tột đỉnh thì khó lòng mà kìm nổi.

Every moment of the afternoon was full of new things and every hour the sunshine grew more golden. The wheeled chair had been drawn back under the canopy and Dickon had sat down on the grass and had just drawn out his pipe when Colin saw something he had not had time to notice before.

"That's a very old tree over there, isn't it?" he said. Dickon looked across the grass at the tree and Mary looked and there was a brief moment of stillness.

"Yes," answered Dickon, after it, and his low voice had a very gentle sound.

Mary gazed at the tree and thought.

Từng giây từng phút của buổi chiều hôm ấy đầy ắp những điều mới mẻ. Mỗi giờ trôi qua, ánh nắng lại càng rực rỡ óng ả hơn. Chiếc xe được kéo trở lại dưới tán cây ban nãy, Dickon ngồi xuống bãi cỏ rồi rút cây sáo ra, trong lúc Colin ngắm nghía cái gì đó mà nó không kịp để ý lúc trước.

- Đằng kia có một cây cổ thụ thì phải? - Colin hỏi, Dickon đưa mắt qua bãi cỏ về phía cái cây, Mary cũng nhìn theo, một hồi yên lặng ngắn ngủi.

- Ừ, - Dickon đáp, và cái giọng trầm trầm của nó thoắt nhẹ bỗng.

Mary chằm chằm nhìn cái cây, vẻ suy nghĩ.

"The branches are quite gray and there's not a single leaf anywhere," Colin went on. "It's quite dead, isn't it?"

"Aye," admitted Dickon. "But them roses as has climbed all over it will near hide every bit o' th' dead wood when they're full o' leaves an' flowers. It won't look dead then. It'll be th' prettiest of all."

Mary still gazed at the tree and thought.

"It looks as if a big branch had been broken off," said Colin. "I wonder how it was done."

"It's been done many a year," answered Dickon. "Eh!" with a sudden relieved start and laying his hand on Colin. "Look at that robin! There he is! He's been foragin' for his mate."

- Cành nào cũng xám xịt, chẳng có lấy một chiếc lá, - Colin tiếp tục. - Nó hoàn toàn chết rồi, phải không?

- Đúng thế, - Dickon thừa nhận. - Nhưng những nhánh hồng kia đang phủ lên cây, rồi chúng sẽ trổ đầy hoa lá để che kín thân gỗ chết. Khi ấy thì chẳng còn vẻ gì là cây chết. Có khi lại là chỗ đẹp nhất vườn ấy chứ.

Mary vẫn đăm đắm nhìn cây và suy nghĩ.

- Có vẻ như một cành lớn đã bị gãy, - Colin bảo. - Tớ tự hỏi làm sao lại ra nông nỗi ấy?

- Nó đã từng bị thế nhiều lần trong năm, - Dickon trả lời.

- Kìa! - Dickon bỗng giật mình và đặt bàn tay lên vai Colin. - Nhìn những con chim ức đỏ kìa! Nó đấy! Nó đang tìm con mái của nó.

Colin was almost too late but he just caught sight of him, the flash of red-breasted bird with something in his beak. He darted through the greenness and into the close-grown corner and was out of sight. Colin leaned back on his cushion again, laughing a little. "He's taking her tea to her. Perhaps it's five o'clock. I think I'd like some tea myself."

And so they were safe.

Colin đã quá chậm, nhưng nó cũng kịp nhìn thấy bóng chim tựa một vệt màu sáng đỏ vụt qua, mỏ nó đang ngậm một vật gì đó. Nó lao vụt qua đám cây xanh mướt và biến mất sau góc vườn cây cối mọc san sát nhau. Colin lại ngả người vào tấm nệm, cười khe khẽ.

- Nó mang trà cho vợ nó đấy mà. Cũng phải năm giờ rồi. Tớ muốn có một tách trà. Thế là hai đứa kia thoát nạn.

"It was Magic which sent the robin," said Mary secretly to Dickon afterward. "I know it was Magic." For both she and Dickon had been afraid Colin might ask something about the tree whose branch had broken off ten years ago and they had talked it over together and Dickon had stood and rubbed his head in a troubled way.

"We mun look as if it wasn't no different from th' other trees," he had said. "We couldn't never tell him how it broke, poor lad. If he says anything about it we mun--we mun try to look cheerful."

"Aye, that we mun," had answered Mary.

- Một phép màu nào đó đã gửi chim ức đỏ đến với chúng ta, - Mary bảo

Dickon với vẻ bí mật. -Tớ nghĩ đó là cả một Phép màu.

Con bé và Dickon, cả hai đều rất sợ Colin có thể hỏi han gì đó về cái cây có một cành bị gãy mười năm về trước, chúng đã bàn kỹ với nhau chuyện này và Dickon cứ vò đầu bứt tai mãi.

- Chúng mình phải làm bộ rằng cây nào mà chẳng giống cây nào, - thằng bé nói. - Chúng mình đừng bao giờ kể cho cậu ấy nó đã gãy ra làm sao, anh bạn tội nghiệp. Giả sử cậu ấy có hỏi bất cứ điều gì về nó thì chúng mình phải… chúng mình phải gắng tỏ ra vui vẻ.

- Ừ, chúng mình sẽ phải làm thế. - Mary đáp. Nhưng nó chẳng hề thấy vui chút nào khi ngoái lại nhìn cái cây nọ.

But she had not felt as if she looked cheerful when she gazed at the tree. She wondered and wondered in those few moments if there was any reality in that other thing Dickon had said. He had gone on rubbing his rust-red hair in a puzzled way, but a nice comforted look had begun to grow in his blue eyes.

Những lúc như vậy, nó tự hỏi liệu có bao nhiêu phần sự thực trong những câu chuyện khác mà Dickon đã kể nó nghe. Thằng bé cứ vò đầu với vẻ bối rối, thế nhưng trong đôi mắt xanh biếc của nó lại lộ ra ánh vô tư.

"Mrs. Craven was a very lovely young lady," he had gone on rather hesitatingly. "An' mother she thinks maybe she's about Misselthwaite many a time lookin' after Mester Colin, same as all mothers do when they're took out o' th' world. They have to come back, tha' sees. Happen she's been in the garden an' happen it was her set us to work, an' told us to bring him here."

- Bà Craven là một quý bà trẻ đáng yêu, - Dickon tiếp tục, vẻ hơi lưỡng lự. - Mẹ tôi cho rằng có lẽ bà ấy đã quay lại Trang viên Misselthwaite rất nhiều lần để chăm sóc cho cậu chủ Colin, như các bà mẹ thường làm khi đã rời bỏ thế gian này. Họ phải trở về, cô cũng biết đấy. Ngẫu nhiên bà xuất hiện trong vườn, ngẫu nhiên bà xui khiến chúng mình bắt tay vào việc, và bảo chúng mình mang con trai bà đến đây.

Mary had thought he meant something about Magic. She was a great believer in Magic. Secretly she quite believed that Dickon worked Magic, of course good Magic, on everything near him and that was why people liked him so much and wild creatures knew he was their friend. She wondered, indeed, if it were not possible that his gift had brought the robin just at the right moment when Colin asked that dangerous question. She felt that his Magic was working all the afternoon and making Colin look like an entirely different boy. It did not seem possible that he could be the crazy creature who had screamed and beaten and bitten his pillow. Even his ivory whiteness seemed to change. The faint glow of color which had shown on his face and neck and hands when he first got inside the garden really never quite died away. He looked as if he were made of flesh instead of ivory or wax.

Mary nghĩ thằng bé muốn ám chỉ tới Phép màu. Con bé vốn một lòng tin tưởng vào Phép màu. Tự đáy lòng, nó hoàn toàn tin rằng Dickon biết làm ra phép thuật, tất nhiên là những phép thuật tốt lành lên mọi thứ xung quanh cậu ấy và đó là lý do tại sao mọi người lại yêu quý cậu ấy đến vậy, còn các loài thú hoang thì coi cậu như một người bạn. Nó kinh ngạc vô cùng vì chính vào lúc Colin đưa ra câu hỏi nguy hiểm đó thì chim ức đỏ lại từ đâu bay đến. Nó có cảm tưởng phép thuật của Dickon đã hiển hiện trong suốt buổi chiều hôm ấy và biến Colin thành một đứa trẻ hoàn toàn khác trước. Quả khó mà hình dung thằng Colin trong vai cái tạo vật điên cuồng đã từng gào rú, đánh đấm và cắn nghiến cả chiếc gối của mình. Đến màu da trắng bệch của nó cũng dường như thay đổi. Cái sắc đỏ mơ hồ ửng lên trên mặt, cổ và tay nó khi lần đầu tiên bước vào khu vườn chưa bao giờ mất đi. Giờ trông nó như được làm bằng xương bằng thịt chứ không phải một bức tượng sáp.

They saw the robin carry food to his mate two or three times, and it was so suggestive of afternoon tea that Colin felt they must have some.

"Go and make one of the men servants bring some in a basket to the rhododendron walk," he said. "And then you and Dickon can bring it here."

Chúng thấy chim ức đỏ tha mồi cho con mái mấy lần liền, và chính cảnh tượng ấy đã gợi ý về bữa trà chiều mà Colin cảm thấy cần phải có.

- Cậu đi bảo một gia nhân nào đó dọn trà chiều cho chúng ta ở lối đi dạo có hàng đỗ quyên đằng kia nhé, - nó bảo. - Rồi sau đó cậu và Dickon ra bưng nó về đây.

It was an agreeable idea, easily carried out, and when the white cloth was spread upon the grass, with hot tea and buttered toast and crumpets, a delightfully hungry meal was eaten, and several birds on domestic errands paused to inquire what was going on and were led into investigating crumbs with great activity. Nut and Shell whisked up trees with pieces of cake and Soot took the entire half of a buttered crumpet into a corner and pecked at and examined and turned it over and made hoarse remarks about it until he decided to swallow it all joyfully in one gulp.

Đó quả là một ý tưởng hay, lại dễ thực hiện, và khi tấm vải trắng được trải rộng trên bãi cỏ, trà nóng, bánh mì nướng phết bơ với bánh xốp đã được những đứa trẻ đang đói ngấu vui vẻ chén ngay tức thì. Mấy con chim đang nhảy nhót trên một đoạn lối mòn trong vườn dừng lại như muốn dò hỏi chuyện gì đang diễn ra và bị cuốn vào cuộc điều tra, tìm hiểu những mảnh bánh vụn. Hạt dẻ và Vỏ sò tót vội lên cây cùng với mấy mẩu bánh, còn Bồ hóng đớp lấy cả một nửa miếng bánh xốp phết bơ lui về một góc rỉa rỉa, lật đi lật lại, sau đó nó kêu lên quạ quạ như để ghi nhận chiến lợi phẩm trước khi quyết định nuốt chửng với tất cả niềm vui sướng hả hê.

The afternoon was dragging towards its mellow hour. The sun was deepening the gold of its lances, the bees were going home and the birds were flying past less often. Dickon and Mary were sitting on the grass, the tea-basket was repacked ready to be taken back to the house, and Colin was lying against his cushions with his heavy locks pushed back from his forehead and his face looking quite a natural color.

Buổi chiều hôm ấy đã trôi qua mang theo bao phút giây ngọt ngào êm dịu. Mặt trời đang chìm dần trong ánh hoàng hôn vàng, bầy ong đang bay về tổ và bóng chim chóc qua lại cũng thưa thớt dần. Dickon và Mary vẫn ngồi trên bãi cỏ, chiếc giỏ đựng bữa trà đã được xếp lại để mang về nhà. Bấy giờ Colin vẫn còn ngả người trên tấm nệm, mấy lọn tóc dày được vén hai bên trán, gương mặt hoàn toàn mang khí sắc tự nhiên.

"I don't want this afternoon to go," he said; "but I shall come back tomorrow, and the day after, and the day after, and the day after."

"You'll get plenty of fresh air, won't you?" said Mary. "I'm going to get nothing else," he answered. "I've seen the spring now and I'm going to see the summer. I'm going to see everything grow here. I'm going to grow here myself."

"That tha' will," said Dickon. "Us'll have thee walkin' about here an' diggin' same as other folk afore long."

- Tớ không muốn buổi chiều này qua mau, nhưng ngày mai tớ sẽ trở lại, và ngày kia, ngày kìa, ngày kịa cũng thế.

- Cậu đã lấy đủ không khí trong lành rồi, phải không? - Mary hỏi.

- Tớ chẳng mong gì hơn, - nó trả lời. -Lúc này, tớ đã được thấy mùa xuân và rồi tớ sắp được thấy mùa hạ. Tớ sắp được thấy mọi thứ sinh sôi nảy nở ở đây. Ngay bản thân tớ cũng đang lớn lên ở chính nơi đây.

- Cậu sẽ như vậy, - Dickon bảo, - sẽ dạo chơi quanh vùng, sẽ đào xới như mọi người vẫn làm từ bao lâu nay.

Colin flushed tremendously.

"Walk!" he said. "Dig! Shall I?"

Dickon's glance at him was delicately cautious. Neither he nor Mary had ever asked if anything was the matter with his legs.

"For sure tha' will," he said stoutly. "Tha--tha's got legs o' thine own, same as other folks!"

Colin xúc động ghê gớm.

- Đi dạo! Xới đất! Tôi sẽ như thế thật chứ?

Dickon liếc nhìn nó với vẻ thận trọng đầy tế nhị. Cả nó lẫn Mary chưa từng hỏi xem liệu có vấn đề gì với đôi chân của Colin hay không.

- Hẳn là vậy rồi, - nó nói một cách cả quyết. - Cậu… cậu có đôi chân gầy, giống như chân của những người khác!

Mary was rather frightened until she heard Colin's answer.

"Nothing really ails them," he said, "but they are so thin and weak. They shake so that I'm afraid to try to stand on them."

Both Mary and Dickon drew a relieved breath.

"When tha' stops bein' afraid tha'lt stand on 'em," Dickon said with renewed cheer. "An' tha'lt stop bein' afraid in a bit."

"I shall?" said Colin, and he lay still as if he were wondering about things.

Mary hơi hoảng hốt, cho tới khi nó nghe Colin đáp lại.

- Thực ra hai chân tôi cũng chẳng đau đớn gì, - cậu ta đáp, - mỗi tội gầy yếu quá. Chúng run rẩy đến nỗi tôi e rằng khó mà đứng vững được. Mary và Dickon cùng thở ra nhẹ nhõm.

- Một khi cậu đã không còn thấy sợ phải đứng lên, - Dickon nói với niềm vui vừa trở lại, - thì cậu chẳng có gì phải sợ nữa.

- Tôi sẽ thế ư? - Colin hỏi, nó nằm lặng người như thể đang kinh ngạc trước những điều mới mẻ ấy.

They were really very quiet for a little while. The sun was dropping lower. It was that hour when everything stills itself, and they really had had a busy and exciting afternoon. Colin looked as if he were resting luxuriously. Even the creatures had ceased moving about and had drawn together and were resting near them. Soot had perched on a low branch and drawn up one leg and dropped the gray film drowsily over his eyes. Mary privately thought he looked as if he might snore in a minute.

Chúng hoàn toàn im lặng hồi lâu. Mặt trời xuống thấp dần. Đây chính là giờ phút mà mọi thứ đều vô cùng tĩnh lặng, và chúng đã có một buổi chiều thật bận rộn và hứng thú. Colin trông ra dáng một anh chàng đang nghỉ ngơi thư thái. Ngay đến mấy con vật cũng thôi nhảy nhót tới lui mà túm tụm vào một chỗ, nằm nghỉ gần bên lũ trẻ. Bồ hóng đậu trên một cành cây thấp, co một cẳng lên và mơ màng ngủ gật. Mary thầm nghĩ có lẽ vài phút nữa nó còn ngáy cũng nên.

In the midst of this stillness it was rather startling when Colin half lifted his head and exclaimed in a loud suddenly alarmed whisper:

"Who is that man?" Dickon and Mary scrambled to their feet.

"Man!" they both cried in low quick voices.

Colin pointed to the high wall. "Look!" he whispered excitedly. "Just look!"

Mary and Dickon wheeled about and looked. There was Ben Weatherstaff's indignant face glaring at them over the wall from the top of a ladder! He actually shook his fist at Mary.

"If I wasn't a bachelder, an' tha' was a wench o' mine," he cried, "I'd give thee a hidin'!"

Giữa lúc đang yên lặng như vậy, cả bọn giật mình khi Colin ngẩng lên thốt ra một tiếng gần như thì thầm.

- Người đàn ông kia là ai?

Dickon và Mary vội đứng bật dậy.

- Người đàn ông nào? - Cả hai đứa kêu lên khe khẽ. Colin chỉ về phía bức tường cao.

- Kia kìa! – Nó thì thào vẻ đầy kích động. – Kia kìa!

Mary và Dickon quay chiếc xe lại và trông thấy. Đó chính là bộ mặt giận dữ của lão Ben Weatherstaff đang đứng trên thang gỗ mà trừng trừng nhìn chúng qua bờ tường. Lão dứ dứ nắm đấm về phía Mary.

- Nếu tôi không phải một lão già độc thân, và cô là cô gái của tôi, - lão gào lên, - thì tôi sẽ nhốt cô lại!

He mounted another step threateningly as if it were his energetic intention to jump down and deal with her; but as she came toward him he evidently thought better of it and stood on the top step of his ladder shaking his fist down at her.

"I never thowt much o' thee!" he harangued. "I couldna' abide thee th' first time I set eyes on thee. A scrawny buttermilk-faced young besom, allus askin' questions an' pokin' tha' nose where it wasna, wanted. I never knowed how tha' got so thick wi' me. If it hadna' been for th' robin-- Drat him--"

Lão leo thêm nấc thang nữa với vẻ hăm dọa, ra bộ lão thừa sức nhảy xuống để tóm lấy cô bé, nhưng thấy Mary tiến lại phía mình, lão lại nghĩ tốt hơn cả là đứng tại nấc thang trên cùng mà dứ dứ nắm đấm xuống phía con bé.

- Tôi không sao chịu được cô! – Lão nói to giận dữ. - Tôi không tài nào chịu nổi cô ngay từ lần đầu nhìn thấy cô. Mặt thì gầy rạc, tóc thì như chổi xể, đã vậy lại còn hay hỏi lung tung và nhúng mũi vào đủ chuyện. Thế mà không hiểu sao cô lại dính dáng đến tôi. Nếu như không phải vì con chim ức đỏ… cái con chim chết tiệt ấy…

"Ben Weatherstaff," called out Mary, finding her breath. She stood below him and called up to him with a sort of gasp. "Ben Weatherstaff, it was the robin who showed me the way!"

Then it did seem as if Ben really would scramble down on her side of the wall, he was so outraged.

"Tha' young bad 'un!" he called down at her. "Layin' tha' badness on a robin--not but what he's impidint enow for anythin'. Him showin' thee th' way! Him! Eh! tha' young nowt"--she could see his next words burst out because he was overpowered by curiosity-- "however i' this world did tha' get in?"

- Ông Ben Weatherstaff, - Mary kêu to và cố lấy hơi. Nó đứng bên dưới lão mà nói vọng lên bằng giọng hổn hển, - ông Ben Weatherstaff, chính là chim ức đỏ chỉ đường cho cháu đấy chứ!

Có vẻ như lão Ben định trèo xuống mé tường phía con bé, lão đã quá tức giận.

- Cô thật tệ hại! - Lão kêu vọng xuống. - Cô làm hỏng cả con chim ức đỏ. Nó không có gan để phạm tội một mình đâu. Nó đã chỉ đường cho cô! Là nó kia đấy! Chà chà! Cô thật là…

Con bé có thể hình dung lão chuẩn bị tuôn ra hàng tràng lời lẽ bởi lão đang tò mò quá đỗi.

- Làm thế quái nào mà cô vào được trong đó hả?

"It was the robin who showed me the way," she protested obstinately. "He didn't know he was doing it but he did. And I can't tell you from here while you're shaking your fist at me."

He stopped shaking his fist very suddenly at that very moment and his jaw actually dropped as he stared over her head at something he saw coming over the grass toward him.

At the first sound of his torrent of words Colin had been so surprised that he had only sat up and listened as if he were spellbound. But in the midst of it he had recovered himself and beckoned imperiously to Dickon.

- Chim ức đỏ chỉ đường giúp cháu đấy chứ! - Con bé bướng bỉnh phản đối.

- Nó không hề biết điều nó đang làm, nhưng nó đã làm. Và từ chỗ này thì cháu không thể nói gì với ông, khi mà ông cứ dứ dứ nắm đấm vào cháu như vậy.

Bất chợt lão thôi giơ nắm đấm và há hốc mồm khi đưa mắt nhìn qua đầu con bé tới một cái gì đó đang tiến về phía lão qua bãi cỏ.

Tràng dọa nạt của lão thoạt tiên đã khiến Colin ngạc nhiên đến nỗi nó ngồi thẳng dậy mà dỏng tai nghe chẳng khác nào bị yểm bùa. Nhưng đến giữa chừng thì nó kịp trấn tĩnh lại và vẫy tay đầy ngạo mạn về phía Dickon.

"Wheel me over there!" he commanded. "Wheel me quite close and stop right in front of him!"

And this, if you please, this is what Ben Weatherstaff beheld and which made his jaw drop. A wheeled chair with luxurious cushions and robes which came toward him looking rather like some sort of State Coach because a young Rajah leaned back in it with royal command in his great black-rimmed eyes and a thin white hand extended haughtily toward him. And it stopped right under Ben Weatherstaff's nose. It was really no wonder his mouth dropped open.

- Đẩy xe đưa tớ đến đằng kia! - Nó ra lệnh. - Cho xe tới thật gần và dừng ngay trước mặt lão.

Và đây, nếu quý vị vui lòng nghe, đây là những gì đã khiến lão Ben Weatherstaff phải sửng sốt há mồm. Một chiếc xe đẩy với những tấm nệm và áo choàng sang trọng tiến thẳng tới chỗ lão như một cỗ xe ngựa bốn bánh của hoàng gia, bởi bên trong đó là một vị tiểu vương trẻ đang ngồi tựa lưng với vẻ uy nghi vương giả hiện lên qua đôi mắt to rợp hàng mi đen, bàn tay trắng trẻo mảnh dẻ của cậu trỏ thẳng về phía lão. Chiếc xe dừng ngay dưới mũi lão Ben. Chẳng trách lão phải sửng sốt rụng rời.

"Do you know who I am?" demanded the Rajah.

How Ben Weatherstaff stared! His red old eyes fixed themselves on what was before him as if he were seeing a ghost. He gazed and gazed and gulped a lump down his throat and did not say a word. "Do you know who I am?" demanded Colin still more imperiously. "Answer!"

- Ông có biết tôi là ai không? - Vị tiểu vương phán hỏi.

Lão Ben Weatherstaff cứ tròn mắt mà nhìn. Đôi mắt già nua đỏ ngầu dán chặt vào những gì ngay trước mặt lão như thể đang trông thấy một bóng ma. Lão cứ nhìn chòng chọc như vậy, nuốt nước bọt và chẳng thốt nên lời.

- Ông có biết tôi là ai không, - Colin hỏi với vẻ càng thêm kiêu kỳ. - Trả lời ngay!

Ben Weatherstaff put his gnarled hand up and passed it over his eyes and over his forehead and then he did answer in a queer shaky voice.

"Who tha' art?" he said. "Aye, that I do--wi' tha' mother's eyes starin' at me out o' tha' face. Lord knows how tha' come here. But tha'rt th' poor cripple."

Colin forgot that he had ever had a back. His face flushed scarlet and he sat bolt upright.

"I'm not a cripple!" he cried out furiously. "I'm not!"

Lão Ben đưa bàn tay chai sạn lên dụi mắt, xoa trán và rồi lão đáp lại bằng cái giọng khàn khàn kỳ quặc.

- Cậu là ai ư? - Lão nói, - Ấy, tôi nhớ ra rồi… với đôi mắt kia trên gương mặt cậu, bà mẹ cậu như đang nhìn tôi chăm chú. Chỉ có Chúa mới biết làm thế nào cậu tới được đây. Nhưng cậu là một người què quặt đáng thương kia mà?

Colin quên khuấy rằng nó từng có “một cái lưng gù”. Cả khuôn mặt nó đỏ bừng bừng lên và thằng bé ngồi bật dậy.

Tôi không phải người què quặt! – Nó hét toáng lên một cách phẫn nộ - Tôi không phải thế!

"He's not!" cried Mary, almost shouting up the wall in her fierce indignation. "He's not got a lump as big as a pin! I looked and there was none there--not one!"

Ben Weatherstaff passed his hand over his forehead again and gazed as if he could never gaze enough. His hand shook and his mouth shook and his voice shook. He was an ignorant old man and a tactless old man and he could only remember the things he had heard.

"Tha'--tha' hasn't got a crooked back?" he said hoarsely.

"No!" shouted Colin.

"Tha'--tha' hasn't got crooked legs?" quavered Ben more hoarsely yet.

- Cậu ấy không phải thế! – Mary cũng gào lên, tiếng gào dội mạnh vào bức tường với tất cả sự phẫn nộ dữ tợn của con bé. – Cậu ấy không có cục bướu nào dù chỉ bằng đầu ghim! Tôi đã xem và không có lấy một mảy may!

Lão Ben Weatherstaff lại đưa tay lên trán và cứ đứng trân trối nhìn như thể lão chưa bao giờ nhìn cho đủ. Bàn tay lão run run, miệng lão mấp máy, giọng nói run rẩy. Vốn là một lão già dốt nát, vụng về, lão chỉ có thể nhớ được những gì mà lão được người ta kể cho nghe.

- Cậu… thì ra cậu không bị gù lưng sao? – Lão hỏi, giọng khàn khàn.

- Không! - Colin quát lên.

- Cậu… cậu không bị khoèo chân? - Giọng lão càng thêm run rẩy.

It was too much. The strength which Colin usually threw into his tantrums rushed through him now in a new way. Never yet had he been accused of crooked legs--even in whispers--and the perfectly simple belief in their existence which was revealed by Ben Weatherstaff's voice was more than Rajah flesh and blood could endure. His anger and insulted pride made him forget everything but this one moment and filled him with a power he had never known before, an almost unnatural strength.

Thật quá quắt. Cái sức mạnh mà Colin thường trút vào những cơn thịnh nộ lúc này bỗng trỗi dậy trong nó, nhưng theo một cách mới. Nó chưa bao giờ bị coi là khoèo chân - dù là chỉ trong những lời thì thào đàm tiếu sau lưng - và niềm tin đơn giản và tuyệt đối vào khuyết tật đó thể hiện trong giọng nói của lão Ben vượt quá sức chịu đựng của vị tiểu vương. Cơn giận dữ và niềm kêu hãnh bị xúc phạm đã khiến nó quên hết tất cả, trừ giây phút này, và truyền cho nó một sức mạnh mà nó chưa từng biết, một sức mạnh hầu như siêu nhiên.

"Come here!" he shouted to Dickon, and he actually began to tear the coverings off his lower limbs and disentangle himself. "Come here! Come here! This minute!"

Dickon was by his side in a second. Mary caught her breath in a short gasp and felt herself turn pale.

"He can do it! He can do it! He can do it! He can!" she gabbled over to herself under her breath as fast as ever she could.

- Lại đây! - Nó quát bảo Dickon, và thậm chí nó còn giật tung tấm chăn phủ đôi chân của mình và vùng ra khỏi đó.

- Lại đây! Lại đây! Ngay lập tức! Dickon đến bên nó tức thì. Mary nín thở sau một lần thở gấp lấy hơi, nó thấy mình tái cả mặt.

- Cậu ấy có thể làm được! Cậu ấy có thể làm được! Cậu ấy có thể làm được! Cậu ấy có thể! - Nó lắp bắp nói trong hơi thở dồn dập.

There was a brief fierce scramble, the rugs were tossed on the ground, Dickon held Colin's arm, the thin legs were out, the thin feet were on the grass. Colin was standing upright--upright--as straight as an arrow and looking strangely tall--his head thrown back and his strange eyes flashing lightning. "Look at me!" he flung up at Ben Weatherstaff. "Just look at me--you! Just look at me!"

"He's as straight as I am!" cried Dickon. "He's as straight as any lad i' Yorkshire!"

Sau một hồi giằng co ngắn ngủi và dữ dội, tấm chăn dày đắp chân tuột xuống mặt đất. Dickon xốc một bên nách cho Colin, hai cẳng chân gầy guộc duỗi ra, đôi bàn chân còm nhom đặt xuống bãi cỏ. Colin liền đứng thẳng dậy, ngay lập tức, như một mũi tên và cao hẳn lên. Đầu nó hất ra sau và đôi mắt kỳ lạ của nó sáng rực tựa ánh chớp.

- Nhìn tôi đây! - Nó bảo lão Ben. - Hãy nhìn tôi xem! Ông ấy! Hãy nhìn tôi xem.

- Cậu ấy đứng thẳng như tôi vậy! - Dickon kêu to. - Cậu ấy đứng thẳng như bất kỳ gã trai nào ở xứ Yorkshire này!

What Ben Weatherstaff did Mary thought queer beyond measure. He choked and gulped and suddenly tears ran down his weather-wrinkled cheeks as he struck his old hands together.

"Eh!" he burst forth, "th' lies folk tells! Tha'rt as thin as a lath an' as white as a wraith, but there's not a knob on thee. Tha'lt make a mon yet. God bless thee!"

Và Mary thấy những gì lão Ben Weatherstaff đã làm kỳ quặc không sao kể xiết. Lạo nghẹn thở, nuốt nước bọt rồi bỗng nhiên nước mắt lão rớt xuống hai gò má nhăn nheo dãi dầu sương gió trong khi hai bàn tay già nua của lão cứ đập đập vào nhau.

- Chà! - Lão bật kêu thành tiếng. - Những lời dối trá mà người ta nói! Chúng bảo cậu gầy như cái que và trắng lợt như bóng ma, nhưng có thấy cái bướu nào trên người cậu đâu. Chúa phù hộ cho cậu!

Dickon held Colin's arm strongly but the boy had not begun to falter. He stood straighter and straighter and looked Ben Weatherstaff in the face.

"I'm your master," he said, "when my father is away. And you are to obey me. This is my garden. Don't dare to say a word about it! You get down from that ladder and go out to the Long Walk and Miss Mary will meet you and bring you here. I want to talk to you. We did not want you, but now you will have to be in the secret. Be quick!"

Dickon giữ một bên tay Colin thật chắc, nhưng thằng bé không hề khuỵu chân xuống. Nó đứng thẳng, thẳng hơn nữa rồi nhìn xoáy vào mặt lão Ben.

- Tôi là chủ của ông, khi cha tôi đi vắng. Và ông phải vâng lời tôi. Đây là khu vườn của tôi. Đừng có liều lĩnh mà nói một lời nào về nó nữa! Ông hãy xuống thang và ra lối đi dạo, cô Mary sẽ gặp ông ở đó rồi đưa ông tới đây. Tôi muốn nói chuyện với ông. Lẽ ra chúng tôi không cần đến ông, nhưng bây giờ thì ông sẽ phải giữ bí mật. Nhanh chân lên!

Ben Weatherstaff's crabbed old face was still wet with that one queer rush of tears. It seemed as if he could not take his eyes from thin straight Colin standing on his feet with his head thrown back.

"Eh! lad," he almost whispered. "Eh! my lad!" And then remembering himself he suddenly touched his hat gardener fashion and said, "Yes, sir! Yes, sir!" and obediently disappeared as he descended the ladder.

Khuôn mặt già nua nhăn nhó của lão Ben Weatherstaff vẫn còn đẫm nước mắt. Tưởng chừng lão không tài nào rời mắt khỏi cậu Colin gầy gò đang đứng thẳng người trên đôi chân của cậu ta, đầu ngẩng hất ra sau.

- Chà chà! Anh bạn trẻ, - lão nói thì thầm. - Chà! Anh bạn trẻ của tôi!

Và rồi như chợt nhớ ra điều gì, lão đưa tay chạm vào vành chiếc mũ làm vườn của lão, nói.

- Xin vâng, thưa cậu! Vâng, thưa cậu! - rồi biến mất với vẻ phục tùng khi bước xuống chiếc thang.





CHAPTER 22


Chapter XXII: WHEN THE SUN WENT DOWN

Chương 22: Lúc mặt trời lặn

When his head was out of sight Colin turned to Mary.

"Go and meet him," he said; and Mary flew across the grass to the door under the ivy.

Dickon was watching him with sharp eyes. There were scarlet spots on his cheeks and he looked amazing, but he showed no signs of falling.

"I can stand," he said, and his head was still held up and he said it quite grandly.

"I told thee tha' could as soon as tha' stopped bein' afraid," answered Dickon. "An' tha's stopped."

Khi đầu lão Ben vừa khuất hỏi tầm mắt, Colin quay sang bảo Mary.

- Cậu đi gặp ông ấy đi.

Mary băng qua bãi cỏ tới chỗ cánh cửa ần dưới đám dây thường xuân. Dickon quan sát kỹ thằng Colin. Đã thấy những đốm hồng trên hai má nó và trông nó thật đáng kinh ngạc, không hề có vẻ sắp ngã.

- Tôi có thể chịu đựng được, - nó ngẩng cao đầu nói, vẻ đầy kiêu hãnh.

- Tôi đã bảo với cô Mary rằng chẳng chóng thì chày cậu sẽ không còn sợ hãi nữa, - Dickcon bảo, - và quả nhiên cậu đã không sợ thật.

"Yes, I've stopped," said Colin.

Then suddenly he remembered something Mary had said.

"Are you making Magic?" he asked sharply.

Dickon's curly mouth spread in a cheerful grin.

"Tha's doin' Magic thysel'," he said. "It's same Magic as made these 'ere work out o' th' earth," and he touched with his thick boot a clump of crocuses in the grass. Colin looked down at them.

"Aye," he said slowly, "there couldna' be bigger Magic than that there--there couldna' be."

He drew himself up straighter than ever.

- Vâng, tôi chẳng thấy sợ gì nữa, - Colin bảo. Rồi đột nhiên, nó nhớ lại một điều Mary đã nói.

- Anh biết làm ra Phép màu phải không? – Nó bất ngờ hỏi.

Cái môi cong cong của Dickon toét ra nụ cười.

- Bản thân cậu đang tạo ra Phép màu đấy chứ! Cũng giống như Phép màu đã làm nên mọi thứ trên thế giới này.

Mải nói chuyện, Dickon suýt giẫm đôi giày ống nặng trịch của mình lên khóm nghệ tây mọc xen giữa vạt cỏ. Colin nhìn xuống khóm nghệ.

- À, - nó chậm rãi nói, - chẳng gì có thể vĩ đại hơn Phép màu, chẳng gì có thể.

Rồi nó lại đứng dậy thẳng người hơn trước.

"I'm going to walk to that tree," he said, pointing to one a few feet away from him. "I'm going to be standing when Weatherstaff comes here. I can rest against the tree if I like. When I want to sit down I will sit down, but not before. Bring a rug from the chair."

He walked to the tree and though Dickon held his arm he was wonderfully steady. When he stood against the tree trunk it was not too plain that he supported himself against it, and he still held himself so straight that he looked tall.

- Tôi định đi bộ tới cái cây kia xem sao, - nó vừa nói, vừa chỉ tay vào cái cây cách đó mấy bước chân. – Tôi sẽ đứng được lúc ông Ben đến đây. Tôi có thể tựa vào cái cây nếu muốn. Khi nào thích ngồi thì tôi sẽ ngồi. Bỏ hộ tôi cái chăn ra khỏi xe đi.

Thằng bé bước về phía cái cây, và dù được Dickon dìu một ben nách, nó vẫn bước đi vững chãi một cách đáng kinh ngạc. Đứng tựa vào thân cây cũng khong phải chuyện đơn giản, và bởi nó cố giữ cho thẳng người nên trông nó cao hẳn lên.

When Ben Weatherstaff came through the door in the wall he saw him standing there and he heard Mary muttering something under her breath.

"What art sayin'?" he asked rather testily because he did not want his attention distracted from the long thin straight boy figure and proud face.

But she did not tell him. What she was saying was this:

Khi lão Ben Weathstaff bước qua cánh cửa ở chỗ hõm vào bức tường, lão đã thấy thằng bé đứng đó rồi, cũng lúc cứ nghe thấy Mary thì thầm gì đó.

- Cô đang nói gì vậy? – Lão hỏi giọng gắt gỏng, lão không muốn xao lãng sự chăm chú vào thằng bé còm nhom đang rướn thẳng tấm thân dài ngoẵng cùng khuôn mặt kiêu hãnh của nó.

Con bé không đáp lại. Nó cứ lẩm nhẩm mãi một câu:

"You can do it! You can do it! I told you you could! You can do it! You can do it! You can!" She was saying it to Colin because she wanted to make Magic and keep him on his feet looking like that. She could not bear that he should give in before Ben Weatherstaff. He did not give in. She was uplifted by a sudden feeling that he looked quite beautiful in spite of his thinness. He fixed his eyes on Ben Weatherstaff in his funny imperious way.

- Cậu có thể làm được việc đó! Cậu có thể làm được việc đó! Tớ bảo cậu rằng cậu có thể mà! Cậu có thể làm được việc đó! Cậu có thể!

Con bé đang nói điều đó với chính Colin bởi nó muốn tạo ra một Phép màu, giữ cho thằng bé đứng thẳng trên đôi chân của mình. Nó không chịu đựng nỏi nếu Colin thất bại trước mặt lão Ben nhưng thằng bé đã không hề thất bại.

Mary phấn khích trước cảm giác bất chợt rằng trông Colin thật đẹp, bất chấp hình dong gày gò của nó. Còn thằng bé thì đang nhìn như dán mắt vào lão Ben với vẻ đầy hống hách.

"Look at me!" he commanded. "Look at me all over! Am I a hunchback? Have I got crooked legs?"

Ben Weatherstaff had not quite got over his emotion, but he had recovered a little and answered almost in his usual way.

- Trông đây! – Nó ra lệnh – Nhìn khắp người xem ta có phải một thằng gù không? Ta có bị khoèo chân không?

Lão Ben Weatherstaff không dấu nổi xúc cảm, nhưng lão kịp trấn tĩnh đôi chút và trả lời theo thói quen cố hữu của lão.

"Not tha'," he said. "Nowt o' th' sort. What's tha' been doin' with thysel'--hidin' out o' sight an' lettin' folk think tha' was cripple an' half-witted?"

"Half-witted!" said Colin angrily. "Who thought that?"

"Lots o' fools," said Ben. "Th' world's full o' jackasses brayin' an' they never bray nowt but lies. What did tha' shut thysel' up for?"

"Everyone thought I was going to die," said Colin shortly. "I'm not!"

- Không đâu ạ, - lão bảo – Cậu đâu có thế. Nhưng cậu đang làm gì vậy, cứ giấu mình mãi khiến mọi người nghĩ rằng cậu què quặt và chậm hiểu?

- Chậm hiểu! – Colin giận dữ nói. – Kẻ nào dám nghĩ thể?

- Có khối ra đấy, - Lão Ben đáp. – Thế gian này thiếu gì bọn lừa làm ta inh tai nhức óc, nhưng chúng không be be và chỉ rặt nói láo. Cậu cứ tự giam mình lại để làm gì?

- Ai cũng cho rằng tôi sắp chết, - Colin nói cộc lốc. – Tôi không như thế!

And he said it with such decision Ben Weatherstaff looked him over, up and down, down and up.

"Tha' die!" he said with dry exultation. "Nowt o' th' sort! Tha's got too much pluck in thee. When I seed thee put tha' legs on th' ground in such a hurry I knowed tha' was all right. Sit thee down on th' rug a bit young Mester an' give me thy orders."

Nghe nó nói với vẻ cả quyết, lão Ben nhìn khắp người nó, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên.

- Cậu mà chết! – Lão nói với niềm hân hoan. – Không hề. Cậu có thừa can đảm bên trong cậu. Khi tôi thấy cậu hăm hở buông chân xuống đất, tôi liền hiểu ngay rằng cậu chẳng việc gì sất. Hãy ngồi xuống tấm chăn kia một lát đã, thưa cậu chủ, rồi cho tôi biết mệnh lệnh của cậu.

There was a queer mixture of crabbed tenderness and shrewd understanding in his manner. Mary had poured out speech as rapidly as she could as they had come down the Long Walk. The chief thing to be remembered, she had told him, was that Colin was getting well--getting well. The garden was doing it. No one must let him remember about having humps and dying.

Đây quả là một sự pha trộn kỳ dị giữa sự dịu dàng chua chát và hiểu biết tinh tường trong tính cách của lão. Mary đã dặn dò lão đủ điều từ lúc bên ngoài lối đi dạo. Điều cốt yếu cần phải nhớ, nó bảo với lão, là Colin đang ngày một khỏe ra. Chính khu vườn này đã mang lại điều đó.Không một ai được phép khiến cậu ấy nhớ lại chuyện ốm đau chết chóc.

The Rajah condescended to seat himself on a rug under the tree.

"What work do you do in the gardens, Weatherstaff?" he inquired.

"Anythin' I'm told to do," answered old Ben. "I'm kep' on by favor--because she liked me."

"She?" said Colin.

"Tha' mother," answered Ben Weatherstaff.

"My mother?" said Colin, and he looked about him quietly. "This was her garden, wasn't it?"

"Aye, it was that!" and Ben Weatherstaff looked about him too. "She were main fond of it."

Vị tiểu vương hạ cố ngồi xuống tấm chăn dưới gốc cây.

- Công việc ông thường làm trong khu vườn này là gì vậy, ông Weatherstaff? – Colin hỏi thăm.

- Bất kể việc gì tôi được sai khiến, - lão Ben đáp. – Kể ra tôi cũng được chiếu cố, bởi vì bà ấy quý tôi.

- Bà nào? – Colin hỏi.

- Bà mẹ của cậu., - lão Ben đáp.

- Mẹ của tôi? – Colin thốt lên, rồi nó lặng người nhìn ông già. – Đây là khu vườn của bà, có đúng không?

- Vâng, thưa đúng! – Và lão Ben cũng nhìn nó. – Chỉ có bà nhà ưu ái nó nhất.

"It is my garden now. I am fond of it. I shall come here every day," announced Colin. "But it is to be a secret. My orders are that no one is to know that we come here. Dickon and my cousin have worked and made it come alive. I shall send for you sometimes to help--but you must come when no one can see you."

Ben Weatherstaff's face twisted itself in a dry old smile.

- Giờ đây nó là khu vườn của tôi. Tôi cũng yêu nó. Tôi sẽ đến đây hàng ngày, Colin tuyên bố. – Nhưng nó vẫn phải là một bí mật. Mệnh lệnh của tôi là không ai được biết chúng tôi đã đến đây. Dickon và cô em họ của tôi sẽ làm vườn và giữ cho nó sống. Thỉnh thoảng tôi sẽ của ông đến giúp họ một tay, nhưng ông chỉ được tới khi không một ai nhìn thấy.

Khuôn mặt lão Ben Weatherstaff méo đi trong nụ cười già nua khô khốc.

"I've come here before when no one saw me," he said.

"What!" exclaimed Colin.

"When?"

"Th' last time I was here," rubbing his chin and looking round, "was about two year' ago."

"But no one has been in it for ten years!" cried Colin.

"There was no door!"

"I'm no one," said old Ben dryly. "An' I didn't come through th' door. I come over th' wall. Th' rheumatics held me back th' last two year'."

"Tha' come an' did a bit o' prunin'!" cried Dickon. "I couldn't make out how it had been done."

- Trước kia tôi cũng đã từng tới đây, khi không ai nhìn thấy tôi, - lão bảo.

- Cái gì? – Colin thốt lên. – Khi nào?

- Lần cuối tôi tới đây, - lão đưa tay xua cằm rồi ngó quanh, - là quãng hai năm về trước.

- Suốt mười năm qua làm gì có ai ở trong vườn, - Colin kêu lên. – và không có cửa vào mà.

- Không chỉ có mình tôi, - lão Ben nói một cách khô khan, - và tôi cũng không đi đằng cửa. Tôi trèo qua tường. Nhưng rồi bệnh thấp khớp đã giữ chân tôi suốt hai năm qua.

- Thì ra bác là người vẫn xén tỉa cây! – Dickon kêu to. – Cháu đã không tài nào hiểu nổi điều đó.

"She was so fond of it--she was!" said Ben Weatherstaff slowly. "An' she was such a pretty young thing. She says to me once, `Ben,' says she laughin', `if ever I'm ill or if I go away you must take care of my roses.' When she did go away th' orders was no one was ever to come nigh. But I come," with grumpy obstinacy.

- Bà nhà đã yêu quý khu vườn biết bao! – Lão Ben chậm rãi. – Và bà là một phu nhân thật trẻ trung xinh đẹp. Có lần bà bảo tôi: “Này bác Ben, - bà vừa nói, vừa cười, - nếu có ngày tôi bị ốm hoặc bận đi xa, thì bác phải chăm sóc các khóm hồng này giúp tôi đấy nhé”. Nay bà đã khuất bóng, và còn có lệnh không ai được phép bén mảng đến đây. Nhưng tôi vẫn cứ đến… - lão cằn nhằn vẻ ngoan cố.

"Over th' wall I come--until th' rheumatics stopped me--an' I did a bit o' work once a year. She'd gave her order first."

"It wouldn't have been as wick as it is if tha' hadn't done it," said Dickon. "I did wonder."

"I'm glad you did it, Weatherstaff," said Colin. "You'll know how to keep the secret."

"Aye, I'll know, sir," answered Ben. "An, it'll be easier for a man wi' rheumatics to come in at th' door."

- Tôi vào bằng cách trèo tường… cho tới khi bệnh khớp ngáng chân tôi. Và mỗi năm, tôi chỉ còn làm được tí chút. Bà nhà là người xem trọng sự nền nếp.

- Nó chẳng được như thế này nếu không có bác chăm sóc, - Dickon tiếp. – Cháu đã hết sức ngạc nhiên.

- Tôi lấy làm mừng vì ông đã xử sự như vậy, - Colin nói. – Nhưng ông biết phải giữ bí mật như thế nào chứ?

- Ấy, tôi biết, thưa cậu, -lão Ben trả lời. – Vả lại, đối với một người bị thấp khớp như tôi thì vào đằng cửa vẫn dễ dàng hơn.

On the grass near the tree Mary had dropped her trowel. Colin stretched out his hand and took it up. An odd expression came into his face and he began to scratch at the earth. His thin hand was weak enough but presently as they watched him--Mary with quite breathless interest--he drove the end of the trowel into the soil and turned some over.

"You can do it! You can do it!" said Mary to herself. "I tell you, you can!"

Trên bãi cỏ gần cái cây, Mary buông cái xẻng bứng cây xuống. Colin với tay nhặt nó lên. Vẻ kỳ quặc hiện trên khuôn mặt thằng bé, và nó bắt đầu xới đất. Bàn tay mảnh khảnh yếu ớt, nhưng nó vẫn làm, mặc cho mọi người đứng nhìn. Mary đăm đăm nhìn nó đến nỗi tưởng chừng quên cả thở: thằng bé đang xắn ngập lưỡi xẻng xuống đất rồi lật lên.

- Cậu làm được mà! Cậu làm được mà! – Mary thầm nói với chính mình, - Tớ đã bảo cậu làm được mà!

Dickon's round eyes were full of eager curiousness but he said not a word. Ben Weatherstaff looked on with interested face.

Colin persevered. After he had turned a few trowelfuls of soil he spoke exultantly to Dickon in his best Yorkshire.

"Tha' said as tha'd have me walkin' about here same as other folk--an' tha' said tha'd have me diggin'. I thowt tha' was just leein' to please me. This is only th' first day an' I've walked--an' here I am diggin'."

Ben Weatherstaff's mouth fell open again when he heard him, but he ended by chuckling.

Đôi mắt tròn xoe của Dickon tràn ngập nỗi tò mò háo hức, nó không thốt nổi nên lời. Lão Ben Weatherstaff cúi xuống nhìn chăm chú.

Colin vẫn kiên trì. Sau lúc đã lật được mấy xẻng đất đầy, nó hớn hở bảo Dickon bằng giọng Yorkshire đúng điệu nhất của nó.

- Anh bảo anh sẽ đưa tôi tới đây để đi lại như mọi gã trai khác, và anh còn bảo muốn thấy tôi đào xới đất đai. Tôi nghĩ anh đã được thỏa nguyện rồi đấy. Mới ngày đầu tiên mà tôi đã biết đi và bây giờ còn đang đào đất nữa chứ.

Miệng lão Ben lại há ra khi nghe thằng bé nói, lão chỉ còn biết cười khùng khục.

"Eh!" he said, "that sounds as if tha'd got wits enow. Tha'rt a Yorkshire lad for sure. An' tha'rt diggin', too. How'd tha' like to plant a bit o' somethin'? I can get thee a rose in a pot."

"Go and get it!" said Colin, digging excitedly. "Quick! Quick!"

- Chà! – lão bảo, - nghe kiểu này mới hay cậu cũng dí dỏm ra trò. Cậu đúng là một gã Yorkshire chính cống. Lại biết xới đất nữa chứ. Cậu có muốn trồng một cái gì đó không? Để tôi đi kiếm cho cậu một giỏ hồng.

- Ông đi kiếm ngay đi! – Colin bảo, nó đang hào hứng với việc xới đất. – Nhanh lên! Nhanh lên!

It was done quickly enough indeed. Ben Weatherstaff went his way forgetting rheumatics. Dickon took his spade and dug the hole deeper and wider than a new digger with thin white hands could make it. Mary slipped out to run and bring back a watering-can. When Dickon had deepened the hole Colin went on turning the soft earth over and over. He looked up at the sky, flushed and glowing with the strangely new exercise, slight as it was.

"I want to do it before the sun goes quite--quite down," he said.

Quả thực việc đó được làm nhanh quá thể. Lão Ben vội đi ngay, quên khuấy cả chứng thấp khớp của lão. Dickon cầm chiếc mai đào cho sâu hơn và rộng hơn cái hố mà hai bàn tay trắng trẻo mảnh khảnh kia đã đào ra. Mary chạy ù đi rồi mang về một bình tưới. Trong khi Dickon đào cái hố cho đủ sâu, Colin tiếp tục xới đi xới lại lớp đất tơi. Nó ngước nhìn bầu trời với vẻ xúc động và quay sang tán dương sự tập luyện mới mẻ kỳ lạ này.

- Tôi muốn làm cho tới khi mặt trời lặn hẳn, - nó nói.

Mary thought that perhaps the sun held back a few minutes just on purpose. Ben Weatherstaff brought the rose in its pot from the greenhouse. He hobbled over the grass as fast as he could. He had begun to be excited, too. He knelt down by the hole and broke the pot from the mould.

"Here, lad," he said, handing the plant to Colin. "Set it in the earth thysel' same as th' king does when he goes to a new place."

Mary nghĩ có lẽ cũng vừa kịp, mặt trời sắp lặn sau ít phút nữa. Lão Ben Weatherstaff mang về một khóm hồng còn đựng trong chậu hoa lấy từ nhà kính. Lão vặt vội mấy nhánh cỏ quanh gốc. Lão cũng bắt đầu thấy hứng thú. Lão quỳ xuống bên miệng hố và đập bỏ chiếc chậu đựng khóm hồng.

- Đây, cậu trẻ, - lão nói rồi đưa cái cây cho Colin. – Để tự tay cậu trồng xuống đất, như đức vua vẫn làm khi ngài chuyển đến cung điện mới.

The thin white hands shook a little and Colin's flush grew deeper as he set the rose in the mould and held it while old Ben made firm the earth. It was filled in and pressed down and made steady. Mary was leaning forward on her hands and knees. Soot had flown down and marched forward to see what was being done. Nut and Shell chattered about it from a cherry-tree.

"It's planted!" said Colin at last. "And the sun is only slipping over the edge. Help me up, Dickon. I want to be standing when it goes. That's part of the Magic."

Hai bàn tay trắng trẻo gầy guộc của thằng bé run run và ánh hồng trên má nó mỗi lúc một đậm hơn khi nó đặt khóm xuống hố để lão Ben vun đất cho chặt. Tiếp đó là tưới nước, rồi giặm đất quanh gốc giữ cho cây đứng thẳng. Mary nhoài hẳn người ra phía trước. Con Bồ hóng từ đâu sà xuống, ngó nghiêng xem mọi người đang làm gì. Hạt dẻ và Vỏ sò cùng nhau bàn luận về mọi chuyện trên một cây anh đào.

- Trồng xong rồi, - cuối cùng Colin bảo. – Mặt trời cũng sắp lặn, giúp tôi đứng dậy nào, Dickon. Tôi muốn đứng khi nó đi ngủ. Đó cũng là một phần của Phép màu, phải không.

And Dickon helped him, and the Magic--or whatever it was--so gave him strength that when the sun did slip over the edge and end the strange lovely afternoon for them there he actually stood on his two feet--laughing.

Dickon giúp nó đứng dậy, và Phép màu – hay cái gì đại loại như thế - đã mang lại cho nó sức mạnh, đến nỗi khi mặt trời khuất hẳn phía chân mây và cái buổi chiều kỳ lạ đáng yêu ấy đã khép lại rồi, thằng bé vẫn còn đứng thẳng trên hai chân nó mà cười vang.






CHAPTER 23


Chapter XXIII: MAGIC

Chương 23: PHÉP MÀU

Dr. Craven had been waiting some time at the house when they returned to it. He had indeed begun to wonder if it might not be wise to send some one out to explore the garden paths. When Colin was brought back to his room the poor man looked him over seriously.

"You should not have stayed so long," he said. "You must not overexert yourself."

Bác sỹ Craven đợi ở nhà được một lúc khi chúng trở về. Ông bắt đầu tự hỏi có nên cho người đi thăm dò các đường mòn xung quanh khu vườn.

Khi Colin được đưa về phòng, con người tội ngiệp ấy nhìn nó với vẻ nghiêm nghị.

- Cháu không nên ra ngoài lâu như vậy. Lại càng không được gắng sức.

"I am not tired at all," said Colin. "It has made me well. Tomorrow I am going out in the morning as well as in the afternoon."

"I am not sure that I can allow it," answered Dr. Craven. "I am afraid it would not be wise."

"It would not be wise to try to stop me," said Colin quite seriously. "I am going."

- Cháu chẳng thấy mệt tí nào. Chuyện này làm cháu thấy dễ chịu. Ngày mai cháu sẽ ra khỏi nhà cả sáng lẫn chiều.

- Chú không chắc chú có thể cho phép điều đó, - Bác sỹ Craven trả lời. – Chú e rằng đó không phải là một quyết định khôn ngoan.

- Và chắc là không khôn ngoan khi chú cứ cố gắng ngăn cản cháu, - Colin nói hết sức nghiêm trang. – Cháu sẽ đi.

Even Mary had found out that one of Colin's chief peculiarities was that he did not know in the least what a rude little brute he was with his way of ordering people about. He had lived on a sort of desert island all his life and as he had been the king of it he had made his own manners and had had no one to compare himself with. Mary had indeed been rather like him herself and since she had been at Misselthwaite had gradually discovered that her own manners had not been of the kind which is usual or popular. Having made this discovery she naturally thought it of enough interest to communicate to Colin. So she sat and looked at him curiously for a few minutes after Dr. Craven had gone. She wanted to make him ask her why she was doing it and of course she did.

"What are you looking at me for?" he said.

Ngay cả Mary cũng nhận ra cái thói kỳ quặc nổi bật ở Colin khi nó tuyệt nhiên không thèm để tâm đến thái độ cộc cằn bất lịch sự mà nó vẫn thường thể hiện khi ra lệnh cho ai điều gì đó. Nó đã sống một cuộc đời như thế trên hoang đảo, và từ khi trở thành ông vua của hòn đảo ấy, nó có lối cư xử riêng chẳng có ai để mà so sánh với chính mình. Thật ra Mary cũng giống thằng Colin thôi. Kể từ ngày về Misselthwaite, dần dà nó phát hiện ra rằng cách cư xử của bản thân cũng chẳng lấy gì làm bình thường hay được nhiều người ưa thích cho cam. Từ khi nhận ra điều đó, tự nhiên nó thấy cần phải nói cho Colin biết. Bác sỹ Craven đi khỏi rồi, nó liền ngồi xuống và tò mò nhìn thằng bé mấy phút liền. Nó chỉ muốn Colin hỏi nó tại sao lại làm vậy, và quả nhiên thằng bé lên tiếng.

- Cậu đang nhìn gì tớ thế? - Tớ nghĩ mà lấy làm buồn cho bác sỹ Craven.

"I'm thinking that I am rather sorry for Dr. Craven."

"So am I," said Colin calmly, but not without an air of some satisfaction. "He won't get Misselthwaite at all now I'm not going to die."

"I'm sorry for him because of that, of course," said Mary, "but I was thinking just then that it must have been very horrid to have had to be polite for ten years to a boy who was always rude. I would never have done it."

"Am I rude?" Colin inquired undisturbedly.

- Tớ cũng vậy, - Colin điềm tĩnh nói, không phải là không có một thoáng tự mãn. – Bây giờ thì ông ấy không thể đoạt lấy Misselthwaite được nữa rồi. Tớ sẽ không chết.

- Dĩ nhiên, tớ thấy buồn cho ông ấy về điều đó, - Mary bảo, - nhưng chính lúc đó tớ chợt nghĩ rằng quả thật khủng khiếp khi phải giữ phép lịch sự trong suốt mười năm qua với một thằng bé luôn luôn thô lỗ. Tớ thì chẳng đời nào chịu làm việc đó.

- Tớ mà thô lỗ à? Colin vặn lại, không một chút bối rối.

"If you had been his own boy and he had been a slapping sort of man," said Mary, "he would have slapped you."

"But he daren't," said Colin.

"No, he daren't," answered Mistress Mary, thinking the thing out quite without prejudice. "Nobody ever dared to do anything you didn't like--because you were going to die and things like that. You were such a poor thing."

"But," announced Colin stubbornly, "I am not going to be a poor thing. I won't let people think I'm one. I stood on my feet this afternoon."

"It is always having your own way that has made you so queer," Mary went on, thinking aloud.

- Nếu cậu là con ông ấy và ông ấy là hạng người hay đánh trẻ con thì thế nào ông ấy cũng phát vào cậu.

- Ông ấy chẳng dám đâu, - Colin trả lời.

- Ừ, ông ấy chẳng dám, - Mary trả lời, nó đang suy nghĩ những điều sắp nói sao cho hoàn toàn không thành kiến. – Chưa một ai dám làm bất cứ điều gì mà cậu không thích. Bởi họ cho rằng cậu sắp chết, rằng cậu chỉ là một kẻ đáng thương.

- Nhưng, - Colin tuyên bố một cách bướng bỉnh, - tớ không có ý định làm một kẻ đáng thương. Tớ không cho phép người ta nghĩ mình là một kẻ như vậy. Chiều hôm nay, tớ đã đứng được trên đôi chân của mình.

- Chính vì cậu luôn được điều mình muốn mới khiến cậu trở nên kỳ cục như vậy, - Mary tiếp tục nói nên thành lời những suy nghĩ của nó.

Colin turned his head, frowning.

"Am I queer?" he demanded.

"Yes," answered Mary, "very. But you needn't be cross," she added impartially, "because so am I queer--and so is Ben Weatherstaff. But I am not as queer as I was before I began to like people and before I found the garden."

"I don't want to be queer," said Colin. "I am not going to be," and he frowned again with determination.

Colin nhăn mặt ngoái đầu lại.

- Tớ là kẻ kỳ cục sao ?

- Phải, - Mary đáp, - rất kỳ cục là đằng khác. Nhưng cậu không cần phải cáu làm gì. – nó nói thêm vẻ hết sức vô tư, - bởi vì tớ cũng là một đứa kỳ cục… và ông Ben Weatherstaff cũng vậy. Nhưng tớ không còn kỳ cục như trước, khi tớ đã bắt đầu thấy quý người khác, khi đã tìm ra khu vườn.

- Tớ không muốn làm một kẻ kỳ cục, - Colin nói. – Tớ cũng không muốn trở thành một kẻ như vậy, - Nó nghiêm mặt tỏ vẻ quyết tâm.

He was a very proud boy. He lay thinking for a while and then Mary saw his beautiful smile begin and gradually change his whole face.

"I shall stop being queer," he said, "if I go every day to the garden. There is Magic in there--good Magic, you know, Mary. I am sure there is." "So am I," said Mary.

"Even if it isn't real Magic," Colin said, "we can pretend it is. Something is there--something!"

"It's Magic," said Mary, "but not black. It's as white as snow."

Colin quả là một thằng bé biết tự trọng. Nó nằm suy nghĩ hồi lâu và chính lúc ấy, Mary nhận ra nụ cười tuyệt đẹp của nó bắt đầu nở trên môi và từ từ làm biến đổi toàn bộ gương mặt nó.

- Từ nay tớ sẽ thôi không còn là kẻ kỳ cục, nếu hằng ngày tớ được tới khu vườn ấy. Ở đấy hẳn là có Phép màu nào đó, một thứ Phép màu tử tế, mà cậu cũng biết rồi còn gì, Mary. Tớ cam đoan rằng nó có tồn tại đấy.

- Tớ cũng tin như vậy.

- Cho dù nó không phải là Phép màu thật đi chăng nữa, - Colin bảo, - chúng ta vẫn có thể coi như thế. Có một cái gì đấy… một cái gì…!

- Thì đấy chính là Phép màu. – Mary nói, - nhưng nó không hắc ám, mà trắng trẻo như tuyết.

They always called it Magic and indeed it seemed like it in the months that followed--the wonderful months--the radiant months--the amazing ones. Oh! the things which happened in that garden! If you have never had a garden you cannot understand, and if you have had a garden you will know that it would take a whole book to describe all that came to pass there.

Hai đứa luôn gọi đó là Phép màu, và quả thực mọi thứ cũng dường như thế trong những ngày tiếp theo, những ngày tháng kỳ diệu, rực rỡ và quá đỗi lạ lùng. Ôi! Biết bao chuyện đã xảy ra trong khu vườn ấy! Nếu bạn chưa bao giờ có một khu vườn, bạn chẳng hiều nổi đâu; nhưng nếu bạn có một khu vườn rồi thì bạn sẽ hiểu rằng bạn sẽ phải viết cả một cuốn sách để tả lại tất cả những gì đã xảy ra nơi đó.

At first it seemed that green things would never cease pushing their way through the earth, in the grass, in the beds, even in the crevices of the walls. Then the green things began to show buds and the buds began to unfurl and show color, every shade of blue, every shade of purple, every tint and hue of crimson. In its happy days flowers had been tucked away into every inch and hole and corner. Ben Weatherstaff had seen it done and had himself scraped out mortar from between the bricks of the wall and made pockets of earth for lovely clinging things to grow on. Iris and white lilies rose out of the grass in sheaves, and the green alcoves filled themselves with amazing armies of the blue and white flower lances of tall delphiniums or columbines or campanulas.

Đầu tiên, dường như tất cả những gì có màu xanh đang không ngớt tìm đường vươn lên mặt đất, giữa đám cỏ, trong các luống hoa, thậm chí ngay cả từ các khe nứt trên tường. Rồi những mầm xanh bắt đầu nhú thành chồi, chồi đâm lá và lá bắt đầu khoe sắc, mọi sắc độ của màu xanh, màu tím và đỏ thẫm. Để rồi vào những ngày hạnh phúc của mình, muôn vàn đóa hoa cùng bừng lên khắp nơi, trên từng tấc đất, từng xó xỉnh trong vườn. Lão Ben Weatherstaff đã bao lần chứng kiến cảnh tượng ấy, lão đã tự tay cạo sạch lớp vữa giữa các viên gạch trong bức tường rồi nhồi từng vốc đất vào đó giúp cho các thứ rêu cỏ đáng yêu mọc được dễ dàng hơn. Diên vĩ và loa kèn trắng ngoi lên khỏi cỏ dại thành từng búi hoa, còn các khoảng bong dâm trong vườn thì phủ đầy phi yến và thạch thảo.

"She was main fond o' them--she was," Ben Weatherstaff said. "She liked them things as was allus pointin' up to th' blue sky, she used to tell. Not as she was one o' them as looked down on th' earth--not her. She just loved it but she said as th' blue sky allus looked so joyful."

- Bà ấy thích tất cả các loài cây đầy nhựa sống đang vươn lên trời xanh, bà thường bảo vậy. Chẳng phải bà coi thường mặt đất đâu, bà yêu nó lắm nhứng bà bảo bầu trời xanh mới tuyệt vời làm sao. – Lão ben nói.

The seeds Dickon and Mary had planted grew as if fairies had tended them. Satiny poppies of all tints danced in the breeze by the score, gaily defying flowers which had lived in the garden for years and which it might be confessed seemed rather to wonder how such new people had got there. And the roses--the roses!

Chỗ hạt giống mà Dickon và Mary gieo đã mọc xanh giờn như thể được các nàng tiên chăm sóc. Các giống hoa anh túc mịn như sa tanh đang giập dờn trong gió nhẹ, vui vẻ thách thức những cây đã ở trong vườn từ nhiều năm nay – bon này dường như muốn thú nhận chúng đang tự hỏi làm cách nào mà những kẻ lạ mặt đó lại vào được đây. Và kìa! Những khóm hồng, những đóa hoa hồng!

Rising out of the grass, tangled round the sun-dial, wreathing the tree trunks and hanging from their branches, climbing up the walls and spreading over them with long garlands falling in cascades --they came alive day by day, hour by hour. Fair fresh leaves, and buds--and buds--tiny at first but swelling and working Magic until they burst and uncurled into cups of scent delicately spilling themselves over their brims and filling the garden air.

Chúng đang mọc lên khỏi thảm cỏ, quấn quanh chiếc đồng hồ mặt trời, ôm lấy các thân cây để rồi buông chùng xuống đất. Chúng còn bò ngược lên các bức tường rồi mới chịu tỏa rộng ra các cành buông rủ xuống khác nào thác nước. Chúng đang sống lại từng ngày từng giờ. Những chiếc lá tươi xinh xắn, những nụ hoa thoạt tiên chỉ là những chấm li ti, rồi phình to, cho đến khi chúng phình ra thành những đài hoa thơm ngát, dịu dàng tràn ngập khắp không gian khu vườn.

Colin saw it all, watching each change as it took place. Every morning he was brought out and every hour of each day when it didn't rain he spent in the garden. Even gray days pleased him. He would lie on the grass "watching things growing," he said.

Colin đã chứng kiến tất cả, đã quan sát từng đổi thay đang diễn ra. Sáng nào nó cũng được đưa tới đây, hễ trời không mưa là nó luôn có mặt trong vườn. Ngay cả những ngày âm u cũng khiến nó thích mê. Nó sẽ nằm dài trên thảm cỏ mà nhìn “vạn vật sinh sôi” nó bảo thế.

If you watched long enough, he declared, you could see buds unsheath themselves. Also you could make the acquaintance of strange busy insect things running about on various unknown but evidently serious errands, sometimes carrying tiny scraps of straw or feather or food, or climbing blades of grass as if they were trees from whose tops one could look out to explore the country.

Nếu bạn để tâm ngắm thật lâu, nó quả quyết, thì ta có thể xem được cảnh các nụ hoa đang tự mình nhú ra. Và bạn cũng bắt gặp bao điều mới lạ, vô số loài côn trùng bận rộn chạy tứ phía nhưng với mục đích rõ ràng của chúng, lúc thì tha những mẩu rơm, cái lông hay thức ăn, lúc thì bò lên những nhánh cỏ như thể đó là những cái cây, để từ đó có thể bao quát cả giang sơn của chúng.

A mole throwing up its mound at the end of its burrow and making its way out at last with the long-nailed paws which looked so like elfish hands, had absorbed him one whole morning. Ants' ways, beetles' ways, bees' ways, frogs' ways, birds' ways, plants' ways, gave him a new world to explore and when Dickon revealed them all and added foxes' ways, otters' ways, ferrets' ways, squirrels' ways, and trout' and water-rats' and badgers' ways, there was no end to the things to talk about and think over.

Một chú chuột chũi đang đùn lên cả đống đất ở cuối hang của mình và cuối cùng chú ta cũng đào xong một lối thoát với những cái móng sắc dài nom chẳng khác nào những bàn tay yêu tinh, và chuyện này đã thu hút thằng Colin cả buổi sáng. Nào hang kiến, nào hang của bọ cánh cứng, rồi thì tổ ong, hang ếch, tổ chim và cây cối. Đối với Colin thì đó là cả một thế giới mới mẻ để khám phá. Khi Dickon tiết lộ tất cả những điều này, lại cho nó biết thêm về hang cáo, hang rái cá, hang chồn sương, tổ sóc, luồng cá hồi, rồi thì hang chuột nước, hang lửng thì câu chuyện dường như không có hồi kết và người nghe cứ muốn nghe mãi không thôi.

And this was not the half of the Magic. The fact that he had really once stood on his feet had set Colin thinking tremendously and when Mary told him of the spell she had worked he was excited and approved of it greatly. He talked of it constantly.

Và đó cũng chưa phải một nửa của Phép màu. Việc nó thực sự đứng được trên đôi chân của chính mình khiến Colin suy nghĩ rất nhiều, cho nên khi được Mary cho hay câu thần chú mà con bé đã đọc, thằng bé vô cùng phấn khích và đồng tình ngay. Nó thường xuyên bàn luận về điều này.

"Of course there must be lots of Magic in the world," he said wisely one day, "but people don't know what it is like or how to make it. Perhaps the beginning is just to say nice things are going to happen until you make them happen. I am going to try and experiment"

- Dĩ nhiên, có rất nhiều Phép màu trên thế gian này, - một hôm thằng Colin ra vẻ khôn ngoan, - nhưng người ta không rõ nó như thế nào và làm sao để tạo ra nó, có lẽ thoạt tiên chỉ nói rằng những điều tốt đẹp sắp xuất hiện, cho tới khi cậu làm cho nó xuất hiện. Tớ định làm thí nghiệm xem sao.

The next morning when they went to the secret garden he sent at once for Ben Weatherstaff. Ben came as quickly as he could and found the Rajah standing on his feet under a tree and looking very grand but also very beautifully smiling.

Sáng hôm sau, khi cả bọn kéo đến khu vườn bí mật, nó lập tức gọi cho lão Ben Weatherstaff, lão Ben vừa tất tưởi đến nơi thì đã thấy vị tiểu vương đang đứng dưới một gốc cây, trông thật đường bệ với một nụ cười rạng rỡ.

"Good morning, Ben Weatherstaff," he said. "I want you and Dickon and Miss Mary to stand in a row and listen to me because I am going to tell you something very important."

"Aye, aye, sir!" answered Ben Weatherstaff, touching his forehead. (One of the long concealed charms of Ben Weatherstaff was that in his boyhood he had once run away to sea and had made voyages. So he could reply like a sailor.)

- Chào ông, ông Ben Weatherstaff , – thằng bé bảo. – Tôi muốn ông và Dickon và cô Mary đứng thành hang ngang và nghe tôi nói, bởi vì những điều tôi sắp nói với mọi người hôm nay hết sức quan trọng.

- Vâng, vâng, thưa ngài! - Lão Ben Weatherstaff đáp, đưa tay lên ngang trán (một trong những nét đang yêu lâu nay vẫn giấu kín của Ben Weatherstaff là vào thời trai trẻ, lão đã có những cuộc hành trình trên biển. Bởi thế lão có thói quen đáp lời như một thủy thủ.)

"I am going to try a scientific experiment," explained the Rajah. "When I grow up I am going to make great scientific discoveries and I am going to begin now with this experiment"

"Aye, aye, sir!" said Ben Weatherstaff promptly, though this was the first time he had heard of great scientific discoveries.

- Tôi đang định tiến hành một thí nghiệm khoa học, - vị tiểu vương giải thích.- Khi nào lớn lên tôi sẽ có những phát minh khoa học vĩ đại và tôi định bắt đầu ngay từ giờ với thí nghiệm này.

- Vâng, vâng, thưa ngài! – Lão Ben mau mắn, mặc dù đây là lần đầu tiên lão nghe đến từ phát minh khoa học vĩ đại.

It was the first time Mary had heard of them, either, but even at this stage she had begun to realize that, queer as he was, Colin had read about a great many singular things and was somehow a very convincing sort of boy. When he held up his head and fixed his strange eyes on you it seemed as if you believed him almost in spite of yourself though he was only ten years old--going on eleven. At this moment he was especially convincing because he suddenly felt the fascination of actually making a sort of speech like a grown-up person.

Đây cũng là lần đầu tiên Mary nghe thấy từ đó, và cho đến giờ nó bắt đầu nhận ra, cũng kỳ cục như chính thằng bé, rằng Colin đã đọc được rất nhiều điều kỳ thú, và chẳng hiểu tại sao nó lại là một đứa bé rất biết cách thuyết phục người khác. Hễ nó ngẩng cao đầu và nhìn đăm đăm vào bạn bằng cặp mắt kỳ lạ của nó, thì bạn hầu như tín nó ngay, dù nó mới lên mười, sắp bước sang tuổi mười một. Vào giây phút đó, nó lại càng đặc biệt thuyết phục bởi bỗng nhiên chính nó cũng cảm thấy mê hoặc trong cách nói năng chẳng khác gì một người trưởng thành của mình.

"The great scientific discoveries I am going to make," he went on, "will be about Magic. Magic is a great thing and scarcely any one knows anything about it except a few people in old books--and Mary a little, because she was born in India where there are fakirs. I believe Dickon knows some Magic, but perhaps he doesn't know he knows it. He charms animals and people. I would never have let him come to see me if he had not been an animal charmer--which is a boy charmer, too, because a boy is an animal. I am sure there is Magic in everything, only we have not sense enough to get hold of it and make it do things for us--like electricity and horses and steam."

- Những phát minh khoa học vĩ đại mà tôi định tiến hành sau đây, - nó tiếp tục,- sẽ liên quan đến Phép màu. Phép màu là một điều vĩ đại, rất hiếm người hiểu được, trừ một vài người được ghi nhận trong các cuốn sách cổ, - và Mary cũng hiểu đôi chút, bởi vì cô ấy sinh ra ở Ấn Độ, nơi sản sinh ra các vị pha-kia. (Colin muốn nói đến các pháp sư)

- Tôi cũng tin rằng Dickon biết một số Phép màu, nhưng có thể cậu không ý thức được rằng mình biết. Cậu ấy mê hoặc muông thú và con người. Tôi sẽ không đời nào để cậu ấy đến thăm tôi nếu cậu ấy không phải là người biết thu phục loài vật, cũng như thu phục bọn trẻ, bởi vì một đứa trẻ, nói cho cùng cũng là một con thú nhỏ. Tôi tin chắc rằng có Phép màu trong mọi vật quanh ta, chỉ có điều chúng ta không đủ ý thức để nắm bắt và buộc nó phục vụ chúng ta, như điện năng, sức kéo và hơi nước chẳng hạn.

This sounded so imposing that Ben Weatherstaff became quite excited and really could not keep still. "Aye, aye, sir," he said and he began to stand up quite straight.

Những lời ấy vang lên oai nghiêm đến nỗi làm lão Ben Weatherstaff phấn chấn không sao trấn tĩnh được.

- Vâng, vâng, thưa ngài, - lão nói và rướn người thẳng tắp.

"When Mary found this garden it looked quite dead," the orator proceeded. "Then something began pushing things up out of the soil and making things out of nothing. One day things weren't there and another they were. I had never watched things before and it made me feel very curious. Scientific people are always curious and I am going to be scientific. I keep saying to myself, `What is it? What is it?' It's something. It can't be nothing! I don't know its name so I call it Magic. I have never seen the sun rise but Mary and Dickon have and from what they tell me I am sure that is Magic too. Something pushes it up and draws it. Sometimes since I've been in the garden I've looked up through the trees at the sky and I have had a strange feeling of being happy as if something were pushing and drawing in my chest and making me breathe fast. Magic is always pushing and drawing and making things out of nothing. Everything is made out of Magic, leaves and trees, flowers and birds, badgers and foxes and squirrels and people. So it must be all around us. In this garden--in all the places.

Khi Mary phát hiện ra khu vườn này thì nó như không còn chút sinh khí nào nữa, - nhà hùng biện tiếp tục,- và rồi có một sức mạnh huyền bí nào đó thôi thúc muôn vật vươn lên mặt đất và tạo ra nhiều thứ từ chỗ chẳng có gì hết, hôm trước chưa có gì mà hôm sau đã vô vàn. Trước đó rôi chưa từng thấy chúng, và chúng làm tôi vô cùng tò mò. Những người làm khoa học luôn luôn tò mò, mà tôi thì sẽ trở thành nhà khoa học. Tôi thường tự hỏi: “Đó là cái gì? Đó là gì?” Đó phải là cái gì chứ! Tôi không biết tên của nó, vì vậy chỉ biết gọi nó là Phép màu. Tôi cũng chưa từng thấy cảnh mặt trời mọc, nhưng Mary và Dickon đã thấy, và từ những gì mà họ nói với tôi, tôi dám khẳng định rằng đó cũng là Phép màu. Có cái gì đó đẩy nó lên rồi lại kéo nó xuống. Đôi lúc, kể từ ngày tôi được ở trong khu vườn này, và nhìn lên vòm trời qua tán lá, trong tôi bỗng nảy sinh một cảm xúc kỳ lạ đầy hạnh phúc, như có một cái gì đang đẩy lên rồi lại kéo xuống trong lồng ngực khiến tôi phải thở gấp. Phép mầu đã luôn thúc đẩy, lôi kéo và tạo lên mọi thứ từ hư không. Vạn vật đã được tạo nên bởi Phép màu: cỏ cây, hoa lá, chim muông, chồn, cáo, sóc và cả con người. Bởi vậy, nó tồn tại quanh ta. Ngay trong khu vườn này… và khắp nơi khắp chốn.

The Magic in this garden has made me stand up and know I am going to live to be a man. I am going to make the scientific experiment of trying to get some and put it in myself and make it push and draw me and make me strong. I don't know how to do it but I think that if you keep thinking about it and calling it perhaps it will come. Perhaps that is the first baby way to get it. When I was going to try to stand that first time Mary kept saying to herself as fast as she could, `You can do it! You can do it!' and I did. I had to try myself at the same time, of course, but her Magic helped me--and so did Dickon's. Every morning and evening and as often in the daytime as I can remember I am going to say, 'Magic is in me! Magic is making me well! I am going to be as strong as Dickon, as strong as Dickon!' And you must all do it, too. That is my experiment Will you help, Ben Weatherstaff?"

Phép màu trong khu vườn này đã giúp tôi đứng thẳng người lên và ý thức được mình đang sống để trở thành một con người. Tôi đang định tiến hành một thí nghiệm khoa học nhằm tìm kiếm một phép màu rồi đưa nó vào bản thân, để nó thúc đẩy tôi, khiến tôi trở nên vững mạnh. Tôi chưa biết làm cách nào để đạt được điều đó, nhưng tôi cho rằng nếu người ta cứ tiếp tục suy nghĩ về nó, và gọi nó thì rất có thể nó sẽ tới. Có lẽ đây chỉ được coi là một phương pháp non kém ban đầu để đạt được điều đó. Khi lần đầu tiên tôi cố gắng đứng vững, Mary đã luôn miệng nói thầm thật nhanh câu này: “Cậu có thể làm được điều đó! Cậu có thể làm được!” và quả nhiên tôi đã làm được. Vào lúc ấy, tôi đã cố gắng, hết sức mình, dĩ nhiên là vậy, nhưng phải nói Phép màu của cô ấy đã giúp tôi – và cả Dickon nữa. Mổi buổi sang, mỗi buổi tối và mỗi ngày trôi qua, chừng nào tôi còn nhớ được, tôi sẽ bảo rằng: “Phép màu ở trong chính ta! Phép màu đang giúp ta khỏe mạnh! Ta đang khỏe mạnh như Dickon, khỏe mạnh chẳng kém gì Dickon!” Ngay cả mọi người cũng phải làm thế. Đấy là thí nghiệm của tôi. Liệu ông có giúp tôi không, ông Ben Weatherstaff?

"Aye, aye, sir!" said Ben Weatherstaff. "Aye, aye!"

"If you keep doing it every day as regularly as soldiers go through drill we shall see what will happen and find out if the experiment succeeds. You learn things by saying them over and over and thinking about them until they stay in your mind forever and I think it will be the same with Magic. If you keep calling it to come to you and help you it will get to be part of you and it will stay and do things." "I once heard an officer in India tell my mother that there were fakirs who said words over and over thousands of times," said Mary.

- Vâng, vâng, thưa ngài. – Lão Ben đáp – Vâng, vâng!

- Nếu mọi người giữ vững ý chí, làm việc đều đặn hàng ngày như những người lính đang khổ luyện ngoài thao trường, chúng ta sẽ tận mắt thấy những gì sắp xảy ra và biết được nếu thí nghiệm ấy thành công. Nếu như bạn học hỏi mọi điều, nghiền ngẫm thấu đáo tới mức chúng in sâu vào tâm trí, thì tôi cho rằng điều đó cũng như một thứ Phép màu. Nếu bạn gọi nó tới giúp, nó sẽ trở thành một phần của các bạn, nó sẽ ở lại và làm nên mọi chuyện.

- Có lần tớ đã nghe một viên sĩ quan ở Ấn Độ bảo với mẹ tớ rằng có những vị thầy tu khất thực cầu nguyện một câu đến cả ngàn lần, - Mary bảo.

"I've heard Jem Fettleworth's wife say th' same thing over thousands o' times--callin' Jem a drunken brute," said Ben Weatherstaff dryly. "Summat allus come o' that, sure enough. He gave her a good hidin' an' went to th' Blue Lion an' got as drunk as a lord."

Colin drew his brows together and thought a few minutes. Then he cheered up.

- Tôi cũng từng nghe bà vợ ông Jem Fettleworth lải nhải gọi ông Jem là một tay cục súc nghiện rượu hàng ngàn lần, - lão Ben Weatherstaff nói tỉnh queo. – Ông ta vốn hay giấu vợ lỉnh tới quán “Sư tử xanh” nốc cho thật đẫy.

Colin nhăn mày suy nghĩ giây lát. Rồi nó hăng hái nói tiếp.

"Well," he said, "you see something did come of it. She used the wrong Magic until she made him beat her. If she'd used the right Magic and had said something nice perhaps he wouldn't have got as drunk as a lord and perhaps--perhaps he might have bought her a new bonnet."

- Chà, - nó nói, - mọi người có nhận ra điều gì đi kèm câu chuyện vừa rồi không? Bà ta đã sử dụng một thứ phép thuật sai đến nỗi ông ấy phải nện cho. Nếu bà ta sử dụng một phép màu đúng đắn và nói năng tử tế, có lẽ ông ấy đã không nốc rượu xả láng đến vậy và … biết đâu ông ấy chẳng mua tặng bà một chiếc mũ mới.

Ben Weatherstaff chuckled and there was shrewd admiration in his little old eyes.

"Tha'rt a clever lad as well as a straight-legged one, Mester Colin," he said. "Next time I see Bess Fettleworth I'll give her a bit of a hint o' what Magic will do for her. She'd be rare an' pleased if th' sinetifik 'speriment worked --an' so 'ud Jem."

Colin vừa dứt lời, lão Ben đã cười khùng khục, để lộ vẻ than phục qua đôi mắt già nua bé tí của lão.

- Cậu là một anh chàng vừa thông minh, vừa có đôi chân thẳng tắp, cậu Colin ạ. Lần tới gặp bà Bess Flettleworth tôi sẽ gợi ý cho bà ấy về những gì Phép màu có thể mang lại. Bà ấy chắc sẽ lấy làm mừng nếu thí nghiệm khoa học có thể cải tạo được lão Jem nhà bà.

Dickon had stood listening to the lecture, his round eyes shining with curious delight. Nut and Shell were on his shoulders and he held a long-eared white rabbit in his arm and stroked and stroked it softly while it laid its ears along its back and enjoyed itself.

"Do you think the experiment will work?" Colin asked him, wondering what he was thinking. He so often wondered what Dickon was thinking when he saw him looking at him or at one of his "creatures" with his happy wide smile. He smiled now and his smile was wider than usual.

Từ nãy đến giờ, Dickon cứ đứng mà nghe bài thuyết trình, đôi mắt tròn xoe của nó ánh lên niềm vui xen lẫn vẻ tò mò. Hạt dẻ và Vỏ sồi ngồi hai bên vai nó, trong khi một tay nó còn ôm một con thỏ trắng tai dài, tay kia gại gại nhẹ vào con vật. Con thỏ cụp đôi tai dài của nó dọc theo thân minh ra chiều thích thú lắm.

- Cậu có cho rằng thí nghiệm sẽ thành công không? Colin hỏi Dickon và băn khoăn không biết thằng bé đang nghĩ gì. Nó vẫn thường tự hỏi đâu là những điều Dickon đang nghĩ khi thấy Dickon nhìn nó hay một trong các con vật cưng kia với nụ cười rộng ngoác vẻ hạnh phúc. Lúc này Dickon cũng đang cười, miệng còn rộng hơn mọi bữa.

"Aye," he answered, "that I do. It'll work same as th' seeds do when th' sun shines on 'em. It'll work for sure. Shall us begin it now?"

Colin was delighted and so was Mary. Fired by recollections of fakirs and devotees in illustrations Colin suggested that they should all sit cross-legged under the tree which made a canopy.

- Vâng, tôi cho rằng vậy, - thằng bé trả lời. – Điều đó sẽ diễn ra, như hạt giống cựa mình dưới ánh mặt trời. Đó là điều chắc chắn sẽ đến. Vậy bao giờ ta sẽ bắt đầu?

Colin phấn khởi, Mary cũng vậy. Nhớ lại hình ảnh các vị thầy tu và những kẻ mộ đạo trong các hình vẽ minh họa, Colin đưa ra gợi ý và cả bọn nên ngồi khoanh chân dưới tán cây.

"It will be like sitting in a sort of temple," said Colin. "I'm rather tired and I want to sit down."

"Eh!" said Dickon, "tha' mustn't begin by sayin' tha'rt tired. Tha' might spoil th' Magic."

Colin turned and looked at him--into his innocent round eyes.

"That's true," he said slowly. "I must only think of the Magic."

- Cũng tựa như đang ngồi trong một ngôi đền, - Colin bảo, vả lại bây giờ tớ khá mệt rồi, tớ muốn ngồi.

- Ấy! – Dickon bảo, - cậu không được bắt đầu bằng cách nói rằng mình bị mệt. Cậu có thể làm hỏng phép màu mất.

Colin quay sang nhìn nó, nhìn sâu vào đôi mắt tròn ngây thơ của thằng bé.

- Đúng thế, - nó chậm rãi nói,- tớ chỉ được nghĩ đến Phép màu mà thôi.

It all seemed most majestic and mysterious when they sat down in their circle. Ben Weatherstaff felt as if he had somehow been led into appearing at a prayer-meeting. Ordinarily he was very fixed in being what he called "agen' prayer-meetin's" but this being the Rajah's affair he did not resent it and was indeed inclined to be gratified at being called upon to assist. Mistress Mary felt solemnly enraptured. Dickon held his rabbit in his arm, and perhaps he made some charmer's signal no one heard, for when he sat down, cross-legged like the rest, the crow, the fox, the squirrels and the lamb slowly drew near and made part of the circle, settling each into a place of rest as if of their own desire.

"The `creatures' have come," said Colin gravely. "They want to help us."

Quang cảnh hết sức trang trọng và huyền bí khi cả bọn ngồi xuống thành vòng tròn. Lão Ben Weatherstaff có cảm tưởng như đang bị dẫn ra mắt tại một buổi cầu nguyện nào đó. Bình sinh lão vốn có thành kiến với những cái được gọi là “tụ tập cúng bái”, vậy nhưng đây lại là công chuyện của vị tiểu vương, lão không hề bực bội, thậm chí còn thấy biết ơn vì được mời tham dự. Cô chủ nhỏ Mary thì mê mẩn một cách trang nghiêm. Dickon ôm con thỏ trong tay, có lẽ nó đang ra một hiệu lệnh riêng của người dạy thú mà không ai nghe thấy. Rồi nó ngồi xếp bằng tròn như những người khác. Con quạ, con cáo, hai tên sóc và con cừu non từ từ sán lại tạo thành một vòng quanh thằng bé.

- Bọn thú đã tới, - Colin nói vẻ nghiêm trang – Chúng muốn giúp chúng ta.

Colin really looked quite beautiful, Mary thought. He held his head high as if he felt like a sort of priest and his strange eyes had a wonderful look in them. The light shone on him through the tree canopy.

"Now we will begin," he said. "Shall we sway backward and forward, Mary, as if we were dervishes?"

Colin trông thật đẹp, Mary nghĩ thầm. Thằng bé ngẩng cao đầu và cảm thấy mình như một vị trưởng tế, đôi mắt kỳ lạ của nó lúc này lấp lánh những ánh nhìn tuyệt đẹp. Ánh nắng xuyên qua tán cây chiếu vào người nó.

- Bây giờ chúng ta sẽ bắt đầu, - nó nói, - chúng ta sẽ lắc lư về phía trước và phía sau, phải không Mary, như thể chúng ta là những giáo sỹ Hồi giáo thần bí.

"I canna' do no swayin' back'ard and for'ard," said Ben Weatherstaff. "I've got th' rheumatics."

"The Magic will take them away," said Colin in a High Priest tone, "but we won't sway until it has done it. We will only chant."

"I canna' do no chantin'" said Ben Weatherstaff a trifle testily. "They turned me out o' th' church choir th' only time I ever tried it."

No one smiled. They were all too much in earnest. Colin's face was not even crossed by a shadow. He was thinking only of the Magic.

- Tôi không thể lắc lư về phía trước về phía sau được,- Lão Ben bảo, - Tôi bị đau khớp mà.

- Phép màu sẽ đẩy lùi chúng, - Colin đáp lại bằng giọng của một Thầy Cả. – Nhưng chúng ta sẽ không lắc lư cho đến khi nó làm ra điều đó. Ta sẽ chỉ hát thánh ca.

- Tôi không thể hát thánh ca, - lão Ben nói hơi gắt gỏng – Họ đã đuổi tôi ra khỏi đội hợp xướng nhà thờ ngay cái lần duy nhất tôi thử hát.

Không ai cười. Mọi người đều giữ vẻ mặt nghiêm trang. Thậm chí khuôn mặt Colin không gơn thoáng tức giận. Nó mải mê suy nghĩ về Phép màu.

"Then I will chant," he said. And he began, looking like a strange boy spirit. "The sun is shining--the sun is shining. That is the Magic. The flowers are growing--the roots are stirring. That is the Magic. Being alive is the Magic--being strong is the Magic. The Magic is in me--the Magic is in me. It is in me--it is in me. It's in every one of us. It's in Ben Weatherstaff's back. Magic! Magic! Come and help!"

- Vậy thì tôi sẽ hát thánh ca. – Nó nói. Và nó bắt đầu, với khí thế của một chàng trai – “Mặt trời đang tỏa rạng - mặt trời đang tỏa rạng. Ấy là Phép màu. – Hoa lá đang đua nở, Rễ cây đang vươn lên. - Ấy là Phép nhiệm màu. – Được sống là màu nhiệm. – Nhiệm màu ở trong ta. – Nó đang ở trong ta, nó đang ở trong ta. Ở trong mỗi chúng ta. Trong tấm lưng của Ben Weartherstaff. Phép màu! Phép màu! Hãy tới và cứu rỗi chúng con!”

He said it a great many times--not a thousand times but quite a goodly number. Mary listened entranced. She felt as if it were at once queer and beautiful and she wanted him to go on and on. Ben Weatherstaff began to feel soothed into a sort of dream which was quite agreeable. The humming of the bees in the blossoms mingled with the chanting voice and drowsily melted into a doze. Dickon sat cross-legged with his rabbit asleep on his arm and a hand resting on the lamb's back. Soot had pushed away a squirrel and huddled close to him on his shoulder, the gray film dropped over his eyes. At last Colin stopped.

Thằng bé đã đọc đi đọc lại câu ấy không biết bao nhiêu lần, nếu chưa đến ngàn lần thì chắc cũng phải nhiều lắm. Mary lắng nghe mê mải. Nó cảm thấy có cái gì đó vừa kỳ quặc vừa đẹp đẽ trong bài thánh ca đó và nó muốn Colin cứ tiếp tục. Lão Ben cũng cảm thấy như người ta đang ru lão vào một giấc mộng vô cùng dễ chịu. Tiếng vo ve của bầy ong giữa những bong hoa đang nở rộ hòa lẫn cùng giọng hát dần biến thành một cơn buồn ngủ dễ chịu. Dickon ngồi khoanh chân, con thỏ đang ngủ trên tay, còn tay kia của nó đặt trên lưng con cừu non. Bồ hóng vừa hích được con sóc ra khỏi chỗ của nó rồi ghé sát lại trên vai thằng bé, mắt Dickon cũng đang ríu lại vì buồn ngủ. Cuối cùng Colin ngừng lại.



"Now I am going to walk round the garden," he announced.

Ben Weatherstaff's head had just dropped forward and he lifted it with a jerk.

"You have been asleep," said Colin.

"Nowt o' th' sort," mumbled Ben. "Th' sermon was good enow--but I'm bound to get out afore th' collection."

He was not quite awake yet.

"You're not in church," said Colin.

"Not me," said Ben, straightening himself. "Who said I were? I heard every bit of it. You said th' Magic was in my back. Th' doctor calls it rheumatics."

- Bây giờ tôi muốn đi dạo quanh khu vườn, - nó tuyên bố.

Đầu lão Ben vừa chúi về phía trước bỗng ngật trở lại.

- Ông không ở trong nhà thờ, - Colin bảo.

- Đâu có ạ, - lão Ben nói lí nhí. – Bài thuyết giáo nghe hay quá. Tôi vừa cúi xuống xem đang ở chương nào đấy chứ. Lão có vẻ vẫn lơ mơ chưa tỉnh hẳn.

- Ông đâu ở trong nhà thờ, - Colin bảo.

- Ai bảo không nào? Lão Ben nói và rướn thẳng người lên, - Tôi nghe rõ từng câu một. Cậu chẳng bảo Phép màu trong lưng tôi là gì. Nhưng bác sỹ gọi đó là chứng thấp khớp.

The Rajah waved his hand.

"That was the wrong Magic," he said. "You will get better. You have my permission to go to your work. But come back tomorrow."

"I'd like to see thee walk round the garden," grunted Ben.

It was not an unfriendly grunt, but it was a grunt. In fact, being a stubborn old party and not having entire faith in Magic he had made up his mind that if he were sent away he would climb his ladder and look over the wall so that he might be ready to hobble back if there were any stumbling.

Vị tiểu vương xua tay.

- Đấy là thứ ma thuật sai trái. Rồi ông sẽ khỏi thôi. Ông được phép đi làm việc. Nhớ quay lại vào ngày mai đấy nhé.

- Tôi chỉ muốn được thấy cậu đi dạo quanh vườn,- Lão Ben nói càu nhàu.

Nhưng đó không phải những tiếng càu nhàu khó chịu, mà chỉ đơn thuần tính lão hay cấm cảu. Vốn là một lão già bướng bỉnh ương ngạch, không tin lắm vào Phép màu nên lão quyết định nếu bị đuổi đi thì lão sẽ trèo lên thang mà nhòm qua bờ tường, ngộ nhỡ có gì xảy ra thì lão có thể khập khiễng quay trở lại giúp.

The Rajah did not object to his staying and so the procession was formed. It really did look like a procession. Colin was at its head with Dickon on one side and Mary on the other. Ben Weatherstaff walked behind, and the "creatures" trailed after them, the lamb and the fox cub keeping close to Dickon, the white rabbit hopping along or stopping to nibble and Soot following with the solemnity of a person who felt himself in charge.

Do vị tiểu vương không phản đối việc lão ở lại, nên mọi người tập hợp thành một đoàn. Trong họ chẳng khác nào một đám rước. Colin đi đầu, kế đến là Dickon rồi Mary bước lẽo đẽo theo sau, đám thú hoang bám sau rốt. Cừu non và cáo con theo sát Dickon, thỏ trắng cũng nhảy bám gót, thỉnh thoảng còn dừng lại gặm mấy cọng cỏ non. Con Bồ hóng thì không chịu rời thằng bé một bước, với vẻ trang nghiêm của một kẻ ý thức được trách nhiệm của mình.

It was a procession which moved slowly but with dignity. Every few yards it stopped to rest. Colin leaned on Dickon's arm and privately Ben Weatherstaff kept a sharp lookout, but now and then Colin took his hand from its support and walked a few steps alone. His head was held up all the time and he looked very grand.

"The Magic is in me!" he kept saying. "The Magic is making me strong! I can feel it! I can feel it!"

Đám rước di chuyển chậm rãi, nhưng dáng vẻ chững chạc đàng hoàng. Cứ vài mét họ lại dừng lại để nghỉ. Colin tựa người vào cánh tay Dickon, lão Ben kín đáo để mắt coi chừng, thỉnh thoảng Colin lại gỡ tay khỏi Dickon và tự đi mấy bước. Những lúc như thế, đầu nó ngẩng cao hết sức kiêu hãnh.

- Phép màu ở trong ta ! – Nó cất tiếng nói – Phép màu đang làm ta khỏe mạnh ! Ta có thể cảm nhận được nó ! Ta có thể cảm nhận được nó !

It seemed very certain that something was upholding and uplifting him. He sat on the seats in the alcoves, and once or twice he sat down on the grass and several times he paused in the path and leaned on Dickon, but he would not give up until he had gone all round the garden. When he returned to the canopy tree his cheeks were flushed and he looked triumphant.

"I did it! The Magic worked!" he cried. "That is my first scientific discovery.".

"What will Dr. Craven say?" broke out Mary.

Dường như chắc chắn có một cái gì đang nâng đỡ nó. Thằng bé ngồi xuống những chiếc ghế bên đường, thỉnh thoảng nó còn ngồi bệt xuống bãi cỏ, có lúc lại dừng bước trên con đường mòn, tựa người vào Dickon, nhưng nó nhất định không chịu bỏ cuộc cho tới khi đã làm một vòng quanh khu vườn. Lúc trở về cái cây dùng lám mái che thì hai má nó đỏ bừng đầy vẻ đắc thắng.

- Ta đã làm được ! Phép màu đã ra tay ! – Nó kêu to. – Đây là phát kiến khoa học đầu tiên của ta.

- Không biết bác sỹ Craven sẽ nói gì nhỉ ? – Mary buột miệng bảo.

"He won't say anything," Colin answered, "because he will not be told. This is to be the biggest secret of all. No one is to know anything about it until I have grown so strong that I can walk and run like any other boy. I shall come here every day in my chair and I shall be taken back in it. I won't have people whispering and asking questions and I won't let my father hear about it until the experiment has quite succeeded. Then sometime when he comes back to Misselthwaite I shall just walk into his study and say `Here I am; I am like any other boy. I am quite well and I shall live to be a man. It has been done by a scientific experiment.'"

"He will think he is in a dream," cried Mary. "He won't believe his eyes."

- Ông ấy sẽ chẳng thể nói gì, - Colin đáp, - bởi vì ông ấy không được bảo cho mà biết. Đây có lẽ là bí mật lớn nhất trong tất cả các bí mật. Không ai được biết gì về nó cho tới khi tớ trở nên khỏe đến nỗi có thể đi đứng, chạy nhảy như những đứa trẻ khác. Từ hôm nay tớ sẽ tới đây hàng ngày rồi trở về bằng chiếc xe đẩy của tớ. Tớ không muốn mọi người xì xào bàn tán hay hỏi han, và càng không muốn để cha tớ nghe thấy chuyện này cho tới khi nào thí nghiệm thành công. Rồi đến lúc nào đó, khi ông trở về Misselthwaite, tớ sẽ bước thẳng tới phòng làm việc của ông mà bảo « Con đây – giờ thì con cũng như bất kỳ đứa trẻ nào khác. Con hoàn toàn khỏe mạnh và sẽ sống để trở thành một người đàn ông. Đây chính là kết quả của một thí nghiệm khoa học ».

- Ông ấy sẽ ngỡ là mình đang mơ cho mà xem, - Mary bật cười, - Ông ấy không tin nổi vào mắt mình đâu.

Colin flushed triumphantly. He had made himself believe that he was going to get well, which was really more than half the battle, if he had been aware of it. And the thought which stimulated him more than any other was this imagining what his father would look like when he saw that he had a son who was as straight and strong as other fathers' sons. One of his darkest miseries in the unhealthy morbid past days had been his hatred of being a sickly weak-backed boy whose father was afraid to look at him.

"He'll be obliged to believe them," he said.

"One of the things I am going to do, after the Magic works and before I begin to make scientific discoveries, is to be an athlete."

Colin đỏ bừng mặt đắc thắng. Nó khiến cho chính nó tin rằng minh đang khá lên, và vậy đã là hơn nửa trận chiến rồi, nếu nó nhận ra điều đó. Và cái ý nghĩ khuấy động tâm hồn nó hơn bất cứ điều gì khác, là mường tượng ra cảnh cha nó nhận ra ông có một đứa con trai cũng thẳng thớm và khỏe mạnh như con cái nhà ai. Một trong những bất hạnh đen tối nhất của nó trong những ngày bệnh tật đau yếu vừa qua, chính là nỗi bất hạnh khi phải làm một thằng bé gù lưng còi yếu đến độ cha mình cũng phải hãi hùng khi nhìn thấy.

- Ông ấy sẽ phải tin thôi, - nó nói. – Một trong những việc tôi sắp làm, sau khi được Phép màu phù hộ và trước khi tôi bắt tay vào những khám phá khoa học, là trở thành một vận động viên điền kinh.

"We shall have thee takin' to boxin' in a week or so," said Ben Weatherstaff. "Tha'lt end wi' winnin' th' Belt an' bein' champion prize-fighter of all England."

Colin fixed his eyes on him sternly.

"Weatherstaff," he said, "that is disrespectful. You must not take liberties because you are in the secret. However much the Magic works I shall not be a prize-fighter. I shall be a Scientific Discoverer."

"Ax pardon--ax pardon, sir" answered Ben, touching his forehead in salute. "I ought to have seed it wasn't a jokin' matter," but his eyes twinkled and secretly he was immensely pleased. He really did not mind being snubbed since the snubbing meant that the lad was gaining strength and spirit.

- Chúng tôi sẽ dậy cậu chơi đấm bốc chỉ trong vòng một tuần, - Lão Ben bảo,- Cậu sẽ là người chiến thắng với việc giành Đai Vàng và trở thành nhà vô định toàn nước Anh cho mà xem.

Colin đưa mắt nhìn lão một cách nghiêm khắc.

- Ông Weatherstaff này, nói vậy là thiếu tôn trọng đấy. Ông đừng tùy tiện sỗ sàng, bởi vì ông cần phải giữ bí mật. Dù Phép màu có hiệu nghiệm đến đâu, tôi cũng sẽ không vô địch quyền anh đâu mà trở thành một nhà phát minh khoa học.

- Ấy , xin cậu thứ lỗi, thưa cậu, - Lão Ben vừa đáp, vừa đặt tay ngang trán để chào. – Có lẽ tôi nên đi gieo hạt hơn là ở đây mà tán dóc.

Đôi mắt lão nheo nheo lấp lánh, tự đáy lòng lão cảm thấy hết sức vui vẻ. Thực tình lão không hề bận lòng vì bị bẽ mặt, bởi vì việc làm lão bẽ mặt có nghĩa là, anh chàng này đã lấy lại được sức mạnh và tinh thần.






CHAPTER 24


Chapter XXIV: "LET THEM LAUGH"

Chương 24: “Để CHO CHÚNG CƯờI!”

The secret garden was not the only one Dickon worked in. Round the cottage on the moor there was a piece of ground enclosed by a low wall of rough stones. Early in the morning and late in the fading twilight and on all the days Colin and Mary did not see him, Dickon worked there planting or tending potatoes and cabbages, turnips and carrots and herbs for his mother. In the company of his "creatures" he did wonders there and was never tired of doing them, it seemed. While he dug or weeded he whistled or sang bits of Yorkshire moor songs or talked to Soot or Captain or the brothers and sisters he had taught to help him.

Khu vườn bí mật không phải nơi duy nhất Dickon làm việc. Quanh ngôi nhà gianh trên cánh đồng hoang có một mảnh đất được vây kín bởi bức tường thấp xây bằng đá hộc. Ngày nào cũng vậy, từ sớm tinh mơ cho tới khi trời nhập nhoạng tối, Colin và Mary không gặp được Dickon, bởi nó đang ở đó trồng trọt hoặc chăm sóc khoai tây, cải bắp, củ cải, cà rốt cùng các loại cỏ thuốc, đỡ đần cho mẹ nó. Bên cạnh những con thú, nó miệt mài làm ra những điều kỳ diệu dường như không bao giờ biết đến mệt mỏi. Trong lúc bận tay đánh luống hay rẫy cỏ, nó vẫn huýt sáo hay cất tiếng ngợi ca vẻ đẹp của đồng hoang xứ Yorkshire, chuyện trò cùng Bồ hóng và Đại úy, hay lại quay sang dạy các em cách thức để có thể giúp nó một tay.

"We'd never get on as comfortable as we do," Mrs. Sowerby said, "if it wasn't for Dickon's garden. Anything'll grow for him. His 'taters and cabbages is twice th' size of any one else's an' they've got a flavor with 'em as nobody's has."

- Chúng tôi sẽ không thể sống dễ chịu như bây giờ, - bà Sowerby nói, - nếu không có khu vườn của thằng Dickon. Bất kể thứ gì cũng nhờ nó mà tươi tốt xanh um. Khoai tây, cải bắp nó trồng to gấp đôi người khác, ấy vậy lại thơm ngon hơn kia chứ.

When she found a moment to spare she liked to go out and talk to him. After supper there was still a long clear twilight to work in and that was her quiet time. She could sit upon the low rough wall and look on and hear stories of the day. She loved this time. There were not only vegetables in this garden. Dickon had bought penny packages of flower seeds now and then and sown bright sweet-scented things among gooseberry bushes and even cabbages and he grew borders of mignonette and pinks and pansies and things whose seeds he could save year after year or whose roots would bloom each spring and spread in time into fine clumps. The low wall was one of the prettiest things in Yorkshire because he had tucked moorland foxglove and ferns and rock-cress and hedgerow flowers into every crevice until only here and there glimpses of the stones were to be seen.

Hễ rảnh rỗi, bà lại thích ra ngoài trời trò truyện cùng con. Sau bữa tối, còn vài việc vặt để làm khi trời vẫn nhá nhem, ấy là lúc bà được thư thả. Lúc đó, bà đang ngồi bên bức tường thấp thô nhám, nhìn quanh và lắng nghe mọi chuyện trong ngày. Bà yêu quãng thời gian này vô cùng. Và không chỉ có mỗi rau cỏ trong vườn. Thỉnh thoảng, Dickon còn mua được cả những gói hạt giống hoa đáng tiền chỉ có vài penny. Nó vãi những hạt giống sáng màu có hương thơm ngào ngạt xen lẫn vào giữa các bụi lý gai và đám bắp cải, trồng nên những luống cẩm chướng, păng-xê và các thứ hoa khác. Các loại hạt giống đó nó để dành từ năm này qua năm khác. Mùa xuân đến, chúng mọc mầm rồi vươn lên thành khóm. Bức tường thấp là một trong những chỗ dễ thương nhất xứ Yorkshine này, bởi thằng bé nhét đầy vào từng vết nứt trên đá những cây mao địa hoàng mọc ngoài đồng hoang, rồi dương xỉ cùng các cây hao dại, đến độ chỉ còn thấp lấp ló đây đó mấy phiến đá.

"All a chap's got to do to make 'em thrive, mother," he would say, "is to be friends with 'em for sure. They're just like th' `creatures.' If they're thirsty give 'em drink and if they're hungry give 'em a bit o' food. They want to live same as we do. If they died I should feel as if I'd been a bad lad and somehow treated them heartless."

- Tất cả những gì mà người ta có thể làm để chúng lớn lên, mẹ ạ, là thật lòng kết bạn với chúng. Chúng chỉ là những sinh vật không biết nói năng. Nếu chúng khát ta phải cho chúng uống, nếu chúng đói ta phải cho chúng ăn. Chúng khao khát muốn sống chẳng khác nào chúng ta. Nếu chúng chết con sẽ cảm thấy mình như một gã tồi vì đã đối xử với chúng nhẫn tâm như thế.

It was in these twilight hours that Mrs. Sowerby heard of all that happened at Misselthwaite Manor. At first she was only told that "Mester Colin" had taken a fancy to going out into the grounds with Miss Mary and that it was doing him good. But it was not long before it was agreed between the two children that Dickon's mother might "come into the secret." Somehow it was not doubted that she was "safe for sure."

Chính vào những lúc tranh tối tranh sáng đó, bà Sowerby được nghe kể mọi chuyện đang diễn ra ở trang viên Misselthwaite. Thoạt đầu, bà nghe thấy rằng “cậu Colin” đã làm được một chuyện đáng kinh ngạc là ra khỏi nhà với cô Mary và việc đó giúp cậu khỏe hẳn ra. Nhưng trước đó không lâu, đã có một thỏa thuận giữa hai đứa trẻ là mẹ của Dickon cũng được phép “tham dự vào bí mật này”. Không nghi ngờ gì nữa, bà chính là người “đáng tin cậy tuyệt đối”.

So one beautiful still evening Dickon told the whole story, with all the thrilling details of the buried key and the robin and the gray haze which had seemed like deadness and the secret Mistress Mary had planned never to reveal. The coming of Dickon and how it had been told to him, the doubt of Mester Colin and the final drama of his introduction to the hidden domain, combined with the incident of Ben Weatherstaff's angry face peering over the wall and Mester Colin's sudden indignant strength, made Mrs. Sowerby's nice-looking face quite change color several times.

Bởi vậy, vào một buổi tối đẹp trời, Dickon đã kể lại cho mẹ mình toàn bộ câu chuyện, với tất cả các tình tiết ly kì nhất, từ chuyện chiếc chìa khóa được chôn giấu kỹ đến chuyện con chim ức đỏ, từ chuyện tấm màn xám gợi lên sự chết chóc rợn người cho đến điều bí mật mà cô Mary dự định không bao giờ tiết lộ, sự xuất hiện của Dickon và lý do tại sao điều bí mật ấy lại được kể cho nó nghe, rồi mối ngờ vực của cậu chủ Colin và màn kịch cuối cùng để cậu giới thiệu lãnh địa bí mật ấy, kết hợp tình tiết nét mặt giận giữ của lão Ben Weatherstaff lúc ngó qua bờ tường, rồi việc cậu chủ Colin bỗng nhiên có một sức mạnh lạ thường – ngần ấy câu chuyện khiến cho gương mặt vốn tươi sáng của bà Sowerby phải mấy phen thất sắc.

"My word!" she said. "It was a good thing that little lass came to th' Manor. It's been th' makin' o' her an' th' savin, o' him. Standin' on his feet! An' us all thinkin' he was a poor half-witted lad with not a straight bone in him."

She asked a great many questions and her blue eyes were full of deep thinking.

"What do they make of it at th' Manor--him being so well an' cheerful an' never complainin'?" she inquired. "They don't know what to make of it," answered Dickon. "Every day as comes round his face looks different. It's fillin' out and doesn't look so sharp an' th' waxy color is goin'. But he has to do his bit o' complainin'," with a highly entertained grin.

"What for, i' Mercy's name?" asked Mrs. Sowerby.

Dickon chuckled.

- Lạy trời! – Bà thốt lên. – Qủa là một điềm lành khi cô gái bé bỏng đến với trang viên. Ông trời đã tạo ra cô ấy và cứu rỗi cậu ấy. Cậu ấy đã tự đứng lên được trên đôi chân của mình! Vậy mà tất cả chúng ta đều cho rằng cậu ấy là một đứa trẻ chậm hiểu tội nghiệp trong người không có nổi một mẩu xương thẳng thớm.

Bà còn hỏi nhiều điều khác nữa, trong đôi mắt xanh biếc của bà chan chứa những nỗi niềm sâu xa.

- Người trong trang viên phản ứng thế nào khi… cậu ấy khỏe mạnh, vui vẻ và không than vãn nữa? – Bà hỏi thăm.

- Họ không biết cái gì đã làm nên điều đó, - Dickon đáp. – Mỗi ngày cậu ấy một khác. Trông béo hẳn ra, không còn chửi rủa cay nghiệt như trước, và nước da như sáp cũng đang đổi màu. Nhưng thỉnh thoảng cậu ấy vẫn than vãn tý chút.

- Than vãn nỗi gì mới được chứ? – Bà Sowerby hỏi.

Dickon cười khúc khắc.

"He does it to keep them from guessin' what's happened. If the doctor knew he'd found out he could stand on his feet he'd likely write and tell Mester Craven. Mester Colin's savin' th' secret to tell himself. He's goin' to practise his Magic on his legs every day till his father comes back an' then he's goin' to march into his room an' show him he's as straight as other lads. But him an' Miss Mary thinks it's best plan to do a bit o' groanin' an' frettin' now an' then to throw folk off th' scent."

- Cậu ấy làm vậy cốt để mọi người khỏi đoán ra được những chuyện đang diễn ra. Nếu ông bác sĩ biết, ông ta sẽ khám phá ra ngay việc giờ đây cậu ấy đã đứng được, có khả năng ông ấy sẽ viết thư báo cho ông Craven. Cậu Colin muốn giữ lại bí mật này để cậu ấy tự kể ra cơ. Cậu ấy đang thực hành phép màu ngay trên đôi chân của mình, ngày này qua ngày khác, cho tới khi cha cậu ấy trở về, lúc ấy cậu ấy sẽ tiến thẳng vào phòng ông và cho ông thấy rằng mình cũng thẳng thớm khoẻ mạnh như bao đứa trẻ khác. Thế là cậu ấy và cô Mary nhất quyết rằng thỉnh thoảng phải rên rỉ và cáu kỉnh một chút để che mắt thiên hạ.

Mrs. Sowerby was laughing a low comfortable laugh long before he had finished his last sentence.

"Eh!" she said, "that pair's enjoyin' their-selves I'll warrant. They'll get a good bit o' actin' out of it an' there's nothin' children likes as much as play actin'. Let's hear what they do, Dickon lad." Dickon stopped weeding and sat up on his heels to tell her. His eyes were twinkling with fun.

Bà Sowerby khe khẽ cười, vẻ khoan khoái trước khi nó nói xong câu cuối cùng.

- Chà! Thế là cả hai cha con sẽ hưởng niềm vui đó, mẹ dám cược đấy. Cha con họ sẽ tha hồ mà hàn huyên, và đối với bọn trẻ thì không gì bằng được yêu thương vỗ về. Hãy xem họ sẽ làm gì, Dickon nhé.

Dickon ngừng tay gieo hạt giống, nó quỳ hẳn lên để nói chuyện với mẹ. Đôi mắt nó long lanh vì vui sướng.

"Mester Colin is carried down to his chair every time he goes out," he explained. "An' he flies out at John, th' footman, for not carryin' him careful enough. He makes himself as helpless lookin' as he can an' never lifts his head until we're out o' sight o' th' house. An' he grunts an' frets a good bit when he's bein' settled into his chair. Him an' Miss Mary's both got to enjoyin' it an' when he groans an' complains she'll say, `Poor Colin! Does it hurt you so much? Are you so weak as that, poor Colin?'--but th' trouble is that sometimes they can scarce keep from burstin' out laughin'. When we get safe into the garden they laugh till they've no breath left to laugh with. An' they have to stuff their faces into Mester Colin's cushions to keep the gardeners from hearin', if any of, 'em's about."

- Cậu Colin lúc nào cũng mang theo một cái ghế riêng mỗi khi ra ngoài, - nó giải thích. – Cậu ấy đã mắng anh John người hầu té tát vì đỡ cậu ấy không cẩn thận. Cậu ấy làm ra vẻ không có khả năng hoạt động nếu không được giúp đỡ, và đầu thì cứ cúi gằm hoặc gục gặc cho tới khi chúng con khuất hẳn tầm nhìn của người khác. Cậu ấy còn làm bộ nhăn nhó, rên la lúc bị đặt vào ghế nữa chứ. Cậu ấy và cô Mary, cả hai đều khoái trí cái trò đó lắm. Hễ cậu ấy rên rỉ, than vãn là cô ấy lại dỗ dành: “Tội nghiệp Colin! Cậu đau lắm à? Cậu đau yếu đến nỗi này ư, tội nghiệp cho cậu!” Thế nhưng có những lúc hai người khó lòng nín được cười. Khi cả bọn đã vào trong vườn yên ổn, mọi người cười rũ rượi tới mức không còn hơi sức đâu mà cười nữa. Ai nấy đều vùi mặt vào những tấm nệm của Colin để đám người làm vườn khỏi nghe thấy.

"Th' more they laugh th' better for 'em!" said Mrs. Sowerby, still laughing herself. "Good healthy child laughin's better than pills any day o' th' year. That pair'll plump up for sure."

- Cười càng nhiều càng tốt cho chúng! – Bà Sowerby nói mà bản thân vẫn còn chưa hết buồn cười. – Cười đùa còn giúp bọn trẻ khỏe mạnh hơn cả thuốc thang quanh năm. Đôi này chắc rồi sẽ phổng phao phải biết.

"They are plumpin' up," said Dickon. "They're that hungry they don't know how to get enough to eat without makin' talk. Mester Colin says if he keeps sendin' for more food they won't believe he's an invalid at all. Miss Mary says she'll let him eat her share, but he says that if she goes hungry she'll get thin an' they mun both get fat at once."

- Thì họ đang phổng phao lên mà mẹ, - Dickon nói. – Họ đói ngấu nghiến đến nỗi không biết làm thế nào để no bụng mà không bị bàn ra tán vào. Cậu Colin bảo nếu cậu ấy sai mang thêm thức ăn tới thì người ta sẽ không còn tin cậu ấy là người tàn tật nữa. Thấy vậy, cô Mary bèn bảo sẽ nhường cho cậu ấy phần của mình, nhưng cậu ấy bảo rằng nếu cô ấy bị đói, cô ấy sẽ gầy đi và cả hai sẽ không béo cùng nhau được.

Mrs. Sowerby laughed so heartily at the revelation of this difficulty that she quite rocked backward and forward in her blue cloak, and Dickon laughed with her.

"I'll tell thee what, lad," Mrs. Sowerby said when she could speak. "I've thought of a way to help 'em. When tha' goes to 'em in th' mornin's tha' shall take a pail o' good new milk an' I'll bake 'em a crusty cottage loaf or some buns wi' currants in 'em, same as you children like. Nothin's so good as fresh milk an' bread. Then they could take off th' edge o' their hunger while they were in their garden an' th, fine food they get indoors 'ud polish off th' corners."

Bà Sowerby thích thú trước sự tiết lộ chi tiết rắc rối này đến độ bà ấy cứ phá lên cười ngả nghiêng trong chiếc áo choàng rộng màu xanh, Dickon cùng cười theo mẹ.

- Mẹ sẽ kể cho con nghe chuyện này, nhóc ạ, - bà Sowerby bảo khi đã có thể cất lên thành lời. – Mẹ đã nghĩ ra cách để giúp họ. Sáng sáng khi con tới chỗ của họ con nên mang theo một xô sữa tươi thật ngon và mẹ sẽ nướng cho họ một ổ bánh mì “đúp” vỏ giòn tan, hoặc mấy cái bánh bao ngọt tròn nhỏ có nhân nho khô mà trẻ con thường thích. Chẳng có gì tốt bằng sữa tươi và bánh mì. May ra họ có thể đỡ đói lúc ở trong vườn.

"Eh! mother!" said Dickon admiringly, "what a wonder tha' art! Tha' always sees a way out o' things. They was quite in a pother yesterday. They didn't see how they was to manage without orderin' up more food--they felt that empty inside."

"They're two young 'uns growin' fast, an' health's comin' back to both of 'em. Children like that feels like young wolves an' food's flesh an' blood to 'em," said Mrs. Sowerby. Then she smiled Dickon's own curving smile. "Eh! but they're enjoyin' theirselves for sure," she said.

- Ôi! Mẹ! – Dickon thốt lên đầy vẻ thán phục. – Mẹ mới tuyệt vời làm sao! Mẹ lúc nào cũng biết nghĩ ra cách giải quyết. Hôm qua, mọi người đã đói quặn cả ruột. Qủa thật họ không biết xoay xở ra sao mà không cần lệnh mang thêm thức ăn tới, trong lúc bụng ai cũng trống rỗng.

- Hai đứa rồi sẽ mau lớn phải biết. Trẻ con cũng tựa như bầy sói con vậy. Đồ ăn với bọn chúng chẳng khác nào thịt sống cho bọn sói con. – Bà Sowerby nói. – Chà, chắc chắc lũ trẻ sẽ thích cho mà xem.

She was quite right, the comfortable wonderful mother creature--and she had never been more so than when she said their "play actin'" would be their joy. Colin and Mary found it one of their most thrilling sources of entertainment. The idea of protecting themselves from suspicion had been unconsciously suggested to them first by the puzzled nurse and then by Dr. Craven himself.

Bà hoàn toàn có lý, bà quả là một người mẹ tuyệt vời, nhất là còn lấy chuyện “giả bộ” của chúng làm niềm vui của mình. Colin và Mary thì thấy đó là một trò giải trí bậc nhất.

Ý nghĩ phải bảo vệ mình khỏi sự ngờ vực đã nảy ra một cách vô thức ngay từ buổi đầu, qua vẻ bối rối của cô bảo mẫu và rồi của chính bác sĩ Craven.

"Your appetite. Is improving very much, Master Colin," the nurse had said one day. "You used to eat nothing, and so many things disagreed with you."

"Nothing disagrees with me now" replied Colin, and then seeing the nurse looking at him curiously he suddenly remembered that perhaps he ought not to appear too well just yet. "At least things don't so often disagree with me. It's the fresh air."

- Cậu ăn ngon miệng hơn chứng tỏ cậu đang khỏe ra, cậu chủ Colin ạ. – Một hôm cô bảo mẫu nói. – Trước đây, cậu thường xuyên chẳng ăn gì, và có quá nhiều món chẳng vừa ý cậu.

- Bây giờ chẳng có gì không vừa ý tôi hết, - Colin trả lời.

Chợt thấy cô bảo mẫu đang nhìn mình một cách tò mò, nó bỗng nhớ ra có lẽ nó không nên tỏ ra khỏe mạnh như vậy,

- Ít ra không phải lúc nào mọi thứ cũng không vừa ý tôi. Đó là không khí trong lành.

"Perhaps it is," said the nurse, still looking at him with a mystified expression. "But I must talk to Dr. Craven about it."

"How she stared at you!" said Mary when she went away. "As if she thought there must be something to find out."

"I won't have her finding out things," said Colin. "No one must begin to find out yet."

When Dr. Craven came that morning he seemed puzzled, also. He asked a number of questions, to Colin's great annoyance.

- Có lẽ thế thật, - cô bảo mẫu đáp, mắt vẫn không rời khỏi Colin với vẻ mặt bí hiểm. – Tôi phải báo cho bác sĩ Craven chuyện này mới được.

- Cô ta cứ nhìn chòng chọc vào cậu mới kinh khiếp làm sao! – Mary nói tiếp khi cô bảo mẫu đã ra ngoài. – Cứ như thể cô ta cho rằng có gì đó cần phải khám phá ra.

- Tớ không cho phép cô ta khám phá gì hết, - Colin nói. – Không một ai được phép khám phá khám phiếc gì hết!

Sáng hôm ấy, khi bác sĩ Craven tới thăm, ông có vẻ hết sức bối rối. Ông hỏi đủ điều khiến Colin vô cùng khó chịu.

"You stay out in the garden a great deal," he suggested. "Where do you go?"

Colin put on his favorite air of dignified indifference to opinion.

"I will not let any one know where I go," he answered. "I go to a place I like. Every one has orders to keep out of the way. I won't be watched and stared at. You know that!"

- Cháu ở ngoài vườn quá lâu. Vậy cháu đã đi những đâu?

Trước câu hỏi đó, Colin có vẻ thờ ơ kiêu kỳ thường thấy ở nó.

- Cháu sẽ không cho phép bất kỳ ai được biết cháu đi những đâu. Cháu tới nơi nào mà cháu thích. Mọi người đã được lệnh phải tránh xa đường đi. Cháu không thích bị rình mò xoi mói. Chú biết điều đó rồi còn gì!

"You seem to be out all day but I do not think it has done you harm--I do not think so. The nurse says that you eat much more than you have ever done before."

"Perhaps," said Colin, prompted by a sudden inspiration, "perhaps it is an unnatural appetite."

"I do not think so, as your food seems to agree with you," said Dr. Craven. "You are gaining flesh rapidly and your color is better."

- Hình như cháu đã ở ngoài trời suốt ngày, nhưng chú không nghĩ điều đó có hại cho cháu. Cô bảo mẫu cho biết cháu ăn uống khỏe hơn trước rất nhiều.

- Có lẽ thế, - Colin đáp lại, một ý nghĩ thú vị chợt lóe lên trong đầu, - có lẽ đó là một sự thèm ăn thèm uống không bình thường chăng?

- Chú không nghĩ vậy, cái chính là đồ ăn hợp với khẩu vị của cháu. Cháu đã nhanh chóng có da có thịt, mà sắc diện cũng hồng hào hơn xưa.

"Perhaps--perhaps I am bloated and feverish," said Colin, assuming a discouraging air of gloom. "People who are not going to live are often--different." Dr. Craven shook his head. He was holding Colin's wrist and he pushed up his sleeve and felt his arm.

"You are not feverish," he said thoughtfully, "and such flesh as you have gained is healthy. If you can keep this up, my boy, we need not talk of dying. Your father will be happy to hear of this remarkable improvement."

- Nhưng có lẽ… có lẽ cháu đang húp híp lên và ngây ngây sốt, - nó làm ra vẻ chán nản, rầu rĩ. – Những người sắp chết thường thấy trong người… khang khác.

Bác sĩ Craven lắc đầu. Ông cầm lấy cổ tay Colin, vén cao tay áo rồi sờ nó.

- Cháu không sốt, - ông nói vẻ trầm ngâm, - có da có thịt như thế này là khỏe ra rồi. Nếu chúng ta cứ giữ được phong độ như thế, anh bạn trẻ ạ, thì đừng có nói gì đến chuyện chết chóc nữa. Cha cháu hẳn sẽ vô cùng hạnh phúc khi biết được sự cải thiện đáng kể này.

"I won't have him told!" Colin broke forth fiercely. "It will only disappoint him if I get worse again--and I may get worse this very night. I might have a raging fever. I feel as if I might be beginning to have one now. I won't have letters written to my father--I won't--I won't! You are making me angry and you know that is bad for me. I feel hot already. I hate being written about and being talked over as much as I hate being stared at!"

- Cháu không muốn ông ấy biết làm gì! – Colin thốt lên giận giữ. – Chỉ tổ làm cho ông thất vọng nếu cháu lại gầy yếu đi… mà cháu có thể nguy kịch ngay đêm nay cũng nên. Cháu cảm thấy một cơn sốt dữ dội đang bắt đầu ngay lúc này. Cháu không muốn có bất kỳ một bức thư nào được gửi cho cha cháu… cháu không muốn… không muốn! Cháu thấy bực bội trong người và chú thừa biết là việc này có hại cho cháu. Cháu thấy người đang sốt đùng đùng đây này. Cháu căm ghét việc người ta cứ thư từ qua lại rồi bản thân bị đem ra đàm tiếu cũng như ghét bị người ta nhìn chòng chọc vào mình vậy!

"Hush-h! my boy," Dr. Craven soothed him. "Nothing shall be written without your permission. You are too sensitive about things. You must not undo the good which has been done."

- Suỵt… uỵt! Anh bạn. - Bác sĩ vỗ về nó. – Không ai được viết gì nếu không có sự cho phép của cháu. Cháu quả là nhạy cảm về mọi thứ. Cháu không được hủy hoại những gì tốt đẹp mà cháu đã có được.

He said no more about writing to Mr. Craven and when he saw the nurse he privately warned her that such a possibility must not be mentioned to the patient.

"The boy is extraordinarily better," he said. "His advance seems almost abnormal. But of course he is doing now of his own free will what we could not make him do before. Still, he excites himself very easily and nothing must be said to irritate him." Mary and Colin were much alarmed and talked together anxiously. From this time dated their plan of "play actin'."

Ông không bàn thêm việc viết thư cho ông Craven nữa, rồi vừa thấy cô bảo mẫu ông liền vội dặn riêng cô những việc như vậy không được nhắc đến trước mặt người bệnh.

- Cậu ấy khá lên rất nhiều. Sự tiến bộ của cậu ấy thật khác thường. Cậu ấy đang tự nguyện tuân thủ những gì trước đây chúng ta đã không thể ép cậu ấy làm. Hiện tại, cậu ấy vẫn còn rất dễ bị kích động, nên tuyệt nhiên không ai được nói gì chọc tức cậu ấy, nghe không. Cả Mary và Colin đều vô cùng hoảng, chúng lo lắng bàn bạc với nhau. Từ lúc này, chúng quyết định phải “đóng kịch”.

"I may be obliged to have a tantrum," said Colin regretfully. "I don't want to have one and I'm not miserable enough now to work myself into a big one. Perhaps I couldn't have one at all. That lump doesn't come in my throat now and I keep thinking of nice things instead of horrible ones. But if they talk about writing to my father I shall have to do something."

- Có lẽ tớ buộc phải giả bộ lên cơn, - Colin nói vẻ buồn rầu.

- Tớ chẳng còn muốn chuyện đó chút nào. Giờ đây tớ đâu còn khốn khổ để mà đem thân ra làm cái trò ấy. Có lẽ tớ không thể làm ra nổi một cơn giận nào hết. Cổ họng tớ bây giờ có muốn gào cũng chẳng được vì tớ chi nghĩ đến những chuyện tốt đẹp chứ không bị ám ảnh bởi những thứ khủng khiếp như trước nữa. Nhưng nếu họ tính chuyện viết thư cho cha tớ thì tớ sẽ ra tay.

He made up his mind to eat less, but unfortunately it was not possible to carry out this brilliant idea when he wakened each morning with an amazing appetite and the table near his sofa was set with a breakfast of home-made bread and fresh butter, snow-white eggs, raspberry jam and clotted cream. Mary always breakfasted with him and when they found themselves at the table--particularly if there were delicate slices of sizzling ham sending forth tempting odors from under a hot silver cover--they would look into each other's eyes in desperation.

Nó quyết định từ giờ phải ăn ít đi, nhưng bất hạnh thay, thật khó mà thực hiện cái ý tưởng tuyệt vời này vì mới bảnh mắt ra nó đã thèm ăn lắm rồi. Trên chiếc bàn kê gần ghế sopha đã kê sẵn bữa điểm tâm gồm bánh mì tự làm với bơ tươi, những quả trứng trắng như tuyết, mứt mâm xôi, và kem sữa. Mary thường ăn sáng cùng với nó, và hễ gặp nhau bên bàn ăn - nhất là hôm nào có mấy lát giăm bông ngon lành còn xèo xèo và tỏa mùi ngào ngạt – cà chúng lại đưa mắt nhìn nhau tuyệt vọng.

"I think we shall have to eat it all this morning, Mary," Colin always ended by saying. "We can send away some of the lunch and a great deal of the dinner."

But they never found they could send away anything and the highly polished condition of the empty plates returned to the pantry awakened much comment.

"I do wish," Colin would say also, "I do wish the slices of ham were thicker, and one muffin each is not enough for any one."

"It's enough for a person who is going to die," answered Mary when first she heard this, "but it's not enough for a person who is going to live. I sometimes feel as if I could eat three when those nice fresh heather and gorse smells from the moor come pouring in at the open window."

- Tớ nghĩ chúng mình chén hết chỗ này cả sáng nay cũng không hết, Mary ạ, - Colin luôn kết thúc bằng cách nói như vậy. – Có lẽ chúng mình nên bớt mấy thứ sang bữa trưa và bỏ hẳn bữa tối mất.

Nhưng chúng chẳng bỏ món nào bao giờ, không những vậy chúng còn vét cho mấy chiếc đĩa sạch bóng thức ăn mới chịu thôi.

- Tớ chỉ ước, - Colin cuối cùng lên tiếng, - tớ chỉ ước mấy lát giăm bông cắt dầy hơn, và mỗi người một cái bánh xốp thì chẳng bõ miệng.

- Ừ, với một kẻ sắp ngoẻo thì thừa là đằng khác, - Mary đáp khi lần đầu nghe thấy câu ấy. – Nhưng với một người sắp sống thì chẳng bõ bèn. Đôi khi, vào những lúc mùi hương thơm mát của kim tước và thạch thảo từ ngoài đồng hoang tràn về qua cửa sổ để ngỏ, tớ cảm thấy tớ có thể chán bay ba chiếc bánh.

The morning that Dickon--after they had been enjoying themselves in the garden for about two hours--went behind a big rosebush and brought forth two tin pails and revealed that one was full of rich new milk with cream on the top of it, and that the other held cottage-made currant buns folded in a clean blue and white napkin, buns so carefully tucked in that they were still hot, there was a riot of surprised joyfulness. What a wonderful thing for Mrs. Sowerby to think of! What a kind, clever woman she must be! How good the buns were! And what delicious fresh milk!

Sáng hôm ấy, sau khi cả bọn đã cùng nhau vui đùa ngoài vườn chừng hai tiếng, Dickon bước ra sau một khóm hồng lớn, xách ra hai cái xô bằng thiếc, một xô đầy ắp sữa tươi béo ngậy với nguyên một lớp kem phủ lên trên, còn xô kia đựng những chiếc bánh ngọt tròn nhân nho được làm ngay tại ngôi nhà gianh, được lèn chặt vào nhau trong một chiếc khăn màu xanh trắng sạch tinh, đến nỗi khi mang đến nơi chúng vẫn còn nóng hôi hổi. Hai đứa kia hò reo vì ngạc nhiên và vui sướng. Bà Sowerby đã nghĩ ra một việc kỳ diệu biết bao! Bà quả là người phụ nữ thông minh và nhân hậu! Những chiếc bánh ngọt thật hấp dẫn biết mấy, lại thêm món sữa tươi tuyệt vời nữa chứ!

"Magic is in her just as it is in Dickon," said Colin. "It makes her think of ways to do things--nice things. She is a Magic person. Tell her we are grateful, Dickon--extremely grateful." He was given to using rather grown-up phrases at times. He enjoyed them. He liked this so much that he improved upon it.

"Tell her she has been most bounteous and our gratitude is extreme."

And then forgetting his grandeur he fell to and stuffed himself with buns and drank milk out of the pail in copious draughts in the manner of any hungry little boy who had been taking unusual exercise and breathing in moorland air and whose breakfast was more than two hours behind him.

- Phép nhiệm màu có trong bà, chẳng khác nào Dickon, - Colin bảo – Nó giúp bà nghĩ ra cách làm đủ mọi điều tốt đẹp. Bà là một con người kỳ diệu. Cậu hãy về thưa với mẹ là chúng tớ rất biết ơn bà, Dickon, vô cùng biết ơn.

Nó dùng đến một loạt cụm từ ra dáng người lớn lắm và tỏ ra rất thích thú. Nó thích thú đến độ còn đưa đẩy thêm vài lời:

- Cậu hãy thưa với bà rằng bà là người hào phóng nhất và lòng biết ơn của bọn tớ là vô tận.

Sau đó, dường như quên cả sự đường bệ của mình, nó ngồi bệt xuống, ngốn liền mấy cái bánh ngọt và nốc một hơi hết sạch sữa rót từ trong xô, như một thằng bé bị đói ăn từ lâu, ấy là chưa kể nó vừa ăn điểm tâm hai giờ trước đó.

This was the beginning of many agreeable incidents of the same kind. They actually awoke to the fact that as Mrs. Sowerby had fourteen people to provide food for she might not have enough to satisfy two extra appetites every day. So they asked her to let them send some of their shillings to buy things.

Đây chính là sự mở đầu cho những rắc rối dễ chịu sau này. Trên thực tế, chúng nhận ra một điều là gia đình bà Sowerby có mười bốn miệng ăn cả thảy. Vì vậy, rất có thể bà không đủ khả năng đáp ứng hai suất ăn thêm mỗi ngày. Thế là chúng đề nghị bà cho phép gửi ít tiền riêng của chúng để phần nào đỡ đần bà.

Dickon made the stimulating discovery that in the wood in the park outside the garden where Mary had first found him piping to the wild creatures there was a deep little hollow where you could build a sort of tiny oven with stones and roast potatoes and eggs in it. Roasted eggs were a previously unknown luxury and very hot potatoes with salt and fresh butter in them were fit for a woodland king --besides being deliciously satisfying. You could buy both potatoes and eggs and eat as many as you liked without feeling as if you were taking food out of the mouths of fourteen people.

Dickon có một khám phá đầy thú vị là trong rừng cây ở công viên phía ngoài khu vườn, nơi Mary lần đầu gặp nó thổi sáo bên mấy con thú hoang, có một cái hố hơi sâu, nếu đắp đá xây thành một cái lò nhỏ dùng để nướng khoai tây hoặc nướng trứng thì tuyệt. Trứng nướng vốn là một thứ xa xỉ chưa từng được biết đến trước đây, còn món khoai nướng nóng hổi ăn cùng với muối hoặc bơ tươi thì thật xứng đáng với một ông vua vùng rừng, lại còn ngon miệng và no nê nữa chứ. Ta có thể mua cả trứng lẫn khoai tây mà chén bao nhiêu tùy thích, khỏi phải áy náy là mình đã lấy bớt khẩu phần ăn của mười bốn con người.

Every beautiful morning the Magic was worked by the mystic circle under the plum-tree which provided a canopy of thickening green leaves after its brief blossom-time was ended. After the ceremony Colin always took his walking exercise and throughout the day he exercised his newly found power at intervals. Each day he grew stronger and could walk more steadily and cover more ground. And each day his belief in the Magic grew stronger--as well it might. He tried one experiment after another as he felt himself gaining strength and it was Dickon who showed him the best things of all.

Vào một buổi sáng đẹp trời, phép màu lại được thực hiện bởi một vòng tròn huyền bí dưới tán cây mận xanh um sau khi kết thúc kì đơm hoa ngắn ngủi. Sau nghi lễ, Colin luôn tập đi bộ. Nhờ suốt ngày chịu khó luyện tập, nên nó tìm thấy một sức mạnh mới. Mỗi ngày nó một khỏe ra, có thể bước đi ngay ngắn hơn, sải chân dài hơn. Và mỗi ngày niềm tin của nó vào phép màu một trở nên mạnh mẽ. Nó thử hết thí nghiệm này sang thí nghiệm khác, mỗi lần như vậy nó cảm thấy mình đang đạt tới một sức mạnh thực sự. Và Dickon chính là người chỉ bảo cho nó những điều hay nhất.

"Yesterday," he said one morning after an absence, "I went to Thwaite for mother an' near th' Blue Cow Inn I seed Bob Haworth. He's the strongest chap on th' moor. He's the champion wrestler an' he can jump higher than any other chap an' throw th' hammer farther. He's gone all th' way to Scotland for th' sports some years. He's knowed me ever since I was a little 'un an' he's a friendly sort an' I axed him some questions. Th' gentry calls him a athlete and I thought o' thee, Mester Colin, and I says, `How did tha' make tha' muscles stick out that way, Bob? Did tha' do anythin' extra to make thysel' so strong?' An' he says 'Well, yes, lad, I did. A strong man in a show that came to Thwaite once showed me how to exercise my arms an' legs an' every muscle in my body. An' I says, `Could a delicate chap make himself stronger with 'em, Bob?' an' he laughed an' says, 'Art tha' th' delicate chap?' an' I says, `No, but I knows a young gentleman that's gettin' well of a long illness an' I wish I knowed some o' them tricks to tell him about.' I didn't say no names an, he didn't ask none. He's friendly same as I said an' he stood up an' showed me good-natured like, an' I imitated what he did till I knowed it by heart."

- Hôm qua, - một buổi sáng, nó bảo với Colin sau một hôm vắng mặt, - mẹ sai tôi sang bên làng Thwaite và gần quán trọ “Qụa xanh” tôi trông thấy Bob Haworth. Đấy là anh chàng khỏe nhất vùng đồng hoang này. Anh ta là một đô vật vô địch và có thể nhảy cao hơn bất kì gã trai nào khác, ném búa cũng hơn người. Anh ta từng đi khắp các nẻo đường Scotland để tỉ thí các môn thể thao trong mấy năm liền. Anh ta biết tôi từ khi tôi còn bé, và cũng thuộc dạng thân thiện dễ gần nên tôi được dịp hỏi han anh ta dăm ba câu. Những người trung lưu ở đây vẫn gọi anh ta là vận động viên điền kinh, và tôi nghĩ ngay đến cậu, cậu chủ Colin ạ, tôi bèn hỏi: “Anh làm thế nào mà cơ bắp cuồn cuộn lên thế, Bob? Anh có cách tập luyện gì thêm để có cơ thể khỏe như vậy?” Và anh ta đáp lại: “Ầy, có đấy, anh bạn. Có lần một lực sĩ trong một bận đến Thwaite biểu diễn đã chỉ cho tôi cách tập tành cho chân, tay và mọi cơ bắp trong cơ thể nổi cuồn cuộn cả lên.” Tôi bèn hỏi: “Liệu một gã gầy gò mảnh dẻ có thể tự luyện tập theo cách đó được không anh Bob?” Anh ta bật cười và nói: “Một gã gầy nhẳng à?”, tôi bèn bảo: “Không, nhưng tôi có biết một quý ngài trẻ tuổi đang lại sức sau một trận ốm dài, nên tôi tìm hiểu vài điều nhỡ khi phải kể cho ông ta nghe”. Tôi không nêu tên người mà anh ta cũng chẳng hỏi. Anh ta vốn tính tình thân thiện liền đứng phắt dậy, và tôi làm theo mọi thứ anh ta dậy cho tới lúc nhập tâm.

Colin had been listening excitedly.

"Can you show me?" he cried. "Will you?"

"Aye, to be sure," Dickon answered, getting up. "But he says tha' mun do 'em gentle at first an' be careful not to tire thysel'. Rest in between times an' take deep breaths an' don't overdo."

"I'll be careful," said Colin. "Show me! Show me! Dickon, you are the most Magic boy in the world!"

Colin lắng nghe với vẻ đầy kích động.

- Anh có thể chỉ dẫn cho tôi được không? – Nó kêu lên – Được không cậu?

- Được, được chứ, - Dickon trả lời rồi đứng lên

- Nhưng anh ấy bảo ban đầu phải tập các động tác nhẹ nhàng và đừng quá sức. Cần nghỉ ngơi giữa các lần tập, thở cho sâu và đứng gắng sức quá.

- Tôi sẽ cẩn thận mà, - Colin bảo. – Chỉ cho tôi đi! Chỉ cho tôi đi! Dickon, anh quả là người bạn nhiều phép màu nhất trên đời!

Dickon stood up on the grass and slowly went through a carefully practical but simple series of muscle exercises. Colin watched them with widening eyes. He could do a few while he was sitting down. Presently he did a few gently while he stood upon his already steadied feet. Mary began to do them also. Soot, who was watching the performance, became much disturbed and left his branch and hopped about restlessly because he could not do them too.

Dickon đứng dậy trên bãi cỏ, rồi chậm rãi làm một loạt các động các cơ bắp đơn giản nhưng kỹ lưỡng. Colin mở mắt thao láo nhìn cho thật kĩ. Trong lúc vẫn ngồi, nó bắt chước làm theo. Dần dà nó cũng làm được mấy động tác nhẹ nhàng mà chân vẫn đứng vững. Mary bắt đầu làm theo. Bồ hóng từ nãy vẫn quan sát màn trình diễn đó. Nó trở nên bối rối và rời khỏi cành cây đang ngồi, rồi nhảy quanh với vẻ bồn chồn bởi nó không biết tập cùng cả bọn như thế nào.

From that time the exercises were part of the day's duties as much as the Magic was. It became possible for both Colin and Mary to do more of them each time they tried, and such appetites were the results that but for the basket Dickon put down behind the bush each morning when he arrived they would have been lost. But the little oven in the hollow and Mrs. Sowerby's bounties were so satisfying that Mrs. Medlock and the nurse and Dr. Craven became mystified again. You can trifle with your breakfast and seem to disdain your dinner if you are full to the brim with roasted eggs and potatoes and richly frothed new milk and oatcakes and buns and heather honey and clotted cream.

Kể từ lúc ấy, những động tác thể dục đã trở thành một phần trong các nhiệm vụ hàng ngày của chúng, cũng như phép màu. Cả Colin và Mary đều có thể tập nhiều hơn mỗi khi cần cố gắng, và kết quả là chúng ăn ngon miệng đến nỗi đồ ăn trong chiếc giỏ Dickon đem đến đặt sau mỗi bụi cây mỗi sáng đều được chung chén sạch. Vậy nhưng chiếc lò nhỏ trong hố và các món quà hào phóng của bà Sowerby lại đem tới sự no nê mãn nguyện cho bọn trẻ đến nỗi bà Medlock, cô bảo mẫu và bác sĩ Craven một lần nữa phải hoang mang. Người ta có thể xem thường bữa sáng và coi nhẹ bữa tối một khi đã chén đầy trứng nướng với khoai tây, rồi là sữa tươi mới vắt còn sủi bọt béo ngậy, sau đó còn ngốn đẫy bánh yến mạch cùng bánh ngọt, mật hoa thạch thảo và cả kem sữa nữa.

"They are eating next to nothing," said the nurse. "They'll die of starvation if they can't be persuaded to take some nourishment. And yet see how they look."

"Look!" exclaimed Mrs. Medlock indignantly. "Eh! I'm moithered to death with them. They're a pair of young Satans. Bursting their jackets one day and the next turning up their noses at the best meals Cook can tempt them with. Not a mouthful of that lovely young fowl and bread sauce did they set a fork into yesterday--and the poor woman fair invented a pudding for them--and back it's sent. She almost cried. She's afraid she'll be blamed if they starve themselves into their graves."

- Đến bữa hai cô cậu chẳng chịu ăn gì hết, - cô bảo mẫu nói. – Cả hai sẽ chết vì đói nếu không được ai khuyển phải ăn uống cho đủ dinh dưỡng. Cứ nhìn họ thì biết.

- Nhìn thì đủ biết! – Bà Medlock thốt lên đầy phẫn nộ. – Chà chà! Tôi cũng đến chết vì chúng mất thôi. Chúng là đôi nhóc sa tăng chứ chẳng chơi. Có bữa thì ăn đến vỡ bụng, có bữa lại chỉ hếch mũi lên với cả những đồ ăn ngon lành của bà bếp. Ngày hôm qua, chúng chẳng thèm đụng đĩa món chim non với nước sốt đấy thôi. Người đàn bà tội nghiệp còn sáng chế ra cả một chiếc bánh put ding cho chúng, vậy mà cũng bị trả lại. Bà ấy la hoảng lên, chỉ sợ phải tội nếu để chúng đói lép bụng cho tới khi chui vào mồ.

Dr. Craven came and looked at Colin long and carefully, He wore an extremely worried expression when the nurse talked with him and showed him the almost untouched tray of breakfast she had saved for him to look at--but it was even more worried when he sat down by Colin's sofa and examined him. He had been called to London on business and had not seen the boy for nearly two weeks. When young things begin to gain health they gain it rapidly. The waxen tinge had left, Colins skin and a warm rose showed through it; his beautiful eyes were clear and the hollows under them and in his cheeks and temples had filled out. His once dark, heavy locks had begun to look as if they sprang healthily from his forehead and were soft and warm with life. His lips were fuller and of a normal color. In fact as an imitation of a boy who was a confirmed invalid he was a disgraceful sight. Dr. Craven held his chin in his hand and thought him over.

Bác sĩ Craven đến thăm bệnh tình cho Colin khá lâu và cẩn thận. Ông có vẻ hết sức lo lắng khi cô bảo mẫu kể lại mọi chuyện và chỉ cho ông xem chiếc khay đựng bữa điểm tâm hầu như chưa ai đụng tới, mà cô chưa thu dọn để ông chứng kiến. Nhưng ông còn thấy lo hơn lúc ngồi xuống ghế sofa của Colin để khám cho nó. Ông vừa được mời về Luân Đôn vì mấy công chuyện gấp, nên gần hai tuần lễ ông không gặp thằng bé. Bọn trẻ mà lấy lại sức thì nhanh lắm. Màu sáp phớt nhẹ trên làn da của Colin đã biến mất, thay vào đó là vẻ ửng hồng ấm ấp; đôi mắt vốn đã đẹp của nó nay sáng ngời, trong veo và sâu thẳm, hai bầu má và hai bên thái dương giờ nom đầy đặn hẳn ra. Những lọn tóc dày nặng và đen nhánh trên vầng trán nó trông thật mềm mại, ấm áp và đầy sức sống. Đôi môi nó cũng đầy mọng lên và có sắc màu tự nhiên. Trên thực tế, với cái vẻ ngoài giả vờ là một cậu bé đã bị khẳng định là tàn tật, nó quả là một hình ảnh đáng hổ thẹn. Bác sĩ Craven đưa tay nâng cầm nó lên, vẻ suy nghĩ.

"I am sorry to hear that you do not eat any- thing," he said. "That will not do. You will lose all you have gained --and you have gained amazingly. You ate so well a short time ago."

"I told you it was an unnatural appetite," answered Colin.

Mary was sitting on her stool nearby and she suddenly made a very queer sound which she tried so violently to repress that she ended by almost choking.

"What is the matter?" said Dr. Craven, turning to look at her.

Mary became quite severe in her manner.

"It was something between a sneeze and a cough," she replied with reproachful dignity, "and it got into my throat."

"But," she said afterward to Colin, "I couldn't stop myself. It just burst out because all at once I couldn't help remembering that last big potato you ate and the way your mouth stretched when you bit through that thick lovely crust with jam and clotted cream on it."

"Is there any way in which those children can get food secretly?" Dr. Craven inquired of Mrs. Medlock.

- Chú lấy làm tiếc khi nghe nói cháu chẳng chịu ăn uống gì hết. Điều đó là không nên. Như vậy cháu sẽ mất tất cả những gì cháu đã đạt được một cách đáng kinh ngạc này. Mấy bữa trước cháu ăn khá lắm cơ mà.

- Cháu chẳng bảo chú đó là một kiểu ngon miệng không bình thường là gì, - Colin bảo.

Mary đang ngồi trên chiếc ghế đẩu cạnh đấy, thình lình phát ra một tiếng âm thanh vô cùng kỳ quặc mà nó đã hết sức kiềm chế đến nỗi gần như ngạt thở.

- Có chuyện gì thế? – Bác sĩ Craven hỏi rồi quay phắt sang nhìn nó. Mặt Mary đanh lại.

- Một cái gì đó giữa hắt hơi và ho, - nó đáp lại với vẻ kệnh kiệu, - nó ở tận trong cổ họng của cháu.

- Nhưng, - nó quay sang bảo Colin, - tớ không sao kìm nổi. Tự nó cứ bật ra. Mà này, tớ không khỏi nhớ đến củ khoai tây to tướng cuối cùng mà cậu chén, và cái cách cậu ngoác mồm ra nuốt chửng lát bánh mì kẹp giăm bông phết kem đặc.

- Mấy đứa nhóc này không có cách bí mật nào đó để kiếm được thức ăn đấy chứ? – Bác sĩ Craven căn vặn bà Medlock.

"There's no way unless they dig it out of the earth or pick it off the trees," Mrs. Medlock answered. "They stay out in the grounds all day and see no one but each other. And if they want anything different to eat from what's sent up to them they need only ask for it."

"Well," said Dr. Craven, "so long as going without food agrees with them we need not disturb ourselves. The boy is a new creature."

"So is the girl," said Mrs. Medlock. "She's begun to be downright pretty since she's filled out and lost her ugly little sour look. Her hair's grown thick and healthy looking and she's got a bright color. The glummest, ill-natured little thing she used to be and now her and Master Colin laugh together like a pair of crazy young ones. Perhaps they're growing fat on that."

"Perhaps they are," said Dr. Craven. "Let them laugh."

- Làm gì có cách nào, trừ phi chúng đào từ dưới hố lên hoặc hái từ trên cây xuống, bà Medlock trả lời. – Chúng ở ngoài trời suốt ngày, chẳng hề gặp ai ngoài hai đứa với nhau. Vả lại, nếu chúng muốn bất kể thức gì khác ngoài những món đã dọn ra thì chúng chỉ cần gọi một tiếng là có ngay.

- Thôi được rồi, - bác sĩ Craven bảo, - miễn là việc đi ra ngoài mà không ăn uống gì làm chúng hài lòng thì chúng ta chẳng nên bận tâm làm gì. Thằng bé bây giờ là một đứa khác hẳn trước rồi.

- Con bé kia cũng vậy, - bà Medlock nói. – Nó bắt đầu xinh ra kể từ khi người nó đầy đặn lên và mất vẻ quàu quạu khó chịu. Ngay cả mái tóc nó cũng dài và dầy dặn hơn, sắc diện thì sáng sủa. Trước là một con nhóc cau có xấu tính, giờ thì nó và cậu chủ Colin lúc nào cũng cười với nhau như một cặp phát rồ. Có lẽ cả hai sẽ béo lên vì thế.

- Có thể lắm, - bắc sĩ Craven bảo. – Cứ để cho chúng cười!


Translated by nguyen tuan khanh



MOVIE: 01:12:00 - 01:18:00

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn