MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Saturday, November 26, 2011

The Ten Commandments Mười Điều Răn

The Ten Commandments

Mười Điều Răn

And God spoke all these words:

“I am the Lord your God, who brought you out of Egypt, out of the land of slavery. You shall have no other gods before me.

Và Chúa Trời đã nói toàn bộ những lời sau:

“Ta là Chúa, Đức Chúa Trời của con, người đã đưa con ra khỏi Ai Cập, thoát khỏi mảnh đất nô lệ. Trước ta, con đừng công nhận bất kỳ thánh thần nào khác.

You shall not make for yourself an idol in the form of anything that is in heaven above or on the earth beneath or in the water below. You shall not bow down to them or worship them; for I, the Lord your God, am a jealous God, punishing the children for the sin of the fathers to the third and the fourth generation of those who hate me, but showing love to a thousand generations of those who love me and keep my commandments.

Con đừng dựng tượng theo hình bất kỳ vật gì trên trời hay dưới đất hay trong nước. Con đừng quỳ lạy những hình tượng như vậy, cũng đừng thờ phụng các tượng ấy; vì ta, Chúa, Đức Chúa Trời của con, là Đức Chúa Trời cả ghen, trừng phạt đến ba bốn đời con cháu vì tội lỗi của cha ông đối với những kẻ ghét ta, nhưng cũng thể hiện tình yêu đến ngàn đời đối với những người yêu ta và giữ theo các điều răn của ta.

You shall not misuse of the name of the Lord your God, for the Lord will not hold anyone guiltless who misuses his name.

Con đừng dùng tên Chúa, Đức Chúa Trời của con sai mục đích; vì Chúa sẽ không bỏ qua cho người nào dùng tên của Ngài sai mục đích.

Remember the Sabbath day by keeping it holy. Six days you shall labour and do all your work, but the seventh day is a Sabbath to the Lord your God. On it you shall not do any work, neither you, nor your son or your daughter, nor your manservant or maidservant, nor your animals, nor the alien within your gates. For in six days the Lord made the heaven and the earth, the sea, and all that is in them, but rested the seventh day. Therefore the Lord blessed the Sabbath day and made it holy.

Hãy nhớ ngày Sabbath bằng cách xem đó là ngày thánh. Trong sáu ngày con sẽ lao động và làm mọi việc của mình, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sabbath để thờ phụng Chúa, Đức Chúa Trời của con. Vào ngày này, con đừng làm bất kỳ việc gì, con, con trai, con gái của con, đầy tớ trai và gái của con, súc vật của con, cũng như người lạ nào đó đang ở trong nhà con đều sẽ không làm việc. Vì trong sáu ngày, Chúa đã tạo nên thiên đường, mặt đất, biển và mọi thứ trên và trong đó, nhưng Ngài đã nghỉ ngày thứ bảy. Do đó Chúa đã ban phúc cho ngày Sabbath và giữ ngày này làm ngày thánh.

Honour your father and your mother, so that you might live long in the land the Lord your God is giving you.

You shall not murder.

You shall not commit adultery.

You shall not steal.

You shall not bear false testimony against your neighbour.

Hãy hiếu kính cha mẹ con để con có thể được sống lâu trên mảnh đất mà Chúa, Đức Chúa Trời của con đang dành cho con.

Con đừng giết người.

Con đừng phạm tội tà dâm.

Con đừng trộm cướp.

Con đừng làm chứng sai gây hại cho người xung quanh mình.

You shall not covet your neighbour’s house. You shall not covet your neighbour’s wife, or manservant or maidservant, his ox or donkey, or anything that belongs to your neighbour.”

Con đừng ham muốn nhà của người xung quanh mình. Con đừng ham muốn vợ của người xung quanh mình, đầy tớ trai hay gái, bò hay lừa, hay bất kỳ vật gì thuộc về người xung quanh mình.”

(From Holy Bible, New International Version published by International Bible Society, 1984)

Translated by Ngô Quỳnh Linh dịch

BEFORE THE NEXT TEARDROPS FALL – TRƯỚC KHI GIỌT LỆ RƠI - FREDDY FENDER




If he brings you happiness
Then i wish you all the best
It’s your happiness that matters most of all
But if he ever breaks your heart
If the teardrops ever start
I’ll be there before the next teardrop falls
Si te quire de verdad
Y te da felicidad
Te deseo lo mas bueno pa’los dos
Pero si te hace llorar
A mime puedes hablar
Y estare contigo cuando treste estas
I’ll be there anytime
You need me by your side
To drive away every teardrop that you cried
And if he ever leaves you blue
Just remember, I love you
And I’ll be there before the next teardrop falls
And I’ll be there before the next teardrop falls

Family vows to live for dying boys Gia đình nguyện sống cho những đứa con…


Family vows to live for dying boys

Gia đình nguyện sống cho những đứa con sắp…



Love, marriage and a family! That was our dream, and we believed it came true.

Our family began August 23, 2006 with an amazing little boy, Jason Jeffrey, and then came our little prince Justin Jay, on February 25, 2009. These two little boys became our new love, a joy completely unimaginable. We hugged, kissed, played, read, giggled, tickled, and celebrated life like a normal family. Our perfect family, living out our dream, so we thought!

Tình yêu, hôn nhân và gia đình!. Đó là giấc mơ của chúng tôi và chúng tôi đã tin rằng nó đã thành sự thật.

Gia đình của chúng tôi bắt đầu vào ngày 23 tháng 6 năm 2006, ngày mà chúng tôi chào đón cậu con trai bé nhỏ tuyệt vời, Jason Jeffrey và sau đó là chàng hoàng tử xinh xắn Justin Jay, ngày 25 tháng 1 năm 2009. Hai đứa con bé bỏng trở thành tình yêu mới của chúng tôi, một niềm vui hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi. Chúng tôi cùng bồng bế, hôn hít, chơi đùa với nhau, đọc sách cho nhau nghe, cười đùa, cù nhau, cùng kỉ niệm các ngày lễ trong đời như bao gia đình bình thường khác. Gia đình hoàn hảo của chúng tôi, sống thật giấc mơ của chúng tôi, chúng tôi tưởng thế.

January 2011 our normal life became anything but. Our dream turned into the worst possible nightmare a parent could have. We received news that shattered our family as well as our life long dreams. Our perfect little boys were diagnosed with an extremely rare and fatal genetic disease known as mucopolysaccharidoses-2, also known as MPS II or Hunter‘s syndrome.

Tháng 1 năm 2011, cuộc sống của chúng tôi trở lên hoàn toàn không bình thường nữa. Giấc mơ của chúng tôi đã bị biến thành một cơn ác mộng tồi tệ nhất mà một người cha, người mẹ có thể phải trải qua. Chúng tôi nhận được hung tin đã đập vỡ gia đình tôi và cả giấc mơ một đời của chúng tôi. Hai đứa con trai bé bỏng tuyệt vời của chúng tôi đều được chẩn đoán là bị một căn bệnh di truyền chết người cực kỳ hiếm hoi, tên là mucopolysaccharidoses-2, còn gọi là MPS II hay Hội chứng Hunter

How could this be? How could both our sons have this fatal disease? Questions and fears ran rapid through our household!

Điều này là thế nào? Làm sao mà cả hai đứa con trai tôi lại mắc phải căn bệnh chết người này?. Những câu hỏi, những nỗi sợ hãi cứ lan nhanh trong gia đình.

“Why us?” “ Why them?”

“How could this be happening to our little boys?”

“Why can’t life “let them be little?”

“How do we LIVE?”

“Is this really happening?”

“How many good years do we have left?”

…and of course:

“Tại sao lại là chúng ta ?” “Tại sao lại là con chúng ta?”

“ Làm sao mà điều này lại xảy ra với những đứa con bé bỏng của tôi được chứ”.

“Tại sao cuộc đời không để chúng mãi mãi ‘bé bỏng như thế”

« Chúng tôi phải SỐNG thế nào đây? »

“Có phải điều này đang thực sự diễn ra không?”

“Chúng tôi còn lại bao nhiêu năm tháng hạnh phúc nữa?”

…và dĩ nhiên

“How do we possibly even think of our life WITHOUT these little guys?”

Our world has been turned upside down. We no longer have the freedom to allow our 2- and 4-year-olds to just be little boys. Their lives have become doctor visit after doctor visit, MRIs, blood tests, surgeries, weekly four-hour IV treatments, going to the hospital, physical-speech- and occupational therapies, visits to North Carolina Medical Center every six months, and countless checkups, while we constantly seek family support and help with our 6-month-old little girl .

“Làm sao chúng tôi có thể nghĩ về cuộc sống của chúng tôi mà KHÔNG CÓ những chàng trai bé nhỏ kia?”

Thế giới của chúng tôi bị đảo lộn. Chúng tôi không còn được tự do để cho đứa con 2 tuổi và 4 tuổi của mình chỉ là những đứa trẻ nữa. Cuộc sống của chúng là cứ đến bác sĩ rồi lại đến bác sĩ, chụp ảnh MRI, những cuộc thử máu, phẫu thuật, điều trị bằng IV (bơm thuốc trực tiếp vào huyết quản) 4 giờ mỗi tuần, đến bệnh viện, tập cử động- nói – và—sinh hoạt, đến Trung tâm y tế Bắc Carolina 6 tháng một lần, và vô số những cuộc kiểm tra khác, trong khi đó chúng tôi liên tục phải tìm kiếm sự hỗ trợ và giúp đỡ của gia đình để chăm sóc dùm đứa con gái mới 6 tháng tuổi.

As parents you would think hearing the words “your boys hopefully will live to age 15” is the worst, but what leaves us unable to breathe is having to sit back and wait for the days Justin and Jason’s brain and body parts deteriorate so significantly they will lose all communication, and the ability to walk. The most horrific thing is the boys not being able to recognize their surroundings and ultimately not know who their mommy, daddy, and baby sister are anymore. That is what we consider just unbearable. This waiting game has left our family’s lives in complete turmoil.

Là cha mẹ, chắc hẳn bạn sẽ nghĩ rằng, khi nghe những từ như “Cả hai đứa con trai của anh chị hy vọng là sẽ sống đến 15 tuổi” đã là điều kinh khủng nhất, nhưng những gì làm cho chúng tôi còn không thể thở nổi là cứ phải ngồi yên và đợi cái ngày mà não của Justin và Jason và cả cơ thể của chúng trở lên suy yếu đến mức chúng sẽ không còn khả năng giao tiếp và đi lại nữa. Điều khủng khiếp nhất là, những đứa con trai của chúng tôi, chúng sẽ không thể nhận ra những gì xung quanh chúng và cuối cùng là không thể nhận biết được ai là cha, là mẹ, là em gái của mình. Đó là điều làm cho chứng tôi không thể chịu nổi. Trò chơi đợi chờ này đã đẩy cuộc sống của chúng tôi vào một trạng thái rối ren hoàn toàn.

Our hopes and dreams for our little boys’ future no longer exist. Jason, our super sensitive, lovey gushy, huggy mush, who loves baseball, fire trucks, and playing Dr. Jason, we thought – maybe a firefighter, possibly a baseball player, maybe a compassionate doctor – Justin our busy boy, never sitting still, always investigating how things work with a devilish smile…another baseball junkie who pushes cars all around the house…maybe an engineer, a scientist, who knows – maybe even a race car driver! All those dreams for our little guys’ success has come to an end.

Niềm hy vọng và giấc mơ của chúng tôi về tương lai của những đứa con trai của mình không còn nữa. Jason, một thằng bé quá đỗi nhạy cảm, yêu ồ ạt ôm xiết mạnh bạo, thích bóng chày, xe cứu hỏa và chơi trò bác sĩ Jason, chúng tôi đã từng nghĩ, có thế nó sẽ trở thành một lính cứu hỏa, một cầu thủ, hay cũng có thể là một một bác sĩ giàu tình thương- Còn Justin, đứa con trai luôn luôn bận rộn của chúng tôi chưa bao giờ chịu ngồi yên một chỗ, luôn luôn muốn khám phá, tìm hiểu xem mọi thứ hoạt động thế nào với nụ cười tinh quái trên môi, là một kẻ nghiện bóng chày nữa, lúc nào cũng đẩy những chiếc ô tô đồ chơi quanh nhà, có thể sẽ trở thành một kĩ sư, một nhà khoa học, ai biết được, cũng có thể là một tay đua xe. Tất cả những giấc mơ về sự thành công của những đứa con của tôi đã hết thật rồi.

We no longer have time for dreams of what Jason and Justin will grow to be. Now, we place all our effort into keeping our little angels on earth, as protected, pain-free, and comfortable as possible for the remainder of their shortened life expectancy.

Constantly worried about how to make what is left of our children’s lives an incredible magical experience!

Why can’t life “JUST LET THEM BE LITTLE?”

Chúng tôi không còn thời gian để mơ chuyện Jason và Justin lớn lên sẽ làm gì. Bây giờ, chúng tôi chỉ còn biết dốc toàn bộ sự cố gắng của mình để những thiên thần nhỏ bé kia khi ở trên trái đất này được bảo vệ, không phải chịu đau đớn và cảm thấy thoải mái càng nhiều càng tốt trong phần còn lại của cuộc đời ngắn ngủi của chúng. Nỗi lo lắng khôn nguôi của chúng tôi là làm thế nào để những ngày tháng còn lại của cuộc đời những con trai tôi trở thành những kỉ niệm tuyệt vời nhất. Tại sao cuộc đời không thể “ĐỂ CHÚNG LUÔN LÀ TRẺ THƠ?”

How it all began:

Married, have two beautiful, energetic, little boys, a home filled with love and laughter, and are expecting a third child. You can’t help but think life is such a wonderful JOURNEY.

Sự việc bắt đầu như thế nào?

Lấy chồng, có hai cậu con trai kháu khỉnh, đẹp trai, năng động, một ngôi nhà tràn ngập tình yêu, tiếng cười và đang chờ đợi đứa con thứ 3 chào đời. Bạn không thể không nghĩ rằng cuộc đời giống như một cuộc HÀNH TRÌNH tuyệt vời.

The phone rings one morning, it is your eldest son Jason’s preschool teacher. The basis of the phone call: The teacher’s concern with Jason’s performance and ability compared to other children his age. Trying desperately to help your little boy, you attend numerous appointments, being sent from one type of doctor to another. Then finally, one afternoon you reach the Doctor who knows what’s wrong. EXCEPT you are informed that your first born little angel has MPS, a rare genetic disease that has devastating effects on children, and a shortened life expectancy.

Chuông điện thoại reo vào một buổi sáng, đó là điện thoại của giáo viên lớp vườn trẻ của đứa con trai lớn. Nội dung cơ bản của cuộc gọi đó là sự lo lắng của giáo viên về sức học và khả năng của Jason so với những đứa trẻ cùng tuổi khác. Cố gắng một cách tuyệt vọng để giúp đứa con trai bé nhỏ, bạn gặp rất nhiều bác sĩ, bị gửi đến hết bác sĩ này rồi lại bác sĩ. Để rồi cuối cùng thì, vào một buổi chiều bạn cũng gặp được một bác sĩ biết bệnh gì. NHƯNG bạn được thông báo, đứa con trai lớn của bạn bị nhiễm MPS, một căn bệnh thuộc gen di truyền hiếm gặp, có những tác động hủy hoại đến cơ thể của trẻ em và chúng có tuổi thọ rất ngắn.

You listen to the doctor describe the disease – the effects, the outcomes – in absolute horror and disbelief. We sat there waiting for the but, or to hear something positive, but that was not the case, it just got worse and worse. We listened to the symptoms, our hearts breaking into a million pieces, not our Jason. How could this be? And as we sat and listened to more horrific details our hearts just crumbled knowing Justin, our second little love, looks exactly like Jason and has the same symptoms, oh god! Not both of them! What do we do; the waiting was unbearable.

Bạn nghe bác sĩ mô tả về căn bệnh –những tác động, hậu quả của nó- mà thấy thật hoàn toàn khủng khiếp và không thể tin nổi. Bạn ngồi đó và đợi một chữ “nhưng” nào đó, hoặc nghe những thứ lạc quan hơn, nhưng chẳng có gì, thông tin càng lúc càng trở lên tồi tệ hơn. Nghe về những triệu chứng của bệnh, tim bạn như vỡ ra làm triệu mảnh, không thể là Jason được. Điều này là thế nào đây?. Và khi ngồi xuống để nghe cụ thể về những điều khủng khiếp hơn, tim chúng tôi vỡ vụn khi biết rằng Justin, cục cưng thứ hai của chúng tôi, trông giống hệt anh trai Jason của nó cũng có những triệu chứng tương tự. Ôi, Chúa ơi!. Không thể là cả hai đứa được. Chúng tôi phải làm gì đây, đợi chờ là thứ không thể chịu đựng được.

Imagine: You take your little frightened 4-year-old in for multiple blood tests to determine what type of the this MPS disease he has, hoping and praying it is MPS I, a more treatable and possibly curable form of the disease. Your hopes are shattered when the results come back as negative for MPS I. After a series of more blood work, the results come back as positive for MPS II, a more degenerative form of the disease, affecting only boys, that has no known cure, and a life expectancy of 10 to 15 years of age. No cure! Life expectancy! Possibly eight good years! Unimaginable and unexplainable is the pain.

Hãy tưởng tượng: Bạn đem đứa con trai nhỏ bé, hoảng sợ của mình đến bệnh viện cho biết bao các cuộc thử máu để xác định xem nó bị nhiễm loại nào của bệnh MPS, hy vọng và cầu nguyện đó là MPS I- dạng có thể điều trị và có khả năng chữa khỏi nhiều hơn. Niểm hy vọng ấy cũng trở lên tan tành mây khói khi kết quả xét nghiệm là âm tính với MPS I. Sau hàng loạt các cuộc thử máu nữa, kết quả đưa lại là dương tính với MPS II, một dạng suy biến của MPS, chỉ tác động đến những bé trai, không có cách chữa trị và tuổi thọ là từ 10-15 tuổi. Không chữa được. Tuổi thọ! Ước tính đời sống ! Có thể là 8 năm nữa!. Một nỗi đau không thể tượng tượng nổi và không thể giãi bày được.

Imagine, you eldest son is 4 years old. Two weeks from having your third child, of which you do not know the sex, your youngest son is tested (our hearts told us Justin had it too), and the results come back as positive for MPS II as well. Your youngest son turns 2 years old the very next day.

Hãy tưởng tượng, đứa con trai lớn của bạn chỉ 4 tuổi. Hai tuần trước khi bạn có đứa con thứ 3 mà vẫn chưa biết giới tính của nó thì đứa con trai thứ 2 được mang đi kiểm tra (trái tim mách bảo chúng tôi rằng Justin cũng bị bệnh đó), và kết quả cũng là dương tính với MPS II. Đứa con trai nhỏ nhất của bạn sẽ bước sang tuổi thứ hai chỉ trong vài ngày nữa.

Trying to remain calm for your unborn child, for your sons, and your husband, you attempt to go about life as normally as possible. You go to work, do the laundry, drive to preschool, clean the house, serve meals, make the children’s beds, essentially manage a life and take care of a house now filled with ruined hopes and dreams, filled with memories of innocence and youth, the walls covered in pictures of happy moments. You sit down and think, how many more of these moments will we have? You find yourself crying uncontrollably.

Cố gắng thật bình tĩnh vì đứa con chưa sinh, vì hai đứa con trai, và vì chồng bạn, bạn cố gắng đi tiếp cuộc đời một cách bình thường nhất có thể. Bạn đi làm, giặt quần áo, lái xe đến trường vườn trẻ, lau nhà cửa, dọn bữa, chuẩn bị giường ngủ cho các con, về cơ bản bạn thu vén được cuộc sống và chăm lo cho ngôi nhà mà giờ đây chỉ đầy những niềm hy vọng và những giấc mơ tan tành, chỉ đầy những kỉ niệm của ngây thơ và tuổi trẻ, của những bức tường treo đầy những tấm ảnh của những giây phút hạnh phúc. Bạn ngồi xuống và nghĩ, còn có thêm được bao nhiêu những khoảnh khắc như thế nữa?. Bạn thấy mình khóc mà không sao kiềm lại được.

Jason Jeffrey, 4, Justin Jay, 2, and along the medical-emotional roller coaster is baby sister Jordan Kenna, 6 months; they now have a life that consists of a series of routine doctor appointments and six-month visits to the University of North Carolina Medical Center. Why UNC Medical Center? This is where the renowned MPS expert Dr. Joseph Muenzer is based. After a long meeting with Dr. Muenzer, he had requested that we bring Jason and Justin down to UNC every six months to evaluate progression or regression of the disease. Dr. Helio Pedro, Chief geneticist out of Hackensack University Medical Center, sees the boys weekly for their the four-hour intravenous Enzyme Replacement Therapy. The purpose behind the treatments is to reduce the swelling and destruction of internal organs, but cannot help the brain, which ultimately will stop functioning correctly, and shut the body down.

Jason Jeffrey, 4 tuổi và Justin Jay, 2 tuổi, và đi theo những chuyến xe nhào lộn tình cảm là đứa em gái Jordan Kenna 6 tháng tuổi, chúng bây giờ có cuộc sống bao gồm hàng loạt các cuộc thăm bác sĩ thường xuyên và những chuyến đi 6 tháng một lần đến Trung tâm Y tế Đại học Bắc Carolina. Tại sao lại là Trung tâm Y tế Đại học Bắc Carolina?. Vì đây là nơi chuyên gia lừng danh Dr. Joseph Muenzer làm việc. Sau một hồi lâu trò chuyện với bác sĩ Muenzer, ông đã yêu cầu chúng tôi mang bé Jason và Justin xuống đây định kì 6 tháng để trung tâm đánh giá sự tiến triển hoặc suy giảm của bệnh. Bác sĩ Helio Pedro, trưởng nhóm các nhà di truyền học của Trung tâm Y tế Đại học Hackensack, sẽ gặp hai đứa trẻ mỗi tuần để trị liệu thay thế enzyme bằng IV trong 4 giờ. Mục đích điều trị là để giảm sưng và giảm tình trạng bị hủy hoại của các bộ phận bên trong cơ thể, nhưng cũng không thể giúp gì được cho não, bộ phận mà cuối cùng thì cũng ngừng chức năng hoạt động của nó và đóng cửa toàn bộ cơ thể.

Our once normal life has become anything but: Every day is heart-breaking, dream-shattering, emotionally draining, and the watching and waiting is unbearable… a life I hope no other parent should ever have to experience.

But we have to LIVE. Live for our little boys, and baby girl!

Cuộc sống bình thường của chúng tôi hoàn toàn không còn nữa. Mỗi ngày đều là đau đớn, đập nát giấc mơ, suy kiệt cảm xúc, đứng nhìn và đợi chờ là những thứ không thể chịu được…một cuộc đời mà tôi hy vọng rằng không có cha mẹ nào phải trải qua.

Nhưng chúng tôi phải SỐNG. Sống cho hai đứa con trai, cho đứa con gái bé bỏng của chúng tôi!

We vow to give them the most love and joy we possibly could squeeze into the short period of time we have left on earth with them, to do everything possible to bring smiles to their beautifully innocent faces NOW, leaving Mommy, Daddy, Jordan Kenna and the rest of Jason and Justin’s loved ones with MAGICAL MEMORIES to hold on to as we someday face the challenge of surviving without them.

Chúng tôi thề sẽ cho chúng tình yêu và niềm vui nhiều nhất có thể dồn vào quãng thời gian ngắn ngủi mà chúng tôi có với nhau trên trái đất này, chúng tôi thề sẽ làm mọi thứ có thể để mang lại nụ cười cho những khuôn mặt ngây thơ xinh đẹp kia NGAY BÂY GIỜ, để cho mẹ, cha, em gái Jordan Kenna và những người thân còn lại của chúng những kí ức tuyệt vời còn giữ lại khi một ngày nào đó chúng tôi phải đối mặt với sự sống mà không có chúng.

CHERISH EVERY MOMENT!!!!

Our Journey Continues!

Trân Quý từng khoảnh khắc!!!

Hành trình của chúng tôi vẫn tiếp tục!


Translated by Nguyễn Thị Thảo

http://thechart.blogs.cnn.com/2011/09/06/human-factor-family-vows-to-live-for-dying-boys/





March 17, 2011 5:26 PM

To my little sports----love always DADDY

JASON,JUSTIN-DADDY IS SO PROUD OF YOU AND YOU WILL BE SAFE IN DADDYS ARMS FOREVER ! GO TEAM !


LOVE DADDY
March 18, 2011 1:36 PM
Jason , Justin - Daddy is so proud of you ! Each and everyday I love you more and more. Words cannot express how much I love you and till the end of time I will hold you in my arms forever! And when that horrible day comes just remember one thing, how proud you made daddy and you always will be daddys boys. I LOVE YOU !!!!




XoXo from Mommy


Mommy on March 18, 2011 5:07 PM
Dear Jason & Justin (my little kissaroos),
Mommy prays every minute of every day that you will be with us long enough to know how much we truly love you!! What I have wanted most in life was to become a mom, and I was absolutely blessed with you two beautiful angels. My little guys, words can even begin to express the love I have for you both and how you make me feel everyday of your precious little lives. I love how you are ALWAYS happy and lauging with those infectious little giggles, it warms my heart. The things you guys do and say bring joy and laughter to our house. The stories we tell every night, the tons of " I love yous" we utter throughout our day, the silly faces we make, songs we sing, and games we play bring a smile to my face. All of your hugs, pats on the back, snuggles, and kisses are what makes you boys the loves of my life. I cherish all these things we share and more!!! You boys bring a joy to my life, put a sparkle in my eye, and best of all you make me smile. I will always hold on to these amazing memories we are making, and want you to know I am with you now and will always be with you to love and keep you safe. and EVERY day for the rest of my life I PROMISE, like you make me do every night, to dream about you both. You two are the best thing to ever happen to me, and your innocence and bravery through this makes me so proud and gives me the strength to carry on.
Jason & Justin you are two amazing little boys and I am so happy you are ours.
Loving you forever,
Your Kissaroo,
MOMMY


History of White Cane Safety Day Lịch sử Ngày Cây Gậy Trắng




History of White Cane Safety Day

Lịch sử Ngày Cây Gậy Trắng

By Philip Strong

Philip Strong

AMERICAN COUNCIL OF THE BLIND

www.acb.org

The white cane is not just a tool that can be used to achieve independence; it is also a symbol of the blind citizens in our society. To honor the many achievements of blind and visually impaired Americans and to recognize the white cane’s significance in advancing independence, we observe October 15 of each year as “White Cane Safety Day.” Today, the white cane works both, as a tool for the blind as well as a symbol, but this has not always been the case.

Cây Gậy Trắng không chỉ là một công cụ có thể dùng để đạt được sự tự lập; nó còn là biểu tượng của người công dân khiếm thị trong xã hội chúng ta. Để tôn vinh biết bao thành đạt của những người Mỹ khiếm thị và để nhìn nhận ý nghĩa của cây gậy trắng trong việc thúc đẩy tinh thần tự lập, chúng ta mừng ngày 15 tháng Mười hàng năm là “Ngày Cây Gậy Trắng.” Ngày nay cây gậy trắng vừa là công cụ cho người khiếm thị vừa là biểu tượng của người khiếm thị, thế nhưng ngày xưa thì không phải như thế.

Throughout history, the cane, staff, and stick have existed as traveling aids for the blind and visually impaired. Dating back to biblical times records show that a shepherd’s staff was used as a tool for solitary travel. The blind used such tools to alert them to obstacles in their path.

Xuyên suốt dòng lịch sử các loại gậy đã tồn tại như một công cụ hỗ trợ đi lại cho người khiếm thị. Các ghi chép từ thời Kinh Thánh cho thấy cây gậy của người chăn chiên đã được dùng như một công cụ hữu hiệu trong những chuyến bộ hành đơn độc. Người khiếm thị đã dùng gậy để dò những chướng ngại trên đường đi.

For centuries, the “cane” was used merely as a tool for travel and it was not until the twentieth century that the cane, as we know it today, was promoted for use by the blind as a symbol to alert others to the fact that an individual was blind.

Suốt nhiều thế kỷ, “cây gậy” chỉ được dùng làm công cụ đi lại. Mãi tới thế kỷ 20 và cho đến hiện nay, cây gậy mới được khuyến khích cho người khiếm thị sử dụng như một dấu hiệu để báo cho người khác biết sự hiện diện của mình.

This new role for the white cane had its origins in the decades between the two World Wars, beginning in Europe and then spreading to North America. James Biggs of Bristol claimed to have invented the white cane in 1921. After an accident claimed his sight, the artist had to readjust to his environment.

Vai trò mới của cây gậy trắng bắt nguồn vào những thập niên giữa hai cuộc Thế chiến, khởi đầu ở châu Âu rồi lan tới Bắc Mỹ. James Biggs quê ở Bristol (nước Anh) cho rằng ông là người đã sáng kiến ra cây gậy trắng vào năm 1921. Sau một tai nạn đã tước mất thị giác của ông, nhiếp ảnh gia này đã phải thích nghi với môi trường sống của mình.

Feeling threatened by increased motor vehicle traffic around his home, Biggs decided to paint his walking stick white to make himself more visible to motorists.

Do cảm thấy bị đe doạ về lượng xe cộ gia tăng quanh nhà mình, Biggs quyết định sơn trắng cây gậy của ông để những người lái xe có thể trông thấy ông rõ hơn.

It was not however until ten years later the white cane established its presence in society. In February 1931, Guilly d’Herbemont launched a scheme for a national white stick movement for blind people in France. The campaign was reported in British newspapers leading to a similar scheme being sponsored by rotary clubs throughout the United Kingdom. In May 1931 the BBC suggested in its radio broadcasts that blind individuals might be provided with a white stick, which would become universally recognized as a symbol indicating that somebody was blind or visually impaired. In North America the introduction of the white cane has been attributed to the Lion’s Clubs International. In 1930, a Lion’s Club member watched as a blind man attempted to make his way across a busy street using a black cane. With the realization that the black cane was barely visible to motorists, the Lion’s Club decided to paint the cane white to increase its visibility to oncoming motorists. In 1931, the Lion’s Club International began a national program promoting the use of white canes for persons who are blind Throughout the 1920s and 1930s, blind persons had walked with their canes held diagonally in a fixed position, and the role of the white cane took on a symbolic role as an identifier. But when the blind veterans of World War II returned to America, the form and the use of the white cane was further altered in an attempt to help return veterans to participatory lifestyles at home. Doctor Richard Hoover developed the “long cane” or “Hoover” method of cane travel. These white canes are designed to be used as mobility devices and returned the cane to its original role as a tool for mobility, but maintained the symbolic role as an identifier of blind independence.

Tuy nhiên phải mất mười năm sau cây gậy trắng mới khẳng định được sự hiện diện của mình trong xã hội. Tháng Giêng năm 1931, Guilly d’Herbemont đã phát động một kế hoạch nhằm mở ra phong trào cây gậy trắng khắp nước Pháp dành cho người khiếm thị. Chiến dịch ấy được các báo của Anh tường thuật và đã dẫn tới một kế hoạch tương tự khắp Vương quốc Anh do Hiệp Hội Các Doanh Nhân tài trợ. Tháng Năm năm 1931, trong các chương trình phát thanh, đài BBC đã đề nghị cấp gậy trắng cho những người khiếm thị, để Cây gậy trắng được công nhận rộng rãi như một biểu tượng cho biết một ai đó là người khiếm thị. Tại Bắc Mỹ việc du nhập cây gậy trắng được quy cho Hiệp Hội Quốc Tế Lion. Năm 1930, một thành viên của Hiệp Hội Lion đã quan sát một người đàn ông khiếm thị sử dụng cây gậy màu đen đang cố băng qua một con đường nhiều xe cộ. Nhận thấy gậy màu đen rất khó để người lái xe thấy được, Hiệp Hội Lion đã quyết định sơn gậy màu trắng để các tài xế đang lái xe có thể nhìn thấy nó rõ hơn. Năm 1931, Hiệp Hội Quốc Tế Lion khởi xướng một chương trình quốc gia nhằm cổ vũ người khiếm thị sử dụng cây gậy trắng. Suốt hai thập niên 1920 và 1930, người khiếm thị đã đi với cây gậy được cầm chéo đúng tư thế, và cây gậy trắng bắt đầu mang tính biểu tượng của một sự nhận dạng. Khi các cựu chiến binh khiếm thị của Thế chiến II trở về Mỹ, kiểu dáng và cách sử dụng cây gậy trắng được cải tiến trong nỗ lự tạo cơ hội cho các cựu chiến binh tham gia vào cuộc sống đời thường tại quê nhà. Tiến sĩ Richard Hoover đã phát triển “cây gậy dài” hay còn gọi là “Phương pháp đi gậy của Hoover”. Những cây gậy trắng này được thiết kế để sử dụng như một thiết bị đi lại và đưa cây gậy trở về với vai trò ban đầu là một công cụ để di chuyển, nhưng vẫn duy trì vai trò biểu tượng của nó như một sự minh định tính tự lập của người khiếm thị.

During this period, the white cane began to make its way into government policy as a symbol for the blind.

Trong suốt thời kỳ này, cây gậy trắng bắt đầu được đưa vào chính sách của chính phủ như một biểu tượng của người khiếm thị.

The first special White Cane Ordinance was passed in December 1930 in Peoria, Illinois. It granted blind pedestrians protections and the right-of-way while carrying a white cane. In 1935, Michigan began promoting the white cane as a visible symbol for the blind. On February 25, 1936, ordinance was passed for the City of Detroit recognizing the white cane. To promote the new ordinance, a demonstration was held at City Hall where the blind and visually impaired were presented with white canes. The following year, Donald Schuur wrote the provision of a bill and had it proposed in the State Legislature. The proposal gave the carrier of the White Cane protection while traveling on the streets of Michigan. Governor Frank Murphy signed the bill into law in March 1937.

Sắc lệnh Cây Gậy Trắng đầu tiên được thông qua vào tháng Mười hai năm 1930 tại Peoria, Illinois. Nhờ đó người khiếm thị nào sử dụng cây gậy trắng để đi lại đều nhận được sự bảo vệ và nhường đường. Năm 1935, Michigan bắt đầu nâng cây gậy trắng lên làm biểu tượng của người khiếm thị. Ngày 25 tháng Hai năm 1936, một sắc lệnh được thông qua để thành phố Detroit thừa nhận cây gậy trắng. Để ủng hộ sắc lệnh mới này, một cuộc biểu tình được tổ chức ở Toà Thị Chính nơi người khiếm thị được trao tặng gậy trắng. Năm sau, Donald Schuur đã soạn một dự luật và đệ trình lên Cơ quan Lập pháp của tiểu Bang. Đề nghị đó đã đem lại cho người mang Gậy Trắng sự che chở trong khi đi lại trên các đường phố ở Michigan. Thống đốc Frank Murphy đã ký thông qua luật này vào tháng Ba năm 1937.

During the early 1960′s, several state organizations and rehabilitation agencies serving the blind and visually impaired citizens of the United States urged Congress to proclaim October 15 of each year to be White Cane Safety Day in all fifty states. This event marked a climatic moment in the long campaign of the organized blind movement to gain state as well as national recognition for the white cane. On October 6, 1964, a joint resolution of the Congress, HR 753, was signed into law authorizing the President of the United States to proclaim October 15 of each year as “White Cane Safety Day”. The resolution read “Resolved by the Senate and HR. that the President is hereby authorized to issue annually a proclamation designating October 15 as White Cane Safety Day and calling upon the people of the United States to observe such a day with appropriate ceremonies and activities.”

Trong những năm đầu thập niên 1960, một số tổ chức và cơ quan phục hồi chức năng của các tiểu bang chuyên phục vụ những công dân Mỹ khiếm thị đã hối thúc Quốc Hội công bố ngày 15 tháng Mười hàng năm là Ngày An Toàn của Cây Gậy Trắng ở tất cả năm mươi tiểu bang. Sự kiện này đánh dấu giây phút đỉnh điểm trong chiến dịch lâu dài của phong trào người khiếm thị có tổ chức để giành được sự nhìn nhận của các tiểu bang cũng như của cả nước đối với cây gậy trắng. Ngày 6 tháng Mười năm 1964, một nghị quyết chung của Quốc Hội số HR 753 được ký kết thành luật uỷ quyền cho Tổng thống Mỹ để công bố ngày 15 tháng Mười hàng năm là “Ngày An Toàn của Cây Gậy Trắng”. Nghị quyết qui định:“Theo quyết định của Thượng viện và Hạ viện, mỗi năm Tổng Thống được trao quyền để công bố ngày 15 tháng Mười là Ngày An Toàn của Cây Gậy Trắng, và kêu gọi dân chúng Mỹ cử hành ngày này bằng những nghi lễ và hoạt động phù hợp.”

Within hours of passage of the congressional resolution, President Lyndon B. Johnson went down in history as the first to proclaim October 15, as White Cane Safety Day. The Presidential proclamation emphasized the significance of the use of the white cane as both a tool and as a visible symbol. In the first White Cane Proclamation President Johnson commended blind people for the growing spirit of independence and the increased determination to be self-reliant and dignified. He said in part: “A white cane in our society has become one of the symbols of a blind person’s ability to come and go on his own. Its use has promoted courtesy and opportunity for mobility of the blind on our streets and highways.”

Vài tiếng đồng hồ sau khi quốc hội thông qua nghị quyết này, Tổng Thống Lyndon B. Johnson được ghi danh trong sử sách là người đầu tiên công bố ngày 15 tháng Mười là Ngày An Toàn của Cây Gậy Trắng. Lời công bố của Tổng thống nhấn mạnh ý nghĩa của việc sử dụng cây gậy trắng vừa là một công cụ vừa là một biểu tượng. Trong bài công bố đầu tiên về Cây Gậy Trắng, tổng thống Johnson đã ca ngợi người khiếm thị về tinh thần tự chủ và lòng quyết tâm ngày càng sống tự lập và xứng đáng với nhân phẩm. Ông nói: “Cây gậy trắng trong xã hội chúng ta đã trở thành một trong những biểu tượng nói lên khả năng tự đi lại của người khiếm thị. Việc sử dụng cây gậy làm tăng phong thái nhã nhặn cũng như cơ hội cho người khiếm thị di chuyển trên các đường phố của chúng ta.”

During most years since 1964, the President has proclaimed October 15 as White Cane Safety Day.

Trong hầu hết các năm kể từ năm 1964, các Tổng thống đã công bố ngày 15 tháng Mười là Ngày An Toàn của Cây Gậy Trắng.

On October 15, 2000, President Bill Clinton again reminded us of the history of the white cane as a tool, and its purpose as a symbol of blindness: “With proper training, people using the white cane can enjoy greater mobility and safety by determining the location of curbs, steps, uneven pavement, and other physical obstacles in their path. The white cane has given them the freedom to travel independently to their schools and workplaces and to participate more fully in the life of their communities. it reminds us that the only barriers against people with disabilities are discriminatory attitudes and practices that our society has too often placed in their way. As we observe White Cane Safety Day, 2001, let us recall the history of the white cane, its emergence as a tool and a symbol through history; a staff of independence. Let us also recall the events that have permitted us to celebrate October 15 as White Cane Safety Day.”

Ngày 15 tháng Mười năm 2000, Tổng thống Bill Clinton một lần nữa nhắc nhớ chúng ta về lịch sử của cây gậy trắng như một công cụ và như một biểu tượng của sự khiếm thị: “Được huấn luyện thích đáng, những người sử dụng cây gậy trắng có thể đi lại thoải mái và an toàn hơn nhờ dò biết được vị trí của lề đường, các bậc, các vỉa hè không bằng phẳng, và những chướng ngại khác trên đường đi. Cây gậy trắng đã mang lại cho họ sự tự tin để tự mình đi tới trường, tới nơi làm việc và tham gia đầy đủ hơn vào các sinh hoạt của cộng đồng. Nó nhắc cho chúng ta nhớ rằng rào cản duy nhất đối với người khuyết tật chính là thái độ và thói quen kỳ thị mà xã hội chúng ta rất hay đặt trên đường đời của họ. Khi cử hành Ngày An Toàn của Cây Gậy Trắng, 2001, chúng ta hãy ôn lại lịch sử của cây gậy trắng, nét nổi bật của nó như một công cụ và một biểu tượng xuyên suốt lịch sử; một cây gậy của sự tự chủ. Chúng ta cũng hãy hồi tưởng những sự kiện đã cho phép chúng ta mừng ngày 15 tháng Mười là Ngày An Toàn của Cây Gậy Trắng.”

Translated by Mái Ấm Thiên Ân

http://allafrica.com/stories/201110190651.html

Parent’s vision – Tầm nhìn của bố mẹ

Parent’s vision – Tầm nhìn của bố mẹ

Address To The United States House Of Representatives Diễn văn Tại Hạ Viện Hoa Kỳ


Address To The United States House Of Representatives

Diễn văn Tại Hạ Viện Hoa Kỳ

by Shirley Chisholm

Washington, DC: May 21, 1969

của Shirley Chisholm

Washington DC, ngày 21.5.1969

Mr. Speaker, when a young woman graduates from college and starts looking for a job, she is likely to have a frustrating and even demeaning experience ahead of her. If she walks into an office for an interview, the first question she will be asked is, “Do you type?”

Thưa Chủ tịch Hạ Viện, khi một cô gái tốt nghiệp Đại học và bắt đầu tìm việc làm, cô ta rất có thể có một kinh nghiệm bực bội và ngay cả bị hạ nhục chờ đợi cô ta. Nếu cô ta bước vào một văn phòng để được phỏng vấn, câu hỏi đầu tiên cô bị hỏi sẽ là, “Cô có biết đánh máy?”

There is a calculated system of prejudice that lies unspoken behind that question. Why is it acceptable for women to be secretaries, librarians, and teachers, but totally unacceptable for them to be managers, administrators, doctors, lawyers, and Members of Congress.

Có một hệ thống tính toán của thành kiến ngấm ngầm đằng sau câu hỏi đó. Tại sao là điều có thể chấp nhận được để phụ nữ làm thư ký, quản lý thư viện, và giáo viên, nhưng hoàn toàn không chấp nhận được cho họ trở thành quản lý, quản trị, bác sĩ, luật sư, và Nghị Sĩ của Quốc hội.

The unspoken assumption is that women are different. They do not have executive ability orderly minds, stability, leadership skills, and they are too emotional.

Một định kiến ngấm ngầm rằng phụ nữ là khác biệt. Họ không có khả năng điều hành, trật tự tâm trí, sự ổn định, kỹ năng lãnh đạo, và họ quá nhạy cảm.

It has been observed before, that society for a long time, discriminated against another minority, the blacks, on the same basis – that they were different and inferior. The happy little homemaker and the contented “old darkey” on the plantation were both produced by prejudice.

Có một điều đã được quan sát trước đây là, trong một thời gian dài, xã hội kỳ thị một nhóm thiểu số khác, người da đen, trên cùng một cơ sở – rằng họ khác biệt và thấp kém. Người nội trợ nhỏ hạnh phúc và “người da đậm già” hài lòng trong nông trại , cả hai đều được sản xuất bởi thành kiến.

As a black person, I am no stranger to race prejudice. But the truth is that in the political world I have been far oftener discriminated against because I am a woman than because I am black.

Là một người da đen, tôi không lạ gì với thành kiến chủng tộc. Nhưng sự thật là trong thế giới chính trị, tôi thường bị kỳ thị vì tôi là phụ nữ nhiều hơn vì tôi là người da đen.

Prejudice against blacks is becoming unacceptable although it will take years to eliminate it. But it is doomed because, slowly, white America is beginning to admit that it exists. Prejudice against women is still acceptable. There is very little understanding yet of the immorality involved in double pay scales and the classification of most of the better jobs as “for men only.”

Nạn kỳ thị người da đen đang trở thành không thể chấp nhận được mặc dù điều này sẽ còn tốn rất nhiều năm để xoá bỏ. Nhưng nạn này dẫy chết vì, dần dần, người Mỹ trắng cũng bắt đầu thừa nhận rằng nạn này đang hiện hữu. [Nhưng] Sự kỳ thị phụ nữ vẫn còn được chấp nhận. Chưa có một chút hiểu biết gì về sự thiếu đạo đức liên quan đến hai chế độ lương bổng và hầu hết các việc làm tốt được phân loại là “chỉ dành cho nam giới.”

More than half of the population of the United States is female. But women occupy only 2 percent of the managerial positions. They have not even reached the level of tokenism yet No women sit on the AFL-CIO council or Supreme Court There have been only two women who have held Cabinet rank, and at present there are none. Only two women now hold ambassadorial rank in the diplomatic corps. In Congress, we are down to one Senator and 10 Representatives.

Hơn phân nửa dân số của nước Mỹ là nữ giới. Nhưng phụ nữ chỉ chiếm có 2 phần trăm vị trí quản lý. Thậm chí họ chưa với tới mức độ bình đẳng giả tạo. Không có phụ nữ nào ngồi trên ghế của Hội Đồng Tổng Công Đoàn AFL-CIO hay Toà Án Tối Cao. Chỉ có hai phụ nữ đã giữ chức bộ trưởng, và hiện tại thì không có ai. Chỉ có hai phụ nữ đang nắm vai trò đại sứ trong guồng máy ngoại giao. Trong Quốc hội, chúng ta xuống còn một Thượng Nghị Sĩ và 10 Hạ Nghị Sĩ.

Considering that there are about 3 1/2 million more women in the United States than men, this situation is outrageous.

Xét lại rằng trên nước Mỹ, phụ nữ nhiều hơn nam giới khoảng 3 triệu rưỡi người, trường hợp này thật là quá đáng.

It is true that part of the problem has been that women have not been aggressive in demanding their rights. This was also true of the black population for many years. They submitted to oppression and even cooperated with it. Women have done the same thing. But now there is an awareness of this situation particularly among the younger segment of the population.

Đúng là một phần của vấn đề là do phụ nữ chưa mạnh dạn đòi hỏi quyền của họ. Điều này cũng từng đúng với người da đen trong nhiều năm. Họ chấp nhận bị áp bức và thậm chí còn hợp tác với điều đó. Phụ nữ cũng làm giống như vậy. Nhưng bây giờ đã có một ý thức của hoàn cảnh này, nhất trong thành phần trẻ.

As in the field of equal rights for blacks, Spanish-Americans, the Indians, and other groups, laws will not change such deep-seated problems overnight. But they can be used to provide protection for those who are most abused, and to begin the process of evolutionary change by compelling the insensitive majority to reexamine it’s unconscious attitudes.

Như trong lĩnh vực bình quyền cho người da đen, người Mỹ gốc Tây Ban Nha, Người Da Đỏ, và các nhóm khác, luật lệ sẽ không thay đổi những vấn đề cội rễ như vậy qua đêm. Nhưng luật lệ có thể được sử dụng để bảo vệ những ai bị lạm dụng nhiều nhất, và để bắt đầu quá trình của tiến hoá bằng cách thúc ép nhóm đa số vô cảm phải xét lại thái độ vô ý thức của họ.

It is for this reason that I wish to introduce today a proposal that has been before every Congress for the last 40 years and that sooner or later must become part of the basic law of the land — the equal rights amendment.

Vì lý do này mà hôm nay tôi xin giới thiệu một kiến nghị đã được trình cho mỗi [kỳ họp] Quốc hội trong suốt 40 năm qua và không sớm thì muộn gì cũng phải trở thành một phần của pháp luật cơ bản của đất nước – Luật bổ xung Hiến Pháp về bình quyền.

Let me note and try to refute two of the commonest arguments that are offered against this amendment. One is that women are already protected under the law and do not need legislation. Existing laws are not adequate to secure equal rights for women. Sufficient proof of this is the concentration of women in lower paying, menial, unrewarding jobs and their incredible scarcity in the upper level jobs. If women are already equal, why is it such an event whenever one happens to be elected to Congress?

Cho phép tôi lưu ý và cố gắng để bác bỏ hai tranh luận phổ biến nhất được nêu ra để chống lại luật bổ xung này. Một là phụ nữ đã được bảo vệ qua pháp luật và không cần làm thêm luật. Pháp luật hiện hành không đủ để bảo đảm quyền bình đẳng cho phụ nữ. Bằng chứng rõ ràng về điều này là sự tập hợp của phụ nữ trong các nghề với đồng lương thấp, tầm thường và sự khan hiếm phụ nữ một cách lạ thường trong những công việc cao cấp. Nếu phụ nữ đã được bình quyền, tại sao nó lại là một sự kiện lớn mỗi khi một phụ nữ được bầu vào Quốc hội?

It is obvious that discrimination exists. Women do not have the opportunities that men do. And women that do not conform to the system, who try to break with the accepted patterns, are stigmatized as ”odd” and “unfeminine.” The fact is that a woman who aspires to be chairman of the board, or a Member of the House, does so for exactly the same reasons as any man. Basically, these are that she thinks she can do the job and she wants to try.

Rõ ràng là có kỳ thị. Nữ giới không có những cơ hội mà nam giới có. Và phụ nữ nào mà không tuân theo hệ thống, ai mà cố phá vỡ những mô hình đã được chấp nhận, người đó bị dán cho nhãn hiệu là “quái gở” và “không có nữ tính.” Thực tế là khi một người phụ nữ khao khát trở thành Chủ tịch hội đồng quản trị, hay Nghị Sĩ của Hạ Viện, cô ta làm như vậy vì các lý do y hệt như bất kỳ người đàn ông nào. Căn bản là, cô ta nghĩ cô ta có thể làm được việc và cô ta muốn thử.

A second argument often heard against the equal rights amendment is that it would eliminate legislation that many States and the Federal Government have enacted giving special protection to women and that it would throw the marriage and divorce laws into chaos.

Một lập luận thứ hai thường được nghe để chống lại luật bổ xung Hiến Pháp về bình quyền là nó sẽ loại bỏ pháp luật mà nhiều tiểu bang và Chính phủ Liên bang đã ban hành để bảo vệ đặc biệt cho phụ nữ và nó sẽ biến pháp luật về hôn nhân và ly dị thành hỗn loạn.

As for the marriage laws, they are due for a sweeping reform, and an excellent beginning would be to wipe the existing ones off the books. Regarding special protection for working women, I cannot understand why it should be needed. Women need no protection that men do not need. What we need are laws to protect working people, to guarantee them fair pay, safe working conditions, protection against sickness and layoffs, and provision for dignified, comfortable retirement. Men and women need these things equally. That one sex needs protection more than the other is a male supremacist myth as ridiculous and unworthy of respect as the white supremacist myths that society is trying to cure itself of at this time.

Đối với những luật lệ hôn nhân, chúng cần có một cải cách hoàn toàn, và sự khởi đầu tốt nhất là xoá hết những luật lệ hiện hành ra khỏi sách vỡ. Về sự bảo vệ đặt biệt cho nữ công nhân. Tôi không thể hiểu tại sao nó cần thiết. Đàn bà không cần sự bảo vệ nào mà đàn ông không cần. Điều mà chúng ta cần là luật để bảo vệ những người làm việc, để bảo đảm cho họ có tiền lương công bằng, điều kiện làm việc an toàn, bảo vệ khi bệnh hoạn và bị sa thải, cung ứng mức hưu trí hợp nhân phẩm và thoải mái. Đàn ông và đàn bà cần những điều này như nhau. Nói rằng một giới cần được bảo vệ nhiều hơn giới kia là một huyền thoại của chủ nghĩa nam giới thượng đẳng, buồn cười và không đáng để tôn trọng, cũng như huyền thoại về chủ nghĩa da trắng thượng đẳng mà xã hội đang cố gắng để tự chữa trị tại thời điểm này.


Translated by Diệu Sương

http://library.duke.edu/rubenstein/scriptorium/wlm/equal/