MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Sunday, November 6, 2011

Human Rights Watch Reports Abuses in Chinese-Run Mines in Zambia Báo cáo của tổ chức Theo dõi Nhân quyền quốc tế về các công ty của Trung Quốc n



Zambian workers 580 meters below the ground in Luanshya Copper Mine run by the Chinese company China Non-Ferrous Metal Company, January 28, 2011. (Photo: Thomas Lekfeldt / Moment / Redux)
Công nhân Zambia làm việc ở độ sâu 580 mét dưới mặt đất trong mỏ đồng Luanshya điều hành bởi công ty kim loại màu Trung Quốc, 28 tháng 1 năm 2011. (Ảnh: Thomas Lekfeldt / Moment / Redux)
Human Rights Watch Reports Abuses in Chinese-Run Mines in Zambia
Báo cáo của tổ chức Theo dõi Nhân quyền quốc tế về các công ty của Trung Quốc ngược đãi công nhân mỏ ở Zambia
By Ishaan Tharoor
Ishaan Tharoor
New York-based Human Rights Watch issued a 122-page report detailing the "abusive conditions" and lax safety standards of Chinese-run mines operating in the southern African nation of Zambia. Titled "You'll Be Fired if You Refuse," the report is one of the more targeted recent critiques of the effect of Beijing's growing influence and presence around the world. A budding global superpower, Beijing has steadily expanded its energy concerns across the planet, acquiring mines and building pipelines from Africa to Latin America, Central Asia to Oceania. All four of the Chinese companies in question are state-owned. Speaking to an HRW observer, one Zambian worker at a Chinese mine summed up the imperatives at play behind the Asian giant's investments in the copper-rich country:
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền [HRW] đóng tại New York đã công bố một bản báo cáo 122 trang nêu chi tiết "tình cảnh ngược đãi" và tiêu chuẩn an toàn lỏng lẻo của các công ty khai khoáng của Trung Quốc đang hoạt động tại quốc gia Zambia nằm ở phía Nam châu Phi. Được đặt đầu đề là "Chống đối là bị sa thải liền", bản báo cáo này là một trong những chỉ trích khó lòng chối cãi về hậu quả của sự ảnh hưởng và hiện diện ngày càng gia tăng của Trung Quốc trên khắp thế giới. Là môt siêu cường quốc tế mới bắt đầu ló dạng, Bắc Kinh gần đây đã liên tục mở rộng các công ty năng lượng của họ trên khắp thế giới bằng cách mua các mỏ và xây dựng đường ống từ châu Phi tới châu Mỹ La tinh, Trung Á tới châu Đại Dương. Tất cả các công ty Trung Quốc được nói tới trong bản báo cáo đều là công ty của nhà nước. Nói chuyện với một nhân viên của HRW, một công nhân người Zambia đang làm việc tại một khu mỏ của Trung Quốc đã kể vắn tắt về tình cảnh người lao động bị ra lệnh cưỡng bách được che đậy đằng sau những dự án đầu tư của gã khổng lồ châu Á tại đất nước Zambia giàu quặng đồng:
Sometimes when you find yourself in a dangerous position, they tell you to go ahead with the work. They just consider production, not safety. If someone dies, he can be replaced tomorrow. And if you report the problem, you'll lose your job.
Nhiều khi công nhân biết là mình đang ở tại một vị trí nguy hiểm tính mạng, song người Trung Quốc vẫn ra lệnh cho công nhân tiếp tục làm việc. Họ chỉ nghĩ đến năng suất chứ không nghĩ đến an toàn. Nếu có ai đó chết thì anh ta có thể được thay thế bằng một người khác vào ngày hôm sau. Ai tiết lộ chuyện là sẽ bị mất việc ngay.
China's deep involvement in Zambia was already the subject of scrutiny this year. The country's presidential elections this September were, in part, a referendum on China's considerable foothold in the country. The victor, longtime opposition leader Michael Sata, had for years peddled a populist anti-Chinese line, claiming that Chinese investment turned Zambia into a neo-colonial state and benefited only a corrupt cadre of elites in cahoots with Beijing. Others point to the substantial revenues that have streamed into the country in recent years on the back of Chinese enterprise; this summer, the World Bank officially listed Zambia as a "middle-income" economy.
Việc Trung Quốc đầu tư nhiều vào Zambia đã là vấn đề đang được điều tra cẩn thận trong năm nay. Cuộc bầu cử Tổng thống của Zambia hồi tháng 9 phần nào được coi như một cuộc trưng cầu dân ý về chỗ đứng chắc chắn đáng kể của Trung Quốc tại nước này. Người giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, lãnh tụ phe đối lập lâu nay là Michael Sata từ nhiều năm nay đã công khai đường lối hợp lòng dân là chống Trung Quốc, ông tuyên bố rằng đầu tư của Trung Quốc đã biến Zambia thành một nhà nước tân thuộc địa và chỉ đem lại lợi ích cho những cán bộ cao cấp tham nhũng đang móc ngoặc với Bắc Kinh. Những người khác thì lại chỉ ra rằng nhờ việc làm ăn của Trung Quốc dồn dập đổ vào Zambia mà những năm gần đây nguồn thu ở đất nước này đã tăng lên rất nhiều; mùa hè năm nay Ngân hàng Thế giới đã xếp Zambia là nền kinh tế "đứng ở vị trí giữa" về thu nhập.
But the Human Rights Watch report, compiled on the basis of some 170 interviews conducted during three field assignments this year and last, paints a grimmer picture: workers in Chinese-run mines are forced to work grueling weekly shifts that violate Zambian labor law; miners are supplied with shoddy, insufficient equipment, which have led to accidents; Chinese managers pressure Zambian workers to toil in unsafe conditions and allegedly bribe workers to keep dissent under wraps; union organizers and members get intimidated and harassed by company officials.
Nhưng bản báo cáo của HRW dựa trên 170 cuộc phỏng vấn trong ba chuyến đi quan sát thực địa trong năm nay và năm ngoái đã vẽ một bức tranh ảm đạm: công nhân tại những khu mỏ do Trung Quốc điều hành bị cưỡng ép làm việc liên tục nhiều ca trong tuần đến mức kiệt sức và điều này là vi phạm luật lao động của Zambia; thợ mỏ không những được cung cấp trang thiết bị lao động dởm mà lại còn thiếu nữa, điều này đã dẫn đến rất nhiều vụ tai nạn; chủ Trung Quốc ép công nhân Zambia phải lao động nặng nhọc trong những điều kiện không an toàn và được cho là đã hối lộ công nhân để họ giấu kín sự bất bình; các tổ chức công đoàn thì bị các quan chức của công ty Trung Quốc đe dọa và quấy nhiễu.
Workers in three Chinese-run companies, hoping to capitalize on Sata's electoral victory, commenced strikes for a week in October. But since Sata took over, he has softened his line on China, aware of the billions of dollars of Chinese investment promised to Zambia in the next few years. Officials from one Chinese mining firm have darkly warned they will "discipline" troublemakers. HRW says the blame can't lie solely on Chinese companies and that it's up to the Zambian government to enforce labor laws and mining regulations that already exist.
Công nhân làm việc tại các công ty của Trung Quốc hy vọng ông Sata giành được chiến thắng nên đã bắt đầu đình công một tuần lễ hồi tháng 10. Nhưng kể từ khi Sata lên nắm chính quyền thì ông ta đã trở nên mềm mỏng hơn trong đường lối đối với Trung Quốc, ông ta ý thức được rằng hàng tỷ đô la đầu tư của Trung Quốc đã được hứa hẹn với Zambia trong một vài năm tới. Các quan chức của một công ty khai khoáng của Trung Quốc mới đây đã nói cảnh cáo lấp lửng rằng họ sẽ "kỷ luật" những người gây rối. HRW cho rằng không thể đổ lỗi cho riêng các công ty Trung Quốc và trách nhiệm của Chính phủ Zambia là phải thực thi luật lao động và những quy định về khai khoáng đang có hiệu lực.
The Sino-Zambian relationship is a microcosm of China's engagement with the entire continent. Chinese engineers helped set up a vital railroad to Tanzania in the 1970s and the connection stuck. Now, Chinese interests include mines in the country's Copperbelt -- as much as 75% of Zambia's GDP stems from copper exports -- but also a whole range of retail and textile enterprises. Zambia is the first country to boast a RMB-issuing branch of Bank of China; bi-lateral trade between the two countries approached $3 billion in 2010.
Mối quan hệ Trung Quốc-Zambia là hình ảnh thu nhỏ của sự cam kết của Trung Quốc tại lục địa này. Các kỹ sư Trung Quốc trong những năm 1970 đã giúp đỡ khởi công xây dựng một tuyến đường sắt xung yếu nối Zambia với Tanzania và cho đến nay thì việc xây dựng tuyến đường sắt này vẫn bị bỏ dở. Giờ đây thì Trung Quốc đang quan tâm tới những mỏ nằm trong Vành đai Quặng Đồng của Zambia, xuất khẩu đồng chiếm tới 70% GDP của đất nước này, song Trung Quốc còn quan tâm tới một loạt những doanh nghiệp bán lẻ sản phẩm may dệt nữa. Zambia là quốc gia đầu tiên tự hào đã có chi nhánh phát hành tiền Nhân dân tệ của Ngân hàng Trung Quốc; thương mại song phương giữa hai nước đã lên tới 3 tỷ đôla trong năm 2010.
But, as the HRW report makes clear, there's a well-spring of bad feeling similar toward China and Chinese businesses in Zambia, who, claim interviewees, have led to the corruption of the political elite and certain ministries within the government. Still, avaricious mine-0wners don't only exist in southern Africa. "Many of the poor health and safety practices we found in Zambia's Chinese-run mines look strikingly similar to abuses we see in China," says Daniel Bekele, HRW's Africa director. "Respecting labor laws and ensuring workers' safety should be standard operating practice both in China and abroad, not treated as an irritating barrier to greater profits." That's an idealistic hope, especially at a time when China and other emerging powers are charging fitfully into a 21st century ripe with potential -- yet still so prone to disaster.
Song, như bản báo cáo của HRW đã nói rõ, hiện đang có những nguyên nhân gây ra ý kiến không tốt đối với Trung Quốc và các công ty của Trung Quốc tại Zambia, những người được phỏng vấn đã cho rằng Trung Quốc và các công ty của họ đã gây ra nạn tham nhũng trong giới chính trị cao cấp và các bộ ngành của Chính phủ. Thậm chí, những gã chủ mỏ hám lợi không chỉ có mặt ở quốc gia ở phía Nam châu Phi này. "Những hành động không quan tâm đến sức khỏe và an toàn của người lao động mà chúng tôi thấy ở các khu mỏ tại Zambia do Trung Quốc điều hành nom giống đến bất ngờ với những hành động ngược đãi công nhân mà chúng tôi thấy ở Trung Quốc", Daniel Bekele, Giám đốc HRW của châu Phi cho biết như vậy. "Tôn trọng luật lao động và đảm bảo an toàn cho công nhân phải là thói quen hành động chuẩn cả ở Trung Quốc lẫn ở nước ngoài, không được coi đó là một rào cản khó chịu làm giảm lợi nhuận". Nhưng mà đó chỉ là một hy vọng lý tưởng chủ nghĩa mà thôi, nhất là vào cái giai đoạn mà Trung Quốc và các cường quốc mới nổi khác đang chập chờn lao hùng hổ vào thế kỷ XXI đầy tiềm năng nhưng mà cũng rất dễ lao tới thảm họa.

Translated by pham anh tuan
http://globalspin.blogs.time.com/2011/11/04/human-rights-watch-reports-abuses-in-chinese-run-mines-in-zambia/

The Globalization of Protest Toàn cầu hóa phong trào chống đối



The Globalization of Protest
Toàn cầu hóa phong trào chống đối
By Joseph E. Stiglitz
Joseph E. Stiglitz
Project Syndicate
04-11-2011
NEW YORK – The protest movement that began in Tunisia in January, subsequently spreading to Egypt, and then to Spain, has now become global, with the protests engulfing Wall Street and cities across America. Globalization and modern technology now enables social movements to transcend borders as rapidly as ideas can. And social protest has found fertile ground everywhere: a sense that the “system” has failed, and the conviction that even in a democracy, the electoral process will not set things right – at least not without strong pressure from the street.
NEW YORK – Phong trào biểu tình bắt đầu ở Tunisia vào tháng 1, sau đó lan sang Ai Cập, rồi tới Tây Ban Nha, và giờ đây đã trở thành một phong trào toàn cầu, với những cuộc phản đối nhấn chìm phố Wall và các thành phố trên khắp nước Mỹ. Toàn cầu hóa cùng với công nghệ hiện đại giờ đây đang giúp cho các phong trào xã hội vươn khỏi mọi biên giới với tốc độ nhanh ngang ý nghĩ. Và ở khắp nơi, những cuộc chống đối trên toàn xã hội đó đã tìm ra một cơ sở vững chắc: một cảm giác rằng “hệ thống” đã sụp đổ, và kết luận rằng ngay cả ở trong một nền dân chủ, bầu cử cũng không làm cho mọi thứ trở nên đúng đắn được – ít nhất là không thể, nếu không có áp lực mạnh mẽ từ ngoài đường phố.

Chinese Concerns over Social Media Networks Trung Quốc lo ngại về mạng truyền thông xã hội




Chinese Concerns over Social Media Networks
Trung Quốc lo ngại về mạng truyền thông xã hội
By B. Raman
B. Raman
28-10-2011
The growing concerns of the Communist Party of China (CPC) over the destabilising potential of social media networks were reflected during the meeting of the Party Central Committee held at Beijing from October 15 to 18, 2011, under the presidentship of Hu Jintao, Party General Secretary.
Lo lắng gia tăng trong Đảng Cộng sản Trung Quốc về những bất ổn tiềm tàng của mạng truyền thông xã hội đã được phản ánh trong cuộc họp Ban Chấp hành Trung ương Đảng ở Bắc Kinh từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 10 năm 2011, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, Tổng Bí thư Đảng.
The special meeting of the Party CC, which was convened ostensibly to discuss and decide on the need for cultural reforms and on measures required to strengthen China’s soft power to enable it to keep pace with its economic power, was also devoted to discussing the concerns of the Party leadership over the difficulties being experienced in preventing the perceived misuse of microblogs to spread dissatisfaction among the people over the sins of commission and omission of the leadership.
Cuộc họp đặc biệt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập dưới hình thức bàn thảo và quyết định về nhu cầu cải cách văn hóa và về các biện pháp cần thiết để tăng cường sức mạnh mềm của Trung Quốc sao cho bắt kịp với sức mạnh kinh tế của nước này, cũng đã bàn thảo về những lo lắng của ban lãnh đạo đảng về những khó khăn đang phải trải qua trong việc ngăn chặn tình trạng lạm dụng các microblog để gieo rắc sự bất mãn trong dân chúng về những sai phạm của ủy ban cũng như việc không làm tròn trách nhiệm của ban lãnh đạo.

Teaching Four-Month-Old Babies to Swim Dạy Trẻ Bốn tháng tuổi bơi



Teaching Four-Month-Old Babies to Swim
Dạy Trẻ Bốn tháng tuổi bơi
Once a week four-month-old babies and one of their parents head to the pool in Ra'anana, for a special half hour swim lesson.
Mỗi tuần một lần đứa trẻ sơ sinh bốn tháng tuổi này và cha hay mẹ mẹ cháu đến hồ bơi ở Ra'anana, để học bơi đặc biệt trong nửa giờ.
Under the guidance of a hydro-therapist they perform various exercises accompanied with singing, which is aims to improve their posture and coordination, and also play with some toys!
Dưới sự hướng dẫn của một bác sĩ chuyên khoa thủy liệu pháp họ thực hiện các bài tập khác nhau đi kèm với ca hát, nhằm mục đích để cải thiện tư thế và phối hợp, và cũng như chơi với một số đồ chơi!
All this is organized by the Izy Shapira House, a non-profit that strives to improve the quality of life of children with special needs.
Tất cả được tổ chức bởi Shapira Izy House, một tổ chức phi lợi nhuận phấn đấu để cải thiện chất lượng cuộc sống của trẻ em có nhu cầu đặc biệt.

China's Health Crisis: The Sick Man of Asia Yanzhong Huang Cuộc khủng hoảng y tế của Trung Quốc: Con bệnh châu Á



China's Health Crisis: The Sick Man of Asia
Yanzhong Huang
Cuộc khủng hoảng y tế của Trung Quốc: Con bệnh châu Á
By Yanzhong Huang
Yanzhong Huang
Foreign Affairs, November/December 2011

Although China has made remarkable economic progress over the past few decades, its citizens' health has not improved as much. Since 1980, the country has achieved an average economic growth rate of ten percent and lifted 400-500 million people out of poverty. Yet Chinese official data suggest that average life expectancy in China rose by only about five years between 1981 and 2009, from roughly 68 years to 73 years. (It had increased by almost 33 years between 1949 and 1980.) In countries that had similar life expectancy levels in 1981 but had slower economic growth thereafter -- Colombia, Malaysia, Mexico, and South Korea, for example -- by 2009 life expectancy had increased by 7-14 years. According to the World Bank, even in Australia, Hong Kong, Japan, and Singapore, which had much higher life expectancy figures than China in 1981, those figures rose by 7-10 years during the same period.
Mặc dù Trung Quốc (TQ) đã đạt được những tiến bộ kinh tế ngoạn mục trong những thập niên qua, nhưng sức khỏe của người dân TQ lại không được cải thiện như thế. Kể từ năm 1980, quốc gia này đã đạt mức tăng trưởng kinh tế trung bình 10% một năm và đưa 400-500 triệu người ra khỏi mức nghèo khổ. Tuy vậy, những dữ liệu chính thức của TQ cho thấy rằng tuổi thọ trung bình tại TQ chỉ tăng thêm khoảng 5 năm trong thời gian từ 1981 đến 2009, từ khoảng 68 tuổi lên 73 tuổi (Tuổi thọ đã tăng thêm gần 33 năm trong thời gian giữa 1949 và 1980). Trong những nước có tuổi thọ trung bình tương tự vào năm 1981 nhưng sau đó có mức tăng trưởng kinh tế chậm hơn TQ – chẳng hạn, Columbia, Malaysia, Mexico, và Nam Hàn – vào năm 2009 tuổi thọ trung bình đã tăng thêm 7-14 năm. Theo Ngân hàng Thế giới, thậm chí tại Australia, Hong Kong, Nhật Bản, và Singapore, những nơi có tuổi thọ cao hơn TQ rất nhiều vào năm 1981, tuổi thọ trung bình của người dân tăng thêm 7-10 năm trong cùng giai đoạn.

Severn Suzuki’s speech to UN Earth summit. Bài phát biểu gởi hội nghị thượng đỉnh Trái đất. của Liên Hợp Quốc 1992




Here is the full text of Severn Cullis-Suzuki’s speech before the UN Earth Summit in Rio, Brazil in 1992, made when she was 12 years old. Too bad the world listened, applauded, and shed an emotional tear, but did not do anything substantial for her, as the likes of George W. Bush decided it would be too restrictive on their accustomed way of life, and would cost their industrial cronies too much.

Dưới đây là toàn văn bài phát biểu của Severn Cullis Suzuki trước Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất của Liên Hợp Quốc tại Rio, Brazil vào năm 1992, khi cô 12 tuổi. Cả thế giới xấu hổ lắng nghe, hoan nghênh, và nhỏ những giọt nước mắt cảm xúc, nhưng thế giới đã không làm bất cứ điều gì đáng kể cho cô ấy, khi những cái tên như George W. Bush đã quyết định hạn chế đi trên con đường với lối sống quen thuộc của họ, và không dám hy sinh những người bạn nối khố của họ, các ngành công nghiệp.

Hello, I’m Severn Suzuki speaking for E.C.O. – The Environmental Children’s Organisation.

Xin chào, tôi là Severn Suzuki thay mặt cho ECO – Tổ chức trẻ em vì môi trường.

We are a group of twelve and thirteen-year-olds from Canada trying to make a difference: Vanessa Suttie, Morgan Geisler, Michelle Quigg and me. We raised all the money ourselves to come six thousand miles to tell you adults you must change your ways. Coming here today, I have no hidden agenda. I am fighting for my future.

Chúng tôi là 1 nhóm những người 12 – 13 tuổi đang cố gắng tạo ra 1 sự khác biệt : Vanessa Suttie, Morgan Geisler, Michelle Quigg và tôi. Chúng tôi đã tự tiết kiệm tiền để đến được đây, đi hơn 5000 dặm để nói cho người lớn các vị rằng, các vị phải thay đổi. Đến đây hôm nay, tôi không có 1 chương trình nghị sự bí mật nào cả. Tôi đang chiến đấu vị tương lai của mình.

Losing my future is not like losing an election or a few points on the stock market.

Mất đi tương lai của mình không giống như thua 1 cuộc bầu cử, hay mất đi vài điểm trên sàn chứng khoán.

I am here to speak for all generations to come.

Tôi đến đây để nói thay cho tất cả các thế hệ tương lai.

I am here to speak on behalf of the starving children around the world whose cries go unheard.

Tôi đến đây để nói thay cho những đứa trẻ đang chết đói mà không ai có thể nghe được tiếng khóc của chúng.

I am here to speak for the countless animals dying across this planet because they have nowhere left to go. We cannot afford to be not heard.

Tôi đến đây để nói thay cho vô số loài động vật đang chết dần chết mòn trên cả hành tinh này vì không có nơi nào để đi. Chúng ta không thể không nghe thấy.

I am afraid to go out in the sun now because of the holes in the ozone. I am afraid to breathe the air because I don’t know what chemicals are in it.

Tôi sợ phải ra ngoài ánh sáng mặt trời vì những lỗ thủng trong tầng ozone. Tôi sợ phải hít thở vì không biết trong không khí có những hóa chất gì.

I used to go fishing in Vancouver with my dad until just a few years ago we found the fish full of cancers. And now we hear about animals and plants going extinct every day — vanishing forever.

Tôi từng đi câu cá ở Vancouver – quê hương tôi – cùng với cha tôi cho đến vài năm về trước khi biết rằng lũ cá mang đầy bệnh tật. Và giờ đây chúng tôi nghe tin rằng nhiều động vật, thực vật đang tuyệt chủng hàng ngày – biến mất mãi mãi.

In my life, I have dreamt of seeing the great herds of wild animals, jungles and rainforests full of birds and butterflies, but now I wonder if they will even exist for my children to see.

Tôi đã từng mơ về việc được nhìn thấy những đàn gia súc lớn, những khu rừng rộng đầy chim chóc và bướm, nhưng bây giờ tôi không biết chúng có còn tồn tại để con cái tôi được chứng kiến hay không.

Did you have to worry about these little things when you were my age?

Các vị có phải lo lắng như vậy hồi bằng tưổi tôi không?

All this is happening before our eyes and yet we act as if we have all the time we want and all the solutions. I’m only a child and I don’t have all the solutions, but I want you to realise, neither do you!

Tất cả những việc này đang xảy ra ngay trước mắt chúng ta, vậy mà chúng ta đều cư xử như thể chúng ta đều còn thừa cả thời gian và giải pháp. Tôi chỉ là trẻ con và không có giải pháp nào, nhưng tôi muốn các vị nhận ra rằng chính các vị cũng không!

• You don’t know how to fix the holes in our ozone layer.

• You don’t know how to bring salmon back up a dead stream.

• You don’t know how to bring back an animal now extinct.

• And you can’t bring back forests that once grew where there is now desert.

- Các vị không biết cách xử lý những lỗ thủng ở tầng ozone.

- Các vị không biết cách khiến cho cá hồi trở lại 1 con suối đã ngưng chảy.

- Các vị không biết cách hồi sinh 1 loài vật đã tuyệt chủng.

- Và các vị không thể mang lại những khu rừng ở những nơi giờ đây chỉ còn là sa mạc.

If you don’t know how to fix it, please stop breaking it!

Nếu các vị không thể sửa chữa tình hình, xin đừng làm nó tệ hơn nữa!

Here, you may be delegates of your governments, business people, organisers, reporters or politicians – but really you are mothers and fathers, brothers and sister, aunts and uncles – and all of you are somebody’s child.

Ở đây, các vị có thể là đại biểu chính phủ, doanh nhân, nhà tổ chức, phóng viên hay chính trị gia – nhưng thật ra các vị là những người mẹ và người cha, người anh và người chị, người cô hay hay người chú – và tất cả đều là những người con.

I’m only a child yet I know we are all part of a family, five billion strong, in fact, 30 million species strong and we all share the same air, water and soil — borders and governments will never change that.

Tôi chỉ là trẻ con nhưng còn biết được chúng ta đều là thành viên của một gia đình hơn 5 tỷ người, thực ra là 30 triệu loài, cùng nhau chia sẻ không khí nước uống và đất đai – biên giới quốc gia và các chính phủ sẽ không thể thay đổi điều đó.

I’m only a child yet I know we are all in this together and should act as one single world towards one single goal.

Tôi chỉ là trẻ con nhưng tôi biết chúng ta đều có phần trách nhiệm và nên hành động như một thế giới duy nhất để tiến về một mục tiêu duy nhất.

In my anger, I am not blind, and in my fear, I am not afraid to tell the world how I feel.

Tôi không mù quáng trong cơn giận dữ, và không lo lắng trong cơn sợ hãi để cho cả thế giới biết được suy nghĩ của mình.

In my country, we make so much waste, we buy and throw away, buy and throw away, and yet northern countries will not share with the needy. Even when we have more than enough, we are afraid to lose some of our wealth, afraid to share.

Ở nước tôi, chúng tôi thải ra quá nhiều rác, chúng tôi mua rồi lại vứt đi, vậy mà các nước phương Bắc vẫn không chia sẻ với người nghèo. Kể cả khi đã thừa thãi, chúng ta vẫn sợ phải chia sẻ, sợ phải cho đi một chút của cải.

In Canada, we live the privileged life, with plenty of food, water and shelter — we have watches, bicycles, computers and television sets.

Ở Canada, chúng tôi sống với đặc quyền, với rất nhiều lương thực, nước uống và nhà ở. Chúng tôi có đồng hồ, xe đạp, máy tính và tivi.

Two days ago here in Brazil, we were shocked when we spent some time with some children living on the streets. And this is what one child told us: “I wish I was rich and if I were, I would give all the street children food, clothes, medicine, shelter and love and affection.”

Nhưng hai ngày trước ở đây, ở ngay Brazil, chúng tôi đã rất kinh ngạc khi sống cùng với những đứa trẻ trên đường phố. Một đứa bé đã nói với tôi như thế này “Ước gì tớ thật giàu có. Nếu như vậy, tớ sẽ cho bọn trẻ trên đường phố thức ăn, quần áo, thuốc thang, nhà ở và cả tình thương và sự cảm thông nữa”.

If a child on the street who has nothing, is willing to share, why are we who have everything still so greedy?

Một đứa trẻ trên phố không có gì mà còn sẵn sàng chia sẻ, thì tại sao những người đầy đủ như chúng ta lại tham lam như thế này?

I can’t stop thinking that these children are my age, that it makes a tremendous difference where you are born, that I could be one of those children living in the Favellas of Rio; I could be a child starving in Somalia; a victim of war in the Middle East or a beggar in India.

Tôi không thể không nghĩ đến những đứa trẻ đó chỉ bằng tuổi tôi, rằng nếu chỉ được sinh ra ở một nơi khác thôi, thì tôi có thể là những đứa trẻ sống ở khu nhà ổ chuột ở Rio, hoặc một đứa trẻ đang chết đói ở Somali, một nạn nhân chiến tranh ở Trung Đông hay một kẻ ăn xin ở Ấn Độ.

I’m only a child yet I know if all the money spent on war was spent on ending poverty and finding environmental answers, what a wonderful place this earth would be!

Tôi chỉ là trẻ con nhưng còn biết được nếu tất cả những đồng tiền chi phí chiến tranh được dùng để tìm kiếm giải pháp cho môi trường, chấm dứt đói nghèo và đi đến một hiệp ước thì thế giới này sẽ tuyệt đẹp đến nhường nào!

At school, even in kindergarten, you teach us to behave in the world. You teach us:

• not to fight with others,

• to work things out,

• to respect others,

• to clean up our mess,

• not to hurt other creatures

• to share – not be greedy.

Ở trường học, thậm chí là ở mẫu giáo, các vị đã dạy cho chúng tôi phải cư xử cho đúng mực. Các vị đã dạy chúng tôi:

- Không được tranh cãi với nhau.

- Phải biết tìm ra giải pháp.

- Phải biết tôn trọng người khác.

- Phải biết sửa chữa những gì mình gây ra.

- Không được làm hại những sinh vật khác.

- Phải biết chia sẻ - không được tham lam.

Then why do you go out and do the things you tell us not to do?

Vậy tại sao các vị lại thực hiện những việc đã bảo chúng tôi không được làm?

Do not forget why you’re attending these conferences, who you’re doing this for — we are your own children. You are deciding what kind of world we will grow up in. Parents should be able to comfort their children by saying “everything’s going to be alright”, “we’re doing the best we can” and “it’s not the end of the world”.

Chẳng lẽ các vị đã quên mất mình tham dự những hội thảo này để làm gì và để cho ai? Chúng tôi là con cháu của các vị. Chính các vị đang quyết định chúng tôi sẽ lớn lên trong thế giới như thế nào? Cha mẹ lẽ ra phải có thể an ủi con cái bằng cách nói “mọi thứ sẽ ổn hết thôi mà”, “chưa phải là ngày tận thế đâu”, hay “cha mẹ đã làm hết khả năng của mình rồi”.

But I don’t think you can say that to us anymore. Are we even on your list of priorities? My father always says “You are what you do, not what you say.”

Nhưng tôi không nghĩ rằng các vị có thể nói vậy với chúng tôi nữa. Liệu chúng tôi có còn là một ưu tiên của các vị nữa không? Cha tôi luôn nói với tôi: “Hành động mới quyết định con người thật của con, chứ không phải lời nói”.

Well, what you do makes me cry at night. You grown ups say you love us. I challenge you, please make your actions reflect your words.

Và hành động của các vị khiến cho đêm nào tôi cũng khóc. Các vị sẽ nói là yêu thương chúng tôi, nhưng tôi xin được thách thức các vị rằng hãy để cho hành động của mình đúng với lời nói.

Thank you for listening.

Cảm ơn quý vị đã lắng nghe.

Severn Cullis-Suzuki has been active in environmental and social justice work ever since kindergarten. She was twelve years old when she gave this speech, and she received a standing ovation. Now 23, Cullis-Suzuki spearheads The SkyFish Project and continues to speak to schools and corporations, and at many conferences and international meetings. She lives in Vancouver, British Columbia.

Severn Cullis-Suzuki tham gia công tác môi trường công bằng xã hội kể từ khi học mẫu giáo. được mười hai tuổi khi cô đọc bài phát biểu này, cô đã nhận được hoan nghênh nhiệt liệt. Bây giờ 32 tuổi, Cullis-Suzuki đứng đầu Dự án SkyFish tiếp tục nói chuyện với trường học và các công ty, tại các hội nghị và các cuộc họp quốc tế. Cô sống Vancouver, British Columbia.



http://ssjothiratnam.com/?p=747