MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Sunday, October 16, 2011

The Water Hegemon Trung Quốc: Hải Bá


The Water Hegemon

Trung Quốc: Bá quyền về sông nước

By Brahma Chellaney

Brahma Chellaney

2011-10-14

NEW DELHI – International discussion about China’s rise has focused on its increasing trade muscle, growing maritime ambitions, and expanding capacity to project military power. One critical issue, however, usually escapes attention: China’s rise as a hydro-hegemon with no modern historical parallel.

NEW DELHI – Cuộc thảo luận của cộng đồng quốc tế về sự trỗi dậy của Trung Quốc đã và đang tập trung vào tiềm năng thương mại đang gia tăng, tham vọng trên biển ngày một lớn và khả năng củng cố sức mạnh quân sự của nước này. Nhưng một vấn đề then chốt thường bị bỏ qua: sự vươn lên của Trung Quốc, một bá quyền trên sông nước, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử hiện đại.

No other country has ever managed to assume such unchallenged riparian preeminence on a continent by controlling the headwaters of multiple international rivers and manipulating their cross-border flows. China, the world’s biggest dam builder – with slightly more than half of the approximately 50,000 large dams on the planet – is rapidly accumulating leverage against its neighbors by undertaking massive hydro-engineering projects on transnational rivers.

Chưa từng có nước nào tìm cách nắm thế thượng phong trên những vùng đất ven sông trên cả một lục địa mà không ai có thể thách thức, bằng cách kiểm soát thượng nguồn của những dòng sông chảy qua nhiều quốc gia và điều chỉnh dòng chảy xuyên biên giới của chúng. Trung Quốc là quốc gia xây nhiều đập nhất thế giới – gần một nửa của tổng số 50.000 con đập lớn trên hành tinh – họ đang nhanh chóng tích lũy được ảnh hưởng đối với các quốc gia láng giềng bằng cách xây nhiều đập thủy điện trên những dòng sông chảy qua nhiều nước.

Asia’s water map fundamentally changed after the 1949 Communist victory in China. Most of Asia’s important international rivers originate in territories that were forcibly annexed to the People’s Republic of China. The Tibetan Plateau, for example, is the world’s largest freshwater repository and the source of Asia’s greatest rivers, including those that are the lifeblood for mainland China and South and Southeast Asia. Other such Chinese territories contain the headwaters of rivers like the Irtysh, Illy, and Amur, which flow to Russia and Central Asia.

Sau chiến thắng của cộng sản Trung Quốc vào năm 1949, bản đồ thủy văn châu Á đã có những thay đổi cơ bản. Phần lớn những dòng sông chính của châu Á đều bắt nguồn từ những vùng lãnh thổ bị sáp nhập một cách cưỡng bức vào nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Thí dụ, cao nguyên Tây Tạng, khu vực chứa nước ngọt lớn nhất thế giới và là cội nguồn của những dòng sông lớn nhất châu Á, trong đó có những con sông huyết mạch của Trung Hoa lục địa và những nước Đông Nam Á. Những khu vực khác của Trung Quốc cũng là cội nguồn của các dòng sông như Irtysh, Illy và Amur, chảy qua Nga và các nước Trung Á.

This makes China the source of cross-border water flows to the largest number of countries in the world. Yet China rejects the very notion of water sharing or institutionalized cooperation with downriver countries.

Điều đó làm cho Trung Quốc trở thành nguồn của những con sông chảy qua nhiều nước nhất trên thế giới. Nhưng Trung Quốc lại bác bỏ chính khái niệm chia sẻ nguồn nước hay là hợp tác với các nước ở hạ lưu.

Whereas riparian neighbors in Southeast and South Asia are bound by water pacts that they have negotiated between themselves, China does not have a single water treaty with any co-riparian country. Indeed, having its cake and eating it, China is a dialogue partner but not a member of the Mekong River Commission, underscoring its intent not to abide by the Mekong basin community’s rules or take on any legal obligations.

Trong khi các nước láng giềng nằm trên bờ những dòng sông ở Đông Nam và Nam Á đã ký những thỏa nhuận về hợp tác thì Trung Quốc lại chưa có bất kỳ thỏa ước về chia sẻ nguồn nước với bất kỳ nước nào. Trung Quốc được hưởng lợi và là bên đối thoại chứ không phải thành viên Ủy ban hợp tác sông Mekong, có ý khẳng định là họ không tuân thủ quy tắc của cộng đồng các quốc gia lưu vực sông Mekong hoặc nhận bất cứ trách nhiệm pháp lý nào.

Worse, while promoting multilateralism on the world stage, China has given the cold shoulder to multilateral cooperation among river-basin states. The lower-Mekong countries, for example, view China’s strategy as an attempt to “divide and conquer.”

Tồi tệ hơn nữa là trong khi khuyến khích chủ nghĩa đa phương trên trường quốc tế thì Trung Quốc lại nhún vai trước sự hợp tác đa phương giữa các nước lưu vực dòng sông này. Các nước hạ lưu sông Mekong coi chiến lược của Trung Quốc là “chia để trị”.

Although China publicly favors bilateral initiatives over multilateral institutions in addressing water issues, it has not shown any real enthusiasm for meaningful bilateral action. As a result, water has increasingly become a new political divide in the country’s relations with neighbors like India, Russia, Kazakhstan, and Nepal.

Mặc dù Trung Quốc tỏ thái độ công khai ưu ái sáng kiến song phương so với đa phương trong việc giải quyết các vấn đề về nước, nhưng họ lại không thể hiện bất kỳ sự nhiệt tình nào đối với những hành động song phương. Kết quả là nước càng ngày càng trở thành nguồn gốc chia rẽ chính trị mới trong quan hệ với các nước như Ấn Độ, Nga, Kazakhstan và Nepal.

China deflects attention from its refusal to share water, or to enter into institutionalized cooperation to manage common rivers sustainably, by flaunting the accords that it has signed on sharing flow statistics with riparian neighbors. These are not agreements to cooperate on shared resources, but rather commercial accords to sell hydrological data that other upstream countries provide free to downriver states.

Trung Quốc tìm cách lái sự chú ý của dư luận khỏi việc họ từ chối chia sẻ nguồn nước hoặc tham gia hợp tác nhằm quản lý các dòng sông một cách bền vững bằng cách khoe những thỏa thuận mà họ đã ký với các nước khác về việc chia sẻ số liệu thống kê về lưu lượng với các nước láng giềng. Đây không phải là những thỏa thuận về hợp tác mà là thỏa thuận thương mại về việc cung cấp số liệu mà các nước thượng lưu khác thường cung cấp miễn phí cho các nước ở hạ lưu.

In fact, by shifting its frenzied dam building from internal rivers to international rivers, China is now locked in water disputes with almost all co-riparian states. Those disputes are bound to worsen, given China’s new focus on erecting mega-dams, best symbolized by its latest addition on the Mekong – the 4,200-megawatt Xiaowan Dam, which dwarfs Paris’s Eiffel Tower in height – and a 38,000-megawatt dam planned on the Brahmaputra at Metog, close to the disputed border with India. The Metog Dam will be twice as large as the 18,300-megawatt Three Gorges Dam, currently the world’s largest, construction of which uprooted at least 1.7 million Chinese.

Trên thực tế, bằng cách đẩy việc xây dựng với tốc độ điên khùng các con đập trên những dòng sông nội địa sang xây dựng đập trên những dòng sông chảy qua nhiều nước, Trung Quốc hiện đang vướng mắc vào những cuộc tranh cãi về nguồn nước với hầu như tất cả các nước có chung dòng sông với họ. Những cuộc tranh cãi này chắc chắn sẽ ngày càng xấu thêm vì Trung Quốc đang tập trung xây dựng những siêu đập, với biểu tượng là một con đập nữa trên sông Mekong – đập Xiaowan với công suất 4.200 megawatt, cao hơn cả tháp Eiffel ở Paris và đang lập kế hoạch xây con đập với công suất lên đến 38.000 megawatt ở Metog, trên sông Brahmaputra, gần biên giới đang tranh chấp với Ấn Độ. Đập Metog sẽ lớn gấp hai lần đập Tam Hiệp, với công suất 18.300 megawatt, hiện là đập lớn nhất thế giới. 1,7 triệu người Trung Quốc đã phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để lấy đất cho việc xây dựng con đập này.

In addition, China has identified another mega-dam site on the Brahmaputra at Daduqia, which, like Metog, is to harness the force of a nearly 3,000-meter drop in the river’s height as it takes a sharp southerly turn from the Himalayan range into India, forming the world’s longest and steepest canyon. The Brahmaputra Canyon – twice as deep as the Grand Canyon in the United States – holds Asia’s greatest untapped water reserves.

Ngoài ra, Trung Quốc đã xác định vị trí một siêu đập ở Daduqia trên sông Brahmaputra, tương tự như đập ở Metog, với độ cao thác nước là 3.000 mét tại chỗ con sông này chảy từ dãy Himalaya vào Ấn Độ. Đây sẽ là con đập dài nhất và nằm ở hẻm núi dốc nhất thế giới. Dốc núi Brahmaputra – sâu gấp hai lần dốc núi Grand ở Mỹ – là bể chứa nước chưa khai thác lớn nhất ở châu Á.

The countries likely to bear the brunt of such massive diversion of waters are those located farthest downstream on rivers like the Brahmaputra and Mekong – Bangladesh, whose very future is threatened by climate and environmental change, and Vietnam, a rice bowl of Asia. China’s water appropriations from the Illy River threaten to turn Kazakhstan’s Lake Balkhash into another Aral Sea, which has shrunk to less than half its original size.

Những nước phải chịu tác động mạnh nhất của sự đổi hướng dòng chảy lại là những nước nằm ở hạ lưu những con sông như Brahmaputra và Mekong – đấy là Bangladesh, tương lai của nước này đang bị đe dọa bởi sự thay đổi thời tiết và môi trường, và Việt Nam, vựa lúa của châu Á. Việc Trung Quốc chiếm đoạt nguồn nước sông Illy có thể biến hồ Balkhash của Kazakhstan thành biển Aral thứ hai. Biển này đã co lại chỉ còn chưa được một nửa kích thước ban đầu.

In addition, China has planned the “Great Western Route,” the proposed third leg of the Great South-North Water Diversion Project – the most ambitious inter-river and inter-basin transfer program ever conceived – whose first two legs, involving internal rivers in China’s ethnic Han heartland, are scheduled to be completed within three years. The Great Western Route, centered on the Tibetan Plateau, is designed to divert waters, including from international rivers, to the Yellow River, the main river of water-stressed northern China, which also originates in Tibet.

Ngoài ra, Trung Quốc còn lập kế hoạch xây dựng “Đường dẫn nước vĩ đại phía Tây”, tức là chân thứ ba của “Dự án Phân dòng Bắc-Nam Vĩ đại” – một chương trình chuyển nước giữa các dòng sông và các hồ chứa chưa từng có từ trước tới nay – trong đó hai chân đầu là để nối các dòng sông trong khu vực Hoa hạ, theo kế hoạch sẽ hoàn thành trong vòng ba năm. Đường dẫn nước vĩ đại phía Tây, tập trung vào cao nguyên Tây Tạng, nhằm làm chệch hướng dòng chảy, kể cả dòng chảy của những con sông đi qua các nước khác, sang sông Hoàng Hà, dòng sông chính cung cấp nước cho miền Bắc Trung Quốc. Con sông này cũng xuất phát từ Tây Tạng.

With its industry now dominating the global hydropower-equipment market, China has also emerged as the largest dam builder overseas. From Pakistani-held Kashmir to Burma’s troubled Kachin and Shan states, China has widened its dam building to disputed or insurgency-torn areas, despite local backlashes.

Với nền công nghiệp đang giữ thế thượng phong trong thị trường thiết bị thủy điện; trong lĩnh vực xây dựng đập nước ở hải ngoại, Trung Quốc cũng là nhà thầu xây dựng lớn nhất thế giới. Từ khu vực Kashmir do Pakistan nắm giữ cho đến lãnh thổ đầy xáo trộn của người Kachin và người Shan ở Myanmar, Trung Quốc đang mở rộng dần việc xây dựng đập nước đến những vùng lãnh thổ đang tranh chấp và những khu vực bạo loạn, mặc cho sự phản đối của dân chúng địa phương.

For example, units of the People’s Liberation Army are engaged in dam and other strategic projects in the restive, Shia-majority region of Gilgit-Baltistan in Pakistan-held Kashmir. And China’s dam building inside Burma to generate power for export to Chinese provinces has contributed to renewed bloody fighting recently, ending a 17-year ceasefire between the Kachin Independence Army and the government.

Thí dụ các đơn vị Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đang tham gia vào việc xây đập nước và những dự án chiến lược khác trong khu vực bất ổn Gilgit-Baltistan có đa số người Shia sinh sống trong vùng Kashmir do Pakistan kiểm soát. Và con đập do Trung Quốc xây dựng ở Myanmar tạo ra nguồn năng lượng để xuất khẩu vào các tỉnh của Trung Quốc đã góp phần gây ra cuộc chiến đẫm máu trong thời gian gần đây, chấm dứt giai đoạn ngừng bắn giữa Quân đội độc lập Kashin và Chính phủ Myanmar kéo dài đã 17 năm.

As with its territorial and maritime disputes with India, Vietnam, Japan, and others, China is seeking to disrupt the status quo on international-river flows. Persuading it to halt further unilateral appropriation of shared waters has thus become pivotal to Asian peace and stability. Otherwise, China is likely to emerge as the master of Asia’s water taps, thereby acquiring tremendous leverage over its neighbors’ behavior.

Trung Quốc đang tìm cách phá vỡ hiện trạng trên những dòng sông chảy qua nhiều nước bằng những cuộc tranh chấp về lãnh thổ và hàng hải với Ấn Độ, Việt Nam, Nhật Bản, và những quốc gia khác. Như vậy là, thuyết phục họ chấm dứt sự chiếm đoạt đơn phương nguồn nước mà các nước cùng chỉa sẻ đã trở thành vấn đề mấu chốt cho hòa bình và ổn định ở châu Á. Nếu không, Trung Hoa có thể sẽ nổi lên như là người kiểm soát nguồn nước của châu Á và bằng cách đó, tạo ra ảnh hưởng rất lớn đối với các nước láng giềng.

Brahma Chellaney, Professor of Strategic Studies at the Center for Policy Research, is the author of Water: Asia’s New Battleground.

Brahma Chellaney, là Giáo sư nghiên cứu chiến lược tại Trung tâm nghiên cứu chính sách, tác giả cuốn: Nước – Chiến trường mới của châu Á.


Translated by Phạm Nguyên Trường





http://www.project-syndicate.org/commentary/chellaney20/English

The World is flat - Thế giới là phẳng

America's Pacific Century Thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ


America's Pacific Century

Thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ

By Hillary Clinton, Foreign Policy, November 2011

Hillary Clinton, Chính sách đối ngoại, tháng 10, 2011



The future of politics will be decided in Asia, not Afghanistan or Iraq, and the United States will be right at the center of the action.

Tương lai chính trị thế giới sẽ được định đoạt tại châu Á, chứ không phải tại Afghanistan hay Iraq, và Hoa Kỳ sẽ ở ngay trung tâm của biến chuyển này.

As the war in Iraq winds down and America begins to withdraw its forces from Afghanistan, the United States stands at a pivot point. Over the last 10 years, we have allocated immense resources to those two theaters. In the next 10 years, we need to be smart and systematic about where we invest time and energy, so that we put ourselves in the best position to sustain our leadership, secure our interests, and advance our values. One of the most important tasks of American statecraft over the next decade will therefore be to lock in a substantially increased investment -- diplomatic, economic, strategic, and otherwise -- in the Asia-Pacific region.

Trong khi cuộc chiến tại Iraq lắng dịu và Mỹ bắt đầu rút quân ra khỏi Afghanistan, Hoa Kỳ đang đứng vào một vị trí bản lề. Trong 10 năm qua, chúng ta đã dành những nguồn lực to lớn cho hai chiến trường nói trên. Trong 10 năm tới, chúng ta cần phải khôn khéo và làm việc có hệ thống liên quan đến những vùng chúng ta sẽ đầu tư thì giờ và năng lực, ngõ hầu chúng ta có thể đặt mình vào vị trí thuận lợi nhất nhằm duy trì vai trò lãnh đạo của chúng ta, đảm bảo lợi ích của chúng ta, và cổ vũ những giá trị của chúng ta. Vì thế, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của lãnh đạo Mỹ trong thập kỷ tới sẽ là tập trung vào một nỗ lực đầu tư được tăng cường đáng kể – về ngoại giao, kinh tế, chiến lược, và các lãnh vực khác – tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

The Asia-Pacific has become a key driver of global politics. Stretching from the Indian subcontinent to the western shores of the Americas, the region spans two oceans -- the Pacific and the Indian -- that are increasingly linked by shipping and strategy. It boasts almost half the world's population. It includes many of the key engines of the global economy, as well as the largest emitters of greenhouse gases. It is home to several of our key allies and important emerging powers like China, India, and Indonesia.

Châu Á - Thái Bình Dương đã trở thành một động cơ chủ yếu của chính trị toàn cầu. Trải dài từ tiểu lục địa Ấn Độ đến bờ Tây châu Mỹ, khu vực này đã vắt ngang hai đại dương – Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương – những đại dương ngày càng được nối kết nhiều hơn bằng tàu bè và ý nghĩa chiến lược. Khu vực này cũng tự hào vì chiếm gần nửa dân số thế giới. Nó chứa đựng nhiều cỗ máy then chốt của kinh tế toàn cầu, cũng như các quốc gia đã tung ra những lượng khí thải nhà kính lớn nhất. Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là quê hương của một số đồng minh chủ yếu của chúng ta và những cường quốc mới nổi (mới vươn dậy) quan trọng như Trung Quốc, Ấn Độ, và Indonesia.

At a time when the region is building a more mature security and economic architecture to promote stability and prosperity, U.S. commitment there is essential. It will help build that architecture and pay dividends for continued American leadership well into this century, just as our post-World War II commitment to building a comprehensive and lasting transatlantic network of institutions and relationships has paid off many times over -- and continues to do so. The time has come for the United States to make similar investments as a Pacific power, a strategic course set by President Barack Obama from the outset of his administration and one that is already yielding benefits.

Vào một thời điểm mà khu vực này đang xây dựng một cấu trúc kinh tế và an ninh già dặn hơn nhằm củng cố ổn định và thịnh vượng, sự cam kết của Hoa Kỳ đối với vùng này là thiết yếu. Sự cam kết này sẽ đóng góp cho việc xây dựng cấu trúc nói trên và mang lại lợi lộc cho vai trò lãnh đạo liên tục của Hoa Kỳ vào thế kỷ XXI này, giống hệt như sự cam kết của chúng ta sau Thế chiến II đối với việc xây dựng một mạng lưới gồm các định chế (institutions) và các mối quan hệ toàn diện và bền vững xuyên Đại Tây Dương đã từng mang lại lợi lộc nhiều lần hơn – và sẽ còn tiếp tục mang lại lợi lộc như thế. Đã đến lúc Hoa Kỳ cần thực hiện những đầu tư tương tự trong vai trò một cường quốc Thái Bình Dương, đây là một đường lối chiến lược được Tổng thống Barack Obama đưa ra từ đầu nhiệm kỳ của chính quyền ông và là một đường lối đã mang lại nhiều lợi ích.

With Iraq and Afghanistan still in transition and serious economic challenges in our own country, there are those on the American political scene who are calling for us not to reposition, but to come home. They seek a downsizing of our foreign engagement in favor of our pressing domestic priorities. These impulses are understandable, but they are misguided. Those who say that we can no longer afford to engage with the world have it exactly backward -- we cannot afford not to. From opening new markets for American businesses to curbing nuclear proliferation to keeping the sea lanes free for commerce and navigation, our work abroad holds the key to our prosperity and security at home. For more than six decades, the United States has resisted the gravitational pull of these "come home" debates and the implicit zero-sum logic of these arguments. We must do so again.

Trong khi Iraq và Afghanistan đang còn ở thời kỳ chuyển tiếp và đất nước chúng ta đang đối đầu với những thử thách kinh tế nghiêm trọng, có một số người trên sân khấu chính trị Mỹ đang đòi hỏi chúng ta không được tái phối trí lực lượng (reposition) mà phải mang các lực lượng về nước. Họ tìm cách cắt giảm sự hiện diện của chúng ta ở nước ngoài để hậu thuẫn các ưu tiên bức thiết ở trong nước. Những thôi thúc này là dễ hiểu, nhưng chúng rất sai lầm. Những kẻ cho rằng chúng ta không còn đủ sức để tích cực tham gia cùng thế giới rõ ràng đã đặt ngược vấn đề – sự thật là, chúng ta không thể không tham gia cùng thế giới. Từ việc mở ra các thị trường mới mẻ cho các doanh nghiệp Mỹ đến việc chặn đứng sự bành trướng vũ khí hạt nhân đến việc giữ cho các tuyến đường trên biển được tự do sử dụng cho mậu dịch và thông thương, các nỗ lực của chúng ta ở nước ngoài giữ vai trò then chốt cho sự thịnh vượng và an ninh của chúng ta ở trong nước. Hơn 60 năm qua, Hoa Kỳ đã nhiều lần chống lại sự thu hút của các cuộc tranh luận “đưa quân về nước” này cũng như cái logic tiềm ẩn “bên lở bên bồi” (zero-sum) của những lý luận này. Một lần nữa chúng ta phải chống lại khuynh hướng cô lập này.

Beyond our borders, people are also wondering about America's intentions -- our willingness to remain engaged and to lead. In Asia, they ask whether we are really there to stay, whether we are likely to be distracted again by events elsewhere, whether we can make -- and keep -- credible economic and strategic commitments, and whether we can back those commitments with action. The answer is: We can, and we will.

Ở nước ngoài, người ta đang phân vân về các ý định của Mỹ – tức quyết tâm tiếp tục tham gia và lãnh đạo thế giới của chúng ta. Tại châu Á, họ thắc mắc liệu chúng ta sẽ duy trì sự hiện hiện ở đó hay không, liệu chúng ta có thể một lần nữa bị chia trí vì những biến cố ở những nơi khác hay không, liệu chúng ta có thể đưa ra – và giữ vững – những cam kết khả tín về kinh tế và chiến lược hay không, và liệu chúng ta có thể hậu thuẫn những cam kết đó bằng hành động cụ thể hay không. Câu trả lời là: Chúng ta có thể và chúng ta có quyết tâm.

Harnessing Asia's growth and dynamism is central to American economic and strategic interests and a key priority for President Obama. Open markets in Asia provide the United States with unprecedented opportunities for investment, trade, and access to cutting-edge technology. Our economic recovery at home will depend on exports and the ability of American firms to tap into the vast and growing consumer base of Asia. Strategically, maintaining peace and security across the Asia-Pacific is increasingly crucial to global progress, whether through defending freedom of navigation in the South China Sea, countering the proliferation efforts of North Korea, or ensuring transparency in the military activities of the region's key players.

Vận dụng được sức tăng trưởng và tính năng động của châu Á là điều rất quan trọng đối với các lợi ích kinh tế và chiến lược của Mỹ và là một ưu tiên chủ yếu của Tổng thống Obama. Thị trường thông thoáng tại châu Á cung ứng cho Hoa Kỳ những cơ hội chưa từng có về đầu tư, mậu dịch, và sự tiếp cận công nghệ tinh vi. Sự phục hồi kinh tế ở trong nước chúng ta sẽ tùy thuộc vào hàng xuất khẩu và khả năng của các công ty Mỹ trong việc tiếp cận giới tiêu thụ rộng lớn và ngày càng đông đảo tại châu Á. Về chiến lược, duy trì hoà bình và an ninh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương là ngày càng thiết yếu cho sự tiến bộ toàn cầu, dù bằng cách bảo vệ sự tự do thông thương trên Biển Đông, hay bằng cách chống lại các nỗ lực phổ biến vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn, hay bằng cách đảm bảo tính minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước quan trọng trong vùng.

Just as Asia is critical to America's future, an engaged America is vital to Asia's future. The region is eager for our leadership and our business -- perhaps more so than at any time in modern history. We are the only power with a network of strong alliances in the region, no territorial ambitions, and a long record of providing for the common good. Along with our allies, we have underwritten regional security for decades -- patrolling Asia's sea lanes and preserving stability -- and that in turn has helped create the conditions for growth. We have helped integrate billions of people across the region into the global economy by spurring economic productivity, social empowerment, and greater people-to-people links. We are a major trade and investment partner, a source of innovation that benefits workers and businesses on both sides of the Pacific, a host to 350,000 Asian students every year, a champion of open markets, and an advocate for universal human rights.

Cũng như Châu Á là rất thiết yếu đối với tương lai của nước Mỹ, một nước Mỹ tích cực tham gia (engaged) là rất thiết yếu đối với tương lai châu Á. Khu vực này rất mong muốn sự lãnh đạo của Mỹ và doanh nghiệp Mỹ – có lẽ còn thiết tha hơn bất cứ thời nào trong lịch sử hiện đại. Chúng ta là cường quốc duy nhất có một mạng lưới liên minh vững mạnh ở trong khu vực, chúng ta không có tham vọng lãnh thổ, nhưng có một thành tích lâu dài là đã làm được nhiều ích lợi chung. Cùng với các đồng minh, chúng ta đã bảo đảm được an ninh khu vực qua hàng chục năm nay – tuần tra các tuyến đường biển châu Á và duy trì sự ổn định khu vực – và nỗ lực này đã giúp tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng kinh tế nơi đây. Chúng ta đã giúp hàng tỉ người trong khu vực hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu bằng cách thúc đẩy năng suất kinh tế, tăng cường xã hội dân sự, và phát triển các quan hệ nhân dân-với-nhân dân (people-to-people ties). Chúng ta là một đối tác đầu tư và mậu dịch quan trọng, là nguồn sáng tạo đã làm lợi cho giới công nhân và các doanh nghiệp trên cả hai bờ Thái Bình Dương, là nước chủ nhà đón mời 350.000 du học sinh châu Á mỗi năm, một quán quân về thị trường cởi mở, và là quốc gia cổ vũ các nhân quyền phổ quát.

President Obama has led a multifaceted and persistent effort to embrace fully our irreplaceable role in the Pacific, spanning the entire U.S. government. It has often been a quiet effort. A lot of our work has not been on the front pages, both because of its nature -- long-term investment is less exciting than immediate crises -- and because of competing headlines in other parts of the world.

Tổng thống Obama đã lãnh đạo một nỗ lực đa diện và kiên trì để nhận lãnh trọn vẹn vai trò không thể thay thế của chúng ta tại Thái Bình Dương, vận dụng toàn bộ Chính phủ Hoa Kỳ. Bấy lâu nay, đây là một nỗ lực khá âm thầm. Phần lớn nỗ lực này của chúng ta không nằm trên trang nhất của báo chí, một phần vì bản chất của nó – đầu tư dài hạn không gây được cảm tính bằng các khủng hoảng trước mắt – và một phần vì các tít lớn về tin tức của các vùng khác trên thế giới đã giành mất sự chú ý của mọi người.

As secretary of state, I broke with tradition and embarked on my first official overseas trip to Asia. In my seven trips since, I have had the privilege to see firsthand the rapid transformations taking place in the region, underscoring how much the future of the United States is intimately intertwined with the future of the Asia-Pacific. A strategic turn to the region fits logically into our overall global effort to secure and sustain America's global leadership. The success of this turn requires maintaining and advancing a bipartisan consensus on the importance of the Asia-Pacific to our national interests; we seek to build upon a strong tradition of engagement by presidents and secretaries of state of both parties across many decades. It also requires smart execution of a coherent regional strategy that accounts for the global implications of our choices.

Trong vai trò Bộ trưởng Ngoại giao, tôi đã đi ra ngoài thông lệ khi mở cuộc thăm viếng chính thức đầu tiên của tôi ở nước ngoài tại châu Á. Trong bảy chuyến thăm viếng tiếp theo đó, tôi đã có đặc ân nhìn tận mắt những chuyển biến nhanh chóng đang diễn ra trong khu vực, nêu bật sự kiện tương lai của Mỹ sẽ được liên kết thiết thân với tương lai của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Sự chuyển hướng chiến lược nhắm vào khu vực này là rất hợp lý đối với nỗ lực toàn cầu tổng quát của chúng ta nhằm đảm bảo và duy trì vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ. Sự thành công của việc chuyển hướng này đòi hỏi phải duy trì và gia tăng sự đồng thuận của hai đảng về tầm quan trọng của khu vực châu Á-Thái Bình Dương đối với lợi ích quốc gia của chúng ta; chúng ta sẽ dựa vào truyền thống hữu nghị vững chắc đã được các Tổng thống và các Bộ trưởng Ngoại giao của cả hai đảng đã xây dựng qua nhiều thập niên. Sự thành công của việc chuyển hướng này cũng đòi hỏi phải khôn khéo thi hành một chiến lược khu vực chặt chẽ, hàm chứa ý nghĩa toàn cầu trong các lựa chọn của chúng ta.

WHAT DOES THAT regional strategy look like? For starters, it calls for a sustained commitment to what I have called "forward-deployed" diplomacy. That means continuing to dispatch the full range of our diplomatic assets -- including our highest-ranking officials, our development experts, our interagency teams, and our permanent assets -- to every country and corner of the Asia-Pacific region. Our strategy will have to keep accounting for and adapting to the rapid and dramatic shifts playing out across Asia. With this in mind, our work will proceed along six key lines of action: strengthening bilateral security alliances; deepening our working relationships with emerging powers, including with China; engaging with regional multilateral institutions; expanding trade and investment; forging a broad-based military presence; and advancing democracy and human rights.

Chiến lược khu vực đó sẽ như thế nào? Trước hết, nó đòi hỏi một sự cam kết bền vững đối với điều mà tôi gọi là chính sách ngoại giao “tiền phương” (forward-deployed diplomacy). Điều này có nghĩa là liên tục gởi đủ mọi thành phần trong vốn quý ngoại giao của chúng ta – gồm các viên chức cao nhất, các chuyên gia phát triển, các toán liên ngành, và các trang bị thường trực của chúng ta – đến mọi quốc gia và mọi nơi trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Chiến lược của chúng ta là sẽ liên tục tìm hiểu và thích ứng với mọi biến chuyển khẩn trương và sôi động diễn ra khắp châu Á. Với quan niệm này, công tác của chúng ta sẽ tiến hành theo sáu nguyên tắc hành động chủ yếu sau đây: tăng cường các liên minh an ninh song phương; củng cố các quan hệ hợp tác với các cường quốc mới trỗi dậy, kể cả TQ; tham gia các định chế đa phương trong khu vực; phát triển thương mại và đầu tư; tạo sự hiện diện quân sự trên cơ sở rộng lớn; và phát huy dân chủ và nhân quyền.

By virtue of our unique geography, the United States is both an Atlantic and a Pacific power. We are proud of our European partnerships and all that they deliver. Our challenge now is to build a web of partnerships and institutions across the Pacific that is as durable and as consistent with American interests and values as the web we have built across the Atlantic. That is the touchstone of our efforts in all these areas.

Nhờ địa lý độc đáo của mình, Hoa Kỳ vừa là cường quốc Đại Tây Dương vừa là cường quốc Thái Bình Dương. Chúng ta hãnh diện về những đối tác châu Âu của chúng ta và tất cả những gì họ đã thể hiện. Thách thức của chúng ta hiện nay là xây dựng cho được một mạng lưới gồm có những đối tác và định chế khắp khu vực Thái Bình Dương vừa vững bền vừa phù hợp với lợi ích và các giá trị của Mỹ như mạng lưới chúng ta đã xây dựng khắp khu vực Đại Tây Dương. Đó là mục tiêu mà các nỗ lực của chúng ta trong tất cả những vùng này phải nhắm tới.

Our treaty alliances with Japan, South Korea, Australia, the Philippines, and Thailand are the fulcrum for our strategic turn to the Asia-Pacific. They have underwritten regional peace and security for more than half a century, shaping the environment for the region's remarkable economic ascent. They leverage our regional presence and enhance our regional leadership at a time of evolving security challenges.

Các liên minh có thỏa ước (treaty alliances) giữa chúng ta với Nhật Bản, Nam Hàn, Australia, Philippines, và Thái Lan là điểm tựa cho sự chuyển hướng chiến lược của chúng ta nhắm vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Các liên minh này đã đảm bảo hòa bình và an ninh khu vực hơn nửa thế kỷ nay, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế ngoạn mục trong khu vực. Chúng đã tạo thế đòn bẫy cho sự hiện diện của chúng ta trong khu vực và gia tăng vai trò lãnh đạo của chúng ta trong khu vực ở vào một thời điểm có những thử thách an ninh đang diễn ra.

As successful as these alliances have been, we can't afford simply to sustain them -- we need to update them for a changing world. In this effort, the Obama administration is guided by three core principles. First, we have to maintain political consensus on the core objectives of our alliances. Second, we have to ensure that our alliances are nimble and adaptive so that they can successfully address new challenges and seize new opportunities. Third, we have to guarantee that the defense capabilities and communications infrastructure of our alliances are operationally and materially capable of deterring provocation from the full spectrum of state and nonstate actors.

Mặc dù những liên minh này đã rất thành công, nhưng chúng ta không thể chỉ giản dị duy trì chúng như cũ – chúng ta cần phải hiện đại hóa chúng cho phù hợp với một thế giới đang thay đổi. Trong nỗ lực này, chính quyền Obama được hướng dẫn bởi ba nguyên tắc cốt lõi. Một là, chúng ta phải duy trì đồng thuận chính trị trên các mục tiêu cốt lõi của các liên minh của chúng ta. Hai là, chúng ta phải bảo đảm rằng các liên minh của chúng ta là gọn nhẹ và dễ thích ứng (nimble and adaptive) ngõ hầu chúng có thể đối phó thành công những thách đố mới và nắm bắt những vận hội mới. Ba là, chúng ta phải đảm bảo rằng khả năng phòng thủ và cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc của các liên minh này có đủ khả năng hoạt động và đủ trang bị vật chất để chặn đứng các hành động khiêu khích dù đến từ bất cứ một quốc gia nào hay một phe nhóm phi-nhà nước (nonstate actor) nào.

The alliance with Japan, the cornerstone of peace and stability in the region, demonstrates how the Obama administration is giving these principles life. We share a common vision of a stable regional order with clear rules of the road -- from freedom of navigation to open markets and fair competition. We have agreed to a new arrangement, including a contribution from the Japanese government of more than $5 billion, to ensure the continued enduring presence of American forces in Japan, while expanding joint intelligence, surveillance, and reconnaissance activities to deter and react quickly to regional security challenges, as well as information sharing to address cyberthreats. We have concluded an Open Skies agreement that will enhance access for businesses and people-to-people ties, launched a strategic dialogue on the Asia-Pacific, and been working hand in hand as the two largest donor countries in Afghanistan.

Liên minh với Nhật Bản, nền tảng của hòa bình và ổn định trong khu vực, chứng tỏ cách thế mà chính quyền Obama đang thể hiện những nguyên tắc nói trên. Hai quốc gia chúng ta chia sẻ một viễn kiến chung về trật tự ổn định trong khu vực với một thứ luật đi đường rõ ràng – từ tự do thông thương trên biển đến thị trường cởi mở và cạnh tranh công bằng. Chúng ta đã thoả thuận một sự dàn xếp mới, gồm có sự đóng góp trên 5 tỉ đôla từ Chính phủ Nhật Bản, nhằm đảm bảo việc tiếp tục duy trì sự hiện diện của các lực lượng Mỹ tại Nhật Bản, đồng thời mở rộng các hoạt động tình báo, giám sát, do thám hỗn hợp nhằm chặn đứng và phản ứng kịp thời các thách thức an ninh khu vực, cũng như chia sẻ thông tin để đối phó các đe dọa trên mạng lưới Internet. Chúng ta đã ký kết một thỏa ước Bầu trời mở (Open Skies agreement) nhằm gia tăng khả năng tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp và thắt chặt các quan hệ giữa nhân dân với nhân dân (people-to-people ties), đã phát động một cuộc đối thoại chiến lược về châu Á-Thái Bình Dương, và đã và đang hợp tác chặt chẽ trong tư thế là hai nước đóng góp nhiều nhất tại Afghanistan.

Similarly, our alliance with South Korea has become stronger and more operationally integrated, and we continue to develop our combined capabilities to deter and respond to North Korean provocations. We have agreed on a plan to ensure successful transition of operational control during wartime and anticipate successful passage of the Korea-U.S. Free Trade Agreement. And our alliance has gone global, through our work together in the G-20 and the Nuclear Security Summit and through our common efforts in Haiti and Afghanistan.

Tương tự như thế, liên minh giữa chúng ta và Nam Hàn đã trở nên vững mạnh hơn và hoạt động hiệp đồng hơn, đồng thời chúng ta tiếp tục phát triển các khả năng hỗn hợp [của hai quân đội] để chặn đứng và trả lời các khiêu khích của Bắc Hàn. Hai nước đã chấp nhận một kế hoạch để đảm bảo sự chuyển giao tốt đẹp quyền điều khiển các cuộc hành quân trong thời chiến và để chuẩn bị cho việc Thỏa ước Mậu dịch Tự do Mỹ-Hàn được thông qua [Đã được Quốc hội Mỹ thông qua hôm 12-10 – DG]. Và liên minh giữa hai nước chúng ta đã mang tính toàn cầu, xuyên qua sự hợp tác của chúng ta tại các cuộc họp của nhóm G-20 và Hội nghị Thượng đỉnh Hạt nhân và xuyên qua các nỗ lực chung tại Haiti và Afghanistan.

We are also expanding our alliance with Australia from a Pacific partnership to an Indo-Pacific one, and indeed a global partnership. From cybersecurity to Afghanistan to the Arab Awakening to strengthening regional architecture in the Asia-Pacific, Australia's counsel and commitment have been indispensable. And in Southeast Asia, we are renewing and strengthening our alliances with the Philippines and Thailand, increasing, for example, the number of ship visits to the Philippines and working to ensure the successful training of Filipino counterterrorism forces through our Joint Special Operations Task Force in Mindanao. In Thailand -- our oldest treaty partner in Asia -- we are working to establish a hub of regional humanitarian and disaster relief efforts in the region.

Chúng ta cũng đang mở rộng liên minh với Australia từ một quan hệ đối tác Thái Bình Dương sang một quan hệ đối tác Ấn Độ-Thái Bình Dương, và thật ra đây là một quan hệ đối tác toàn cầu. Từ vấn đề an ninh mạng đến vấn đề Afghanistan đến cuộc Nổi dậy của Thế giới Ả Rập đến nỗ lực tăng cường cơ cấu khu vực tại châu Á-Thái Bình Dương, ý kiến và cam kết của Australia là không thể thiếu. Và tại Đông Nam Á, chúng ta đang phục hồi và tăng cường các liên minh giữa Hoa Kỳ với Philippines và Thái Lan, gia tăng, chẳng hạn, số thăm viếng của các chiến hạm Mỹ tại Philippine và đang hoạt động để đảm bảo huấn luyện thành công các lực lượng chống khủng bố Philippine xuyên qua Lực lượng Hành quân Đặc nhiệm Hỗn hợp (Joint Special Operations Task Force) tại Mindanao. Tại Thái Lan – đối tác có hiệp ước lâu đời nhất của chúng ta tại châu Á – chúng ta hoạt động để thành lập một trung tâm gồm những nỗ lực nhân đạo và cứu trợ thiên tai trong khu vực.

AS WE UPDATE our alliances for new demands, we are also building new partnerships to help solve shared problems. Our outreach to China, India, Indonesia, Singapore, New Zealand, Malaysia, Mongolia, Vietnam, Brunei, and the Pacific Island countries is all part of a broader effort to ensure a more comprehensive approach to American strategy and engagement in the region. We are asking these emerging partners to join us in shaping and participating in a rules-based regional and global order.

Trong khi chúng ta cập nhật hóa các liên minh của chúng ta để đáp ứng những đòi hỏi mới, chúng ta cũng xây dựng các quan hệ đối tác mới để giúp giải quyết các vấn đề chung. Bàn tay hữu nghị của chúng ta đối với Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Singapore, Tân Tây Lan, Malaysia, Mông Cổ, Việt Nam, Brunei, và các Đảo quốc Thái Bình Dương là nằm trong một nỗ lực rộng lớn hơn để đảm bảo một đường lối toàn diện cho chiến lược Mỹ và sự tham gia của Mỹ trong khu vực này. Chúng ta yêu cầu những đối tác đang trỗi dậy này cùng chúng ta hình thành và tham gia một trật tự khu vực và toàn cầu dựa trên luật lệ.

One of the most prominent of these emerging partners is, of course, China. Like so many other countries before it, China has prospered as part of the open and rules-based system that the United States helped to build and works to sustain. And today, China represents one of the most challenging and consequential bilateral relationships the United States has ever had to manage. This calls for careful, steady, dynamic stewardship, an approach to China on our part that is grounded in reality, focused on results, and true to our principles and interests.

Một trong các quốc gia nổi bậc nhất trong những đối tác đang trỗi dậy này dĩ nhiên là Trung Quốc. Giống như rất nhiều nước khác trước nó, Trung Quốc đã phồn thịnh trong hệ thống kinh tế cởi mở và dựa vào luật lệ, một hệ thống mà Hoa Kỳ đã có công xây dựng và đang có nỗ lực duy trì. Và ngày nay, Trung Quốc tiêu biểu cho một trong những quan hệ song phương thách đố và quan trọng nhất mà Hoa Kỳ chưa từng phải đối phó. Điều này đòi hỏi một sự quản lý chính sách thận trọng, vững chãi, năng động; về phần chúng ta, đây là một đường lối đối với Trung Quốc đặt trên cơ sở thực tế, tập trung vào kết quả, và phù hợp với các nguyên tắc và lợi ích của chúng ta.

We all know that fears and misperceptions linger on both sides of the Pacific. Some in our country see China's progress as a threat to the United States; some in China worry that America seeks to constrain China's growth. We reject both those views. The fact is that a thriving America is good for China and a thriving China is good for America. We both have much more to gain from cooperation than from conflict. But you cannot build a relationship on aspirations alone. It is up to both of us to more consistently translate positive words into effective cooperation -- and, crucially, to meet our respective global responsibilities and obligations. These are the things that will determine whether our relationship delivers on its potential in the years to come. We also have to be honest about our differences. We will address them firmly and decisively as we pursue the urgent work we have to do together. And we have to avoid unrealistic expectations.

Tất cả chúng ta đều biết rằng những lo sợ và những nhận thức sai lầm vẫn tiếp tục tồn tại trên cả hai bờ Thái Bình Dương. Một số người trên đất nước chúng ta coi sự tiến bộ của Trung Quốc như một đe dọa cho Hoa Kỳ; một số người tại Trung Quốc lo rằng Mỹ đang tìm cách kềm hãm sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Chúng ta bác bỏ cả hai quan niệm ấy. Sự thật là một nước Mỹ thịnh vượng là tốt lành cho Trung Quốc và một Trung Quốc thịnh vượng là tốt lành cho Mỹ. Cả hai nước chúng ta sẽ gặt hái rất nhiều điều tốt đẹp từ sự hợp tác hơn là từ xung đột. Nhưng chúng ta không thể xây dựng một quan hệ hữu nghị chỉ dựa vào các điều mong ước mà thôi. Việc biến những lời nói tốt đẹp thành sự hợp tác hữu hiệu một cách thường xuyên hơn – và, rất quan trọng, việc thể hiện trách nhiệm và bổn phận toàn cầu của mỗi nước là hoàn toàn tùy thuộc vào cả hai quốc gia chúng ta. Đây là những điều sẽ quyết định là mối quan hệ của chúng ta có phát triển hết tiềm năng trong những năm sắp tới hay không. Chúng ta cũng phải thẳng thắn nói ra những dị biệt giữa hai nước. Chúng ta phải cương quyết giải quyết những dị biệt này trong khi chúng ta theo đuổi công việc khẩn cấp mà hai nước chúng ta cùng nhau thực hiện. Và chúng ta cần phải tránh những kỳ vọng thiếu thực tế.

Over the last two-and-a-half years, one of my top priorities has been to identify and expand areas of common interest, to work with China to build mutual trust, and to encourage China's active efforts in global problem-solving. This is why Treasury Secretary Timothy Geithner and I launched the Strategic and Economic Dialogue, the most intensive and expansive talks ever between our governments, bringing together dozens of agencies from both sides to discuss our most pressing bilateral issues, from security to energy to human rights.

Trong hai năm rưỡi vừa qua, một trong những ưu tiên hàng đầu của tôi là tìm cách nhận ra và mở rộng các lãnh vực lợi ích chung, hợp tác với Trung Quốc để xây dựng sự tin tưởng lẫn nhau, và khuyến khích các nỗ lực tích cực của Trung Quốc trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu. Đó là lý do tại sao Bộ trưởng Tài chính Timothy Geithner và tôi đã phát động cuộc Đối thoại Chiến lược và Kinh tế, những cuộc thảo luận sâu sắc và rộng rãi nhất từ trước đến nay giữa hai Chính phủ chúng ta, có sự tham dự của hàng chục cơ quan của cả hai bên để bàn thảo những vấn đề song phương bức thiết nhất, từ an ninh đến năng lượng đến nhân quyền.

We are also working to increase transparency and reduce the risk of miscalculation or miscues between our militaries. The United States and the international community have watched China's efforts to modernize and expand its military, and we have sought clarity as to its intentions. Both sides would benefit from sustained and substantive military-to-military engagement that increases transparency. So we look to Beijing to overcome its reluctance at times and join us in forging a durable military-to-military dialogue. And we need to work together to strengthen the Strategic Security Dialogue, which brings together military and civilian leaders to discuss sensitive issues like maritime security and cybersecurity.

Chúng ta cũng đang tìm cách gia tăng tính minh bạch và giảm rủi ro vì tính toán sai lầm hoặc hiểu sai tín hiệu giữa hai quân đội. Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế đã và đang theo dõi những nỗ lực hiện đại hóa và bành trướng quân đội của Trung Quốc, và chúng ta còn đang tìm kiếm sự minh bạch về những ý định của Trung Quốc. Cả hai phía sẽ hưởng lợi từ sự tiếp xúc bền vững và có thực chất giữa quân đội với quân đội (military-to-military engagement), nhờ vậy sẽ gia tăng tính minh bạch. Do đó lắm lúc chúng ta mong đợi Trung Quốc khắc phục được sự do dự của mình và tham gia cùng chúng ta trong việc hình thành một cuộc đối thoại bền vững giữa quân đội với quân đội. Và chúng ta cần phải hợp tác với nhau để tăng cường cuộc Đối thoại An ninh Chiến lược (the Strategic Security Dialogue), một cuộc đối thoại quy tụ các lãnh đạo quân đội và dân sự để thảo luận các vấn đề nhạy cảm như an ninh trên biển và an ninh trên mạng Internet.

As we build trust together, we are committed to working with China to address critical regional and global security issues. This is why I have met so frequently -- often in informal settings -- with my Chinese counterparts, State Councilor Dai Bingguo and Foreign Minister Yang Jiechi, for candid discussions about important challenges like North Korea, Afghanistan, Pakistan, Iran, and developments in the South China Sea.

Trong khi chúng ta cùng nhau xây dựng niềm tin, chúng ta cam kết hợp tác với Trung Quốc để đối phó với những vấn đề nghiêm trọng về an ninh khu vực và toàn cầu. Đây là lý do tôi thường xuyên gặp gỡ – lắm lúc trong bối cảnh thiếu nghi thức – với các đồng nhiệm Trung Quốc, Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc và Bộ trưởng Ngoại giao Dương Thiết Trì để thảo luận thẳng thắn về những thách đố nghiêm trọng như Bắc Hàn, Afghanistan, Pakistan, Iran, và những diễn biến tình hình trong Biển Nam Trung Hoa.

On the economic front, the United States and China need to work together to ensure strong, sustained, and balanced future global growth. In the aftermath of the global financial crisis, the United States and China worked effectively through the G-20 to help pull the global economy back from the brink. We have to build on that cooperation. U.S. firms want fair opportunities to export to China's growing markets, which can be important sources of jobs here in the United States, as well as assurances that the $50 billion of American capital invested in China will create a strong foundation for new market and investment opportunities that will support global competitiveness. At the same time, Chinese firms want to be able to buy more high-tech products from the United States, make more investments here, and be accorded the same terms of access that market economies enjoy. We can work together on these objectives, but China still needs to take important steps toward reform. In particular, we are working with China to end unfair discrimination against U.S. and other foreign companies or against their innovative technologies, remove preferences for domestic firms, and end measures that disadvantage or appropriate foreign intellectual property. And we look to China to take steps to allow its currency to appreciate more rapidly, both against the dollar and against the currencies of its other major trading partners. Such reforms, we believe, would not only benefit both our countries (indeed, they would support the goals of China's own five-year plan, which calls for more domestic-led growth), but also contribute to global economic balance, predictability, and broader prosperity.

Trên mặt trận kinh tế, Hoa Kỳ và Trung Quốc cần phải hợp tác để đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu vững mạnh và quân bình. Tiếp theo sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, Hoa Kỳ và Trung Quốc đã cùng nhau làm việc một cách hữu hiệu xuyên qua nhóm G-20 để giúp kéo nền kinh tế toàn cầu ra khỏi bờ vực thẳm. Chúng ta cần phải đặt tin tưởng trên sự hợp tác ấy. Các công ty Mỹ muốn có cơ hội đồng đều để xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường đang tăng trưởng của Trung Quốc, những thị trường này có thể là động cơ quan trọng tạo ra công ăn việc làm tại Mỹ. Và các công ty Mỹ cũng muốn đảm bảo rằng 50 tỷ đôla tiền vốn của Mỹ đầu tư vào Trung Quốc sẽ tạo ra một nền móng vững chắc cho các cơ hội mới mẻ về thị trường và đầu tư nhằm hậu thuẫn tính cạnh tranh toàn cầu. Trong khi đó, các công ty Trung Quốc muốn có thể mua thêm nhiều sản phẩm công nghệ cao từ Hoa Kỳ, đầu tư thêm vào đây, và cùng được hưởng những điều kiện tiếp cận mà các nền kinh tế thị trường được hưởng. Chúng ta có thể hợp tác trên những mục tiêu này, nhưng Trung Quốc vẫn cần phải thực hiện những bước quan trọng để tiến tới cải tổ thị trường. Đặc biệt là, chúng ta đang làm việc với Trung Quốc để chấm dứt các phân biệt đối xử bất công đối với các công ty Mỹ và các công ty nước ngoài khác hay đối với các công nghệ đầy sáng kiến của họ, tháo gỡ những ưu đãi mà Trung Quốc dành cho các công ty nội địa, và chấm dứt những biện pháp gây bất lợi hay chiếm đoạt đối với quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài. Và chúng ta cũng mong đợi Trung Quốc thực hiện những buớc cần thiết để cho phép tiền tệ của mình [tức đồng Nhân dân tệ] tăng giá nhanh hơn nữa, so với đồng đôla Mỹ cũng như so với tiền tệ của các đối tác thương mại quan trọng khác của Trung Quốc. Chúng ta tin rằng những cải tổ này không những có lợi cho cả hai nước (thật ra, chúng sẽ hậu thuẫn những chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm của Trung Quốc, kêu gọi sự tăng trưởng dựa vào tiêu thụ nội địa), mà lại còn đóng góp cho sự quân bình kinh tế toàn cầu, cho khả năng dự đoán kinh tế, và sự thịnh vượng rộng lớn hơn.

Of course, we have made very clear, publicly and privately, our serious concerns about human rights. And when we see reports of public-interest lawyers, writers, artists, and others who are detained or disappeared, the United States speaks up, both publicly and privately, with our concerns about human rights. We make the case to our Chinese colleagues that a deep respect for international law and a more open political system would provide China with a foundation for far greater stability and growth -- and increase the confidence of China's partners. Without them, China is placing unnecessary limitations on its own development.

Tất nhiên, chúng ta cũng khẳng định rõ ràng, một cách công khai hoặc riêng lẻ, những quan ngại nghiêm trọng của chúng ta về nhân quyền. Và khi chúng ta thấy được những tin tức liên quan đến các luật sư, văn sĩ, nghệ sĩ, và những người hoạt động vì công ích khác bị giam giữ hoặc bị biến mất, Hoa Kỳ cần phải lên tiếng, một cách công khai hay một cách riêng lẻ, với những mối quan ngại của chúng ta về nhân quyền. Chúng ta từng biện minh với các đồng nhiệm Trung Quốc rằng một sự tôn trọng sâu sắc đối với luật quốc tế và một hệ thống chính trị cởi mở hơn sẽ tạo cho Trung Quốc nền móng vững chắc để đạt được ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế to lớn hơn nhiều – đồng thời tăng thêm niềm tin của các quốc gia đối tác của Trung Quốc. Nếu không thực hiện những điều vừa nói, Trung Quốc đang đặt ra những giới hạn không cần thiết cho sự phát triển của chính mình.

At the end of the day, there is no handbook for the evolving U.S.-China relationship. But the stakes are much too high for us to fail. As we proceed, we will continue to embed our relationship with China in a broader regional framework of security alliances, economic networks, and social connections.

Xét cho cùng, không có một cẩm nang nào hướng dẫn mối quan hệ đang diễn tiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Nhưng vì những quyền lợi là quá cao, chúng ta không thể chịu thất bại. Khi xúc tiến các hoạt động, chúng ta sẽ tiếp tục đưa quan hệ của chúng ta với Trung Quốc vào trong một khuôn khổ khu vực rộng lớn hơn gồm có các liên minh an ninh, mạng lưới kinh tế, và các mối liên hệ xã hội.

Among key emerging powers with which we will work closely are India and Indonesia, two of the most dynamic and significant democratic powers of Asia, and both countries with which the Obama administration has pursued broader, deeper, and more purposeful relationships. The stretch of sea from the Indian Ocean through the Strait of Malacca to the Pacific contains the world's most vibrant trade and energy routes. Together, India and Indonesia already account for almost a quarter of the world's population. They are key drivers of the global economy, important partners for the United States, and increasingly central contributors to peace and security in the region. And their importance is likely to grow in the years ahead.

Trong số những cường quốc mới nổi quan trọng mà chúng ta sẽ hợp tác chặt chẽ là Ấn Độ và Indonesia, hai trong những cường quốc dân chủ năng động và đáng kể nhất của châu Á, và là hai quốc gia mà chính quyền Obama đã và đang theo đuổi những mối quan hệ rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, và có chủ đích hơn. Vùng biển từ Ấn Độ Đương xuyên qua Eo biển Malacca đến Thái Bình Dương chứa đựng những tuyến đường mậu dịch và năng lượng sinh động nhất thế giới. Kết hợp lại, Ấn Độ và Indonesia đã chiếm hết 1/4 dân số thế giới. Những quốc gia này là động cơ chủ yếu của kinh tế toàn cầu, đối tác quan trọng của Hoa Kỳ, và ngày càng có những đóng góp quan trọng cho hòa bình và an ninh khu vực. Và vai trò quan trọng của hai nước này có khả năng gia tăng trong những năm sắp tới.

President Obama told the Indian parliament last year that the relationship between India and America will be one of the defining partnerships of the 21st century, rooted in common values and interests. There are still obstacles to overcome and questions to answer on both sides, but the United States is making a strategic bet on India's future -- that India's greater role on the world stage will enhance peace and security, that opening India's markets to the world will pave the way to greater regional and global prosperity, that Indian advances in science and technology will improve lives and advance human knowledge everywhere, and that India's vibrant, pluralistic democracy will produce measurable results and improvements for its citizens and inspire others to follow a similar path of openness and tolerance. So the Obama administration has expanded our bilateral partnership; actively supported India's Look East efforts, including through a new trilateral dialogue with India and Japan; and outlined a new vision for a more economically integrated and politically stable South and Central Asia, with India as a linchpin.

Tổng thống Obama đã phát biểu trước Quốc hội Ấn Độ rằng quan hệ giữa Ấn Độ và Mỹ sẽ là một trong những quan hệ đối tác có ý nghĩa nhất của Thế kỷ XXI, đặt cơ sở trên những giá trị chung và lợi ích chung. Cả hai bên vẫn còn có những trở ngại phải vượt qua và những vấn đề cần được giải đáp, nhưng Hoa Kỳ đang đánh cá chiến lược [đặt tin tưởng chiến lược] vào tương lai của Ấn Độ – rằng một vai trò to lớn hơn của Ấn Độ trên sân khấu thế giới sẽ gia tăng hòa bình và ổn định, rằng mở cửa thị trường Ấn Độ cho thế giới sẽ dọn đường cho sự thịnh vượng khu vực và toàn cầu rộng lớn hơn, rằng những tiến bộ khoa học và công nghệ của Ấn Độ sẽ cải thiện đời sống và nâng cao kiến thức nhân loại khắp mọi nơi, và rằng thể chế dân chủ sinh động và đa nguyên của Ấn Độ sẽ mang lại những kết quả có thể đo lường được và những cải thiện cụ thể cho người dân và khuyến khích các nước khác đi theo một đường lối cởi mở và bao dung tương tự. Vì vậy, chính quyền Obama đã mở rộng quan hệ đối tác song phương của hai nước; tích cực hậu thuẫn các nỗ lực Nhìn sang phía Đông (Look East efforts) của Ấn Độ, kể cả bằng cách tham dự một cuộc đối thoại ba bên (trilateral dialogue) với Ấn Độ và Nhật Bản; và phác họa một viễn kiến mới mẻ cho một khu vực Nam và Trung Á hội nhập kinh tế và ổn định chính trị hơn, với Ấn Độ ở vị trí then chốt.

We are also forging a new partnership with Indonesia, the world's third-largest democracy, the world's most populous Muslim nation, and a member of the G-20. We have resumed joint training of Indonesian special forces units and signed a number of agreements on health, educational exchanges, science and technology, and defense. And this year, at the invitation of the Indonesian government, President Obama will inaugurate American participation in the East Asia Summit. But there is still some distance to travel -- we have to work together to overcome bureaucratic impediments, lingering historical suspicions, and some gaps in understanding each other's perspectives and interests.

Chúng ta cũng đang thiết lập một quan hệ đối tác mới mẻ với Indonesia, nước dân chủ lớn thứ ba thế giới, quốc gia Hồi giáo đông nhất thế giới, và là một thành viên của Nhóm G-20. Chúng ta đã tiếp tục lại chương trình huấn luyện hỗn hợp các đơn vị lực lượng đặc biệt và ký một số thỏa ước về y tế, trao đổi giáo dục, khoa học và công nghệ, và quốc phòng. Và năm nay, đáp lời mời của Chính phủ Indonesia, Tổng thống Obama sẽ mở đầu sự tham dự của Mỹ tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (the East Asia Summit) – Nhưng chúng ta vẫn còn một đoạn đường phải đi – chúng ta cần phải hợp tác với nhau để khắc phục những trở ngại hành chính, những nghi ngờ còn tồn đọng trong lịch sử, và những thiếu sót trong việc tìm hiểu quan điểm và lợi ích của nhau.

EVEN AS WE strengthen these bilateral relationships, we have emphasized the importance of multilateral cooperation, for we believe that addressing complex transnational challenges of the sort now faced by Asia requires a set of institutions capable of mustering collective action. And a more robust and coherent regional architecture in Asia would reinforce the system of rules and responsibilities, from protecting intellectual property to ensuring freedom of navigation, that form the basis of an effective international order. In multilateral settings, responsible behavior is rewarded with legitimacy and respect, and we can work together to hold accountable those who undermine peace, stability, and prosperity.

Ngay cả khi chúng ta tăng cường những quan hệ song phương này, chúng ta đã nhấn mạnh sự quan trọng của hợp tác đa phương, vì chúng ta tin rằng muốn đối phó các thử thách xuyên quốc gia như loại vấn đề mà châu Á đang gặp phải hiện nay, chúng ta cần đến một loạt định chế có khả năng vận dụng hành động tập thể. Và một cơ cấu khu vực vững mạnh và chặt chẽ hơn tại châu Á sẽ tăng cường hệ thống luật lệ và trách nhiệm, từ việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đến việc đảm bảo quyền tự do lưu thông trên biển, những thứ quyền tạo cơ sở cho một trật tự quốc tế hữu hiệu. Trong các bối cảnh đa phương, hành vi có trách nhiệm [của một chế độ] sẽ được tưởng thưởng bằng tính chính danh và sự kính trọng của thế giới, và chúng ta có thể cùng nhau làm việc để buộc những ai phá hoại hòa bình, ổn định và thịnh vượng phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

So the United States has moved to fully engage the region's multilateral institutions, such as the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) and the Asia-Pacific Economic Cooperation (APEC) forum, mindful that our work with regional institutions supplements and does not supplant our bilateral ties. There is a demand from the region that America play an active role in the agenda-setting of these institutions -- and it is in our interests as well that they be effective and responsive.

Vì thế, Hoa Kỳ đã bắt đầu tham dự đầy đủ các định chế đa phương trong khu vực như Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), ý thức rằng sự hợp tác của chúng ta với các định chế khu vực chỉ bổ túc chứ không thể thay thế các quan hệ song phương. Có một đòi hỏi từ khu vực này rằng Mỹ cần phải đóng một vai trò tích cực trong việc sắp xếp nghị trình của những định chế này – và sự kiện các định chế này cần phải hoạt động hữu hiệu và sẵn sàng đáp ứng với tình hình cũng nằm trong lợi ích của chúng ta.

That is why President Obama will participate in the East Asia Summit for the first time in November. To pave the way, the United States has opened a new U.S. Mission to ASEAN in Jakarta and signed the Treaty of Amity and Cooperation with ASEAN. Our focus on developing a more results-oriented agenda has been instrumental in efforts to address disputes in the South China Sea. In 2010, at the ASEAN Regional Forum in Hanoi, the United States helped shape a regionwide effort to protect unfettered access to and passage through the South China Sea, and to uphold the key international rules for defining territorial claims in the South China Sea's waters. Given that half the world's merchant tonnage flows through this body of water, this was a consequential undertaking. And over the past year, we have made strides in protecting our vital interests in stability and freedom of navigation and have paved the way for sustained multilateral diplomacy among the many parties with claims in the South China Sea, seeking to ensure disputes are settled peacefully and in accordance with established principles of international law.

Đó là lý do tại sao Tổng thống Obama sẽ tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á lần đầu tiên vào tháng Mười một này. Để chuẩn bị, Hoa Kỳ đã mở một Văn phòng Đại diện mới tại ASEAN ở Jakarta và đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với ASEAN. Sự tập trung của chúng ta vào việc phát triển một nghị trình nhắm vào kết quả (results-oriented agenda) đã rất hữu ích trong các nỗ lực nhằm giải quyết các cuộc tranh chấp trong Biển Nam Trung. Vào năm 2010, tại Diễn đàn Khu vực ASEAN tại Hà Nội, Hoa Kỳ đã giúp phát động một nỗ lực toàn khu vực nhằm bảo vệ quyền tiếp cận không hạn chế và tự do thông thương trên Biển Nam Trung Hoa, và hỗ trợ những luật lệ quốc tế quan trọng nhằm xác định các tuyên bố chủ quyền trong vùng Biển Nam Trung Hoa. Với sự kiện một nửa trọng tải hàng hóa của thế giới đi qua vùng biển này, đây là một nỗ lực rất quan trọng. Và trong năm qua, chúng ta đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo vệ những lợi ích quan trọng của chúng ta liên quan đến sự ổn định và tự do thông thương và dọn đường cho một chính sách ngoại giao đa phương và bền vững giữa những nước có tuyên bố chủ quyền trong Biển Nam Trung Hoa, cố gắng đảm bảo rằng các tranh chấp sẽ được dàn xếp một cách hòa bình và phù hợp với các nguyên tắc hiện hữu của luật pháp quốc tế.



We have also worked to strengthen APEC as a serious leaders-level institution focused on advancing economic integration and trade linkages across the Pacific. After last year's bold call by the group for a free trade area of the Asia-Pacific, President Obama will host the 2011 APEC Leaders' Meeting in Hawaii this November. We are committed to cementing APEC as the Asia-Pacific's premier regional economic institution, setting the economic agenda in a way that brings together advanced and emerging economies to promote open trade and investment, as well as to build capacity and enhance regulatory regimes. APEC and its work help expand U.S. exports and create and support high-quality jobs in the United States, while fostering growth throughout the region. APEC also provides a key vehicle to drive a broad agenda to unlock the economic growth potential that women represent. In this regard, the United States is committed to working with our partners on ambitious steps to accelerate the arrival of the Participation Age, where every individual, regardless of gender or other characteristics, is a contributing and valued member of the global marketplace.

Chúng ta cũng có nỗ lực củng cố APEC như một định chế cấp lãnh đạo (leaders-level institution) tập trung vào việc xúc tiến hội nhập kinh tế và quan hệ mậu dịch xuyên Thái Bình Dương. Tiếp theo việc nhóm APEC mạnh dạn kêu gọi thành lập một khu mậu dịch tự do của châu Á-Thái Bình Dương, Tổng thống Obama sẽ là gia chủ của Cuộc họp các Lãnh đạo APEC năm 2011 tại Hawaii tháng Mười một này. Chúng ta cam kết xây dựng APEC thành một định chế kinh tế khu vực hàng đầu của châu Á-Thái Bình Dương, đưa ra nghị trình kinh tế theo một đường lối có thể kết hợp các nền kinh tế tiên tiến và các nền kinh tế mới nổi nhằm đẩy mạnh tự do mậu dịch và đầu tư, cũng như xây dựng khả năng và cải thiện các chế độ điều tiết (regulatory regimes). APEC và hoạt động của nó giúp bành trướng các mặt hàng xuất khẩu của Mỹ, tạo ra và yểm trợ các việc làm có chất lượng cao tại Hoa Kỳ, đồng thời nuôi dưỡng mức tăng trưởng kinh tế trong khu vực. APEC cũng cung cấp một phương tiện quan trọng để thúc đẩy một nghị trình rộng lớn nhằm giải phóng tiềm năng tăng trưởng kinh tế mà phụ nữ là tiêu biểu. Về phương diện này, Hoa Kỳ cam kết hợp tác với các đối tác của chúng ta bằng những bước đầy tham vọng nhằm thúc đẩy sự ra đời của Thời đại Tham gia (the Participation Age), trong đó mọi cá nhân, bất chấp giới tính hay các đặc tính khác, đều là thành viên có đóng góp và quý báu của thị trường toàn cầu.

In addition to our commitment to these broader multilateral institutions, we have worked hard to create and launch a number of "minilateral" meetings, small groupings of interested states to tackle specific challenges, such as the Lower Mekong Initiative we launched to support education, health, and environmental programs in Cambodia, Laos, Thailand, and Vietnam, and the Pacific Islands Forum, where we are working to support its members as they confront challenges from climate change to overfishing to freedom of navigation. We are also starting to pursue new trilateral opportunities with countries as diverse as Mongolia, Indonesia, Japan, Kazakhstan, and South Korea. And we are setting our sights as well on enhancing coordination and engagement among the three giants of the Asia-Pacific: China, India, and the United States.

Ngoài cam kết của chúng ta đối với những định chế đa phương rộng lớn này, chúng ta đã cố gắng tổ chức và phát động một số các cuộc họp “đa phương nhỏ”, các nhóm nhỏ những quốc gia có quan tâm để đối phó những vấn đề riêng biệt, chẳng hạn Sáng kiến Hạ lưu Sông Mê Kông (the Lower Mekong Initiative) mà chúng ta đã phát động nhằm hỗ trợ giáo dục, y tế, và những chương trình bảo vệ môi trường tại Căm Pu Chia, Lào, Thái Lan, và Việt Nam, và Diễn đàn các Đảo Thái Bình Dương (the Pacific Islands Forum), ở đó chúng ta đang hoạt động để hỗ trợ các thành viên trong khi họ đương đầu với các thử thách, từ thay đổi khí hậu đến đánh bắt cá quá mức quy định đến tự do thông thương trên biển. Chúng ta cũng đang bắt đầu theo đuổi các cơ hội ba bên mới mẻ (new trilateral opportunities) với những nước khác nhau như Mông Cổ, Indonesia, Nhật Bản, Kazakhstan, và Nam Hàn. Và chúng ta cũng đang nhắm vào việc cải thiện việc điều hợp (coordination) và tham gia của ba đại cường [ba anh khổng lồ] của châu Á-Thái Bình Dương: Trung Quốc, Ấn Độ, và Hoa Kỳ.

In all these different ways, we are seeking to shape and participate in a responsive, flexible, and effective regional architecture -- and ensure it connects to a broader global architecture that not only protects international stability and commerce but also advances our values.

Bằng tất cả các đường lối khác nhau này, chúng ta đang cố gắng ảnh hưởng và tham dự vào một cơ cấu khu vực linh động, hiệu quả, và có khả năng đáp ứng tình hình – và đảm bảo rằng cơ cấu này nối kết với một cơ cấu toàn cầu rộng lớn hơn, không những bảo vệ sự ổn định và thương mại quốc tế mà còn phổ biến các giá trị của chúng ta.

OUR EMPHASIS ON the economic work of APEC is in keeping with our broader commitment to elevate economic statecraft as a pillar of American foreign policy. Increasingly, economic progress depends on strong diplomatic ties, and diplomatic progress depends on strong economic ties. And naturally, a focus on promoting American prosperity means a greater focus on trade and economic openness in the Asia-Pacific. The region already generates more than half of global output and nearly half of global trade. As we strive to meet President Obama's goal of doubling exports by 2015, we are looking for opportunities to do even more business in Asia. Last year, American exports to the Pacific Rim totaled $320 billion, supporting 850,000 American jobs. So there is much that favors us as we think through this repositioning.

Chúng ta nhấn mạnh chức năng kinh tế của APEC trong việc theo đuổi những cam kết rộng lớn hơn là để nâng cao chính sách kinh tế như là một cột trụ của chính sách đối ngoại Mỹ. Sự tiến bộ kinh tế ngày càng lệ thuộc vào các quan hệ ngoại giao vững mạnh, và sự tiến bộ ngoại giao ngày càng lệ thuộc vào các quan hệ kinh tế vững mạnh. Và lẽ tự nhiên, một sự tập trung vào việc thúc đẩy sự thịnh vượng của Mỹ có nghĩa là một sự tập trung lớn hơn vào mậu dịch và sự cởi mở kinh tế tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Khu vực này đã tạo ra hơn nửa sản lượng toàn cầu và gần nửa lượng mậu dịch toàn cầu. Trong khi chúng ta đang phấn đấu để đạt mục tiêu của Tổng thống Obama là tăng gấp đôi lượng hàng xuất khẩu vào năm 2015, chúng ta cũng đang tìm kiếm cơ hội để phát triển doanh nghiệp Mỹ hơn nữa tại châu Á. Năm ngoái, lượng hàng xuất khẩu của Mỹ đến các nước ở Bờ Tây Thái Bình Dương (the Pacific Rim) lên đến tổng số 320 tỷ đôla, hỗ trợ cho 850.000 việc làm tại Mỹ. Như vậy có rất nhiều yếu tố thuận lợi khi chúng ta cân nhắc việc tái phối trí [chiến lược] này.

When I talk to my Asian counterparts, one theme consistently stands out: They still want America to be an engaged and creative partner in the region's flourishing trade and financial interactions. And as I talk with business leaders across our own nation, I hear how important it is for the United States to expand our exports and our investment opportunities in Asia's dynamic markets.

Khi tôi nói chuyện với các đồng nhiệm châu Á của tôi, một đề tài thường xuyên nổi bật: Họ vẫn muốn Hoa Kỳ là một đối tác tích cực và đầy sáng kiến trong các tương tác thương mại và mậu dịch đang gia tăng trong khu vực. Và khi tôi nói chuyện với các lãnh đạo doanh nghiệp khắp đất nước chúng ta, tôi nghe rằng việc Hoa Kỳ mở rộng các cơ hội xuất khẩu và đầu tư của chúng ta tại các thị trường năng động của châu Á là rất quan trọng.

Last March in APEC meetings in Washington, and again in Hong Kong in July, I laid out four attributes that I believe characterize healthy economic competition: open, free, transparent, and fair. Through our engagement in the Asia-Pacific, we are helping to give shape to these principles and showing the world their value.

Tháng Ba vừa qua tại các cuộc họp APEC tại Washington, và một lần nữa tại Hồng Kông vào tháng Bảy, tôi đã nêu ra bốn thuộc tính (attributes) mà tôi cho là mô tả tính cách của một sự cạnh tranh kinh tế lành mạnh: thông thoáng, tự do, minh bạch, và công bằng. Qua sự tham gia tích cực của chúng ta trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, chúng ta đang giúp thể hiện những nguyên tắc này và chứng minh giá trị của chúng với thế giới.

We are pursuing new cutting-edge trade deals that raise the standards for fair competition even as they open new markets. For instance, the Korea-U.S. Free Trade Agreement will eliminate tariffs on 95 percent of U.S. consumer and industrial exports within five years and support an estimated 70,000 American jobs. Its tariff reductions alone could increase exports of American goods by more than $10 billion and help South Korea's economy grow by 6 percent. It will level the playing field for U.S. auto companies and workers. So, whether you are an American manufacturer of machinery or a South Korean chemicals exporter, this deal lowers the barriers that keep you from reaching new customers.

Chúng ta đang theo đuổi những hiệp ước thương mại tiên phong có khả năng nâng cao tiêu chuẩn cạnh tranh công bằng ngay cả khi những hợp đồng này mở ra những thị trường mới mẻ. Chẳng hạn, Hiệp ước Tự do mậu dịch Mỹ-Hàn sẽ loại bỏ thuế quan trên 95% hàng xuất khẩu tiêu thụ và hàng xuất khẩu công nghiệp của Mỹ trong vòng 5 năm và hỗ trợ khoảng 75.000 việc làm tại Mỹ. Nội việc giảm thuế quan này mà thôi cũng có thể gia tăng các mặt hàng xuất khẩu của Mỹ thêm hơn 10 tỉ đôla và giúp kinh tế Nam Hàn tăng trưởng thêm 6% của tỷ lệ tăng trưởng hàng năm. Hiệp ước này sẽ san bằng sân chơi cho các công ty xe hơi Mỹ và công nhân Mỹ. Vì thế, bất luận bạn là một nhà chế tạo máy móc Mỹ hay một người xuất khẩu hóa chất Nam Hàn, hiệp ước này sẽ hạ thấp các rào cản đã ngăn cấm bạn với tới các khách hàng mới.

We are also making progress on the Trans-Pacific Partnership (TPP), which will bring together economies from across the Pacific -- developed and developing alike -- into a single trading community. Our goal is to create not just more growth, but better growth. We believe trade agreements need to include strong protections for workers, the environment, intellectual property, and innovation. They should also promote the free flow of information technology and the spread of green technology, as well as the coherence of our regulatory system and the efficiency of supply chains. Ultimately, our progress will be measured by the quality of people's lives -- whether men and women can work in dignity, earn a decent wage, raise healthy families, educate their children, and take hold of the opportunities to improve their own and the next generation's fortunes. Our hope is that a TPP agreement with high standards can serve as a benchmark for future agreements -- and grow to serve as a platform for broader regional interaction and eventually a free trade area of the Asia-Pacific.

Chúng ta cũng đạt được tiến bộ về Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TTP), một thỏa ước sẽ tập hợp một số nền kinh tế xuyên Thái Bình Dương – phát triển cũng như đang phát triển – thành một cộng đồng thương mại đơn nhất [còn đang trong vòng đàm phán giữa Hoa Kỳ và 8 quốc gia khác trong đó có Việt Nam – DG.] Mục đích của chúng ta là tạo ra tăng trưởng không những nhiều hơn, nhưng còn tốt đẹp hơn. Chúng ta tin rằng các thỏa ước thương mại cần phải có những điều khoản bảo vệ công nhân, môi trường, quyền sở hữu trí tuệ, và sáng kiến. Những điều khoản này cũng phải khuyến khích dòng giao lưu tự do của công nghệ thông tin và truyền bá công nghệ xanh [bảo vệ môi trường], cũng như sự chặt chẽ trong hệ thống điều tiết của chúng ta và hiệu năng của hệ thống cung cấp sản phẩm. Sau cùng, sự tiến bộ của chúng ta sẽ được đo lường bằng phẩm chất của đời sống dân chúng – là liệu cả đàn ông lẫn đàn bà có được việc làm phù hợp với nhân phẩm, có kiếm được đồng lương đủ sống, có nuôi gia đình được khỏe mạnh, có giáo dục được con cái, và có nắm bắt cơ hội để cải thiện vận mệnh của chính họ hay của thế hệ tiếp theo hay không. Chúng ta hy vọng một hiệp ước TTP với tiêu chuẩn cao có thể được dùng làm mẩu mực cho các hiệp ước tương lai – và sẽ phát triển để trở thành một diễn đàn cho sự tương tác rộng lớn hơn trong khu vực và sau cùng trở thành một khu mậu dịch tự do của châu Á-Thái Bình Dương.

Achieving balance in our trade relationships requires a two-way commitment. That's the nature of balance -- it can't be unilaterally imposed. So we are working through APEC, the G-20, and our bilateral relationships to advocate for more open markets, fewer restrictions on exports, more transparency, and an overall commitment to fairness. American businesses and workers need to have confidence that they are operating on a level playing field, with predictable rules on everything from intellectual property to indigenous innovation.

Muốn đạt được quân bình trong những quan hệ mậu dịch, chúng ta cần có sự cam kết hai chiều. Đó là bản chất của quân bình – nó không thể được áp đặt một cách đơn phương. Vì thế, chúng ta đang làm việc thông qua APEC, nhóm G-20, và các quan hệ song phương để cổ vũ thêm nhiều thị trường tự do hơn nữa, giảm các hạn chế trên hàng xuất khẩu, tăng cường tính minh bạch, và đòi hỏi một cam kết chung cho sự công bằng. Doanh nghiệp Mỹ và công nhân Mỹ cần có sự tin tưởng là họ đang hoạt động trên một sân chơi bằng phẳng, với những luật lệ có thể tiên đoán được trên mọi phương diện từ sở hữu trí tuệ đến sáng kiến của người bản xứ.

ASIA'S REMARKABLE ECONOMIC growth over the past decade and its potential for continued growth in the future depend on the security and stability that has long been guaranteed by the U.S. military, including more than 50,000 American servicemen and servicewomen serving in Japan and South Korea. The challenges of today's rapidly changing region -- from territorial and maritime disputes to new threats to freedom of navigation to the heightened impact of natural disasters -- require that the United States pursue a more geographically distributed, operationally resilient, and politically sustainable force posture.

Tăng trưởng kinh tế ngoạn mục của châu Á trong thập niên qua và tiềm năng tăng trưởng liên tục vào tương lai của châu Á tùy thuộc vào nền an ninh và ổn định từ lâu được bảo đảm bởi quân đội Mỹ, bao gồm 50.000 lính Mỹ phục vụ tại Nhật Bản và Nam Hàn. Những thách đố do tình hình biến chuyển nhanh chóng trong khu vực hiện nay – từ những tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải đến những đe dọa mới mẻ đối với tự do thông thương trên biển đến hậu quả thiên tai trầm trọng – đòi hỏi Hoa Kỳ phải theo đuổi các khả năng quân sự được phân bố theo địa lý, có sức bật trong chiến đấu, và có lợi thế chính trị.

We are modernizing our basing arrangements with traditional allies in Northeast Asia -- and our commitment on this is rock solid -- while enhancing our presence in Southeast Asia and into the Indian Ocean. For example, the United States will be deploying littoral combat ships to Singapore, and we are examining other ways to increase opportunities for our two militaries to train and operate together. And the United States and Australia agreed this year to explore a greater American military presence in Australia to enhance opportunities for more joint training and exercises. We are also looking at how we can increase our operational access in Southeast Asia and the Indian Ocean region and deepen our contacts with allies and partners.

Chúng ta đang hiện đại hóa các căn cứ quân sự Mỹ với các đồng minh truyền thống trong khu vực Đông Bắc Á – và sự cam kết của chúng ta trên vấn đề này là rất vững chắc – trong khi chúng ta gia tăng sự hiện diện của mình tại Đông Nam Á và vào trong Ấn Độ Dương. Chẳng hạn Hoa Kỳ sẽ triển khai các chiến hạm đến Singapore, và chúng ta đang điều nghiên các phương thức khác để gia tăng cơ hội cho hai quân đội huấn luyện và hoạt động với nhau. Ngoài ra, Hoa Kỳ và Australia vào năm nay đã đồng ý thăm dò một sự hiện diện quân đội Mỹ to lớn hơn tại Australia để gia tăng cơ hội cho việc huấn luyện và thao diễn hỗn hợp. Chúng ta cũng đang thăm dò phương cách để gia tăng khả năng tiếp cận hành quân của chúng ta tại Đông Nam Á và khu vực Ấn Độ Dương đồng thời tăng cường những tiếp xúc của chúng ta với các quốc gia đồng minh và đối tác.

How we translate the growing connection between the Indian and Pacific oceans into an operational concept is a question that we need to answer if we are to adapt to new challenges in the region. Against this backdrop, a more broadly distributed military presence across the region will provide vital advantages. The United States will be better positioned to support humanitarian missions; equally important, working with more allies and partners will provide a more robust bulwark against threats or efforts to undermine regional peace and stability.

Làm thế nào để diễn dịch đường nối kết ngày càng phát triển giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương thành một ý niệm hành quân là một câu hỏi chúng ta cần phải trả lời nếu chúng ta muốn thích ứng với những thách đố mới mẻ ở trong khu vực. Trong bối cảnh này, một sự hiện diện quân sự được phân bố rộng rãi hơn nữa khắp khu vực sẽ tạo ra những lợi thế rất quan trọng. Hoa Kỳ nhờ thế sẽ ở vào một vị trí thuận lợi hơn để hỗ trợ các sứ mệnh nhân đạo. Cũng không kém phần quan trọng là, có thêm nhiều đồng minh và đối tác để cùng làm việc sẽ tạo được một lực lượng phòng thủ vững chắc hơn để chống lại những đe dọa hay các nỗ lực phá hoại hòa bình và an ninh khu vực.

But even more than our military might or the size of our economy, our most potent asset as a nation is the power of our values -- in particular, our steadfast support for democracy and human rights. This speaks to our deepest national character and is at the heart of our foreign policy, including our strategic turn to the Asia-Pacific region.

Nhưng thậm chí còn hơn cả sức mạnh quân sự của chúng ta hay tầm cỡ của nền kinh tế của chúng ta, tài sản giàu có nhất của chúng ta trong tư thế một quốc gia là sức mạnh nội tại trong các giá trị của chúng ta – đặc biệt là sự hậu thuẫn vững chắc của chúng ta cho dân chủ và nhân quyền. Điều này chứng minh phẩm cách quốc gia sâu sắc nhất của chúng ta và nằm ngay trung tâm của chính sách đối ngoại Mỹ, kể cả sự chuyển hướng chiến lược của chúng ta nhắm vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

As we deepen our engagement with partners with whom we disagree on these issues, we will continue to urge them to embrace reforms that would improve governance, protect human rights, and advance political freedoms. We have made it clear, for example, to Vietnam that our ambition to develop a strategic partnership requires that it take steps to further protect human rights and advance political freedoms. Or consider Burma, where we are determined to seek accountability for human rights violations. We are closely following developments in Nay Pyi Taw and the increasing interactions between Aung San Suu Kyi and the government leadership. We have underscored to the government that it must release political prisoners, advance political freedoms and human rights, and break from the policies of the past. As for North Korea, the regime in Pyongyang has shown persistent disregard for the rights of its people, and we continue to speak out forcefully against the threats it poses to the region and beyond.

Trong khi chúng ta tăng cường sự cam kết của chúng ta với những đối tác mà chúng ta bất đồng ý kiến về những vấn đề này, chúng ta sẽ tiếp tục thúc đẩy họ chấp nhận các cải tổ nhằm cải thiện việc quản trị quốc gia, bảo vệ nhân quyền, và gia tăng các tự do chính trị. Chẳng hạn, chúng ta đã nói rõ với Việt Nam rằng nguyện vọng phát triển một quan hệ đối tác chiến lược của chúng ta đòi hỏi quốc gia này phải có hành động bảo vệ nhân quyền và đẩy mạnh tự do chính trị hơn nữa. Hay hãy xét đến Miến Điện, một nơi mà chúng ta cương quyết đòi trách nhiệm giải trình của Chính phủ về các vi phạm nhân quyền. Chúng ta chăm chú theo dõi những diễn biến tại Nay Pyi Taw [thủ đô mới của Miến Điện] và những tương tác đang gia tăng giữa Bà Aung San Suu Kyi và giới lãnh đạo Chính phủ. Chúng ta đã nhấn mạnh với Chính phủ rằng họ phải thả tù chính trị, đẩy mạnh các tự do chính trị và nhân quyền, và từ bỏ các chính sách trong quá khứ. Còn về Bắc Hàn, chế độ Bình Nhưỡng đã chứng tỏ luôn luôn coi thường các quyền của người dân trong nước, và chúng ta tiếp tục lên tiếng mạnh mẽ chống lại các đe dọa mà họ đặt ra cho khu vực và các nơi khác.

We cannot and do not aspire to impose our system on other countries, but we do believe that certain values are universal -- that people in every nation in the world, including in Asia, cherish them -- and that they are intrinsic to stable, peaceful, and prosperous countries. Ultimately, it is up to the people of Asia to pursue their own rights and aspirations, just as we have seen people do all over the world.

Chúng ta không thể và không muốn áp đặt hệ thống chính trị của chúng ta lên các nước khác, nhưng chúng ta thực sự tin tưởng một số giá trị nhất định là phổ quát – rằng người dân trong mọi quốc gia trên thế giới, kể cả châu Á, trân quý chúng – và rằng những giá trị này gắn liền với các quốc gia ổn định, hòa bình, và phồn thịnh. Cuối cùng, việc theo đuổi những quyền tự do và nguyện vọng của mình là hoàn toàn tùy thuộc vào người dân châu Á, y hệt như chúng ta nhận thấy người dân đã làm khắp nơi trên thế giới.

IN THE LAST decade, our foreign policy has transitioned from dealing with the post-Cold War peace dividend to demanding commitments in Iraq and Afghanistan. As those wars wind down, we will need to accelerate efforts to pivot to new global realities.

Trong thập kỷ vừa qua, chính sách đối ngoại của chúng ta đã chuyển biến từ những lợi lộc nhờ hòa bình sau Chiến tranh Lạnh đến đòi hỏi những cam kết tại Iraq và Afghanistan. Khi những cuộc chiến này tàn lụi, chúng ta sẽ cần tăng tốc những nỗ lực để hướng về những tình hình thực tế mới mẻ trên toàn cầu.

We know that these new realities require us to innovate, to compete, and to lead in new ways. Rather than pull back from the world, we need to press forward and renew our leadership. In a time of scarce resources, there's no question that we need to invest them wisely where they will yield the biggest returns, which is why the Asia-Pacific represents such a real 21st-century opportunity for us.

Chúng ta biết rằng những thực tế mới mẻ này đòi hỏi chúng ta phải có sáng kiến, phải cạnh tranh, và phải lãnh đạo bằng những đường lối mới. Thay vì phải rút khỏi thế giới, chúng ta cần phải xốc tới và đổi mới cách lãnh đạo của chúng ta. Trong một thời kỳ khan hiếm nguồn lực, hẳn nhiên là chúng ta cần phải đầu tư những nguồn lực này một cách khôn ngoan vào những nơi chúng có thể tạo ra nhiều lợi nhuận nhất, đó là lý do tại sao khu vực châu Á-Thái Bình Dương tượng trưng cho một vận hội đích thực của Thể kỷ XXI đối với chúng ta.

Other regions remain vitally important, of course. Europe, home to most of our traditional allies, is still a partner of first resort, working alongside the United States on nearly every urgent global challenge, and we are investing in updating the structures of our alliance. The people of the Middle East and North Africa are charting a new path that is already having profound global consequences, and the United States is committed to active and sustained partnerships as the region transforms. Africa holds enormous untapped potential for economic and political development in the years ahead. And our neighbors in the Western Hemisphere are not just our biggest export partners; they are also playing a growing role in global political and economic affairs. Each of these regions demands American engagement and leadership.

Tất nhiên, những khu vực khác vẫn còn rất quan trọng. Châu Âu, quê hương của hầu hết các đồng minh truyền thống của chúng ta, vẫn còn là một đối tác hàng đầu, gần như hoạt động sát cánh với Hoa Kỳ trước mọi thử thách toàn cầu khẩn cấp, và chúng ta đầu tư vào việc cập nhật hóa các cấu trúc của liên minh chúng ta. Nhân dân Trung Đông và Bắc Phi đang vạch ra một con đường mới, việc này đang có những hậu quả toàn cầu sâu sắc, và Hoa Kỳ cam kết duy trì những quan hệ đối tác tích cực và bền vững trong khi khu vực này đang chuyển mình. Châu Phi đang giữ tiềm năng to lớn chưa được khai thác cho việc phát triển kinh tế và chính trị trong những năm sắp tới. Và tất cả những quốc gia láng giềng của chúng ta tại Tây Bán cầu không những chỉ là những đối tác xuất khẩu to lớn nhất của chúng ta; họ còn đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong các vấn đề chính trị và kinh tế toàn cầu. Mỗi một khu vực này đòi hỏi Hoa Kỳ phải tích cực tham gia và lãnh đạo.

And we are prepared to lead. Now, I'm well aware that there are those who question our staying power around the world. We've heard this talk before. At the end of the Vietnam War, there was a thriving industry of global commentators promoting the idea that America was in retreat, and it is a theme that repeats itself every few decades. But whenever the United States has experienced setbacks, we've overcome them through reinvention and innovation. Our capacity to come back stronger is unmatched in modern history. It flows from our model of free democracy and free enterprise, a model that remains the most powerful source of prosperity and progress known to humankind. I hear everywhere I go that the world still looks to the United States for leadership. Our military is by far the strongest, and our economy is by far the largest in the world. Our workers are the most productive. Our universities are renowned the world over. So there should be no doubt that America has the capacity to secure and sustain our global leadership in this century as we did in the last.

Và chúng ta sẵn sàng lãnh đạo. Trong giờ phút này, tôi biết rằng có những người đang hoài nghi khả năng tồn tại của chúng ta khắp thế giới. Khi Chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một công nghiệp rất thịnh hành gồm các bình luận gia đưa ra ý kiến cho rằng Hoa Kỳ đang tháo chạy, và đây là một đề tài cứ lặp đi lặp lại mỗi vài thập niên. Nhưng bất cứ khi nào Hoa Kỳ tạm thời gặp thất bại, chúng ta lại khắc phục chúng bằng tái phát minh và sáng kiến. Khả năng hồi phục mạnh mẽ hơn trước của chúng ta là vô địch trong lịch sử hiện đại. Khả năng này phát sinh từ mô hình dân chủ tự do và tự do kinh doanh của chúng ta, một mô hình vẫn còn là nguồn tạo ra phồn vinh và tiến bộ mạnh mẽ nhất mà nhân loại biết tới. Khắp mọi nơi tôi đến, tôi nghe rằng thế giới vẫn còn trông đợi Hoa Kỳ lãnh đạo. Quân đội của chúng ta rõ ràng là hùng mạnh nhất, và nền kinh tế của chúng ta rõ ràng là lớn nhất. Công nhân của chúng ta có năng suất cao nhất. Đại học của chúng ta nổi tiếng khắp hoàn cầu. Vì thế hiển nhiên là, Hoa Kỳ có khả năng đảm bảo và duy trì quyền lãnh đạo của chúng ta trong thế kỷ này cũng như đã từng làm trong thế kỷ trước.

As we move forward to set the stage for engagement in the Asia-Pacific over the next 60 years, we are mindful of the bipartisan legacy that has shaped our engagement for the past 60. And we are focused on the steps we have to take at home -- increasing our savings, reforming our financial systems, relying less on borrowing, overcoming partisan division -- to secure and sustain our leadership abroad.

Khi chúng ta bước tới chuẩn bị tham gia các hoạt động tại châu Á trong 60 năm tới, chúng ta luôn luôn ý thức cái di sản lưỡng đảng đã ảnh hưởng sự dấn thân của chúng ta trong 60 năm qua. Và chúng ta đang tập trung vào những việc mà chúng ta phải thực hiện ở trong nước – tăng quỹ tiết kiệm, cải tổ các hệ thống tài chính của chúng ta, giảm bớt việc vay nợ, khắc phụ nạn chia rẽ đảng phái – để đảm bảo và duy trì quyền lãnh đạo của chúng ta ở nước ngoài.

This kind of pivot is not easy, but we have paved the way for it over the past two-and-a-half years, and we are committed to seeing it through as among the most important diplomatic efforts of our time.

Tuy rằng sự chuyển hướng này không phải là dễ dàng, nhưng chúng ta đã dọn đường cho nó trong 2 năm rưỡi vừa qua, và chúng ta cương quyết phải thấy nó hoàn thành như một trong những nỗ lực ngoại giao quan trọng nhất thời đại chúng ta.


Translated by Trần Ngọc Cư



http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/10/11/americas_pacific_century?page=0,0