MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Thursday, August 25, 2011

Why China’s Heading for a Hard Landing Trung Quốc hạ cánh nặng nề






Why China’s Heading for a Hard Landing
Trung Quốc hạ cánh nặng nề
Part 1- by A. Gary Shilling - Jun 27, 2011
Phần 1 - A. Gary Shilling - 27-6-2011
Few countries are more important to the global economy than China. But its reputation as an unstoppable giant -- as a country with an unending supply of cheap labor and limitless capacity for growth -- masks some serious and worsening economic problems.
Hiếm có xứ nào lại ảnh hưởng mạnh tới kinh tế toàn cầu như Trung Quốc. Nhưng danh tiếng của tay khổng lồ không ai có thể cản này – như một quốc gia lớn có nguồn lao động vô tận với giá rẻ và có tiềm năng tăng trưởng vô hạn – lại che giấu là một số nan đề kinh tế nghiêm trọng và ngày càng trầm trọng hơn.
China’s labor force is aging. Its consumers save too much and spend too little. Its political and economic policy tools remain crude. Its state bureaucracy seems likely to curb spending just as exports weaken, and thus risks deflation. As U.S. consumers retrench, and as the global commodity bubble begins to dissipate, these fundamental weaknesses will combine in a way that’s unlikely to end well for China -- or for the rest of the world.
Lực lượng lao động của Trung Quốc đang bị lão hóa. Giới tiêu thụ của họ tiết kiệm quá nhiều mà lại chi tiêu quá ít. Công cụ chính sách kinh tế và chính trị của họ còn thô thiển. Bộ máy thư lại nhà nước thường giảm công chi mỗi khi xuất cảng sa sút và vì vậy bị rủi ro giảm phát [1]. Khi người tiêu dùng Hoa Kỳ thắt hầu bao, và bong bóng thương phẩm [2] toàn cầu bắt đầu vỡ, thì các nhược điểm cơ cấu này sẽ tương tác theo cái hướng đưa tới kết cục không tốt cho Trung Quốc – hoặc các nước còn lại trên thế giới.
To start, China is much more vulnerable to an international slowdown than is generally understood. In late 2007, my firm’s research found that too few people in China had the discretionary spending capability to support its economy domestically. Our analysis showed that it took a per-capita gross domestic product of about $5,000 to have meaningful discretionary spending power in China.
Trước hết, trong tình huống suy trầm quốc tế, Trung Quốc có nhược điểm nặng hơn người ta thường hiểu. Vào cuối năm 2007, nghiên cứu của công ty chúng tôi [3] đã phát hiện là quá ít dân tại Trung Quốc có đủ sức tiêu thụ để nền kinh tế tự duy trì sinh hoạt ở bên trong. Kết quả phân tích của chúng tôi cho thấy rằng tổng sản phẩm nội địa (GDP) bình quân cho một người [4] phải đạt tới khoảng 5.000 Mỹ kim một năm thì mới có sức mua đáng kể cho Trung Quốc [5].
About 110 million Chinese had that much or more, but they constituted only 8 percent of the population and accounted for just 35 percent of GDP in 2009, while exports accounted for 27 percent. Even China’s middle and upper classes had only 6 percent of Americans’ purchasing power.
Khoảng 110 triệu dân Trung Hoa đã đạt hoặc vượt tiêu chí ấy, nhưng họ chỉ chiếm 8% dân số và 35% GDP (theo số liệu năm 2009), trong khi giá trị hàng hóa xuất cảng chiếm đến 27%. Thậm chí sức mua của tầng lớp trung lưu cộng với thượng lưu của Trung Quốc cũng chỉ chiếm 6% sức mua của người dân Hoa Kỳ.
Why Overconfidence Abounds
Tự tin phổ biến – Tại sao vậy
With such limited domestic spending, why do so many analysts predict that China can continue its robust growth? In part because they believe in the misguided concept of global decoupling -- the idea that even if the U.S. economy suffers a setback, the rest of the world, especially developing countries such as China and India, will continue to flourish. Recently -- after China’s huge $586 billion stimulus program in 2009; massive imports of industrial materials such as iron ore and copper; booms in construction of cement, steel and power plants, and other industrial capacity; and a pickup in economic growth -- the decoupling argument has been back in vogue.
Với mức chi tiêu quốc nội hạn hẹp như vậy, cớ sao nhiều nhà phân tích cứ tiên đoán rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục phát triển như vũ bão?
Lý do phần nào là do họ bị mê hoặc bởi thuyết phát triển tách biệt [6] – theo đó, thì ngay trong trường hợp kinh tế Hoa Kỳ đi xuống, các nước còn lại trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Trung Quốc và Ấn Độ, vẫn tiếp tục phát đạt. Gần đây – sau chương trình kích thích kinh tế lớn lao tới 586 tỷ Mỹ kim; sau đợt ồ ạt nhập cảng vật liệu công nghiệp như đồng [7], quặng sắt; và xây hàng loạt dự án xi măng, thép, nhà máy điện, và những công trình công nghiệp khác, rồi kinh tế Trung Quốc quả nhiên có tăng trưởng – cái thuyết phát triển tách biệt đã lại thành thời thượng.
This concept is flawed for a simple reason: Almost all developing countries depend on exports for growth, a point underscored by their persistent trade surpluses and the huge size of Asian exports relative to GDP. Further, the majority of exports by Asian countries go directly or indirectly to the U.S. We saw the effects of this starting in 2008: As U.S. consumers retrenched and global recession reigned, China and most other developing Asian countries suffered keenly.
Thuyết này có điểm yếu vì một lý do đơn giản: Hầu hết mọi quốc gia đang phát triển đều cố xuất cảng để tăng trưởng. Sự thể này được khẳng định ở mức thặng dư mậu dịch liên tục và số xuất cảng lớn lao so với GDP của Á Châu. Đã thế, phần lớn xuất cảng của Châu Á đều, trực tiếp hoặc gián tiếp, trút vào Hoa Kỳ. Chúng ta đã thấy hiệu ứng này bắt đầu từ năm 2008: khi giới tiêu dùng Hoa Kỳ giảm bớt chi tiêu và tổng suy trầm lan rộng thì Trung Quốc và đa số các nước đang phát triển khác ở Châu Á đều bị thiệt hại nặng.
Overconfidence in China’s ability to keep its economy booming is also partly psychological. It reminds me of the admiration and envy (even fear) that many felt toward Japan during its bubble days in the 1980s. As Japanese companies bought California’s Pebble Beach, Iowa farmland and Rockefeller Center in New York, what was safe from their zillions? Then the Japanese stock and real-estate bubbles collapsed, and Japan entered the deflationary depression in which it’s still mired.
Sự tin tưởng thái quá vào khả năng duy trì sức bật kinh tế của Trung Quốc cũng phần nào mang sắc thái tâm lý. Điều này làm tôi nhớ đến sự ngưỡng mộ và ganh tỵ (thậm chí có cả sợ hãi) của nhiều người (Hoa Kỳ) dành cho Nhật Bản trong thời kinh tế bong bóng của xứ này vào thập niên 80. Khi các doanh nghiệp Nhật mua lại khu Pebble Beach [8] ở California, các nông trại ở Iowa và Trung Tâm Rockefeller [9] ở Nữu Ước, thì còn thứ gì mà người Nhật có thể tha với cả tỷ tỷ đồng của họ [10]? Nhưng sau đó các bong bóng bất động sản và chứng khoán của Nhật Bản bắt đầu bể [11], và rồi kinh tế Nhật rơi vào vũng xoáy suy thoái do giảm phát, cho đến vẫn chưa thoát ra được.
Success and Complacency
Từ thành công đến tự mãn
What’s more, China’s recent successes have been so pronounced that they’ve led many to conclude that its economy is a juggernaut. And, indeed, the Chinese have much to be proud of: Last year, China passed Japan to become the world’s second largest economy, a huge achievement considering China started in the late 1970s with a tiny pre-industrialized economy.
Thêm vào đó, những thành công gần đây của Trung Quốc được rêu rao ầm ĩ, khiến nhiều người kết luận rằng kinh tế xứ này là chiến binh vô địch [12]. Thực tế mà nói, thì người Trung Hoa cũng có điều đáng tự hào: Năm rồi, Trung Quốc đã qua mặt Nhật Bản để thành nước có nền kinh tế quy mô hạng thứ hai thế giới. Quả là một thành tựu to lớn, nếu ta nhìn lại khởi điểm của Trung Quốc từ cuối thập niên 70 với một nền kinh tế tiền công nghiệp nhỏ xíu.
But this success may have led to complacency. I suspect that the 2007-2009 global recession, and the dramatic transformation by U.S. consumers from gay-abandon borrowers-and- spenders to Scrooge-like savers, caught Chinese leaders flat- footed. They probably planned to encourage consumer spending and domestic-led growth, but later -- much later.
Nhưng có lẽ chính sự thành công này đã dẫn đến thái độ tự mãn. Tôi ngờ rằng, đợt tổng suy trầm năm 2007-2009, kết hợp với sự thay đổi chóng mặt của giới tiêu dùng Hoa Kỳ, những kẻ hời hợt vốn chuyên đi mượn tiền rồi chi tiêu bạt mạng trước đây nay bỗng nhiên lột xác thành đám dân keo kiệt bậc thầy [13], khiến lãnh đạo Trung Quốc bị hụt hẫng. Có lẽ họ đã lên kế hoạch khích lệ người tiêu dùng xài tiền và đẩy mạnh kinh tế dựa trên tiêu thụ nội địa, nhưng đó là chuyện sau này – thậm chí rất lâu sau này.
Growth Machine
Guồng máy Tăng trưởng
They were enjoying a well-oiled growth machine. Growing exports, especially to American consumers, stimulated the capital spending needed to produce yet more exports and jobs for the millions of Chinese streaming from farms to cities. Wages remained low, due to ample labor supplies, and held down consumer spending. So did the high Chinese consumer saving rate. Because Chinese could not invest offshore, much of that saving went into state banks at low interest rates. The money was then lent to the many inefficient government-owned enterprises at subsidized rates.
Họ từng hào hứng vì có bộ máy tăng trưởng được tra dầu trơn tru. Việc xuất cảng ngày một nhiều, đặc biệt cho giới tiêu dùng Hoa Kỳ, đã kích thích đầu tư về tư bản để sản xuất nhiều hàng xuất cảng hơn nữa và tạo thêm công việc làm cho hàng triệu người Trung Hoa, vốn đang lũ lượt tràn từ nông thôn lên thành thị. Nhờ nguồn lao động dồi dào, lương bổng còn thấp cũng ghìm sức chi tiêu của người dân. Đồng thời, thói quen tiết kiệm rất cao cũng giảm mãi lực của họ. Và vì đa phần thường dân Trung Hoa không thể đầu tư ra hải ngoại, lượng tiết kiệm này của họ chủ yếu đi vào các ngân hàng quốc doanh mà chỉ để hưởng lãi suất thấp. Rồi khối tiền tệ ấy được đem tài trợ nhiều công ty quốc doanh kém hiệu quả, với lãi suất ưu đãi.
In a country where stability is almost worshipped, why would any leader want to disrupt such a smoothly running economy?
But before you worry about China’s becoming No. 1 any time soon, consider the remaining gap between its economy and the U.S. economy. In 2009, China’s GDP was $4.9 trillion, only 34 percent of the U.S.’s $14.3 trillion. Because China has 1.32 billion people, or 4.3 times as many as the U.S. has, the gap in per-capita GDP was even bigger: China’s $3,709 was only 8 percent of the U.S.’s $46,405.
Ở một xứ mà sự ổn định được gần như sùng bái, thì lãnh đạo nào lại cản trở nền kinh tế đang chạy ngon lành như vầy?
Nhưng trước khi quý độc giả lo lắng về vị trí số 1 của Trung Quốc trong tương lai gần, hãy xem lại khoảng cách, vẫn tồn tại, về quy mô giữa kinh tế xứ này với kinh tế Hoa Kỳ. Năm 2009, GDP của Trung Quốc là 4,9 ngàn tỷ Mỹ kim, chỉ bằng 34% của Hoa Kỳ, lúc đó là 14,3 ngàn tỷ. Và vì Trung Quốc có đến 1,32 tỷ người, hay nói cách khác là dân Trung Hoa đông gấp 4,3 lần dân Mỹ, nên khoảng cách về GDP cho một người lại càng giãn ra: phía Trung Quốc là 3.709 Mỹ kim, chỉ bằng 8% của mức 46.405 Mỹ kim phía Hoa Kỳ.
A Wide Gap
Just to maintain this gap at current levels, Chinese GDP will need to grow at double-digit rates for four years before tapering off, or rise sixfold in three decades (assuming that U.S. real GDP increases 2 percent per year on average for the next 30 years, and using government population projections). To close the per-capita GDP gap in 30 years, Chinese GDP would need to grow about 10 percent per year for three decades, or expand to 17.8 times its current size in that period.
Khoảng cách giãn xa
Chỉ riêng với việc giữ cho khoảng cách này không mở thêm thì GDP Trung Quốc phải đạt mức tăng trưởng hai chữ số [từ 10% trở lên] liên tục trong bốn năm trước khi chững lại, hoặc tăng gấp sáu lần trong ba thập niên tới (giả dụ rằng thực giá GDP của Hoa Kỳ sẽ tăng trung bình 2% mỗi năm trong 30 năm tới, và dựa theo dự phóng dân số của chính phủ nước này). Để đuổi kịp mức GDP bình quân đầu người của Mỹ, thì trong ba thập niên tới, GDP Trung Quốc phải tăng 10% mỗi năm, hoặc tăng gấp 17,8 lần so với hiện nay.
Such rates of growth seem close to impossible if the global economy slows.
As the announcer for the Cleveland Indians used to say when the Tribe was hopelessly behind, “They have their work cut out for them!”
Nếu kinh tế toàn cầu đình trệ, thì việc đạt mức tăng trưởng trên là điều vô vọng.
Nghe như câu đầu môi mà tay phát ngôn của đội bóng chầy Cleveland Indians [14] ưa dùng sau những trận đội này bị phe đối phương bỏ xa một cách vô vọng: “Thế mới xứng tài!”
(A. Gary Shilling is president of A. Gary Shilling & Co. and author of “The Age of Deleveraging: Investment Strategies for a Decade of Slow Growth and Deflation.” The opinions expressed are his own. This is the first in a five-part series.)
(A. Gary Shilling là chủ tịch của công ty Gary Shilling &Co và là tác giả: “The Age of Deleveraging: Investment Strategies for a Decade of Slow Growth and Deflation.” Đây là ý kiến riêng của tá giả - Phần thứ nhất trong năn phần)
To contact the author of this column: A. Gary Shilling at insight@agaryshilling.com.
Địa chỉ liên hệ tác giả: : A. Gary Shilling at insight@agaryshilling.com.
Thương Đăng dịch
Chú thích của người dịch
[1] Nguyên văn: “deflation”, chỉ tình trạng giảm phát kinh tế – ngược với lạm phát – khi mặt bằng giá cả chung bị hạ mà hàng bán vẫn không chạy, ở đây bắt nguồn từ việc hàng dư dôi do xuất cảng không hết, nhà nước thì muốn giảm chi tiêu công của chính phủ khiến dòng tiền lưu thông trên thị trường bị nghẽn, người dân cũng chẳng muốn bỏ tiền ra mua hàng mà lại ký thác vào nhà băng để phòng khi hữu sự, và để dành mua nhà đất, v.v…
[2] Nguyên văn: “global commodity bubble”, chỉ hiện tượng đầu cơ đẩy giá thương phẩm toàn cầu lên quá thực giá. “Thương phẩm” hay “commodities” là các nguyên nhiên vật liệu và nông sản, được buôn bán dưới dạng để xá, thô sơ chưa biến chế.
[3] Tức A. Gary Shilling & Company, doanh nghiệp tư vấn về đầu tư kinh tế, của ông A. Gary Shilling, tác giả bài viết.
[4] Nguyên văn: “per-capita GDP”, hiểu nôm na là thu nhập bình quân của mỗi người dân, tính bằng cách lấy tổng thu nhập quốc dân của một nước (GDP) chia cho dân số nước đó vào cùng thời điểm.
[5] Nguyên văn: “meaningful discretionary spending power”, ý nói khả năng chi tiêu tự do cho hàng hóa thiết yếu ở mức độ khả dĩ tác động đáng kể đến nền sản xuất của quốc gia.
[6] Nguyên văn: “decoupling”- tách biệt: thuyết này là mốt thịnh hành trước vụ tổng suy trầm 2008 vì cho rằng kinh tế châu Á đã có sức tách rời khỏi các nước Tây phương nên không bị hiệu ứng suy trầm từ Hoa Kỳ và Âu Châu. Sau đó, thuyết này càng ăn khách từ vụ tổng suy trầm 2008 – 2009 khi thấy sự hồi phục mạnh mẽ của kinh tế Châu Á cùng thị trường các nước trong khu vực như Thượng Hải, Hương Cảng và Tân Gia Ba với tốc độ tăng trưởng gần gấp đôi so với Mỹ và các nước khu vực Châu Âu.
[7] Riêng về vụ xuất nhập cảng kim loại đồng của Tàu, tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa đã có bài viết bàn về hiện trạng cũng như ảnh hưởng của vật liệu này cho kinh tế Tàu. Bài phân tích có tựa đề là “Kinh tế Trung Quốc: Đồng Nhập Thành Đồng Nát”
[8] Pebble Beach là tên khu nghỉ dưỡng cao cấp kết hợp với sân golf, rộng tổng cộng 5.300 mẫu Anh (tầm 21,5 km vuông) với hơn 1.600 nhân viên, từng bị bán cho doanh gia Nhật là Minuro Isutani năm 1990 với giá ước tính là 850 triệu Mỹ kim. Sau đó, ông này bán lại cho một doanh nghiệp khác cũng của Nhật tên là The Lone Cypress hồi 992; đến năm 1999 thì khu này bị một nhóm các nhà đầu tư Hoa Kỳ mua lại, và họ quyết định không bao giờ cho đổi chủ nữa.
[9] Rockefeller Center (còn gọi là Rockefeller Plaza) là một khu phức hợp gồm 19 tòa thương xá, nằm trải rộng trên diện tích gần 22 mẫu Anh (89.000 m2) của thành phố Nữu Ước, do chính các tiền bối dòng họ Rockefeller khét tiếng xây dựng và khai trương năm 1939, được bán lại cho một công ty địa ốc Nhật trong tập đoàn Mitsubishi là Mitsubishi Estate năm 1989 với giá ước chừng 846 triệu Mỹ kim theo thời giá ngày đó.
[10] Nguyên văn: “what was safe from their zillions”, ý nói sự e ngại rằng từ nay hàng loạt công ty Nhật tiến vào với hàng đống tiền (zillions – chơi chữ từ millions, billions và trillions) mua lại hay thâu tóm các công ty Hoa Kỳ, và de dọa an ninh kinh tế của Mỹ.
[11] Trong thập niên 80, hệ số Giá/Lời hay P/E của chỉ số tổng hợp Nikkei 225 tăng gần 70 lần, còn giá bất động sản liên tục tăng đến nỗi có lúc ngân hàng Nhật cho vay thế chấp mua nhà (mortgage) với kỳ hạn kéo dài 100 năm để người dân Nhật mua có cơ hội mua nhà biệt lập hoặc căn hộ chung cư. Đến cuối năm 1989 thì bong bóng này bắt đầu xì hơi, từ thị trường bất động sản sau đó là lan sang thị trường chứng khoán. Chỉ hai năm sau, Nhật Bản chính thức bước vào suy thoái. Tính đến cuối năm 1998, hệ thống ngân hàng Nhật Bản ước tính rằng họ vẫn phải ôm 600 tỷ Mỹ kim nợ xấu, cùng với hơn 965 tỷ Mỹ kim tiền nợ khác có nguy cơ không thu hồi được, chủ yếu là tiền mượn đầu tư vào đất đai. Còn chỉ số P/E là một thước đo về triển vọng sinh lời khi chia trị giá cổ phiếu (Price) cho mức lời hay cổ tức (lợi tức của cổ phiếu, Earning). Số bình quân thông thường từ cả trăm năm nay của chỉ số P/E là 15 (giá cổ phiếu bằng 15 lần tiền lời do cổ phiếu này đem lại). Khi chỉ số P/E lên tới số 70 ở tại Nhật thì người nhậy bén phải thấy là có gì “ảo” – không thật nên không bền.
[12] Nguyên văn: “juggernaut”.
[13] Nguyên văn: “Scrooge-like savers”, ý nói đến Ebenezer Scrooge, một nhân vật hư cấu trong văn hóa Hoa Kỳ, nổi tiếng giàu có nhưng sống cô độc và vô cùng bủn xỉn, keo kiệt.
[14] Tên một đội bóng chày nổi tiếng ở Hoa Kỳ, từng đoạt giải vô địch thế giới hai lần vào năm 1920 & 1948. Chữ Cleveland Indians hiểu nôm na là Thổ Dân Da Đỏ miệt Cleveland, và đội này thường được gọi là The Tribe, tức Bộ Lạc. Trong các môn thể thao tập thể ngoài trời bên Hoa Kỳ, thì bóng chày & bóng bầu dục (football) thường được người ta ưa chuộng hơn là bóng đá (soccer).
[15] Nguyên văn: “They have their work cut out for them!”, nghĩa đen là “còn phải phấn đấu vất vả mà thời gian lại không nhiều”. Ở đây, tác giả có giọng mỉa mai là Trung Quốc phải vượt thắng trong gian nan.





Why China’s Heading for a Hard Landing
Trung Quốc hạ cánh nặng nề
Part 2- by A. Gary Shilling - Jun 28, 2011
Phần 2 - A. Gary Shilling - 28-6-2011
China has become an economic giant because it has so many people who are producing moderate amounts. In most ways, however, China remains an underdeveloped country with political and economic policy tools that are crude by Western standards. Those tools can spur impressive growth --but they also mask some deep structural weaknesses in China’s economy.
Trung Quốc đã trở thành anh khổng lồ kinh tế nhờ có quá nhiều nhân công đang sản xuất một lượng hàng hóa nhất định. Tuy nhiên, xét từ hầu hết các góc độ, Trung Quốc vẫn là một nước đang phát triển với các khí cụ về chính sách kinh tế và chính trị thô sơ nếu so với tiêu chuẩn Tây phương. Những khí cụ này có thể khiến họ tăng trưởng [1] một cách đáng kể - nhưng cũng che giấu một số nhược điểm nằm sâu trong cấu trúc kinh tế.
It’s relatively easy for developing countries to grow by emulating the technology of advanced nations or, in China’s case, by forcing them to share it as the price of doing business or by simply stealing it.
Các nước đang phát triển có thể tăng trưởng tương đối dễ bằng cách bắt chước kỹ thuật của các nước tiên tiến hoặc, như trong trường hợp Trung Quốc, là buộc họ phải đổi kỹ thuật này lấy cơ hội làm ăn, hoặc đơn giản là ăn cắp [2].
And a tightly controlled economy can get results quickly. That’s what happened with China’s $586 billion stimulus program introduced in 2009. Growth in gross domestic product leaped from a 6 percent rate in early 2009 back to double digits. Most of the money was channeled through government-controlled banks, whose lending increased by $1.4 trillion, or 32 percent, over the course of 2009 after being flat since early 2006. The money supply increased by 29 percent.
Và các nền kinh tế bị kiểm soát chặt chẽ thường sớm đạt kết quả. Điều đó đã xảy ra với chương trình kích thích kinh tế trị giá 586 tỷ Mỹ kim mà Trung Quốc đưa ra năm 2009 [3]. Từ 6% hồi đầu năm 2009, tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội nhảy lại lên mức hai số [từ 10% trở lên]. Ngân khoản này được bơm ra chủ yếu là qua các kênh ngân hàng quốc doanh do chính phủ kiểm soát, lúc đó có tổng mức cho vay đã lên đến 1,4 ngàn tỷ Mỹ kim, tăng 32%, trong suốt năm 2009, sau giai đoạn phẳng lỳ kể từ đầu năm 2006. Khối tiền tệ lưu hành [4] cũng tăng 29%.
Those loans financed public and industrial infrastructure and real estate. Property prices in January 2010 were up 9.5 percent from a year earlier, according to government numbers, and much more by private realistic estimates. Employment gained along with economic activity, and in the third quarter of 2009, there were 94 job openings for every 100 applicants, up from 85 in depressed 2008, and close to the pre-crisis average of 97.
Những khoản vay này được bơm vào các khu vực địa ốc, dự án công cộng và hạ tầng nhà xưởng phục vụ sản xuất công nghiệp. Theo số liệu thống kê của chính phủ thì giá cả nhà đất tháng Giêng năm 2010 đã lên 9,5% so với cùng kỳ năm trước, nhưng giới tư doanh ước tính con số thực tế cao hơn rất nhiều. Các hoạt động kinh tế này kéo theo việc gia tăng công ăn việc làm, và trong Quý ba năm 2009, cứ 100 người đi xin việc thì có đến 94 vị trí công việc cần người, tăng cao hơn tỷ số 85/100 thời suy trầm năm 2008, và gần với mức trung bình 97 thời kỳ tiền khủng hoảng.
Unsustainable Growth
Tăng trưởng không Bền vững
Here’s what we should remember: This kind of growth is unsustainable, and it won’t be able to cover up China’s underlying vulnerabilities forever.
China’s reliance on exports and a controlled currency for growth, for instance, will no longer work if U.S. consumers are engaged in a chronic saving spree, as I believe they will be. Chinese export growth, which averaged 21 percent per year in the last decade, is bound to suffer.
Đây là điều ta nên ghi nhớ: Cái kiểu phát triển này hoàn toàn không bền vững, và sẽ không thể mãi mãi phủ lấp những nhược điểm cơ cấu của Trung Quốc.
Ví dụ, sự lệ thuộc của Trung Quốc vào xuất cảng cùng việc kiềm giá đồng tiền để tăng trưởng sẽ sớm mất tác dụng nếu giới tiêu dùng Hoa Kỳ bắt đầu thi nhau tiết kiệm [4], như tôi tin là sẽ xảy ra. Tốc độ gia tăng xuất cảng hàng hóa Trung Quốc, vốn ở mức bình quân 21% hàng năm trong suốt thập niên qua, sẽ bị ảnh hưởng nặng.
The country’s seemingly inexhaustible pool of cheap labor is expected to peak in 2014, in part due to its rigid one-child policy. By some estimates, ample labor has boosted GDP growth by 1.8 percentage points annually since the late 1970s, but the contraction of the working-age population will reduce growth by 0.7 percentage points by 2030.
Nguồn nhân công giá rẻ tưởng chừng bất tận của xứ này dự kiến sẽ tới đỉnh vào năm 2014, phần nào do sự gò bó của chính sách một con [6]. Theo một số ước tính, thì nguồn nhân lực dồi dào đã đẩy chỉ số GDP tăng thêm 1,8% mỗi năm kể từ cuối thập niên 70. Nhưng sự sụt giảm dân số lao động sẽ khiến chỉ số này giảm một độ bách phân là 0,7% từ nay đến cuối năm 2030 [tức là tăng độ hàng năm là 1,8% nhờ dân số trước đây sẽ chỉ còn khoảng 1,1%].
Wages and Ages
Wages are already rising, and even Chinese manufacturers are moving production to Vietnam and Pakistan, where pay levels are a third of China’s. Some factory workers have seen wage increases of 20 percent to 30 percent in the last year or so, with those producing goods for foreign companies seeing especially large boosts. At the same time, better conditions in rural areas have reduced the flow of cheap labor into coastal cities.
Tuổi tác và Tiền lương
Mức lương trung bình đã được tăng, thậm chí các hãng sản xuất Trung Quốc đang dời cơ sở của họ sang Việt Nam và Pakistan, nơi mà mức lương công nhân chỉ bằng một phần ba. Một số nhân công trong hãng xưởng sản xuất còn được tăng lương từ 20% đến 30% đâu đó từ hồi năm trước, trong số này, công nhân của các hãng xưởng nước ngoài được tăng nhiều nhất. Đồng thời, điều kiện sinh sống khá hơn ở nhiều vùng nông thôn đã hãm lại dòng nhân công giá rẻ chảy vào các đô thị miền duyên hải.
As the Chinese population ages, the ratio of retirees to working-age people is forecast to rise from 39 percent last year to 46 percent in 2025.
This does not bode well for China’s future growth. When Communist Party leaders transitioned China’s economy from a cradle-to-grave nanny state to a progressively free-market one starting in 1978, no meaningful unemployment, retirement or state health systems were instituted. (Although President Hu Jintao said in October that China will “institute a social safety net that covers all,” and the government has set a goal of providing basic medical care for all Chinese by 2020.)
Khi trong dân Trung Hoa ngày càng có nhiều người già, tỷ lệ người về hưu so với người ở tuổi lao động được ước tính là sẽ tăng từ mức 39% lên đến 46% vào năm 2025. [Tức là 54 người lao động sẽ phải cung ứng nhu cầu cho 46 người về hưu. Con số 46/100 này gọi là "tỷ số lệ thuộc".]
Điều này báo trước điềm gở cho mức tăng trưởng tương của Trung Quốc. Năm 1978, khi giới lãnh đạo Đảng Cộng Sản quyết định chuyển nền kinh tế Trung Hoa từ chế độ hoàn toàn bao cấp - từ khi sinh ra cho đến ngày tạ thế - của một nhà nước vú em sang chế độ thị trường tiệm tiến, thì họ vẫn chưa thiết lập một hệ thống đáng kể nào về trợ cấp thất nghiệp, hưu bổng hay bảo dưỡng y tế cấp quốc gia. (Dù Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã phát biểu hồi tháng Mười vừa qua - 2010 - rằng Trung Quốc sẽ “thiết lập một mạng lưới an sinh xã hội để chu toàn tất cả các hệ thống này,” và chính phủ Bắc Kinh vừa đặt ra mục tiêu là sẽ cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế căn bản cho mọi người dân vào năm 2020.)
Prodigious Saving
So the Chinese must save prodigiously to provide for their welfare and retirement. This has contributed mightily to China’s high rate of saving and low rate of spending, and its consequent reliance on exports. Chinese households save close to 30 percent of income on average, in large part to cover old age and medical costs.
Tiết kiệm Dị thường
Và do vậy dân Trung Hoa hiện phải dành dụm rất nhiều để lo chi phí an sinh và hưu liễm. Đây là động lực tối thượng của sức tiết kiệm rất lớn của Trung Quốc, nhưng cũng giải thích sức mua rất thấp, và kéo theo hậu quả là làm cho xứ này phải phụ thuộc vào xuất cảng. Trung bình các hộ gia đình Trung Hoa để dành gần 30% số thu nhập [7], nhằm chi dùng cho nhu cầu y tế và dưỡng lão.
Yes, the Chinese saving rate will be pushed down in time by aging Chinese who still consume but no longer work, much as it has in Japan. Nevertheless, less saving and more Chinese consumption won’t substitute for weakening exports any time soon. Chinese consumers buy only about one-tenth of those in Europe and the U.S. combined. As the euro zone remains troubled, and the U.K. slashes government stimulus and U.S. consumers continue to retrench, it’s unlikely that a drop in Chinese saving could offset the negative effects of reduced exports.
Thực tế là mức tiết kiệm của dân Trung Hoa sẽ giảm dần theo thời gian, do người già ở Trung Quốc tiếp tục chi tiêu mà không còn kiếm ra tiền nữa, cũng tương tự như trường hợp dân Nhật. Tuy nhiên, trước mắt thì việc người dân Trung Hoa bớt tiết kiệm và tăng tiêu dùng sẽ không thay thế được lực xuất cảng đang đuối sức. Số tiền mà giới thiêu thụ Trung Hoa bỏ ra mua hàng hóa chỉ bằng 1/10 số tiền của giới tiêu dùng Châu Âu và Hoa Kỳ cộng lại. Và trong khi khu vực đồng Euro đang gặp khó khăn, dư luận Anh cắt giảm các khoản kích cầu [8] và giới tiêu dùng Hoa Kỳ tiếp tục thắt hầu bao, thì việc giảm mức tiết kiệm của dân Trung Hoa khó chống đỡ nổi tác động tiêu cực do tình hình xuất cảng hàng hóa sụt giảm này gây ra.
Inflation Looming
Finally, China’s state-controlled economic boom may soon lead to crippling inflation. In February 2010, the director of the National Bureau of Statistics said that “asset-price increases pose a challenge for macroeconomic policy.”
Lạm phát lù lù
Cuối cùng, quả bóng kinh tế trong tầm bơm của nhà nước Trung Quốc có thể sớm dẫn đến tình trạng quặt qoẹo vì lạm phát. Vào tháng Hai năm 2010, giám đốc Cục Thống Kê Quốc Gia nước này cho biết “giá tài sản đầu tư gia tăng [9] đã thách đố chính sách kinh tế vĩ mô của chúng ta."
The housing boom has pushed up prices to the point that apartments in Beijing are affordable to only the top 20 percent of earners -- they’re selling at about 22 times average income (average U.S. house prices peaked at six times average income). A square meter of property in China costs an estimated 164 times per-capita income, compared with 33 times in high-priced Japan.
Quả bóng thị trường gia cư đã đẩy giá lên đến mức mà chỉ có 20% những người có thu nhập cao nhất là có khả năng mua được chung cư ở Bắc Kinh – giá các căn hộ ở đây cao gấp 22 lần lợi tức bình quân (giá một căn nhà bình thường ở Hoa Kỳ cao nhất cũng chỉ gấp sáu lần thu nhập bình quân). Một mét vuông bất động sản ở Trung Quốc có giá ước tính cao gấp 164 lần so với thu nhập bình quân đầu người, trong khi ở xứ láng giềng đắt đỏ là Nhật Bản, tỷ số này chỉ tới mức 33 lần.
The 2009 stimulus package also spurred consumer price inflation to a year-over-year acceleration of 5.5 percent in May. Food prices are very sensitive politically because so many Chinese are at subsistence incomes, and they rose 11.7 percent in May from a year earlier.
Chương trình kích thích kinh tế năm 2009 cũng đã đẩy tỷ lệ lạm phát tính theo chỉ số giá tiêu dùng [10] thường niên lên 5,5% hồi tháng Năm rồi. Giá thực phẩm vốn rất nhạy với quyết sách chính trị, vì có rất nhiều người Trung Hoa có mức thu nhập vừa đủ sống, và hồi tháng Năm này chúng đã tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước [riêng giá thịt lợn thì tăng 59% theo con số mới nhất!]
Chinese leaders are not amused, and are taking stringent restraining actions. But with only blunt-force economic tools available, it’s not clear that they’ll be capable of managing a controlled slowdown without significant pain.
Giới lãnh đạo Trung Quốc không vui, và đang nghiêm ngặt tiến hành các biện pháp khống chế. Nhưng vì trong tay chỉ có các công cụ kinh tế thô bạo [blunt-force], liệu họ có năng lực lèo lái con tàu kinh tế vào vũng xoáy suy trầm một cách êm xuôi mà tránh gây thống khổ hay không [11].

Chú Thích
[1] Người dịch xin chọn chữ "tăng trưởng", có thể dùng như danh từ hay động từ, để diễn tả chữ "growth", là một khái niệm về lượng. Chữ "development" có hàm ý đa diện vì bao gồm cả phẩm chất của sự tăng trưởng như giáo dục, y tế, xã hội, v.v.... thì xin dịch là "phát triển". Trung Quốc có tăng trưởng ở số lượng hàng hóa sản xuất ra, nhưng chưa phát triển vì môi sinh và phẩm chất của cuộc sống người dân vẫn còn quá tệ.
[2] Có lẽ một trong những vụ ồn ào nhất thuộc dạng này khi công ty Kawasaki Heavy Industries (KHI) của Nhật cáo buộc công ty Qingdao Sifang, trực thuộc tập đoàn hỏa xa quốc doanh CSR Sifang của Trung Hoa, đã đánh cắp công nghệ chế tạo hỏa xa của dòng hỏa xa siêu tốc CRH2 mà họ đã cùng hợp tác sản xuất năm 2004 để cho ra dòng hỏa xa siêu tốc có mã hiệu CRH380A của riêng Trung Quốc. Trong một bài báo của tờ Thời Báo Tài Chính (Financial Times xuất bản tại Anh) có tựa là "Japan Inc. shoots itself in foot on bullet train", ra ngày 08 tháng Bảy năm 2010, Luo Bin, phó kỹ sư trưởng Trung Tâm Phát Triển Kỹ Nghệ của công ty Sifang, khẳng định là họ “đã tiêu hóa trọn” (digested) các kỹ nghệ cần thiết để sản xuất sau hai năm hợp tác với KHI. Và dòng hỏa xa CRH3 là sản phẩm hoàn toàn của Trung Quốc, và vượt trội chiếc Shinkansen của người Nhật về tốc độ lẫn trang trí nội thất.
[3] Thực chất đợt bơm tiền này của Trung Hoa là để cứu hệ thống ngân hàng và góp phần hạ nhiệt kinh tế Tứ Xuyên nhằm ổn định tình hình chính trị xã hội trong nước hơn là vì mục tiêu vực dậy nền kinh tế. Ngoài ra, còn phải kể thêm các khoản tín dụng lớn lao của hệ thống ngân hàng quốc doanh chưa biết là lên tới bao nhiêu cho các địa phương. Xin xem thêm bài “Vấn Đề Trung Quốc... của Bắc Kinh” ở trang mạng http://www.vnfa.com/an09q2/0905_192.html & bài “Vịt Tứ Xuyên” ở trang mạng http://www.dainamax.org/2011/03/vit-tu-xuyen.html của tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa. Một chi tiết khác cần chú ý là kích thước rất lớn của gói kích thích kinh tế trị giá 586 tỷ đô la so với GDP của xứ này vào năm đó trị giá khoảng 4.500 tỷ đô la theo thống kê của Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, tức là khoảng 13%. Trong khi gói kích thích kinh tế của Mỹ vào năm 2009 chưa lên tới 800 tỷ, chỉ ở khoảng 5,6% sản lượng xứ này là hơn 14.300 tỷ.
[3] Tức là lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế.
[5] Nguyên văn: “chronic saving spree”, có lẽ ý tác giả muốn nói đến chỉ số PSAVERT (Personal Savings Rate). Tỷ lệ bách phân tiền tiết kiệm trên thu nhập cá nhân có xu hướng gia tăng trở lại, đặc biệt là từ năm 2007 đến năm 2009, có lúc đã lên tới mức trên 7% như hồi đầu thập niên 90.
[6] Theo cuốn “Death by China” của hai tác giả Peter Navarro và Greg Autry, thì “di sản” của chính sách một con là hơn 100 triệu nam nhân Trung Hoa không thể kiếm được vợ. Nước Việt Nam đứng hàng thứ 14 trên thế giới về số dân mà cũng chỉ có tầm 90 triệu dân.
[7] So với tỷ lệ 5% thu nhập của người Mỹ theo số liệu thống kê tháng 05 năm 2011 (Cục Phân Tích Kinh Tế, thuộc Phòng Thương Mại Hoa Kỳ).
[8] Hiện chính phủ Anh Quốc vẫn đang cân nhắc việc chi thêm 50 tỷ BảngAnh (hay Anh kim) cho chương trình nới lỏng có định lượng (quantitative easing) trị giá 200 tỷ bảng đã tiến hành hồi tháng Mười năm 2010.
[9] Nguyên văn: “asset price”, tức trị giá đầu tư các loại tài sản tài chính và bất động sản, ví dụ như giá vàng, giá cổ phiếu, giá nhà đất, v.v....
[10] Nguyên văn: “consumer price inflation”, tức tỷ lệ thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) theo thời gian. Hiểu cho dễ thì khoảng sai biệt ấy là tỷ lệ lạm phát.
[11] Nguyên văn: “it’s not clear that they’ll be capable of managing a controlled slowdown without significant pain” - một câu rất súc tích và khó dịch cho gọn được!
Why China’s Heading for a Hard Landing
Trung Quốc hạ cánh nặng nề
Part 3 - by A. Gary Shilling - Jun 28, 2011
Phần 3 - A. Gary Shilling - 28-6-2011
China is hoping to cool its white- hot economy without precipitating a recession. Doing so will be extremely difficult: Inflation fears are growing, the government’s ability to respond is quite limited, and China’s economic model, which leaves bureaucrats guessing about the market effects of their directives, is ultimately untenable.
Trung Quốc đang mong hạ nhiệt nền kinh tế nóng rực của mình [1] mà không thổi lên một trận suy trầm. Muốn như vậy là cực khó: Nỗi lo về nạn lạm phát đang tăng, khả năng ứng phó của chính phủ thì bị hạn chế; và vì cho các quan chức ngồi dự đoán tác động thị trường trên mệnh lệnh của họ, nói cho cùng mô hình kinh tế Trung Quốc ngày nay sẽ khó mà trụ vững.
Inflation worries start with housing. With Chinese exports curtailed by U.S. consumer retrenchment, capital spending threatened by government restraints and excess capacity, and domestic spending less than robust, housing has been China’s big generator of economic growth in recent years. By some estimates, half of Chinese GDP is linked to real-estate activity.
Những mối lo về lạm phát khởi đi từ thị trường gia cư. Khi sản lượng xuất cảng của Trung Quốc bị giảm vì giới tiêu dùng Hoa Kỳ lo thắt hầu bao, thì luồng vốn đầu tư vào tài sản cố định [2] bị đe dọa [từ ba góc] là các biện pháp khống chế của chính phủ, công xuất dư dôi của hãng xưởng, và sức chi tiêu trong nước còn quá yếu, nên nhà cửa trở thành đầu máy thúc đẩy kinh tế tăng trưởng trong mấy năm gần đây. Theo một số ước tính thì phân nửa GDP của Trung Quốc có liên quan đến hoạt động mua bán bất động sản [3].
The government is fearful of rising prices, and has moved to prevent speculation. Buyers must now put down 60 percent of the purchase price on second homes, and 30 percent on first homes. The government is pressing banks to contain mortgages, and some have raised interest rates. In January, the mayor of Shanghai announced a new tax on property transactions that may be copied nationwide as other officials attempt to cool prices.
Chính phủ xứ này lo rằng giá sẽ leo thang nên ra tay ngăn nạn đầu cơ bất động sản. Hiện giờ người mua nhà phải đặt cọc 30% cho căn đầu tiên, và 60% khi mua căn thứ hai. Chính phủ ép giới ngân hàng ngưng tín dụng thế chấp, và một số còn nâng lãi suất. Hồi tháng Giêng, thị trưởng Thượng Hải đã công bố sắc thuế mới đánh vào các giao dịch bất động sản [4], một biện pháp được toàn quốc bắt chước để hạ cơn sốt giá.
With these restraints in place, and with supply starting to catch up with demand, housing sales have slowed. But this has not fully curtailed China’s real-estate bubble: Housing starts rose about 40 percent last year. Developers are rushing to build while they try to support faltering prices by delaying completions and creating artificial shortages. Of course, these efforts are difficult to maintain because they tie up capital in uncompleted houses. Houses are now being built at about twice the rate they’re being sold, well above earlier norms.
Với những biện pháp khống chế hiện hành, và nguồn cung về bất động sản khởi sự bắt kịp nhu cầu, số nhà bán đã chậm lại. Nhưng điều này vẫn không đủ ngăn hiện tượng bong bóng bất động sản: Số nhà khởi công đã tăng 40% vào năm ngoái. Giới đầu tư vào nhà cửa đua nhau xây cất, đồng thời họ cố giữ giá đang rung rinh sắp đổ bằng cách trì hoãn việc hoàn tất và gây ra khan hiếm giả tạo. Dĩ nhiên, họ không thể cố mãi như vậy vì bị chôn vốn vào các dự án dở dang. Số lượng nhà mới đang xây hiện cao gấp đôi số nhà bán được, cao gấp nhiều lần tiêu chí trước đây [5].
Huge Loans
A report this week by China’s National Audit Office found that a significant chunk of bank loans made to provincial- government financing vehicles were improperly funneled into property investments, contributing to a debt load equal to some 27 percent of GDP. Other huge loans to state-owned enterprises, intended to finance infrastructure, also reportedly went into real estate and may be at risk.
Núi nợ Khổng lồ
Trong một bản báo cáo tuần này [6], Bộ Giám Định Kế Toán Quốc Gia [7] đã phát hiện ra nhiều khoản tín dụng của ngân hàng cho các quỹ tài trợ của chính quyền cấp địa phương [8] lại bị bơm trái phép vào mảng đầu tư bất động sản, góp phần vun lên một núi nợ bằng 27% GDP. Nhiều khoản vay khổng lồ khác của các doanh nghiệp nhà nước lấy lý cớ xây dựng hạ tầng thì lại được tuồn qua đầu tư bất động sản và có thể gặp rủi ro.
With inventories soaring while demand softens, and the government clamping down on speculation, a collapse of the housing bubble seems increasingly likely.
Trong khi tồn kho [số nhà xây xong và chờ bán] tăng vọt thì nhu cầu lại giảm, còn chính phủ sở tại lại ra sức kiềm chế đầu cơ, nguy cơ bể bóng gia cư càng dễ trở thành hiện thực.
Prices Rising
Housing isn’t the only area where signs of inflation are popping up. In May, consumer prices increased 5.5 percent versus a year earlier. In December, Chinese leaders agreed to “put stabilizing the overall price level in a more prominent position” in their ranking of economic priorities. In a country where many live at or below the poverty level, food costs are obviously a major concern, and they jumped 11.7 percent in May from a year earlier.
Vật giá Leo thang
Thị trường gia cư không là nơi duy nhất có dấu hiệu lạm phát. Tháng Năm vừa qua, giá tiêu dùng đã tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Tháng Chạp năm rồi, giới lãnh đạo Trung Quốc đồng ý “nâng tầm quan trọng của việc ổn định mặt bằng vật giá nói chung” vào loại vấn đề kinh tế cần ưu tiên xử lý. Ở một xứ có quá nhiều người đang sống ở hoặc còn dưới mức nghèo khổ, thì chi phí lương thực rõ ràng là mối bận tâm chính của người dân, và trong tháng Năm, chi phí này đã tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước.
The government appears increasingly worried about social unrest. In November, it said it was ready to impose price controls to reduce inflation, especially on food and energy, and said it would help the poor with higher welfare payments. The unrest continues and, significantly, has moved from rural areas to the cities.
Chính phủ có vẻ như ngày càng lo về tình trạng bất ổn xã hội. Tháng Mười Một năm trước, họ tuyên bố sẵn sàng áp dụng các biện pháp kiểm soát giá cả để giảm lạm phát, đặc biệt là giá năng lượng và thực phẩm, và còn khẳng định rằng chính phủ sẽ cấp thêm tiền phúc lợi xã hội cho dân nghèo. Mà tình trạng bất ổn vẫn tiếp diễn, và đáng ngại hơn, nó bắt đầu lan từ nông thôn ra khu vực đô thị.
Income inequality also remains a problem. The flow of Chinese to more prosperous urban areas has increased average living standards, but the difference between the rich and the rest continues to widen. In 2010, annual per-capita income was about $2,900 in cities and about $900 in rural areas. (Adjusting for lower costs in rural areas reduces this gap.)
Ngoài ra, nạn bất bình đẳng về thu nhập hiện vẫn còn đó. Dòng người chảy vào các khu đô thị trù phú hơn đã nâng mức sống bình quân, nhưng sự cách biệt giữa lớp người giàu với dân chúng còn lại cứ tiếp tục mở rộng. Năm 2010, thị dân có mức thu nhập bình quân đầu người một năm là khoảng 2.900 Mỹ kim, và một nông dân chỉ kiếm ra chừng 900 Mỹ kim. (Việc điều chỉnh theo mức chi phí thấp hơn ở nông thôn có thu hẹp khoảng cách.)
Limited Response
China’s ability to respond to these worries is extremely limited. The central bank relies on adjusting reserve requirements and limits on bank lending to implement monetary policy. Since January 2010, it has raised reserve requirements 12 times (to 21.5 percent), while only increasing the one-year lending rate four times (to 6.31 percent), to accommodate inefficient state-enterprise borrowers, which provide a lot of jobs.
Hạn chế của Đối sách
Trước những mối lo này, khả năng ứng phó của Trung Quốc thật ra vô cùng hạn hẹp. Để triển khai chính sách tiền tệ [9], ngân hàng trung ương dựa vào việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc [10] và đặt ra hạn ngạch cho vay của ngân hàng. Từ tháng Giêng năm 2010, họ tăng mức dự trữ pháp định 12 lần (đến 21,5% của lượng tiền ký thác), nhưng chỉ bốn lần nâng lãi suất cho loại tín dụng có kỳ hạn một năm (đến mức 6,31%) vì cần đáp ứng nhu cầu vay mượn của các xí nghiệp quốc doanh kém hiệu quả đang tạo ra công ăn việc làm cho người dân.
Finally, implementing any policy in an economy that is partly government-controlled, partly market-driven is very difficult. In a completely controlled economy, as China’s used to be, government leaders might have made economically inefficient decisions, but their authority wasn’t disputed. In an open economy, as in Singapore, the markets make the decisions, and politicians have little involvement.
Cuối cùng, việc thực thi bất kỳ chính sách nào trong một nền kinh tế do chính phủ kiểm soát một phần, và phần kia thì phụ thuộc vào thị trường, là điều rất khó. Trong nền kinh tế bị kiểm soát hoàn toàn, như nền kinh tế khép kín mà Trung Quốc đã quen trước đây, thì giới lãnh đạo chính phủ có thể đưa ra những quyết định phi hiệu quả nhưng các quyết định này không hề bị tranh cãi. Trong một nền kinh tế mở, ví dụ như của Tân Gia Ba (Singapore), thị trường là yếu tố quyết định, và giới chính trị hiếm khi nào can thiệp được.
But under China’s current arrangement, officials making major decisions have to guess what market reactions will result, then try to mitigate the unintended consequences of their actions.
Nhưng trong cách dàn xếp hiện tại của Trung Quốc, các viên chức có thẩm quyền đưa ra những quyết định hệ trọng phải dự đoán xem thị trường là sẽ phản ứng ra sao, rồi sau đó phải cố gắng chống đỡ những hậu quả bất lường do chính các quyết định của họ gây ra.
Unintended Consequences
With a managed floating exchange rate, for example, officials have to estimate how much hot money will enter China in anticipation of a stronger currency, and then determine how to neutralize the undesired effects of this flow. Government policies that encourage exports and trade surpluses have pushed China’s foreign-currency reserves to more than $3 trillion. Until recently, all the foreign-currency earnings of Chinese exporters had to be traded in for yuan, but then the central bank was forced to issue securities to sop up that money to avoid depreciation.
Hậu quả Bất lường
Chẳng hạn như về việc thả nổi có quản lý tỷ giá hối đoái, giới hữu trách phải ước tính là dòng tiền nóng [11] chảy vào Trung Quốc sẽ là bao nhiêu để tiên đoán sức mua của đồng bạc [sẽ mạnh hay yếu], sau đó mới xác định cách vô hiệu hóa tác động tiêu cực của dòng tiền này. Các chính sách khuyến khích xuất cảng và xuất siêu mậu dịch của Trung Quốc đã nâng dự trữ ngoại tệ xứ này lên đến hơn 3 ngàn tỷ Mỹ kim. Cho đến gần đây, thì mọi khoản thu ngoại tệ của doanh nghiệp xuất cảng đều phải được đổi ra đồng Nguyên, nhưng sau đó ngân hàng trung ương buộc phải phát hành trái phiếu để hút bớt lượng tiền này vào hầu đồng bạc khỏi mất giá [làm lạm phát gia tăng].
Similarly, the Chinese government sets yearly limits on bank loans in advance, but leaves it up to the banks and demand to determine the monthly lending pattern. So the banks rush to make loans early in the year for fear that the government will reduce the limit in a midcourse correction.
Tương tự, chính phủ Trung Quốc định sẵn mức cho vay hàng năm của các ngân hàng, nhưng để các ngân hàng và doanh nghiệp có nhu cầu quyết định lấy việc vay mượn của từng tháng. Vì vậy các ngân hàng đua nhau cho vay vào đầu năm vì sợ chính phủ sẽ nửa chừng hạ thấp định mức cho vay khi cần điều chỉnh [12].
I suspect that such a hybrid market system is too unwieldy to allow the Chinese government to manage a soft landing for its economy. By my reckoning, the Federal Reserve has tried 12 times in the post-World War II era to cool an overheating economy without precipitating a recession. It succeeded only once. Can the politically controlled Chinese central bank, and the government leaders who really call the shots, be more successful than the independent Fed?
đầy bất trắc này không cho phép chính phủ Trung Quốc quản lý việc hạ cánh một cách êm ái. Theo tính toán của tôi, thì từ sau Đệ Nhị Thế Chiến đến nay Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ (Federal Reserve, hay Fed) [14] đã 12 phen cố gắng hạ nhiệt nền kinh tế tăng trưởng quá nóng mà đồng thời tránh gây ra trì trệ. Và họ chỉ thành công đúng có một lần [15]. Liệu ngân hàng trung ương Trung Quốc, dưới sự kiểm soát chặt chẽ về chính trị, cùng giới lãnh đạo có thực quyền trong chính phủ có cơ may thành công hơn định chế độc lập này của Hoa Kỳ hay không?
That seems unlikely. And the consequences, for China and the world economy, could be unfortunate.
Điều ấy có vẻ bất khả. Và hậu quả, cho kinh tế Trung Hoa và thế giới, sẽ là bất hạnh Tôi ngờ rằng chính hình thái thị trường lai tạp [13].



[1] Nguyên văn: “white-hot”, một thuật ngữ được dùng bên ngành luyện thép, thép nóng đến trắng tinh, ở đây nói nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh và không ổn định, như dòng kim loại bị nấu chảy ra.
[2] Nguyên văn: “capital spending”. Đầu tư vào tài sản cố định như đất đai và thiết bị sản xuất.
[3] Tác giả Willy Lam, trong bài viết "Local Debt Problems Highlight Weak Links in China’s Economic Model" đăng ở trang mạng chính thức của The Jamestown Foundation hôm 15/7/2011, đã nêu mức đầu tư vào tài sản cố định (fixed-assets investments) của nước này vào năm 2010 là khoảng 46,5% tổng giá trị GDP, theo nguồn tin của tờ Hoàn Cầu Thời báo và trang www.china.org.cn.
[4] Cũng theo tác giả Willy Lam nói trên, thì tiền thu được do bán đất và thuế đánh trên các giao dịch bất động sản lại là nguồn thu đáng kể cho cơ quan chính quyền địa phương Trung Quốc, ước tính chiếm gần phân nửa thu nhập của họ. Bài viết của Willy Lam đã được Dainamx giới thiệu.
[5] Hậu quả của tình trạng xây nhanh hơn bán là hàng loạt các “thành phố ma” xuất hiện ở Trung Quốc. Xin xem chi tiết ở bài tiếng Việt “Những thành phố ma ở Trung Hoa” của tác giả Toan Do trên mạng http://toandd.blogspot.com/2011/05/nhung-thanh-pho-ma-o-trung-hoa.html, dịch từ bài viết “The ghost towns of China: Amazing satellite images show cities meant to be home to millions lying deserted” đăng trên trang mạng của tờ Daily Mail ngày 18/12/2010.
[6] Tức là cuối tháng 6 đầu tháng 7 năm 2011, theo ngày tác giả công bố bài viết này.
[7] Nguyên văn: “National Audit Office”, một cơ quan thuộc cấp bộ trong Hội đồng Chính phủ Trung Quốc, được thành lập từ năm 1983 để kiểm kê và giám định các trương mục kế toán quốc gia.
[8] Nguyên văn: “provincial-government financing vehicles”. Xin tham khảo vấn đề này trong loạt bài của kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về những món nợ giấu kín của Trung Quốc đã được yết trên Dainamax Magazine.
[9] Tức là chính sách ghìm giá đồng Nguyên ở mức thấp vào Mỹ kim, nhằm kích thích xuất cảng nhờ bán hàng ra với giá trẻ hơn, do đồng bạc được định giá thấp hơn.
[10] Nguyên văn: “reserve requirements”, tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay pháp định so với tổng số ký thác nhận vào. Nâng mức dự trữ này là giảm mức cho vay ra. Từ ngày 20/06 /2011 vừa qua, tỷ lệ này là 21,5% đối với ngân hàng lớn, và 19,5% đối với ngân hàng nhỏ.
[11] Nguyên văn: “hot money”, dòng vốn đầu tư ngắn hạn di chuyển ra vào một quốc gia trong mục tiêu đầu tư mà cũng là đầu cơ ngắn hạn vì muốn kiếm lời cho nhanh. Vì vậy có thể tràn vào hoặc rút ra thật mau nên dễ gây bất ổn về ngoại hối.
[12] Nguyên văn: “in a midcourse correction”, ý ám chỉ tính bất nhất trong các quyết sách tài chính và tiền tệ của chính phủ nước này khi nửa chừng lại phải điều chỉnh.
[13] Nguyên văn: “hybrid market system”, có lẽ tác giả nói đến hình thái kinh tế thị trường nửa kín nửa hở mang màu sắc Trung Hoa. Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa có lần chơi chữ... Tầu mà gọi là "phi cầm phi thú", nửa chim nửa chuột!
[14] Federal Reserve System (gọi tắt là FED) ra đời năm 1913, định chế tài chính tương đương với hệ thống ngân hàng trung ương tại quốc gia khác. Trên thực tế, FED là định chế độc lập, bán công bán tư, gồm 12 ngân hàng và 25 chi nhánh ở khắp nước Mỹ, nên là hệ thống ngân hàng quốc gia mà do tư nhân góp phần quản lý, nhưng lại do các chuyên gia độc lập lãnh đạo. Đứng đầu FED là Hội Đồng Thống Đốc có 7 thành viên, gồm có Chủ Tịch do tổng thống Hoa Kỳ bổ nhiệm, 2 thành viên đại diện cho chính phủ là Bộ Tài Chính và Ngân khố Hoa Kỳ, còn lại là 4 chủ ngân hàng tư nhân. Trong một nhiệm kỳ (4 năm đương chức), tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm 2 thành viên trong Hội đồng Thống đốc FED, và tất cả đều phải được sự đồng ý của Thượng Viện Hoa Kỳ, chuyện vốn không mấy dễ dàng. Ngân hàng Trung ương Mỹ không bị lãnh đạo chính trị chi phối, ngược lại, chính quyền mà muốn ảnh hưởng đến chính sách thì lập tức bị phản tác dụng. Thí dụ như năm 1991, kinh tế Mỹ bị suy trầm, Tổng thống George H. Bush muốn FED hạ lãi suất để kích thích mà không được. Kết quả là ông thất cử năm 1992 vì tình hình kinh tế và mãi sau này còn than phiền về sự oan uổng đó dù chính ông đã tái bổ nhiệm Chủ tịch Alan Greenspan vào chức vụ lãnh đạo định chế này. Việc tìm hiểu về đặc tính của các ngân hàng trung ương là một đề tài khó, nhưng có lẽ cần thiết để hiểu ra tiến trình quyết định về chuyện bạc tiền của người dân.
[15] Có lẽ tác giả nhắc đến kỳ tích của ông Paul Volcker (Chủ tịch FED thời 1979 – 1987) khi được sự yểm trợ Tổng thống Ronald Reagan (nhiệm kỳ 1981-1989) đã giúp Hoa Kỳ vượt qua giai đoạn lạm phát đi cùng đình trệ (stagflation) kéo dài từ thập niên 70. Năm 1983, lạm phát tại Mỹ đã hạ xuống mức 3,2%, sau khi lên đến đỉnh điểm 13.5% hồi năm 1981 và mở ra một thời kỳ phát đạt kéo dài gần 25 năm.
Why China’s Heading for a Hard Landing
Trung Quốc hạ cánh nặng nề
Part 4- by A. Gary Shilling - Jun 28, 2011
Phần 4 - A. Gary Shilling - 28-6-2011
Past performance, in China’s case, may be indicative of future results.
In late 2007, the Chinese government was scrambling to control a capital-spending boom. The central bank was concerned about 11 percent growth in gross domestic product, far above its official target of 8 percent, and about money flooding in from exports and direct foreign investment.
Về Trung Quốc, thành tích quá khứ có thể là báo trước kết quả tương lai.
Cuối năm 2007, chính phủ Trung Quốc đã chật vật kiềm chế đợt bùng phát đầu tư vào tài sản cố định. Ngân hàng trung ương nước này đã lo ngại về tăng độ 11% của giá trị tổng sản phẩm quốc nội GDP, quá nhanh so với tiêu chí 8% ban đầu; và về dòng tiền ào ạt đổ vào nước này qua kênh đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và xuất cảng hàng hóa.
By Nov. 1, the People’s Bank of China had raised its one- year lending rate five times and reserve requirements eight times to soak up excess liquidity.
My firm’s research predicted then that the government would curb capital spending and excess liquidity just as exports weakened. Then, as excess capacity mounted, direct foreign investment would disappear and deflation would reign.
Đến ngày một tháng Mười Một, Ngân Hàng Nhân Dân Trung Quốc [1] đã nâng lãi suất cho vay kỳ hạn một năm lên năm lần và tỷ lệ dự trữ bắt buộc [2] lên tám, lần nhằm giải quyết tình trạng thừa thanh khoản [3].
Theo như những gì được tiên lượng trong bài nghiên cứu của công ty tôi, chính phủ xứ này có thể sẽ giảm vốn đầu tư vào tài sản cố định và hạ mức thanh khoản dư dôi ngay khi hoạt động xuất cảng suy yếu. Sau đó, khi công xuất dư thừa của các hãng xưởng ngày một tăng, nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài sẽ tan biến và nạn giảm phát [4] sẽ lan tràn khắp nơi.
That’s essentially what happened in 2008 and 2009, as the effects of China’s fiscal and monetary restraint coincided with the worldwide economic slump. The growth rate dropped to 6 percent, which in China constituted a major recession.
Don’t be surprised if history repeats itself in the next few years.
Đó chính là những gì đã diễn ra trước đây, quãng 2008-2009, dưới tác động của các rào cản về tài chính và tiền tệ của Trung Quốc vô tình xảy ra cùng lúc với đợt suy trầm kinh tế [5] toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng đã rơi xuống mức 6%, mà điều đó ở Trung Quốc có nghĩa là một đợt suy thoái nghiêm trọng [6].
Xin quý vị chớ ngạc nhiên nếu lịch sử sẽ lặp lại trong một vài năm tới.
This time around, some signs of cooling are already apparent. Besides dampened housing demand, the HSBC Flash China Manufacturing Purchasing Managers Index in June fell to 50.1, its lowest level in 11 months. Passenger-vehicle sales grew 33 percent in 2010, when the government subsidized small-car purchases, but only 3 percent this April over a year earlier.
Giờ này thì một số dấu hiệu nguội lạnh về kinh tế đã hiện rõ. Bên cạnh nhu cầu gia cư đã lắng, Chỉ Số Quản Lý Sản Xuất Tiên Báo về Mua hàng Chế biến ở Trung Quốc do HSBC [7] công bố hồi tháng Sáu đã rớt xuống 50,1, mức thấp nhất của nó trong 11 tháng vừa qua. Nếu doanh số bán ra của các loại phương tiện lưu thông cá nhân đã tăng 33% năm 2010, khi chính phủ chỉ trợ cấp những người mua xe vận tải hạng nhẹ [8], thì trong tháng Tư qua, doanh số này chỉ tăng 3% so với cùng kỳ năm trước.
Money, Banks, Stocks
Tiền, ngân hàng, cổ phiếu
Growth in the broadest measure of China’s money supply has declined from 30 percent year-over-year in December 2009 to 15 percent year-over-year at the end of May. Bank loans fell 25 percent in May from April. Excavator sales fell 10 percent in May from a year earlier, possibly foreshadowing a construction bust. The 14.3 percent decline in the Shanghai Composite Index last year and the 10 percent drop since mid-April also don’t bode well for growth.
Độ tăng trưởng khối tiền tệ, tính theo cách rộng rãi nhất, đã giảm từ 30% vào tháng Chạp năm 2009 xuống còn 15% vào cuối tháng Năm vừa qua). Các khoản vay của ngân hàng hồi tháng Năm đã giảm 25% so với tháng Tư. Doanh số máy xúc [9] tháng Năm đã giảm 10% so với cùng kỳ năm trước, có thể báo trước sự suy sụp của công nghiệp xây dựng. Việc Chỉ Số Chứng Khoán Tổng Hợp Thượng Hải [10] sụt 14,3% vào năm ngoái và 10% kể từ trung tuần tháng Tư vừa rồi cũng là điềm gở cho sức tăng trưởng của xứ này.
Despite all these negatives, with recent data showing first-quarter GDP expanding by a still-healthy 9.7 percent, and consumer inflation at its highest levels since July 2008, China has continued to tighten its economic policy. The government raised banks’ reserve requirements to 21.5 percent in June, the ninth such increase since November. And it will probably continue to tighten until it sees decisive results -- that is, a hard landing.
Dù gặp các tín hiệu xấu kia, cùng dữ liệu gần đây cho thấy GDP quý đầu vẫn có tăng độ đầy lạc quan là 9,7%, và trong khi tỷ lệ lạm phát giá tiêu dùng đang ở mức cao nhất kể tính từ tháng Bảy năm 2008, Trung Quốc vẫn tiếp tục thực thi các chính sách thắt chặt kinh tế của mình.
Chính phủ xứ này đã nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 21,5% trong tháng Sáu, và đây là lần nâng thứ chín kể từ tháng Mười Một năm trước. Và họ có lẽ sẽ tiếp tục siết chặt nền kinh tế cho đến khi thấy được kết quả dứt khoát - nghĩa là nền kinh tế xứ này sẽ nặng nề hạ cánh, vào ngay vùng xoáy suy trầm.
What will happen next?
No Floating Yuan
For one thing, even though a hard landing could cause hot money to flee the country and weaken the yuan, China will not float its currency. Many Western governments argue that if China allowed the tightly controlled yuan to float freely, it would rise against the dollar and other major currencies. That, the thinking goes, would discourage exports, encourage imports and quickly eliminate China’s chronic trade surplus.
Vậy tiếp đấy sẽ là chuyện gì?
Không thả nổi đồng Nguyên
Có một chuyện là, ngay cả khi nền kinh tế xứ này hạ cánh một cách nặng nề vào cảnh suy trầm rồi khiến dòng tiền nóng [đầu tư ngắn hạn] chảy ra khỏi xứ này và khiến đồng Nguyên suy yếu, Trung Quốc cũng sẽ không thả nổi đồng tiền của mình. Nhiều lãnh đạo chính quyền phương Tây lập luận rằng, nếu Trung Quốc để đồng Nguyên mà họ đang kiềm chế chặt chẽ này được tự do, nó sẽ tăng giá so với đồng Mỹ kim và các đồng tiền khác. Theo lối tư duy đó, thì điều này sẽ thành trở lực xuất cảng, giúp kích thích nhập khẩu và nhanh chóng loại mức thặng dư mậu dịch liên tục hiện nay.
The Chinese have repeatedly told Western officials that they will not be pushed into floating the yuan. They worry that a jump in the currency’s value would wreak havoc on Chinese exporters and force them to move production to cheaper venues. A stronger yuan would also reduce the value of China’s foreign- currency reserves.
Đến nay Trung Quốc vẫn khẳng định với giới chức phương Tây rằng họ sẽ không (để) bị ép đến mức phải thả nổi đồng Nguyên. Họ lo ngại rằng việc bất thần tăng giá đồng tiền này sẽ đẩy các doanh nghiệp xuất cảng của Trung Hoa vào thế khốn đốn, và buộc chúng di dời hãng xưởng sản xuất sang khu vực [có đồng tiền] rẻ hơn. Đồng thời, việc đồng Nguyên lên giá cũng khiến lượng ngoại tệ dự trữ [11] của Trung Quốc bị mất giá.
Furthermore, exchange rates have only limited effects on import or export prices and, therefore, imports and exports themselves. The key determinant of a country’s exports is the economic health of its trading partners. If their economies are robust, they buy more of everything, including imports.
Ngoài ra, hối suất [12] hiện không ảnh hưởng mấy đến giá hàng xuất nhập cảng, và do đó, chúng cũng chẳng thực sự chi phối hoạt động xuất nhập cảng. Yếu tố quyết định đối với hoạt động xuất cảng hàng hóa của một nước chính là năng lực kinh tế của quốc gia tham gia mua bán với nước đó. Nếu kinh tế các quốc gia này tăng trưởng mạnh thì họ sẽ mua thêm nhiều thứ, trong đó có hàng nhập cảng vào xứ họ.
The dammed-up zeal to own the Chinese currency would dissipate quickly if all barriers were removed and it became clear that a more expensive yuan was not ending China’s trade surplus. Pressure from foreign governments for a stronger yuan would then evaporate, as would interest in owning more Chinese currency in anticipation of higher values. And the removal of restrictions that prevent Chinese from diversifying their investments abroad might actually depress the yuan by encouraging money to flow out of China.
Thái độ hồ hởi trong lòng của những người muốn sở hữu đồng tiền Trung quốc có thể sẽ chóng tan biến nếu mọi rào cản đều bị gỡ bỏ, và khi sự thể đã rõ rằng đồng Nguyên cao giá hơn sẽ không giúp chấm dứt vấn nạn thặng dư mậu dịch của Trung Quốc. Rồi áp lực của chính quyền ngoại quốc buộc Trung Quốc phải nâng giá đồng Nguyên cũng tan loãng, y như ước muốn tích trữ đồng Nguyên với kỳ vọng chúng sẽ tăng giá. Và việc loại bỏ các biện pháp khống chế, vốn đang ngăn người dân Trung Hoa đa dạng hóa loại hình đầu tư ra hải ngoại, có thể thực sự gây sức ép lên đồng Nguyên xuống bằng cách kích thích dòng tiền vốn chảy ra khỏi Trung Hoa.
Holding Treasuries
China also won’t be selling its $1 trillion in reserves of U.S. Treasuries in great amounts, as some have feared. The Chinese are well aware that doing so would be disastrous for their economy, because the resulting nosedive in Treasury prices and the dollar would decimate the value of China’s remaining holdings of U.S. debt and other assets. A global depression might well ensue, with China and other export-dependent countries as the biggest losers.
Ôm Trái phiếu
Trung Quốc cũng sẽ không ồ ạt bán ra gần một ngàn tỷ đô la công khố phiếu Hoa Kỳ [13], như có người đã lo. Chính phủ Trung Quốc thừa hiểu rằng làm như vậy sẽ gây thảm họa cho kinh tế của họ vì sẽ dẫn đến sụt giá Trái phiếu và Mỹ kim, khiến số tiền Hoa Kỳ hiện đang nợ Trung Quốc cũng như nhiều tài sản khác của xứ này sẽ mất giá trầm trọng. Khi đó nền kinh tế thế giới chắc sẽ khó tránh khỏi cơn suy thoái, mà trong đó Trung Quốc và các quốc gia phụ thuộc kinh tế xuất cảng sẽ gánh chịu thiệt hại nặng nề nhất.
Excess Capacity
Instead, China’s most likely reaction -- to focus still more on exports -- will exacerbate its hard landing. If consumer spending doesn’t increase substantially in the next few years, China will have a serious problem using all the industrial capacity it has built, partly to keep people employed. Capacity is mushrooming so rapidly that even in China’s booming economy, most manufacturers are still seeing flat or falling utilization rates.
Công xuất Dư thừa [14]
Thay vào đó, cách ứng phó khả dĩ hiện nay của Trung Quốc - tức là vẫn tập trung xuất cảng nhiều hơn nữa - sẽ khiến cú hạ cánh của nền kinh tế xứ này thêm một nặng nề. Nếu mãi lực của người dân không tăng lên đáng kể trong vòng vài năm nữa, Trung Quốc sẽ rất khó tận dụng hết công xuất của hạ tầng công nghiệp mà họ đã gầy dựng lên, vốn phần nào để giúp tạo việc làm cho người dân. Các hãng xưởng mọc lên nhanh như nấm, đến nỗi ngay cả khi kinh tế Trung Quốc tăng trưởng cực mạnh, công xuất sử dụng ở hầu như mọi doanh nghiệp sản xuất vẫn đang đứng yên hoặc giảm.
This unused capacity portends weak profits and trouble for the loans that financed it. My judgment is that it will once again be used for exports aimed at the U.S. and Europe. And once again, this will add to global excess supply and put downward pressure on prices.
Then China, along with other export-dependent emerging economies, will be competing fiercely in a world of slow growth and deflation.
Khả năng sản xuất vô dụng này báo trước mức doanh lợi ít ỏi và rủi ro cao của các khoản vay nợ để đầu tư ra khả năng đó. Theo nhận xét của tôi, thì chúng sẽ lại được dùng để bơm vào hàng xuất cảng nhắm đến Hoa Kỳ và Châu Âu. Để rồi, một lần nữa, chúng sẽ khiến lượng cung hàng hóa toàn cầu thêm dư dôi và gây áp lực lên mức giá [khiến chúng phải hạ, một rủi ro của giảm phát].
Rồi thì sẽ đến lúc Trung Quốc, cùng với các quốc gia tân hưng phụ thuộc xuất cảng khác, bước vào cuộc cạnh tranh khốc liệt trong một thế giới có tăng trưởng chậm đi cùng nạn giảm phát.



[1] Nguyên văn: “People’s Bank of China”, là ngân hàng trung ương của Trung Quốc (tức Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc), khác với Central Bank of China do Tôn Trung Sơn thành lập năm 1924, sau dời về đảo quốc Đài Loan (tức Trung Hoa Dân Quốc).
[2] Tức tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay pháp định so với tổng số tiền ký thác nhận vào. Xin xem lại bài “Hạ Cánh Nặng Nề (Phần III)” ở trang mạng http://www.dainamax.org/2011/07/ha-canh-nang-ne-phan-iii.html
[3] Nguyên văn: “excess liquidity”, tức mức lưu hoạt của dòng tiền quá cao (lượng tiền mặt trong kinh tế quá nhiều).
[4] Một khái niệm trái với “lạm phát”. Xin xem lại bài “Hạ Cánh Nặng Nề (Phần I)” ở trang mạng http://www.dainamax.org/2011/07/ha-canh-nang-ne-phan-i.html
[5] Ở đây có lẽ nên phân biệt giữa một số từ như suy trầm (recession), suy thoái (depression hay slump) và khủng hoảng (crisis). Khi độ tăng trưởng (growth) của nền kinh tế bị chậm hơn trước trong hai quý liên tiếp (tức 6 tháng), thì ta có tình trạng suy trầm. Suy trầm mà nặng hơn nữa, tức độ tăng trưởng bị rơi xuống số âm, thì ta có suy thoái. Mà suy thoái sâu và rộng thì ta có khủng hoảng, hay đại suy thoái (great depression), như trường hợp Hoa Kỳ hồi thập niên 30 của thế kỷ trước.
[6] Đây là một mối nguy không đơn thuần về kinh tế. Vì để duy trì sự bình ổn xã hội & chính trị nội tại ở Trung Quốc, nền kinh tế xứ này phải đạt tốc độ tăng trưởng tối thiểu là 8%, theo chỉ tiêu chiến lược do chính họ đặt ra.
[7] Nguyên văn: “HSBC Flash China Manufacturing Purchasing Managers Index”, một chỉ số tiên báo hàng tháng, được đưa ra sớm hơn chỉ số PMI (Purchasing Managers Index) chính thức một tuần. PMI là chỉ số cho biết lượng đơn mua hàng các cơ sở chế biến, từ số đơn mua hàng ấy người ta dự báo tình hình sản xuất của các cơ sở chế biến trong tương lai. Quy ước chung là PMI trên mức 50 cho thấy nền kinh tế sẽ tiếp tục tăng trưởng, dưới 50 cho thấy nền kinh tế sẽ co cụm.
[8] Đầu năm 2009, Bộ Tài Chánh Trung Quốc đã công bố chương trình trợ giá của chính phủ nhằm giúp cư dân vùng nông thôn xứ này có thể mua được xe tải hạng nhẹ (minivan). Cụ thể, bộ này đã dành năm tỷ Nguyên (732 triệu Mỹ kim) để giúp trợ giá cho nông dân khi họ mua xe hơi. Nông dân nào mua các loại xe tải hạng nhẹ và xe trọng tải nhỏ (light truck) sẽ được hưởng chiết khấu 10%, với mức trợ giá tối đa là 5.000 Nguyên (737 Mỹ kim). Xin xem thêm chi tiết về kế hoạch tài trợ này của Trung Quốc ở bài "Booming rural market leads to increased minivan sales" của tác giả Wang Ke.
[9] Doanh số bán các loại máy cơ khí có công dụng đào bới như máy ủi máy xúc (digging machinery) ở Trung Hoa đã tăng nhanh kinh khủng do nhu cầu thăm dò và mở rộng các khu mỏ than phục vụ nền công nghiệp trong nước, cũng như các công trình xây dựng ở nông thôn đang mọc lên khắp xứ. Tuy nhiên, theo thông tin của Hiệp Hội Cơ Khí Xây Dựng Trung Quốc (China Construction Machinery Industry Association), thì tổng số máy xúc bán ra hồi tháng Tư vừa qua là 27.000, giảm khá nhiều so với con số 40.000 máy bán ra hồi tháng Ba.
[10] Nguyên văn: “Shanghai Composite Index”, một chỉ số phức hợp được xem là “hàn thử biểu” cho thị trường Trung Quốc, tương tự như chỉ số Hang Seng của Hương Cảng, Straits Times của Tân Gia Ba, Nikkei 225 của Nhật Bản, hay Taiex của Đài Loan.
[11] Hồi trung tuần tháng Tư vừa qua, Ngân Hàng Nhân dân Trung Quốc công bố mức dự trữ ngoại tệ trong quý đầu của nước này đã lên đến 3,05 ngàn tỷ Mỹ kim, tiếp tục giữ vị trí hàng đầu thế giới và gần gấp ba con số chính thức của của Nhật Bản, hiện là nước đứng thứ hai thế giới về lượng ngoại tệ dự trữ bằng Mỹ kim.
[12] Nguyên văn: “exchange rate”, tức tỷ giá hối đoái, ở đây chủ yếu là giữa đồng Nguyên và đồng Mỹ kim vì Trung Quốc có chính sách giàng giá đồng Nguyên vào Mỹ kim theo một tỷ giả nhất định cho giao dịch trong ngày trong một biên độ hẹp, chứ không "thả nổi" là tự do lên xuống theo quy luật cung cầu.
[13] Nguyên văn: “U.S. Treasuries”, tức trái phiếu chính phủ, do Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ phát hành. Với lượng dự trữ ngoại tệ khổng lồ như đã đề cập ở trên, chính phủ Trung Quốc không còn cách nào khác để bảo toàn và kiếm lời nhờ tài sản này ngoài cách đầu tư vào thị trường trái phiếu Mỹ, hiện có ưu thế về mức lưu hoạt, độ sâu và độ rộng so với các thị trường khác như Nhật Bản hay Châu Âu. Để biết thêm chi tiết về vấn đề này, xin xem lại bài “Trung Quốc và Hoa Kỳ - Thế và Lực” của tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa.

[14] Nguyên văn: “Excess capacity”. Xin xem thêm bài viết “China’s Excess-Capacity Nightmare” của tác giả Mark A. DeWeaver. Trong bài này, tác giả có nêu rõ, vào năm 2008, Trung Quốc đứng hàng đầu thế giới về sản lượng thép (chiếm phân nửa sản lượng toàn cầu), xi-măng (cũng phân nửa), nhôm (40%), và thủy tinh (31%). Trong khi đó, cũng năm này, năng suất sử dụng của xứ này chỉ đạt 76% đối với thép, 75% đối với xi-măng, 73% đối với nhôm, và 88% đối với thủy tinh. Chính phủ Trung Quốc đã lường trước hiểm họa về kinh tế lẫn môi trường của tình trạng công suất dư thừa ấy, và đã dùng nhiều biện pháp để loại bỏ các hãng xưởng công suất thấp sử dụng kỹ nghệ lạc hậu, nhưng hiện vẫn chưa thành công. Cũng xin xem lại qua mạch dẫn dưới đây bài "Ăn Quặng Để Cán Thép... Mà Chơi - Trận đấu về quặng sắt của Trung Quốc" ngày 04 Tháng Giêng năm 2010 trong mục "Kinh tế cũng là Chính trị" của kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa trên báo Người Việt, trong đó ông có nhắc đến bài trước đấy "Trung Quốc Sắt Thép" trong số ra ngày 06 Tháng Mười năm 2009. Nhân đây cũng xin ông Nghĩa cho yết lại trên Dainamax cả hai bài về ngành thép của Trung Quốc.
Why China’s Heading for a Hard Landing
Trung Quốc hạ cánh nặng nề
Part 5- by A. Gary Shilling - Jun 28, 2011
Phần 5 - A. Gary Shilling - 28-6-2011
The hard landing that I foresee for China will probably prick the global commodity bubble, which is already showing signs of topping out.
Cú hạ cánh nặng nề của Trung Quốc mà tôi tiên lượng có thể sẽ làm xì quả bong bóng thương phẩm toàn cầu - hiện có dấu hiệu cho thấy nó đã căng hết cỡ [1].
Agricultural product prices have jumped, the result of robust demand, bad weather last year in Russia, recent floods in Australia, and dry and hot La Nina conditions in Argentina.
Giá nông sản đã tăng vọt, do nhu cầu lương thực bùng phát, cùng thời tiết xấu hồi năm ngoái ở Nga, đợt lụt lội gần đây ở Úc Đại Lợi, và tình trạng khô hạn và nóng bức do hiện tượng La Nina ở Á Căn Đình (Argentina).
Industrial metals such as copper were on a tear. So were precious metals, such as silver.
But much of the leap in commodity prices was due to investors and other speculators. Exchange-traded funds had already tied up much of the physical supplies of gold and other precious metals. Futures contracts held by speculators were up 12 percent in 2010 through October, with sharp increases in bullish bets on crude oil, copper and silver. Volatility forced futures exchanges to raise margin requirements on a number of commodities.
Thị trường thương phẩm kim loại công nghiệp như đồng đã bùng phát dữ dội. Các loại quý kim khác, như bạc, cũng vậy.
Nhưng lý do chính của việc giá thương phẩm nhảy vọt chính nằm ở các nhà đầu tư và giới đầu cơ khác.
Các quỹ đầu tư đơn nguyên (ETF) [2] hiện đã siết chặt phần lớn nguồn thực cung về vàng và các loại kim loại quý khác. Tính đến tháng Mười 2010, loại hợp đồng có kỳ hạn [3] trong tay giới đầu cơ đã tăng 12%, với sự tăng vọt các thương vụ đầu cơ giá lên [4] trên thị trường dầu thô, đồng và bạc. Chính là sự giao động giá cả này buộc các (quỹ) đầu tư vào thị trường tương lai phải tăng số tiền ký quỹ có tính bắt buộc với một số loại thương phẩm.
The confidence that China would continue to buy huge quantities of almost all commodities has been the bedrock belief of speculators. For example, there were rumors that China was again building its emergency petroleum reserve in the first half of this year.
Giới đầu cơ trước nay vẫn tin tưởng rằng, về căn bản, Trung Quốc chắc sẽ tiếp tục mua gần như mọi loại thương phẩm với số lượng lớn. Ví dụ như, từng có tin đồn rằng Trung Quốc đã lại thu mua dầu để làm quỹ dự trữ xăng dầu khẩn cấp [5] trong 6 tháng đầu năm nay.
I’ve studied many bubbles over the years, and concentrated on predicting their demises. Commodities show every sign of being in one.
Tôi đã nghiên cứu nhiều nền kinh tế bong bóng suốt bao nhiêu năm qua, và tập trung vào việc dự đoán kết cuộc của họ. Thị trường thương phẩm cho thấy đủ dấu hiệu của tình trạng bong bóng này.
Rare-Earth Exports
China added to the commodity frenzy last year by slashing exports of rare-earth metals used in high-tech batteries, TV sets, mobile phones and defense products. China supplies 95 percent of these elements, and consumes 60 percent, exporting the rest. Its exports of rare earths fell 9 percent in 2010, but still exceeded the government’s quota by a third.
Đất hiếm [6] xuất cảng
Năm rồi Trung Quốc còn khiến thị trường thương phẩm lên thêm cơn sốt, sau khi họ cắt giảm trữ lượng xuất cảng kim loại dạng đất hiếm, vốn được dùng trong các thiết bị quốc phòng, điện thoại cầm tay, vô tuyến truyền hình và các loại pin dùng kỹ nghệ cao. Trung Quốc hiện cung cấp 95% các thành phần kim loại quý này, trong đó họ tiêu thụ đến 60%, phần còn lại để xuất cảng. Sản lượng đất hiếm xuất cảng của xứ này đã giảm 9% hồi năm 2010, nhưng vẫn còn cao hơn định mức của chính phủ nước này đặt ra đến 1/3.
Chinese authorities cut the export quota for the first half of this year by 35 percent from a year earlier. Japanese manufacturers of high-tech gear are seeking alternative supplies. Of course, China maintains that its ongoing trade and political spats with Japan have nothing to do with the tighter quotas. They were necessary, Chinese leaders say, to sustain rare-earth development and deal with environmental damage caused by mining.
Trong hai quý đầu năm này, nhà chức trách Trung Quốc đã cắt giảm định mức xuất cảng xuống 35% so với cùng kỳ năm trước. Các nhà sản xuất thiết bị kỹ nghệ cao của Nhật Bản đang tìm nguồn cung thay thế. Dĩ nhiên, Trung Quốc vẫn khăng khăng rằng việc siết chặt lại định mức xuất cảng này không liên quan gì đến quan hệ mua bán hiện tại cũng như mấy vụ “cãi vả” mang tính chính trị với Nhật Bản [7]. Giới lãnh đạo Trung Quốc còn khẳng định, việc tiết giảm là cần thiết, nhằm duy trì độ tăng trưởng cho nền công nghiệp chế biến đất hiếm [8] cũng như giải quyết sự thiệt hại môi trường do việc khai thác mỏ gây ra.
Speculators are starting to take stock of the evidence of a hard landing in China, and industrial commodity prices, including copper, are swooning. As in the past, warnings about shortages in key industrial inputs are magically being contradicted as unaccounted-for stockpiles materialize.
Giới đầu cơ đã bắt đầu gom hàng dự trữ trước chứng cứ cho thấy sự hạ cánh nặng nề của kinh tế Trung Quốc, và giá cả thương phẩm (nguyên liệu) công nghiệp, bao gồm cả đồng, đang chao đảo. Cũng y như trước đây, những lời cảnh báo về sự thiếu hụt nguồn cung nguyên liệu công nghiệp thiết yếu hiện trở nên cực kỳ mâu thuẫn trước vô số thương phẩm đang được tích trữ.
Weather-Driven Supply
Agricultural producers are influenced by global demand and by weather-driven supply. I’ll leave it to others to forecast the weather. But note that ideal growing weather often follows the kind of bad weather we’ve seen lately, and bumper crops and surpluses often replace worrying shortages in a crop-year or two.
Nguồn cung bấp bênh
Giới chế biến nông sản thường chịu sự ảnh hưởng của nhu cầu lương thực toàn cầu và nguồn nguyên liệu thay đổi theo thời tiết. Tôi sẽ nhường việc dự báo thời tiết cho người khác. Chỉ xin lưu ý rằng, điều kiện thời tiết lý tưởng cho việc trồng trọt bao giờ cũng đi theo giai đoạn thời tiết xấu mà chúng ta đã chứng kiến gần đây, và các vụ mùa bội thu và nông sản dôi dư thường làm tan biến nỗi lo thiếu hụt trong một vài niên vụ.
Furthermore, China imports (and might have stockpiled) soybeans and other agricultural products that would suffer from a slowing economy. Weakness in industrial commodities can easily spread to the agricultural area. Notice the close correlation among all commodity groups in recent years. The huge quantities of hot, highly leveraged money now sloshing around the world tend to end up on the same side of the same trade at the same time.
Ngoài ra, Trung Quốc đang nhập cảng (và có thể đã dự trữ) đậu nành cùng các nông sản khác vốn có rủi ro bị thiệt hại nếu kinh tế trì trệ. Sự suy yếu (về giá) thương phẩm công nghiệp có thể dễ dàng lan sang khu vực nông nghiệp. Xin chú ý đến tương quan mật thiết giữa tất cả các nhóm thương phẩm trong vài năm gần đây. Những dòng vốn vay đầu tư ngắn hạn có tính đầu cơ cao [9] hiện đang chảy ào ào trên toàn thế giới đều có xu hướng cùng lúc quay về cùng một bên trong một cùng dạng thương vụ.
As speculators suffer setbacks in one area, they quickly bail out of other, fundamentally unrelated areas to preserve their capital.
Một khi giới đầu cơ bị thất thế trên thị trường nào đó, họ sẽ nhanh chóng nhảy ra khỏi thị trường, thường là loại thị trường về căn bản không liên quan đến nơi họ bị lỗ, nhằm bảo toàn nguồn vốn tư bản của họ.
Commodity Exporters
The bursting of the commodities bubble will be bad news for developing-country producers such as Brazil, which has thus far largely escaped recent global economic and financial woes but is a major exporter of iron ore and other commodities to China. Developed commodity exporters -- Canada, New Zealand and Australia -- as well as their currencies, may also suffer.
Giới xuất cảng Thương phẩm
Vụ nổ bóng thương phẩm này sẽ là điềm xấu cho các xứ chuyên sản xuất thuộc nhóm quốc gia tân hưng như Ba Tây (Brazil). Tính đến nay, xứ này đã thoát được cơn đại họa tài chính và kinh tế toàn cầu gần đây [10] nhưng vẫn hiện là nước xuất cảng chính yếu loại quặng sắt và các thương phẩm khác vào Trung Quốc. Nhóm quốc gia cựu trào về xuất cảng thương phẩm – như Gia Nã Đại (Canada), Tân Tây Lan (New Zealand) và Úc Đại Lợi - cùng với đồng tiền của họ, cũng có thể bị thiệt hại.
I’ve long believed that a hard landing in China would be preceded by a price collapse in copper and other industrial commodities. Copper prices peaked in February, and Barrick Gold Corp. (ABX)’s agreement on April 25 to acquire copper producer Equinox Minerals Ltd. to gain mineral resources outside its area of specialization is a classic sign of a peak.
Lâu nay tôi vẫn tin rằng cú hạ cánh nặng nề ở thị trường Trung Hoa sẽ theo sau đợt rớt giá đồng và các thương phẩm công nghiệp khác. Giá đồng đã lên đến đỉnh hồi tháng Hai vừa qua, rồi đến vụ Barrick Gold Corp. (ABX) thỏa thuận tính mua lại Equinox Minerals Ltd., một doanh nghiệp sản xuất đồng, vào ngày 25 tháng Tư vừa qua nhằm giành quyền kiểm soát các mỏ khoán sản bên ngoài lĩnh vực chuyên môn của hãng này [11], lại là một dấu hiệu tiêu biểu cho phân kỳ đỉnh [12].
Another classic sign of a speculative price peak was the sudden appearance of copper inventories where none were thought to exist. As prices start to break, hoarded commodities suddenly become available for sale by highly leveraged owners. Copper in China was so abundant that bonded warehouses were full. In January and February, extra copper was sold abroad as Chinese exports were eight times the year-earlier total.
Một tín hiệu điển hình khác của phân kỳ đỉnh giá có tính đầu cơ này là sự bất thần xuất hiện các kho tích trữ đồng ở những nơi mà trước đó chẳng ai nghĩ đến. Khi giá cả bắt đầu hạ, số thương phẩm tích trữ này bất thần được đổ ra bán tống bán tháo qua tay các nhà đầu tư chuyên dùng đòn bẩy tỷ giá [13]. Đồng (thương phẩm) ở Trung Hoa hiện đã quá thừa đến nỗi mọi kho thông quan [14] đều đã đầy. Hồi tháng Giêng và tháng Hai, số lượng đồng dôi dư đã được bán ra nước ngoài dưới dạng hàng xuất cảng của Trung Quốc đã cao gấp tám lần số lượng bán ra của cả năm trước đó.
Falling Copper Prices
London Metal Exchange bonded warehouses saw copper inventories leap 17 percent in the first quarter. Furthermore, to circumvent tight bank lending in China, borrowers are relying more on available letters of credit to finance copper arbitrage trading and otherwise have the use of the borrowed money with copper purchases as their collateral. If copper prices continue to fall, those borrowers will have to sell their copper on the market to prevent further losses, resulting in still-lower prices.
Đồng Rớt Giá
Các (hãng cho thuê) kho thông quan trên Sàn Giao Dịch Kim Loại Luân Đôn (London Metal Exchange) đã chứng kiến lượng đồng tồn kho tăng vọt lên 17% trong quý đầu của năm. Ngoài ra, để luồng lách qua các biện pháp thắt chặt tín dụng ngân hàng ở Trung Hoa, doanh nghiệp đi vay hiện đang phải trông cậy nhiều hơn vào lượng tín dụng thư được cấp nhằm tìm vốn đổ vào việc mua bán đồng để ăn chênh lệch theo tỷ giá, còn không nữa thì dùng tiền vay mượn được mua đồng về trữ rồi lấy số đồng tồn kho đó ra làm tài sản thế chấp [15]. Nếu giá đồng tiếp tục rớt nữa, các doanh nghiệp đi vay này sẽ phải bán đồng của họ ra thị trường để cắt lỗ, dẫn đến tình trạng giá loại thương phẩm này tiếp tục bị sụt.
Meanwhile, sugar topped out in February, and cotton in March. I pointed this out in a speech to an investor conference in April, and several people in the audience questioned my facts. I compared those who hadn’t noticed this peak to Wile E. Coyote of the “Road Runner” cartoons, who runs off the cliff and finds himself suspended in air before dropping to the valley floor.
Trong khi đó, giá đường đã lên tới đỉnh điểm hồi tháng Hai, sau đó bông vải hồi tháng Ba. Tôi đã nêu rõ điểm này trong bài diễn văn đọc ở buổi hội nghị với các nhà đầu tư diễn ra hồi tháng Tư, và nhiều người dự thính nghi ngờ các chứng cứ của tôi. Tôi đã xem những người chưa lưu tâm đến phân kỳ đỉnh này như hình tượng Wile E. Coyote trong loạt phim hoạt họa “Road Runner” [16], hay chạy thẳng ra ngoài vách núi rồi giật mình thấy đang bất động giữa không trung một lúc trước khi rơi xuống lòng thung lũng.
Further confirmation came May 2, when silver prices, which had skyrocketed earlier, started to collapse and virtually all other commodities followed: crude oil, cotton, copper, grains and even gold.
Sự thể này được khẳng định thêm vào ngày 2 tháng Năm vừa qua, khi giá bạc, trước đó còn tăng rất cao, đã bắt đầu rớt xuống, và gần như tất cả các loại thương phẩm khác nối đuôi nhau rớt giá: dầu thô, bông vải, đồng, ngũ cốc, và thậm chí cả vàng.
Moving in Lockstep
As I noted earlier, there is so much leverage money floating around the world that regardless of how it’s managed -- by fundamental, momentum or technical strategies -- it tends to end up on the same side of the same trades at the same time. So, when one of these positions reverses, the effects spread rapidly as speculators bail out of their positions to reduce risk and preserve their capital. Keep in mind that the prices of the wide variety of commodities continue to move in lockstep.
Bước đều bước
Như tôi đã lưu ý trước đây, lượng tiền vốn (cho mượn để) đầu tư ngắn hạn đang trôi nổi khắp toàn cầu hiện đã quá nhiều, đến nỗi bất kể người ta xử lý ra sao - bằng các chiến lược đầu tư theo phương pháp căn bản, kỹ thuật hay động lượng [17] - thì chúng đều có xu hướng cùng lúc đổ vào cùng một bên trong cùng một dạng thương vụ. Vì vậy, nếu một trong vị thế mua (của hợp đồng kỳ hạn) bị đảo chiều, tác động sẽ nhanh chóng lan rộng vì giới đầu cơ bỏ hẳn vị thế mua của họ nhằm giảm rủi ro và bảo toàn nguồn vốn tư bản của họ. Xin hãy nhớ là giá cả vô số các loại thương phẩm vẫn tiếp tục đều bước (mà tiến lên).
Many commodity bulls see this trend as a short-lived midcourse price correction and have maintained their long positions in copper, crude oil, corn and even silver. But markets anticipate, and it now appears the declines in commodities are foreshadowing a hard landing in China, with the effects spreading globally.
Trong giới đầu cơ chuyên đẩy giá thương phẩm lên, nhiều người xem hiện tượng sụt giá chỉ là một điều chỉnh nhất thời [18], và vẫn duy trì hợp đồng trường vị [19] với các mặt hàng đồng, dầu thô, bắp và thậm chí bạc. Nhưng nhiều thị trường đã đi trước một bước, và giờ đây rõ ràng là sự suy sụp giá thương phẩm đã báo trước cú hạ cánh nặng nề của Trung Quốc, kéo theo nhiều tác động rộng khắp toàn cầu.

Chú thích
[1] Nguyên văn: “topping out”, một thuật ngữ thường dùng để chỉ tình trạng giá cả thị trường hoặc loại chứng khoán ở vào kỳ cuối của giai đoạn tăng giá, bước vào giai đoạn đứng yên hoặc thậm chí đi xuống.
[2] Nguyên văn: “exchange-traded fund”, một loại hình quỹ đầu tư trong đó tổng số tiền do các nhà đầu tư góp vốn sẽ được trải đều ra mua một loạt các cổ phiếu đại diện cho một thị trường (ví dụ như S&P 500 (IVW), Nasdaq 100 (QTEC), v.v..) hay một loại hàng hóa nào đó (ví dụ như Health Care (XLV), Gold Shares (GLD), v.v..)
[3] Nguyên văn: “futures contract”, tức là một loại hợp đồng có kỳ hạn trong tương lai của nhà đầu tư là người giữ vị trí trung gian giữa nhà sản xuất/cung cấp với doanh nghiệp tiêu thụ, trong đó có thỏa thuận trước việc mua hay bán với cái giá sẽ áp dụng vào một thời điểm nào đó trong tương lai. Trừ yếu tố giá cả, còn lại toàn bộ nội dung hợp đồng tương lai đều được tiêu chuẩn hóa về số lượng hàng hóa (contract size), ngày giao hàng, địa điểm giao hàng mà không có sự đàm phán giữa hai bên tham gia vào hợp đồng về các điều khoản này.
[4] Nguyên văn: “bullish bets”, ý nói là đầu cơ theo lối đánh cược là giá sẽ lên, ngược với “bearish engulfing”. Một thị trường bull hay bullish là thị trường sung mãn với giá sẽ tăng, thị trường bear hay bearish là thị trường ủ dột với dự đoán là giá sẽ sụt. Hình tượng tiêu biểu của hai loại thị trường này là con trâu hung hãn (bull), hay con gấu (bear) âu sầu.
[5] Cái này có lẽ Trung Quốc bắt chước Hoa Kỳ gia tăng quỹ dự trữ xăng dầu hạng chiến lược (strategic), song song với hạng thương mãi (commercial), để sử dụng trong nước phòng xa nguồn cung cấp bị gián đoạn. Hồi đầu năm nay, chính phủ xứ này đã công bố mức dự trữ dầu hỏa khẩn cấp đạt 178 triệu thùng, và dự trữ thương mãi là 168 triệu thùng. Hai chỉ số này thực ra vẫn còn cách khá xa so với mức 727 triệu thùng và một tỷ thùng của Hoa Kỳ. Và với nhu cầu tiêu thụ gần 9,31 triệu thùng dầu hiện nay của Trung Quốc (tính đến tháng 6 năm 2011), thì nguồn dự trữ khẩn cấp hiện nay chỉ đủ cho xứ này cầm cự tối đa cỡ 3 tuần lễ nếu bị mất nguồn cung. Hiện chính phủ Trung Quốc đang có kế hoạch nâng cao mức dự trữ xăng dầu này lên trong quãng 2010 – 2012, nhưng tăng đến mức nào thì họ vẫn chưa công bố.
[6] Nguyên văn: “Rare-earth”, thực ra dùng để chỉ nhóm 17 kim loại thiết yếu được dùng làm nguyên liệu chính trong nhiều ngành công nghiệp. Chúng hiện hữu trong hầu như tất cả các loại máy móc thiết bị hiện đại chúng ta đang sử dụng.
[7] Vụ gần nhất xảy ra ngày 7 tháng Chín năm 2010, khi con tàu lưới cá mang tên Mân Tấn Ngư (Minjinyu) số hiệu 5179, do thuyền trưởng Chiêm Kỳ Hùng (Zhan Qixiong) cầm lái, đâm vào hai tàu tuần duyên của Nhật Bản ở khu vực gần quần đảo Senkaku (phía Trung Quốc gọi là Điếu Ngư Đài) thuộc quyền kiểm soát của Nhật Bản. Viên thuyền trưởng này đã bị nhà đương cục Nhật Bản bắt giữ, cùng chiếc tàu và 14 thủy thủ đoàn người Trung Hoa. Sáu ngày sau, các thủy thủ đoàn cùng con tàu được phía Nhật Bản phóng thích. Thuyền trưởng tiếp tục bị giam lại Nhật Bản để tiếp tục điều tra. Trong vòng mấy tuần ngay sau khi vụ bắt giữ này xảy ra, chính quyền Trung Quốc đã phản ứng dữ dội, triệu hồi đại sứ Nhật Bản đến Bắc Kinh năm lần, ngừng tất cả các hoạt động ngoại giao ở cấp bộ trưởng. Ngày 22 tháng Chín, Thủ Tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tuyên bố sẽ có "biện pháp mạnh hơn nữa" trước hành vi bắt giữ người này của phía Nhật Bản. Ba ngày sau, ngày 25 tháng Chín, viên thuyền trưởng được thả và cho về nước. Bắc Kinh và Tokyo tiếp tục “đấu khẩu” với nhau thêm vài lần, trước khi mọi chuyện chìm xuống nhân có một đoạn video quay vụ việc này bị lộ ra trên Internet vào đầu tháng 11, cho thấy hành vi của tàu cá Trung Quốc là cố ý lao vào tàu tuần duyên Nhật Bản. Đảo Senkaku này là trở thành vùng tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản từ những năm đầu thập niên 70, sau khi Hoa Kỳ rút quân khỏi Okinawa cùng khu quần đảo Ryukyu, bao gồm đảo Senkaku.
[8] Cuối năm 2010, có nguồn tin cho rằng chính phủ Trung Quốc đang tái cấu trúc lại nền công nghiệp khai thác đất hiếm của xứ này, tinh gọn từ 129 nhà sản xuất hợp pháp (và không biết bao nhiêu hãng bất hợp pháp khác) xuống còn 3-4 tập đoàn đại diện, nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn đối với nguồn khoáng sản chiến lược này. Ba trong số đó đã chính thức ra mặt, đó là Tập đoàn Sắt Thép Bảo Sơn (Baosteel Group, nhà sản xuất và cung cấp thép kỹ nghệ cao lớn nhất và tối tân nhất Trung Hoa hiện nay), Tập đoàn Công nghiệp Đồng Giang Tây (Jiangxi Copper Industry Corp., tập đoàn lớn nhất Trung Hoa chuyên sản xuất và cung cấp đồng cùng các kim loại hiếm) & China MinMetal (một tập đoàn thương mại, không thuộc nhóm tập đoàn khai khoán).
[9] Nguyên văn: “hot, highly leveraged money”. Tư bản nóng, đi vay để đầu cơ kiếm lời cao nhưng với rủi ro lớn.
[10] Việc Ba Tây trỗi dậy và trở thành nền kinh tế tân hưng lớn của Nam Mỹ phần lớn nhờ vào hoạt động mua bán với Trung Quốc. Trong gần một thập niên qua, xứ này đã lạnh nhạt với thị trường cũng như mô hình kinh tế trồi sụp bất thường của Hoa Kỳ, và bắt đầu tỏ ý muốn có sức mạnh tăng trưởng như Trung Quốc. Kết quả là họ đang dần từ nước công nghiệp hóa sang xứ chuyên sản xuất nguyên liệu thô đặng xuất cảng sang thị trường Trung Quốc. Có người gọi hiện tượng đáng ngại này là "giải trừ công nghiệp hóa" (de-industrialization).
[11] Tập đoàn Barrick Gold Corp. (ABX) của Canada, hiện đang là hãng khai thác và sản xuất vàng lớn nhất thế giới, đã ra tuyên bố muốn mua lại Equinox Minerals với giá tầm 7,3 tỷ đồng Canada (7,7 tỷ Mỹ kim), tức giá chào mua ở mức 8,15 đồng Canada / cổ phần. Giá này cao hơn giá chào mua ban đầu của Minmetals, do công ty quốc doanh China Minmetals Non-Ferrous Metals Co Ltd. nắm quyền kiểm soát, đến 16%. Báo giới đồng loạt đưa tin Minmetals đã gần như bỏ cuộc trước vụ đấu thầu mua lại này của Barrick Gold, mà mục tiêu của họ là mỏ Lumwana nằm ở khu vành đai mỏ đồng trữ lượng dồi dào này của Zambia cùng hầu hết dự án khai thác đồng Jabal Sayid ở Saudi Arabia của Equinox Minerals.
[12] Có lẽ ở đây tác giả muốn nói đến các chu kỳ thăng trầm kinh tế (business cycles), và sau phân kỳ đỉnh này sẽ đến giai đoạn sự tăng trưởng kinh tế bị co cụm (contraction), dẫn đến tình trạng suy trầm (recession), và bắt đầu đi xuống phân kỳ đáy (trough) trong chu kỳ này.
[13] Nguyên văn: “highly leveraged owners”, có lẽ ám chỉ các doanh nghiệp trong giới đầu cơ, chuyên dùng nguồn vốn vay ưu đãi của ngân hàng quốc doanh Trung Quốc để tận thu thương phẩm, tạo ra tình trạng khan hiếm giả khiến chúng lên giá, sau đó bán ra nhằm kiếm lợi nhờ sự chênh lệch tỷ giá.
[14] Nguyên văn: “bonded warehouse”, hay “bảo thuế thương khố”, chỉ một loại kho trữ hàng (chủ hàng trả phí lưu kho) trong chế độ thông quan (tạm miễn thuế quan) cho đến khi chủ hàng chở hàng giao cho bên tiêu thụ (lúc này chủ hàng mới phải đóng thuế quan).
[15] Thường là tiền vay có thế chấp dạng này sẽ được các doanh nghiệp địa phương Trung Quốc tiếp tục lấy để đổ vào thị trường bất động sản.
[16] Tên của loạt phim hoạt họa nổi tiếng tại Hoa Kỳ, trong đó Road Runner là con gà lôi miền Viễn Tây, nhân vật chính và có khả năng chạy rất nhanh. Đối thủ là Wile E. Coyote, một loại lang sói miền sa mạc, luôn săn đuổi Road Runner mà hiếm khi nào bắt được, lại thường xuyên bị thương tích. Tác giả nói đến hình ảnh nổi tiếng trong phim đã được nhiều người sử dụng: con lang thục mạng rượt đuổi quá trớn ra khỏi bờ vực, vài giây sau mới rơi xuống đáy vực. Cái trớn của Trung Quốc cũng như vậy!
[17] Nguyên văn: “fundamental, momentum or technical strategies”, là ba phương pháp hay chiến lược đầu tư. Hoặc là căn cứ trên dữ kiện căn bản về lời lỗ để tiên đoán giá cả (fundamental), hoặc căn cứ trên hình dạng của đồ biểu lên hay xuống, có trớn - động lượng - hay không (momentum), hoặc căn cứ trên phân tích về tâm lý thị trường qua những chuyển dịch của đổ biểu (technical).
[18] Nguyên văn: “short-lived midcourse price correction” – giá sụt nhất thời và không bên nên sẽ lại tăng.
[19] Nguyên văn: “long positions”, một thuật ngữ chuyên môn. Trong việc đầu tư vào các loại chứng phiếu (securities, là cổ phiếu hay trái phiếu), nhà đầu tư mua vào khi tin rằng giá sẽ lên và bán ra khi nghĩ là giá sẽ xuống. Trong thị trường giao dịch các loại kỳ phiếu futures hay hứa phiếu options, nhà đầu tư cũng có thể mua hay bán hợp đồng theo hai dự đoán, nếu sai là lỗ. Nếu dự đoán là giá sẽ lên thì lấy vị thế "long" và có lời nếu quả là giá tăng. Nếu dự đoán là giá sẽ xuống, người ta lấy vị thế "short" – là bán khống - và như giá sụt thì sẽ có lời. "Taking a long position" là một tính toán lạc quan khi nghĩ rằng việc thương phẩm đang sụt giá chỉ là điều chỉnh nhất thời, rồi sẽ tăng. Từ "correction" là điều chỉnh thường chỉ sử dụng khi thị trường đang tăng giá mà lại có dấu hiệu bị khựng và có thể giảm...