MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Wednesday, August 31, 2011

ПЕРВЫЙ СНЕГ TUYẾT ĐẦU MÙA


ПЕРВЫЙ СНЕГ

TUYẾT ĐẦU MÙA

Александр Карасёв

Aleksandr Karasiev

В грубый защитный рюкзак ложатся завернутый в бумагу кусок простыни, железная кружка, бритвенный станок, лезвия… Особенно беспокоится бабушка. Она стоит над душой, а Сергей говорит ей: “Ба, ты еще валенки мне принеси дедушкины!..”. Сергей устал отбиваться от доброй старушки, потому что она и в самом деле собралась идти за валенками. В конце концов сошлись на теплых вязаных носках.

Trong chiếc ba lô bằng vải thô màu cỏ úa là một tấm vải trải giường gói trong giấy, một chiếc ca sắt, máy cạo râu, lưỡi dao cạo… Bà thì cứ băn khoăn mọi chuyện. Thấy bà tất bật, Xergei nói với bà: “Bà ơi, bà định đưa cả ủng da của ông cho cháu mang theo à!…” Xergei phát mệt vì phải từ chối người bà phúc hậu, vì thực tế bà đã định đi lấy đôi ủng. Rốt cuộc hai bà cháu thoả thuận bỏ thêm đôi tất ấm bằng len đan.

Наконец, легли спать. Всем не спалось, кроме маленького Женьки. Сергей выходил на улицу курить. Он крался по залу, чтобы никого не разбудить. Но все равно мама окликала его:

– Ты куда? Сережа.

– Покурю, выйду, – отвечал Сергей: он впервые так отвечал маме.

Cuối cùng thì họ đi ngủ. Tất cả đều không ngủ được, trừ bé Gienka. Xergei bước ra ngoài đường hút thuốc. Anh rón rén đi qua phòng, để không đánh thức mọi người. Nhưng rồi mẹ vẫn hỏi anh:

- Xeriogia, con đi đâu thế?

- Con ra ngoài hút thuốc, – Xergei trả lời: lần đầu tiên anh trả lời mẹ như vậy.

Ночью пошел снег и быстро таял в лужах и на сыром асфальте. Но, когда Сергей вышел в следующий раз, все изменилось.

В свете фонаря вьются и блестят снежинки. Примораживает. Снег густо укладывается на землю, на крыши и капоты машин, скамейку. Сергей бродит у подъезда, вытаптывает фигуры в снегу, бросает снежки.

Lúc tối tuyết đã rơi và tan đi nhanh chóng trên các vũng nước và trên mặt đường nhựa ẩm. Nhưng khi Xergei ra đường lần này, mọi thứ đã đổi khác.

Trong ánh sáng của đèn đường, những bông tuyết bay lượn xoắn xuýt vào nhau, sáng lấp lánh. Trời trở rét. Tuyết phủ dày trên mặt đất, trên các mái nhà và mui xe, trên các ghế dài. Xergei tản bộ cạnh đường dẫn vào nhà, in những vết giày trên mặt tuyết, vốc tuyết ném ra chung quanh.

Ему легко дышалось и думалось в ту ночь. Вспоминалось детство в этих дворах: штурм снежной крепости, хоккей без коньков на бельевой площадке. Вот ему восемь лет: он обморозил руки, отец больно отливает их холодной водой. “Терпи, казак”, – говорит отец.

Đêm nay anh cảm thấy khoan khoái khi hít thở và suy tư. Anh hồi tưởng lại thời thơ ấu trong các vuông sân này: công phá các pháo đài tuyết, chơi hockey không mang giày trượt băng trên sân phơi. Khi anh tròn tám tuổi: bị lạnh cóng hai bàn tay, bố múc nước lạnh dội lên đau buốt. “Hãy cố chịu đựng, chàng kazak”, – bố anh bảo.

Сергей пытался вообразить людей из части, в которую он скоро попадет. Пытался представить обстановку в армии. У него плохо получалось. Представлялся монтажный цех, где он работал после школы. По цеху ходили условные парни в солдатской форме. И даже ходил Толик Снигирев – сварщик металлоконструкций.

Еще Сергей гадал, в какие все-таки попадет войска, – об этом он гадал с детства. Почему-то его не интересовало место службы, а только род войск.

Xergey cố hình dung những người trong đơn vị nơi anh sắp sửa gia nhập vào. Thử tưởng tượng cái khung cảnh trong quân đội. Điều tưởng tượng của anh không đạt lắm. Lại hình dung ra cái xưởng lắp máy, nơi anh đến làm việc sau khi tốt nghiệp phổ thông. Những chàng trai, theo tưởng tưởng của anh, mặc quân phục đi lại trong xưởng. Và có cả Tolik Snhighirev – anh thợ hàn kết cấu thép. Rồi Xergey lại đoán xem mình sẽ vào quân chủng nào, – về việc này anh đã từng nghĩ đến từ lúc còn nhỏ. Chẳng hiều tại sao điều anh quan tâm không phải là nơi đóng quân, mà là quân chủng nào.

Утром звенит будильник. Это старинный будильник с противным звуком страшной силы. Только бабушка проснулась заранее и лепит на кухне вареники. Сергей очень любит бабушкины вареники, и она старается специально для него.

Buổi sáng tiếng chuông đồng hồ báo thức kêu vang. Đây là chiếc đồng hồ cổ với tiếng chuông lanh lảnh chối tai. Chỉ có bà là trở dậy sớm nhất và đang nặn bánh mằn thắn dưới bếp. Xergei rất thích món bánh mằn thắn của bà, và bà cũng cố gắng làm thật đặc biệt cho đứa cháu.

Сидели “на дорожку”. Мама встала первой. Сергей надел у зеркала фуфайку. “Господи, какой же он большой!..” – думает мама. А говорит с раздражением: “Давай, Сережа, пошли уже. Согояны уже вышли”. Бабушка в кухонном фартуке плачет у двери. Сергей поцеловал ее и сказал: “Ба, не на войну же, не надо”.

Cả nhà ngồi im lặng một lúc theo tục lệ trước khi lên đường. Mẹ là người đứng lên đầu tiên. Xergei đứng trước gương mặc áo bông. “Trời đất, nó đã cao lớn thế kia!…” – người mẹ nghĩ. Nhưng lại nói với giọng bực bội: “Nào, Xeriogia, đến giờ lên đường rồi. Nhà Xogoian đã đi rồi đấy”. Bà vẫn mặc tạp dề, đang đứng khóc cạnh cửa ra vào. Xergei hôn bà và bảo: “Bà ơi, đừng khóc nữa, có phải ra trận đâu”.

Зато Женька уже бегает у дома и обстреливает снежками голубей и гаражи. Нахохлившиеся голуби шумно взлетают, но тут же опускаются на прежнее место у мусорных баков: там кто-то раскрошил для них хлеб. Металлические гаражи весело грохочут от Женькиных снежков. Женька радуется выпавшему снегу и тому, что старший брат уходит в армию, и это так интересно!

Trong khi đó, Gienka chạy ven nhà và vốc tuyết ném vào mấy con chim bồ câu, ném cả lên mái gara. Những chú chim câu tung cánh bay rào rào, nhưng sau đó lại sà xuống chỗ cũ cạnh mấy thùng rác: ai đó đã vãi bánh mì cho chúng ở đấy. Mái tôn các nhà để xe khua động ầm ĩ khi những vốc tuyết của Gienka ném đến. Gienka khoái chí vì tuyết rơi và vì anh mình nhập ngũ, điều này mới tuyệt làm sao!

По дороге в совхоз “Солнечный”, на районный сборный пункт, подошли Согояны: Карен – друг Сергея – и его мама Агнесса Львовна.

Карен светится, будто его начистили пастой гои. А печальная Агнесса Львовна тянется к Сергею, чтобы поцеловать.

Trên đường đến nông trường “Mặt trời”, điểm tập trung của quận, họ gặp mấy người của gia đình Xogoian: Karen – bạn của Xergei – và bà Agnhiesa Lvovna, mẹ của cậu ấy.

Karen tươi roi rói, cứ như được đánh bóng bằng bột “goi”. Còn bà Aghiesa Lvova thì mặt buồn rười rượi, kéo Xergei lại gần để hôn anh.

Снег хрустит под ногами. Даже женщинам веселей идти, и они разговорились. Сергею вообще радостно на душе, почти как Женьке. А Карен шагает с ним рядом и что-то бойко рассказывает. Он худой и длинный: ростом Карен пошел в отца, а не в Агнессу Львовну.

Tuyết kêu ken két dưới gót giày. Ngay cả các bà cũng thấy vui hơn, họ vừa đi vừa chuyện trò. Xergei trong lòng cũng thấy vui, giống như Gienka vậy. Còn Karen bước bên cạnh họ và đang huyên thuyên kể một câu chuyện gì đó. Cậu ấy người gầy và cao: Karen có dáng người giống bố, không giống bà Agnhíea Lvovna.

Шли среди панельных пятиэтажек. Однообразных и мрачных. Но в этот день казалось – пятиэтажки преобразились: “Удачи, Сергей! Мы тебя помним”, – говорят пятиэтажки. А когда проходили мимо дома Согоянов, в одном из окон на них смотрел дедушка Карена и махал старческой рукой.

Họ đi giữa các ngôi nhà lắp ghép năm tầng. Đơn điệu và buồn tẻ. Nhưng hôm nay dường như những ngôi nhà kia cũng đổi khác: “Chúc may mắn nhé, Xergei! Bọn mình sẽ nhớ bạn”, – các ngôi nhà nói. Và khi mọi người đi ngang ngôi nhà của gia đình Xogoianov, từ trên một ô cửa sổ ông của Karen nhìn ra và đưa cánh tay già vẫy vẫy.

К совхозному клубу пришли первыми. Карен дернул дверь – закрыто. На снегу нет следов. Вдруг как из-под земли вырос подполковник Амилахвари. Агнесса Львовна воскликнула: “Ой!”

Женька ухватился за мамино пальто: он подумал, что усатый военный играл в прятки и теперь решил себя объявить.

Họ là những người đầu tiên đến câu lạc bộ nông trường. Karen đẩy cửa – cửa đóng. Trên mặt tuyết chưa có vết chân người. Bỗng dưng trung tá Amilakhvari xuất hiện, cứ như từ dưới đất chui lên. Agnhiesa Lvovna hét lên: “Ối!”.

Genka bám vội vào áo bành tô của mẹ: cậu bé nghĩ, chắc người lính rậm ria này chơi trò trốn tìm và bây giờ ông ấy quyết định xuất hiện.

– Прибыли? Молодец! Будем ждать остальных, – сказал Амилахвари. Он сдвинул обшлаг шинели, посмотрел на часы и обратился к Сергею: – Ну что, орел! готов служить?

- Các vị đã đến rồi à? Tốt lắm! Ta chờ những người đến sau, – Amilakhvari nói. Ông kéo ống tay áo lên, xem đồng hồ rồi quay sang hỏi Sergei: – Thế nào, chú chim ưng! sẵn sàng phục vụ chứ?

От неожиданности Сергей замешкался. Его выручила Агнесса Львовна, засыпав Амилахвари вопросами. Она смешная в этот момент – так она наседает на подполковника, словно подпрыгивает храбрый воробей. Мама не выдержала и тоже спросила про теплые вещи.

Bị bất ngờ, Sergei lúng túng. Agnhiesa Lvovna cứu nguy cho anh bằng cách bủa vây Amilakhvari với hàng loạt các câu hỏi. Lúc này trông cô ấy thật buồn cười – cô sấn sổ với viên trung tá, hệt như một con chim sẻ táo bạo đang nhảy nhót. Mẹ cũng không chịu đứng im, bà đưa ra những câu hỏi về trang phục chống rét.

Но Амилахвари весело отражает все вопросы: “Мамы! Войска из Афганистана вывели десять месяцев назад, да?.. Теплые вещи выдадут всем, да?.. Дедовщину-медовщину в армии отменили – слушай! телевизор пока не в курсе, да?..” – Он говорит без акцента, а сейчас немножко шутит.

Nhưng Amilakhvari vui vẻ trả lời tất cả các câu hỏi: “Các mẹ ơi! Quân đội từ Afganistan đã rút hết về nước cách đây mười tháng, đúng không nào? Quần áo ấm sẽ phân phát cho mọi tân binh, đúng không nào? Hiện tượng ma cũ bắt nạt ma mới trong quân đội đã chấm dứt rồi – nghe chứ! tivi hiện thời thì chưa đưa tin, phải không nào?…” – Ông ấy nói rành rọt, rồi pha trò một chút.

Женщины заулыбались и почти успокоились. Хотя они ничему не поверили, кроме того, что войска вывели из Афганистана.

Сергей с Кареном отошли от подполковника. Сергею стало неудобно за женские вопросы. Начали подходить призывники, с родителями и друзьями. Через десять минут сделалось шумно. Большинство призывников тоже в фуфайках. Один парень надел даже какую-то дедовскую тужурку – засаленную и с дырками. Сергей подумал о нем: “Как пугало”.

Các bà cười và dường như đã yên tâm. Mặc dù họ chẳng tin điều gì, ngoại trừ việc quân đội đã rút khỏi Afganistan. Xergei và Karen đứng lùi ra xa vị trung tá. Xergei cảm thấy không thoải mái khi nghe những câu hỏi của các mẹ. Các chàng thanh niên được gọi nhập ngũ bắt đầu lần lượt đến, cùng với bố mẹ và bạn bè. Sau mười phút quang cảnh trở nên ồn ào. Phần đông thanh niên được gọi nhập ngũ đều mặc áo bông. Một chàng trai thậm chí còn mặc cái áo vét của ông – loang lổ bẩn kèm thêm những vết thủng. Xergei nghĩ về cậu ấy: “Trông như con ngoáo ộp”.

Снова пошел снег. Белые хлопья опускаются на шапки и плечи людей. Все посвежели и притопывают на снегу. Всем стало чуточку веселей. Парень в старой фуфайке понравился Сергею – он смешно балагурит. Другой призывник пришел в военной форме с голубыми погонами: это воспитанник местной авиачасти, сейчас он призывается как все. К некоторым парням жмутся девчонки. От этого Сергея слегка сдавливает внутри. Он подумал, что Ленка могла бы и прийти – хотя бы для виду.

Tuyết lại rơi. Những bông tuyết trắng đáp xuống trên mũ và trên vai. Mọi người trở nên hồng hào, đứng giẫm giẫm chân trong tuyết. Tất cả vui lên tí chút. Xergei thấy có cảm tình với chàng trai mặc chiếc áo bông cũ – anh ta nói chuyện rất nhộn. Một tân binh khác đi đến với bộ quân phục có quân hàm màu xanh: đây là học viên của đơn vị phi công ở vùng này, giờ đây cậu ấy cũng được gọi nhập ngũ như mọi người. Một số chàng trai có bạn gái cặp kè. Nhìn cảnh đó Xergei hơi bực trong lòng. Anh nghĩ, lẽ ra Lenka nên đến đây – dù chỉ là để đứng nhìn thôi.

Неуловимый Амилахвари то появлялся, то снова исчезал. Никто не может за ним уследить. Наконец Амилахвари, с пачкой новеньких красных военных билетов в руках, начинает перекличку.

Amilakhvari thoăn thoắt như cái bóng, lúc ẩn lúc hiện. Chẳng ai có thể theo được ông ấy. Cuối cùng thì Amilakhvari bước ra với chiếc cặp đựng thẻ tân binh trên tay và bắt đầu điểm danh.

Долго обнимались и целовались. У мамы в глазах блестели слезинки. “Держись там”, – сказал Карен. Что-то хотела пожелать и Агнесса Львовна, но смогла сказать только: “Сереженька”. Сергей улыбнулся ей, заходя в автобус. Он уселся на холодное сиденье и протер ладонью заиндевевшее окно.

Mọi người ôm và hôn nhau rất lâu. Những giọt nước mắt lấp lánh trên mắt các bà mẹ. “Đến đấy cố gắng nhé”, – Karen nói. Cả Agnhiesa Lvovna cũng muốn chúc điều gì đấy, nhưng chỉ nói được: “Xeregenka”. Xergei cười đáp trả bà rồi lên xe. Anh ngồi xuống mặt ghế mát lạnh và đưa tay lau kính cửa sổ bị băng muối phủ đầy

Пушистые снежинки мягко касаются стекла, оставляя мелкие капельки. Автобус развернулся. Карен и Агнесса Львовна машут вслед. Мама стоит со слезами в глазах и тоже махнула рукой. Неугомонный Женька бежит за автобусом, чтобы бросить снежок. Но снежок не долетел – автобус быстро набрал скорость и понесся из совхоза, клокоча выхлопами.

Những bông tuyết mềm mại khẽ khàng chạm vào mặt kính, lưu lại những giọt nước nhỏ li ti. Xe chuyển bánh. Karen và Anhiesa Lvovna vẫy theo. Với những hạt lệ trên mắt, mẹ đứng nhìn theo và cũng đưa tay vẫy. Bé Genka hiếu động chạy theo xe, vốc tuyết ném đuổi. Nhưng những nắm tuyết không bay kịp đến nơi – ôtô tăng tốc, rời khỏi nông trường, để lại đằng sau những vệt khói trắng mờ.

Dịch giả: Phan Bạch Châu

http://magazines.russ.ru/october/2008/7/ka6.html

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn