MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Friday, April 22, 2011

The Open Window - short story -Khung Cửa Mở - truyện ngắn






The Open Window
By Saki
Khung Cửa Mở
Saki

Saki là bút hiệu của Hector Hugh Munro, sinh tại Miến Ðiện năm 1870. Là con của một tổng thanh tra cảnh sát Miến Ðiện khi Miến Ðiện còn thuộc Anh, lớn lên và học tại Anh Quốc. Ông bắt đầu nghề viết văn khi làm ký giả cho tờ The Morning Post tại Balkans, Nga, Paris rồi sau tại Luân Ðôn. Khi Ðệ I Thế Chiến bùng nổ, tuy đã gần bốn lăm tuổi nhưng ông gia nhập quân đội với cấp bậc thấp nhất và từ chối lãnh lương. Ông hy sinh trên chiến trường tại Pháp ngày 13-11-1916 do viên đạn bắn sẻ của một người lính Ðức. Hầu hết những tác phẩm của ông đều được xuất bản sau khi ông qua đời.
Truyện của ông đầy những bất ngờ. “Khung Cửa Mở” (The Open Window) là một trong những điển hình của khả năng kết hợp tài tình giữa tính hài hước và kinh dị trong thể loại truyện ngắn.
DVB
"My aunt will be down presently, Mr. Nuttel," said a very self-possessed young lady of fifteen; "in the meantime you must try and put up with me."
“Cô cháu sẽ xuống ngay thưa ông Nuttel, trong khi chờ đợi, cháu rất hân hạnh được tiếp chuyện với ông,” cô bé mười lăm tuổi nói với giọng thật tự tin.
Framton Nuttel endeavoured to say the correct something which should duly flatter the niece of the moment without unduly discounting the aunt that was to come. Privately he doubted more than ever whether these formal visits on a succession of total strangers would do much towards helping the nerve cure which he was supposed to be undergoing.
Framton Nuttel cố gắng nói một cách đúng mực, sao cho vui lòng cô cháu gái mà không làm tổn thương bà cô. Nhưng trong thâm tâm chàng ta rất lo âu. Chàng không biết một loạt những đợt thăm viếng những người lạ như thế này có giúp gì trong việc chữa trị căn bệnh tâm thần của mình không.


"I know how it will be," his sister had said when he was preparing to migrate to this rural retreat; "you will bury yourself down there and not speak to a living soul, and your nerves will be worse than ever from moping. I shall just give you letters of introduction to all the people I know there. Some of them, as far as I can remember, were quite nice."
“Chị biết câu chuyện rồi sẽ như thế nào,” bà chị của chàng đã nói thế khi chàng sửa soạn ra đi. “Cậu phải sống yên một mình. Ðừng tiếp xúc với ai, nếu không bệnh tâm thần của cậu sẽ lại nặng thêm thôi. Cậu chỉ nên thăm viếng một vài người mà chị quen biết. Trong số đó một vài người họ rất dễ thương.”
Framton wondered whether Mrs. Sappleton, the lady to whom he was presenting one of the letters of introduction came into the nice division.
Framton hy vọng Bà Sappleton người mà chàng đang thăm viếng đây nằm trong số người “dễ thương” đó.
"Do you know many of the people round here?" asked the niece, when she judged that they had had sufficient silent communion.
“Ông có quen biết nhiều người trong vùng này không?” thình lình cô bé hỏi sau khi cảm thấy sự im lặng đã vừa đủ giữa hai người.
"Hardly a soul," said Framton. "My sister was staying here, at the rectory, you know, some four years ago, and she gave me letters of introduction to some of the people here." He made the last statement in a tone of distinct regret.
Framton giật mình. “Hầu như không quen biết ai,” chàng đáp. “Chị tôi ở đây khoảng bốn năm, tại nhà của ông mục sư, chị giới thiệu tôi tới thăm một số những vị ở đây.” Khi nói câu này rõ ràng giọng của chàng ta tỏ ra tiếc nuối.
"Then you know practically nothing about my aunt?" pursued the self-possessed young lady.
“Vậy thì ông hoàn toàn không biết gì về bà cô của cháu à?” cô gái điềm nhiên hỏi.
"Only her name and address," admitted the caller. He was wondering whether Mrs. Sappleton was in the married or widowed state. An undefinable something about the room seemed to suggest masculine habitation.
“Chỉ biết tên và địa chỉ của bà thôi,” chàng ta thú nhận. Framton nhìn quanh căn phòng, tự hỏi không biết BàSappleton đã lập gia đình chưa hay bà là một góa phụ. Một vài đồ vật cho chàng cảm tưởng là căn nhà này có sự hiện diện của đàn ông.
"Her great tragedy happened just three years ago," said the child; "that would be since your sister's time."
“Một thảm kịch đã xảy đến cho cô cháu đúng vào ngày này cách đây mới ba năm,” cô gái nói. “Chuyện xảy ra khi bà chị của ông đã rời khỏi nơi đây.”
"Her tragedy?" asked Framton; somehow in this restful country spot tragedies seemed out of place.
***
“Thảm kịch hả?” Framton hỏi. Dầu sao thì thảm kịch cũng khó lòng xảy ra tại một vùng quê yên tĩnh như thế này.
***
"You may wonder why we keep that window wide open on an October afternoon," said the niece, indicating a large French window that opened on to a lawn.
“Ông có thể ngạc nhiên tại sao cô cháu lại để ngỏ khung cửa sổ vào buổi chiều lạnh thấu buốt của Tháng Mười như thế.” Cô gái vừa nói vừa lấy tay chỉ vào khung cửa sổ rộng kiểu Pháp ăn thông ra ngoài vườn.
"It is quite warm for the time of the year," said Framton; "but has that window got anything to do with the tragedy?"
“À, năm nay vào tháng này trời ấm,” Framton đáp. “Nhưng có chuyện đó có liên quan gì đến cánh cửa sổ không?”
"Out through that window, three years ago to a day, her husband and her two young brothers went off for their day's shooting. They never came back. In crossing the moor to their favourite snipe-shooting ground they were all three engulfed in a treacherous piece of bog. It had been that dreadful wet summer, you know, and places that were safe in other years gave way suddenly without warning. Their bodies were never recovered. That was the dreadful part of it." Here the child's voice lost its self-possessed note and became falteringly human.
“Cách đây ba năm, cũng vào ngày này, ông chồng của cô cháu và hai người em phóng ra ngoài cánh cửa sổ đó. Họ đi săn chim nhưng không bao giờ quay trở lại. Cả ba đều chết khi bị chôn sống dưới đầm lầy. Mùa hè năm đó mưa như trút nước, như ông cũng biết. Nhiều chỗ năm này thì an toàn, khô ráo nhưng năm khác lại sụp lở bất ngờ. Xác ba người không sao tìm ra. Ðó phần ghê gớm nhất của câu chuyện.” Tới đây thì giọng cô bé mất hết bình tĩnh và trở nên nghẹn ngào.
"Poor aunt always thinks that they will come back someday, they and the little brown spaniel that was lost with them, and walk in at that window just as they used to do. That is why the window is kept open every evening till it is quite dusk. Poor dear aunt, she has often told me how they went out, her husband with his white waterproof coat over his arm, and Ronnie, her youngest brother, singing 'Bertie, why do you bound?' as he always did to tease her, because she said it got on her nerves. Do you know, sometimes on still, quiet evenings like this, I almost get a creepy feeling that they will all walk in through that window - "
She broke off with a little shudder. It was a relief to Framton when the aunt bustled into the room with a whirl of apologies for being late in making her appearance.
“Bà cô khốn khổ của cháu vẫn cứ tin tưởng là một ngày nào đó ba người sẽ trở về. Họ sẽ trở về cùng với con chó nhỏ màu nâu cũng bị chôn sống ở đầm lầy với họ. Cô cháu nghĩ rằng họ sẽ nhảy qua cánh cửa sổ để vào nhà như cách mà họ đã ra đi trước đây. Chính vì thế mà cánh cửa cứ mở ngỏ cho đến khi chiều tối. Bà cô khốn khổ của cháu thường kể cho cháu nghe chuyện ba người ra đi như thế nào. Ông cậu thì khoác chiếc áo măng-tô trắng ngang vai. Còn cậu em Ronnie thì cứ hát ‘Berti ơi… tại sao em lại nhảy…’ để chọc ghẹo bà, vì bài hát này làm bà nhức đầu.”
Tới đây cô bé dừng lại.
“Ông biết không,” cô gái nói tiếp, “vào những buổi chiều im ắng như thế này, cháu có cảm tưởng lạnh xương sống khi nghĩ đến chuyện ba người nhảy vào nhà qua khung cửa bỏ ngỏ đó…”
Cô gái rùng mình rồi đột nhiên dừng lại. Còn chàng Framton thì thở phào nhẹ nhõm khi bà cô bất thần xuất hiện ở phòng khách và rối rít xin lỗi vì đã xuống lầu tiếp khách hơi trễ.
"I hope Vera has been amusing you?" she said.
"She has been very interesting," said Framton.
“Tôi hy vọng là ông đã nói chuyện vui vẻ với cháu Vera,” Bà Sappleton nói.
"I hope you don't mind the open window," said Mrs. Sappleton briskly; "my husband and brothers will be home directly from shooting, and they always come in this way. They've been out for snipe in the marshes today, so they'll make a fine mess over my poor carpets. So like you menfolk, isn't it?"
***
“Cô bé nói chuyện thật hay,” Framton đáp.
“Mong ông bỏ qua cho việc mở ngỏ cánh cửa sổ kia,” bà cô nói với giọng phấn chấn.” Chồng tôi và hai cậu em sẽ về trong chốc lát. Họ đi săn và thường vào nhà bằng ngả đó. Lại làm lấm cả mấy tấm thảm đẹp của tôi thôi. Ðàn ông các ông thì vẫn thế. Có phải vậy không ông?”
***
She rattled on cheerfully about the shooting and the scarcity of birds, and the prospects for duck in the winter. To Framton it was all purely horrible. He made a desperate but only partially successful effort to turn the talk on to a less ghastly topic, he was conscious that his hostess was giving him only a fragment of her attention, and her eyes were constantly straying past him to the open window and the lawn beyond. It was certainly an unfortunate coincidence that he should have paid his visit on this tragic anniversary.
Bà nói chuyện rất vui vẻ. Bà huyên thuyên tiếp tục về chuyện đi săn, chuyện hiếm chim vào mùa này và triển vọng sẽ có vịt trời vào mùa đông. Còn đối với Framton thì thật là khủng khiếp. Chàng cố gắng chuyển câu chuyện sang đề tài bớt ghê rợn hơn. Nhưng Bà Sappleton hầu như không để ý đến điều đó. Bà tiếp tục đưa mắt nhìn ra ngoài khung cửa. Thật là tai họa khi chàng tới đây đúng vào ngày cách đây ba năm gia đình người ta có ba người chết.
"The doctors agree in ordering me complete rest, an absence of mental excitement, and avoidance of anything in the nature of violent physical exercise," announced Framton, who laboured under the tolerably widespread delusion that total strangers and chance acquaintances are hungry for the least detail of one's ailments and infirmities, their cause and cure. "On the matter of diet they are not so much in agreement," he continued.
“Bác sĩ nói tôi phải tuyệt đối nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, tránh mọi vận động mạnh về cơ thể,” Framton chân tình giải thích và hy vọng rằng, theo thông lệ mọi người đều tỏ ra cảm thông tới bệnh tật của người khác và thường ân cần hỏi han về những chi tiết, nguyên do và cách chữa trị. “Còn về vấn đề ăn uống thì các bác sĩ chưa đồng ý với nhau.” Framton nói tiếp.
"No?" said Mrs. Sappleton, in a voice which only replaced a yawn at the last moment. Then she suddenly brightened into alert attention - but not to what Framton was saying.
“Chưa hả?” Bà Sappleton hững hờ hỏi nhưng thật ra câu hỏi chỉ để che dấu cái ngáp vào phút cuối. Bất thần bà ta chú ý, mặt bà sáng lên…nhưng không phải vì những lời mà chàng vừa nói.
"Here they are at last!" she cried. "Just in time for tea, and don't they look as if they were muddy up to the eyes!"
“Ồ, họ về rồi, thế chứ!” bà kêu lên. “Ðúng giờ uống trà. Trời ơi cả ba lấm bùn be bét!”
Framton shivered slightly and turned towards the niece with a look intended to convey sympathetic comprehension. The child was staring out through the open window with a dazed horror in her eyes. In a chill shock of nameless fear Framton swung round in his seat and looked in the same direction.
Framton khẽ run lên. Chàng ta rầu rĩ lắc đầu rồi quay qua nhìn cô bé như thể cảm thông với những gì cô ta nói trước đây. Nhưng cô bé cũng đang mải nhìn ra ngoài khung cửa với đôi mắt mở to kinh hoảng. Nỗi khủng khiếp hiện lên đôi mắt của chàng. Trong sự hoảng sợ tột độ, Framton xoay như chiếc lò xo trên ghế, mắt nhìn ra ngoài khung cửa.
In the deepening twilight three figures were walking across the lawn towards the window, they all carried guns under their arms, and one of them was additionally burdened with a white coat hung over his shoulders. A tired brown spaniel kept close at their heels. Noiselessly they neared the house, and then a hoarse young voice chanted out of the dusk: "I said, Bertie, why do you bound?"
Trong bóng tối chập choạng, ba bóng người đang vượt qua bãi cỏ. Họ đang tiến về phía căn nhà. Cả ba đều quàng súng. Một trong ba người khoác chiếc áo măng-tô trắng ngang vai. Một con chó nhỏ màu nâu mệt nhọc chạy theo bén gót. Rất âm thầm, cả ba tiến dần tới căn nhà. Rồi một giọng trẻ trung cất lên ‘Berti ơi…tại sao em lại nhảy..’”
Framton grabbed wildly at his stick and hat; the hall door, the gravel drive, and the front gate were dimly noted stages in his headlong retreat. A cyclist coming along the road had to run into the hedge to avoid imminent collision.
***
Framton bật dậy. Chàng vớ vội lấy cây gậy và chiếc áo khoác. Cửa ra vào, con đường trải sỏi và chiếc cổng chính là những gì chàng còn mơ hồ nhận được trên bước đường tháo chạy. Một nguời đi xe đạp phải phóng vào hàng rào để tránh đụng phải chàng trong lúc chàng ba chân bốn cẳng chạy.
***
"Here we are, my dear," said the bearer of the white mackintosh, coming in through the window, "fairly muddy, but most of it's dry. Who was that who bolted out as we came up?"
“Bọn anh về đây rồi em ơi,” người đàn ông khoác chiếc măng-tô kêu lên. “Vài chỗ hơi lầy nhưng đâu đó đều khô. Thằng cha nào phóng ra ngoài khi bọn anh vừa về vậy?”
"A most extraordinary man, a Mr. Nuttel," said Mrs. Sappleton; "could only talk about his illnesses, and dashed off without a word of goodby or apology when you arrived. One would think he had seen a ghost."
“Một người rất kỳ khôi, ồ…một anh chàng Framton nào đó.” Bà Sappleton nói “Anh ta chỉ nói về bệnh tật của mình. Anh ta có vẻ rất bồn chồn rồi vụt bỏ chạy chẳng nói một lời khi anh về tới, như thể nhìn thấy ma vậy.”
"I expect it was the spaniel," said the niece calmly; "he told me he had a horror of dogs. He was once hunted into a cemetery somewhere on the banks of the Ganges by a pack of pariah dogs, and had to spend the night in a newly dug grave with the creatures snarling and grinning and foaming just above him. Enough to make anyone lose their nerve."
“Có thể là vì con chó săn,” cô bé Vera nói tỉnh bơ. “Ông ta kể cho cháu nghe câu chuyện khủng khiếp về chó. Có một lần, ở bên bờ Sông Hằng, ông ta bị dồn vào một nghĩa địa bởi một bày chó ngao. Cả đêm hôm đó ông ta phải núp ở dưới chiếc mả mới đào trong khi bày chó dại nhe răng, gầm gừ, sùi bọt mép ở bên trên. Chuyện khủng khiếp như thế thì ai mà chẳng ám ảnh và lo sợ. “Cô nghĩ có thể là vì vậy.” bà cô cũng đồng ý.
Romance at short notice was her speciality.
Tài bịa chuyện hay và mau lẹ như cô bé thật không ai qua nổi.

Translated by Dao Van Binh

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn