MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Saturday, March 5, 2011

Acne 3 – Mụn trứng cá 3

Acne 3 – Mụn trứng cá 3

Acne Causes

Doctors describe acne as a disease of the pilosebaceous units (PSUs). Found over most of the body, PSUs consist of a sebaceous gland connected to a canal, called a follicle, that contains a fine hair (see "Normal Pilosebaceous Unit" diagram). These units are most numerous on the face, upper back, and chest. The sebaceous glands make an oily substance called sebum that normally empties onto the skin surface through the opening of the follicle, commonly called a pore. Cells called keratinocytes line

Nguyên nhân

Các bác sĩ mô tả mụn trứng cá là căn bệnh của các đơn vị pilocebaceous (PSUs). Được tìm thấy phần lớn trên cơ thể, PSUs bao gồm một tuyến bã nhờn kết nối với các kênh, gọi là nang lông, có chứa một sợi lông mảnh (xem sơ đồ: “đơn vị chất nhờn lông bình thường”). Các tuyến bã nhờn tạo ra một chất dầu gọi là bã nhờn thường đưa lên bề mặt da thông qua chỗ mở của nang lông, thường được gọi là một lỗ chân lông. Các tế bào được gọi là dòng tế bào sừng.

normal
Normal Pilosebaceous Unit

The hair, sebum, and keratinocytes that fill the narrow follicle may produce a plug, which is an early sign of acne. The plug prevents sebum from reaching the surface of the skin through a pore. The mixture of oil and cells allows bacteria Propionibacterium acnes (P. acnes) that normally live on the skin to grow in the plugged follicles. These bacteria produce chemicals and enzymes and attract white blood cells that cause inflammation. (Inflammation is a characteristic reaction of tissues to disease or injury and is marked by four signs: swelling, redness, heat, and pain.) When the wall of the plugged follicle breaks down, it spills everything into the nearby skin – sebum, shed skin cells, and bacteria – leading to lesions or pimples.

Lông, bã nhờn, và tế bào nang mà lấp đầy nang lông hẹp có thể tạo nên một cái nút, là một dấu hiệu sớm của mụn trứng cá. Cái nút sẽ ngăn bã nhờn đạt đến bề mặt da thông qua lỗ chân lông. Các hỗn hợp của dầu và các tế bào cho phép vi khuẩn mụn trứng cá Propionibacterium (P. acnes) mà thường sống trên da phát triển trong các nang bị bít kín. Những vi khuẩn này tạo ra các hóa chất và en-zim và thu hút các bạch cầu gây viêm. (Viêm là một phản ứng đặc trưng của các mô đối với bệnh hoặc chấn thương và được đánh dấu bằng bốn dấu hiệu sưng, nóng, đỏ và đau). Khi vách của nang bị bít kín vỡ ra, nó đổ tất cả mọi thứ ra vùng da xung quanh - bã nhờn, các tế bào da bong ra, và vi khuẩn - dẫn đến các tổn thương hoặc nổi mụn.

People with acne frequently have a variety of lesions, some of which are shown in the diagrams below. The basic acne lesion, called the comedo (KOM-e-do), is simply an enlarged and plugged hair follicle. If the plugged follicle, or comedo, stays beneath the skin, it is called a closed comedo and produces a white bump called a whitehead. A comedo that reaches the surface of the skin and opens up is called an open comedo or blackhead because it looks black on the skin's surface. This black discoloration is due to changes in sebum as it is exposed to air. It is not due to dirt. Both whiteheads and blackheads may stay in the skin for a long time.

Những người có mụn trứng cá thường có nhiều thương tổn, một số trong đó được thể hiện trong các biểu đồ dưới đây: Tổn thương mụn trứng cá cơ bản, được gọi là ngòi trứng cá (KOM-e-do), chỉ đơn giản là một nang lông bị nở rộng và bít kín. Nếu nang bị bít, hoặc ngòi trứng cá, nằm bên dưới da, nó được gọi là một ngòi trứng cá đóng và tạo ra một vết sưng màu trắng gọi là mụn đầu trắng Một ngòi trứng cá đạt đến bề mặt da và mở ra được gọi là một ngòi trứng cá mở hoặc mụn đầu đen bởi vì nó trông đen trên bề mặt da. Biến đổi màu đen này là do các thay đổi bã nhờn khi nó được tiếp xúc với không khí. Nó không phải là do bụi bẩn. Cả hai mụn đầu trắng và mụn đầu đen đều có thể ở trong da trong một thời gian dài.

Microcomedo
Microcomedo

Open Comedone (Black Head)
Open Comedone (Black Head)

Closed Comedone (White Head)
Closed Comedone (White Head)

Primary causes

The root causes of why some people get acne and some do not are not fully known. It is known to be partly hereditary. Several factors are known to be linked to acne:

Nguyên nhân cơ bản

Nguyên nhân chính tại sao một số người bị mụn trứng cá và một số khác lại không bị mụn thì không được biết đến một cách đầy đủ. Nó được biết đến một phần là do di truyền. Một vài yếu tố liên quan đến mụn trứng cá được biết đến như:

* Family/Genetic history. The tendency to develop acne runs in families. For example, school-age boys with acne often have other members in their family with acne as well. A family history of acne is associated with an earlier occurrence of acne and an increased number of retentional acne lesions.

*Tiền sử di truyền-gia đình: Các xu hướng hay bị nổi mụn trong gia đình. Những nam sinh có mụn thường có các thành viên khác trong gia đình cũng bị mụn. Một gia đình có tiền sử mụn trứng cá thì thường liên quan đến sự xuất hiện mụn sớm hơn và thương tổn do mụn gây ra nhiều hơn.

* Hormonal activity, such as menstrual cycles and puberty. During puberty, an increase in male sex hormones called androgens cause the follicular glands to get larger and make more sebum.

* Các hoạt động nội tiết: Chẳng hạn như chu kỳ kinh nguyệt và tuổi dậy thì. Ở tuổi dậy thì sự gia tăng các nội tiết tố sinh dục nam gọi là Androgen làm cho các tuyến nang lớn hơn và tiết nhiều chất nhầy.

* Inflammation, skin irritation or scratching of any sort will activate inflammation. Anti-inflammatories are known to improve acne.

*Viêm nhiễm, kích ứng da hoặc làm trầy xước bất cứ phần nào cũng sẽ kích thích tình trạng viêm. Các thuốc kháng viêm được biết đến như là cách để cải thiện mụn trứng cá.

* Stress, through increased output of hormones from the adrenal (stress) glands. While the connection between acne and stress has been debated, scientific research indicates that "increased acne severity" is "significantly associated with increased stress levels." The National Institutes of Health (USA) list stress as a factor that "can cause an acne flare." A study of adolescents in Singapore "observed a statistically significant positive correlation […] between stress levels and severity of acne."

*Stress, thông qua sự tăng sinh hormone từ tuyến thượng thận.Trong khi đó mối liên hệ giữa Stress và sự hình thành mụn đã được tranh luận.Các nghiên cứu khoa học đã cho thấy rằng “sự gia tăng nghiêm trọng mụn trứng cá” là “có sự liên hệ đáng kể với mức gia tăng Stress”. Viện y tế quốc gia ( Mỹ) đã đưa ra các dẫn chứng cho thấy rằng Stress như là một yếu tố “ có thể gây nổi mụn trứng cá một cách bất ngờ” . Một nghiên cứu của thanh thiếu niên tại Singapo “ quan sát thống kê thấy có mối tương quan tích cực giữa mức độ Stress và mức độ nghiêm trọng của mụn trứng cá”.

* Hyperactive sebaceous glands, secondary to the three hormone sources above.

*Các tuyến nhờn tăng hoạt, là triệu chứng thứ phát của ba nguồn nội tiết tố trên.

* Accumulation of dead skin cells that block or cover pores.

* Sự tích luỹ của các tế bào da tạo thành khối che lấp lỗ chân lông.

* Bacteria in the pores. Propionibacterium acnes (P. acnes) is the anaerobic bacterium that causes acne. In-vitro resistance of P. acnes to commonly used antibiotics has been increasing.

* Vi khuẩn ở trong các lỗ chân lông. Vi khuẩn Propionibacterium (P. acnes) thuộc loại vi khuẩn kị khí là nguyên nhân gây mụn trứng cá. Vi khuẩn P. acnes trong môi trường phòng thí nghiệm ngày càng tăng khả năng kháng các loại thuốc kháng sinh được sử dụng nhiều.

* Use of anabolic steroids.

* Sử dụng chất kích thích (steroidtăng chuyển hóa)

* Any medication containing lithium, barbiturates or androgens.

* Bất kỳ các loại thuốc có chứa các thành phần như lithium, barbiturates hoặc androgen.

* Exposure to certain chemical compounds. Chloracne is particularly linked to toxic exposure to dioxins, namely Chlorinated dioxins.

* Tiếp xúc với các hợp chất hoá học nhất định. Chứng ban Clo thì đặc biệt liên quan đến việc phơi nhiễm Dioxin, cụ thể là dioxin đã bị clo hoá.

* Exposure to halogens. Halogen acne is linked to exposure to halogens (e.g. iodides, chlorides, bromides, fluorides).

* Tiếp xúc với các nguyên tố hoá học thuộc nhóm Halogen. Mụn trứng cá có liên quan đến việc phơi nhiễm các Halogen ( ví dụ iodides, clorua, bromua, florua)

* Chronic use of amphetamines or other similar drugs.

* Bị mãn tính do sử dụng các chất kích thích hoặc các loại thuốc tương tự.

Several hormones have been linked to acne: the androgens testosterone, dihydrotestosterone (DHT) and dehydroepiandrosterone sulfate (DHEAS), as well as insulin-like growth factor 1 (IGF-I). In addition, acne-prone skin has been shown to be insulin resistant.

Một số hormone có liên quan đến mụn trứng cá như :Testosterone Androgen, dihydrotestosterone (DHT) và dehydroepiandrosterone sulfate (DHEAS), cũng như là yếu tố tăng trưởng giống insulin 1(IGF-1). Ngoài ra, da dễ bị mụn trứng cá được thấy là hay kháng insulin.

Development of acne vulgaris in later years is uncommon, although this is the age group for Rosacea which may have similar appearances. True acne vulgaris in adult women may be a feature of an underlying condition such as pregnancy and disorders such as polycystic ovary syndrome or the rare Cushing's syndrome. Menopause-associated acne occurs as production of the natural anti-acne ovarian hormone estradiol fails at menopause. The lack of estradiol also causes thinning hair, hot flashes, thin skin, wrinkles, vaginal dryness, and predisposes to osteopenia and osteoporosis as well as triggering acne (known as acne climacterica in this situation).

Sự phát triển của mụn trứng cá (viêm nang bã) ở những năm lớn tuổi hơn thì không còn phổ biến, mặc dù đây là nhóm tuổi của chứng trứng cá đỏ cái mà cũng có hình thức tương tự. Chứng viêm nang bã do mụn trứng cá ở phụ nữ trưởng thành có thể là đặc điểm chính của một tình trạng như mang thai và các rối loạn như hội chứng buồng trứng đa nang hay hội chứng phát phì hay hội chứng Cushing hiếm gặp. Vào thời kỳ mãn kinh, mụn trứng cá xuất hiện có liên quan đến sự sụt giảm lượng hormone Estradiol-hormone ngừa mụn trứng cá. Việc thiếu estradiol cũng là nguyên nhân làm cho tóc thưa đi, các cơn nóng bừng, da bị mỏng, nhiều nếp nhăn, khô âm đạo và có báo hiệu giảm mật độ xương, và loãng xương cũng như gây ra mụn trứng cá (trong trường hợp này gọi là mụn tiền mãn kinh).

Diet

Chocolate

The popular belief that chocolate intake, in and of itself, is a cause of acne is not supported by scientific studies. As discussed below, various studies point not to chocolate, but to the high glycemic nature of certain foods containing simple carbohydrates as a cause of acne. Chocolate itself has a low glycemic index.

Chế độ ăn uống

Socola

Có nhiều quan niệm cho rằng ăn socola là nguyên nhân gây mụn trứng cá nhưng lại không có bằng chứng khoa học nào cho thấy điều này. Như thảo luận dưới đây, các nghiên cứu chỉ ra rằng không phải socola là nguyên nhân, mà nguyên nhân chính là do hàm lượng Glycemic cao trong các thực phẩm carbohydrates đơn là nguyên nhân gây ra mụn. Bản thân socola lại có hàm lượng Glycemic thấp.

Milk

Recently, three epidemiological studies from the same group of scientists found an association between acne and consumption of partially skimmed milk, instant breakfast drink, sorbet, cottage cheese, and cream cheese. The researchers hypothesize that the association may be caused by hormones (such as several sex hormones and bovine insulin-like growth factor 1 (IGF-1)) or even iodine present in cow milk.

Sữa

Gần đây, ba nghiên cứu dịch tể học từ cùng một nhóm các nhà khoa học đã tìm thấy mối liên quan giữa mụn và sữa đã tách kem một phần, thức uống nhanh bữa sáng, sorbet, phô mai và kem phomat. Hiệp hội các nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thiết rằng có thể là do kích thích tố (hormone giới tính và một số yếu tố tăng trưởng giống Insulin 1 ở bò (IGF-1) hoặc thậm chí i-ốt có trong sữa bò.

Carbohydrates

The long-held belief that there is no link between diets high in refined sugars and processed foods, and acne, has recently been challenged. The previous belief was based on earlier studies (some using chocolate and Coca-Cola) that were methodologically flawed. The recent low glycemic-load hypothesis postulates that rapidly digested carbohydrate foods (such as soft drinks, sweets, white bread) produce an overload in blood glucose (hyperglycemia) that stimulates the secretion of insulin, which in turn triggers the release of IGF-1. IGF-1 has direct effects on the pilosebaceous unit (and insulin at high concentrations can also bind to the IGF-1 receptor) and has been shown to stimulate hyperkeratosis and epidermal hyperplasia. These events facilitate acne formation. Sugar consumption might also influence the activity of androgens via a decrease in sex hormone-binding globulin concentration.

Carbohydrates

Lâu nay có nhiều quan niệm cho rằng không có mối liên hệ giữa chế độ ăn giàu đường tinh chế, thực phẩm chế biến và mụn trứng cá, nhưng gần đây quan niệm này đã không còn được thừa nhận. Quan niệm cũ dựa trên các nghiên cứu trước đó (sử dụng một số socola và cocacola) đã sai về mặt phương pháp. Gần đây các giả thiết về tải Glycemic thấp cho rằng các thức ăn carbohydrate tiêu hóa nhanh chóng (như nước ngọt, kẹo, bánh mì trắng) tạo nên một tình trạng quá tải về lượng đường trong máu (tăng đường huyết), kích thích sự tiết insulin từ đó kích thích sản xuất IGF-1. IGF-1 có tác dụng trực tiếp trên các đơn vị pilosebaceous (và insulin ở nồng độ cao cũng gắn vào các thụ thể IGF-1), từ đó đã kích thích tăng nang và tăng sinh biểu bì. Điều này đã tạo điều kiện cho sự hình thành mụn. Sự tiêu dùng đường cũng có thể ảnh hưởng đến hoạt động của Androgen thông qua giảm nồng độ globulin gắn hormone sinh dục.

In support of this hypothesis, a randomized controlled trial of a low glycemic-load diet improved acne and reduced weight, androgen activity and levels of insulin-like growth factor binding protein-1. High IGF-1 levels and mild insulin resistance (which causes higher levels of insulin) had previously been observed in patients with acne. High levels of insulin and acne are also both features of polycystic ovarian syndrome.

Để hỗ trợ cho giả thuyết này, một thử nghiệm ngẫu nhiên với một chế độ ăn uống có tải Glyccemic thấp đã cải thiện mụn trứng cá và giảm trọng lượng, hoạt động của Androgen và nồng độ của protein-1 gắn yếu tố tăng trưởng giống insulin. Nồng độ IGF-1 tăng cao và đề kháng với insulin nhẹ (mà nguyên nhân là tăng nồng độ insulin) trước đây đã được quan sát ở bệnh nhân mụn trứng cá. Nồng độ cao insulin và mụn trứng cá là đặc điểm của bệnh buồng trứng đa nang.

According to this hypothesis, the absence of acne in some non-Westernized societies could be explained by the low glycemic index of these cultures' diets. It is possible that genetic reasons account for there being no acne in these populations, although similar populations (such as South American Indians or Pacific Islanders) do develop acne. Note also that the populations studied consumed no milk or other dairy products.

Theo giả thuyết này thì mụn trứng cá không xuất hiện ở các cộng đồng người phương Tây không thể được giải thích bởi chỉ số Glycemic thấp hay chế độ ăn uống của nền văn hoá. Có thể là lí do di truyền đã làm một nguồn gen không có mụn trứng cá trong quần thể, mặc dù những quần thể giống nhau (như là người Anh-điêng hay dân đảo Thái Bình Dương) lại có mụn trứng cá. Lưu ý rằng những quần thể được nghiên cứu không tiêu thụ sữa và các sản phẩm từ sữa.

Further research is necessary to establish whether a reduced consumption of high-glycemic foods, or treatment that results in increased insulin sensitivity (like metformin) can significantly alleviate acne, though consumption of high-glycemic foods should in any case be kept to a minimum, for general health reasons. Avoidance of "junk food" with its high fat and sugar content is also recommended.

Nghiên cứu thêm là cần thiết để xác định liệu rằng một loại thực phẩm tiêu thụ làm giảm lượng đường huyết cao, hoặc điều trị có kết quả nhạy với sự tăng lên của insulin một cách đáng kể (như metformin) có thể làm giảm mụn trứng cá. Mặc dù mức tiêu thụ các loại thực phẩm giàu Glycemic trong các trường hợp nên được giữ ở mức tối thiểu, vì lí do sức khoẻ nói chung. Tránh “ăn vặt” với các thức ăn giàu chất béo và đường.

Vitamins A and E

Studies have shown that newly diagnosed acne patients tend to have lower levels of vitamin A circulating in their bloodstream than those who are acne free. In addition people with severe acne also tend to have lower blood levels of vitamin E.

Vitamin A và E.

Các nghiên cứu cho thấy rằng ở những bệnh nhân mới được chẩn đoán bị mụn trứng cá thì có khuynh hướng có nồng độ vitamin A trong máu thấp hơn những người không bị mụn trứng cá. Ngoài ra ở những người bị mụn trứng cá nặng thì có nồng độ vitamin E trong máu cũng thấp hơn.

Hygiene

Acne is not caused by dirt. This misconception probably comes from the fact that blackheads look like dirt stuck in the openings of pores. The black color is not dirt but simply oxidised keratin. In fact, the blockages of keratin that cause acne occur deep within the narrow follicle channel, where it is impossible to wash them away. These plugs are formed by the failure of the cells lining the duct to separate and flow to the surface in the sebum created there by the body. Built-up oil of the skin can block the passages of these pores, so standard washing of the face could wash off old oil and help unblock the pores.

Vệ sinh

Mụn trứng cá không phải do bụi bẩn. Quan niệm sai lầm này có lẽ xuất phát từ thực tế là mụn đầu đen thì trông giống như là bụi bẩn bị mắc kẹt trong các lỗ chân lông. Màu đen này không phải là đất mà đơn giản là Keratin bị oxy hoá. Trong thực tế những tắc ngẽn của keratin xảy ra ở sâu bên trong các nang lông hẹp là nguyên nhân gây nên mụn trứng cá, nơi mà không thể được rửa sạch. Các nút ngẽn được hình thành do các tế bào niêm mạc bị đào thải đã làm tắc các kênh và dòng chảy riêng biệt vận chuyển các chất nhờn trên bề mặt của cơ thể. Nếu lượng dầu của da tăng thêm có thể sẽ làm bít các lỗ chân lông do đó việc rửa mặt có thể làm sạch lượng dầu này đi và ngăn sự bít các lỗ chân lông.

Translated by Đoàn Tôn Lĩnh, Class Y2B- Group 4

Dịch giả: Đoàn Tôn Lĩnh, Lớp Y2B- nhóm 4

1 comment:

  1. Collagen is the most abundant and strong protein in your body, it holds you together and keeps you looking young.

    ReplyDelete

your comment - ý kiến của bạn