MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Wednesday, February 16, 2011

MẤY Ý NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ THUỘC ĐỊA - SOME CONSIDERATIONS ON THE COLONIAL QUESTION




MẤY Ý NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ THUỘC ĐỊA

SOME CONSIDERATIONS ON THE COLONIAL QUESTION

Từ khi Đảng Cộng sản Pháp đã thừa nhận 21 điều kiện của Mátxcơva và gia nhập Quốc tế thứ ba, Đảng đã tự đặt cho mình một nhiệm vụ đặc biệt khó khăn trong số các nhiệm vụ khác: chính sách thuộc địa. Đảng không thể thoả mãn với những bản tuyên ngôn chỉ thuần là bằng tình cảm và không có kết quả gì như thời Quốc tế thứ nhất và Quốc tế thứ hai nữa, mà cần phải có một kế hoạch hoạt động chính xác, một chính sách có hiệu quả và thiết thực.

Since the French Party has accepted Moscow’s ‘twenty-one conditions’ and joined the Third International, among the problems which it has set itself is a particularly ticklish one - colonial policy. Unlike the First and Second Internationals, it cannot be satisfied with purely sentimental expressions of position leading to nothing at all, but must have a well defined working programme, an effective and practical policy.

Trong vấn đề này, Đảng gặp nhiều khó khăn hơn mọi vấn đề khác, và đây là những khó khăn chủ yếu:

On this point, more than on others, the Party faces many difficulties, the greatest of which are the following:

1. Diện tích các thuộc địa rất rộng. - Không kể những “khu vực ủy trị” mới, lấy được từ sau chiến tranh, nước Pháp có:

1. The great size of the colonies

Not counting the new ‘trusteeships’ acquired after the war, France possesses:

Ở châu Á, 450.000 km2; ở châu Phi, 3.541.000 km2; ở châu Mỹ, l08.000 km2 ; ở châu Đại Dương, 21.600 km2. Tổng cộng: 4.120.000 km2 (gần gấp tám lần diện tích nước Pháp) với một dân số là 47.000.000 người. Số dân đó nói hơn 20 thứ tiếng khác nhau. Tình trạng có nhiều tiếng nói khác nhau như vậy làm khó khăn cho công tác tuyên truyền, bởi vì trừ mấy thuộc địa cũ ra, thì một tuyên truyền viên người Pháp chỉ có thể nói chuyện với quần chúng bản xứ qua người phiên dịch mà thôi. Mà phiên dịch thì khó nói lên được hết ý, vả lại trong những xứ bị cai trị một cách độc đoán ấy, thật khó mà tìm ra được một người phiên dịch những lời lẽ cách mạng.

In Asia, 450,000 square kilometres, in Africa 3,541,000 square kilometres, in America, 108,000 square kilometres and in Oceania 21,600 square kilometres, or a total area of 4,120,000 square kilometres (eight times its own territory), with a population of 48,000,000 souls. These people speak over twenty different languages. This diversity of tongues does not make propaganda easy, for, except in a few old colonies, a French propagandist can make himself understood only through an interpreter. However, translations are of limited value, and in these countries of administrative despotism, it is rather difficult to find an interpreter to translate revolutionary speeches.

Lại còn những trở ngại khác nữa. Tuy người dân bản xứ ở tất cả các thuộc địa đều là những người bị áp bức và bóc lột như nhau, nhưng trình độ văn hoá, kinh tế và chính trị giữa xứ này với xứ khác lại rất khác nhau. Giữa An Nam với Cônggô, Máctiních hay Tân Đảo, hoàn toàn không giống nhau chút nào, trừ sự cùng khổ.

There are other drawbacks: though the natives of all the colonies are equally oppressed and exploited, their intellectual, economic and political development differs greatly from one region to another. Between Annam and the Congo, Martinique and New Caledonia, there is absolutely nothing in common, except poverty.

2. Tình trạng thờ ơ của giai cấp vô sản chính quốc đối với các thuộc địa. - Trong những luận cương về vấn đề thuộc địa, Lênin đã tuyên bố rõ rệt rằng “nhiệm vụ của công nhân ở các nước đi chiếm thuộc địa là phải giúp đỡ một cách tích cực nhất phong trào giải phóng của các nước phụ thuộc”. Muốn thế, công nhân ở chính quốc cần phải biết rõ thuộc địa là cái gì, phải biết những việc gì đã xảy ra ở thuộc địa, biết rõ nỗi đau khổ - hàng nghìn lần đau khổ hơn công nhân ở chính quốc - những người anh em của họ, những người vô sản thuộc địa phải chịu đựng.

2. The indifference of the proletariat of the mother country towards the colonies

In his theses on the colonial question, Lenin clearly stated that ‘the workers of colonizing countries are bound to give the most active assistance to the liberation movements in subject countries’. To this end, the workers of the mother country must know what a colony really is, they must be acquainted with what is going on there, and with the suffering - a thousand times more acute than theirs - endured by their brothers, the proletarians in the colonies. In a word, they must take an interest in this question.

Tóm lại là công nhân ở chính quốc phải quan tâm đến vấn đề thuộc địa.

Tiếc thay, một số đông chiến sĩ vẫn còn tưởng rằng, một thuộc địa chẳng qua chỉ là một xứ dưới đầy cát và trên là mặt trời, vài cây dừa xanh với mấy người khác màu da, thế thôi. Và họ hoàn toàn không để ý gì đến.

Unfortunately, there are many militants who still think that a colony is nothing but a country with plenty of sand underfoot and of sun overhead; a few green coconut palms and coloured folk, that is all. And they take not the slightest interest in the matter.

3. Tình trạng dốt nát của người dân bản xứ. - Trong tất cả các nước thuộc địa, ở cái xứ Đông Dương già cỗi kia cũng như ở xứ Đahômây trẻ trung này, người ta không hiểu đấu tranh giai cấp là gì, lực lượng giai cấp vô sản là gì cả, vì một lẽ đơn giản là ở đó không có nền kinh doanh lớn về thương nghiệp hay công nghiệp, cũng không có tổ chức công nhân. Trước con mắt người dân bản xứ, chủ nghĩa bônsêvích – danh từ này vì thường được giai cấp tư sản dùng đến luôn, nên đặc sắc hơn và mạnh nghĩa hơn - có nghĩa là: hoặc sự phá hoại tất cả, hoặc sự giải phóng khỏi ách nước ngoài. Nghĩa thứ nhất gán cho danh từ ấy làm cho quần chúng vô học và nhút nhát xa lánh chúng ta; nghĩa thứ hai thì dẫn họ đến chủ nghĩa quốc gia. Cả hai điều đó đều nguy hiểm cả. Chỉ có một số ít người trong nhân dân hiểu được thế nào là chủ nghĩa cộng sản. Nhưng số người thượng lưu ấy, - thuộc giai cấp tư sản bản xứ và là cột trụ của giai cấp tư sản thực dân, - cũng không thích thú gì việc chủ nghĩa cộng sản được người ta hiểu và được truyền bá rộng rãi cả. Trái lại, giống như con chó trong truyện ngụ ngôn, họ lại thích đeo cái vòng cổ để kiếm miếng xương của chủ. Nói chung, quần chúng căn bản là có tinh thần nổi dậy, nhưng còn rất dốt nát. Họ muốn giải phóng, nhưng họ chưa biết làm cách nào để đạt được mục đích ấy.

3. The ignorance of the natives

In colonized countries - in old Indo-China as well as in new Dahomey - the class struggle, and proletarian strength, are unknown factors for the simple reason that there are neither big commercial and industrial enterprises, nor workers’ organizations. In the eyes of the natives, Bolshevism - a word which is the more vivid and expressive because frequently used by the bourgeoisie - means either the destruction of everything or emancipation from the foreign yoke. The first sense given to the word drives the ignorant and timorous masses away from us; the second leads them to nationalism. Both senses are equally dangerous. Only a tiny section of the intelligentsia knows what is meant by communism. But these gentry, belonging to the native bourgeoisie and supporting the bourgeois colonialists, have no interest in the communist doctrine being understood and propagated. On the contrary, like the dog in the fable, they prefer to bear the mark of the collar and to have their piece of bone. Generally speaking, the masses are thoroughly rebellious, but completely ignorant. They want to free themselves, but do not know how to go about doing so.

4. Những thành kiến. - Vì giai cấp vô sản ở cả hai đằng đều không hiểu biết lẫn nhau, nên đã nảy ra những thành kiến. Đối với công nhân Pháp, thì người bản xứ là một hạng người thấp kém, không đáng kể, không có khả năng để hiểu biết được và lại càng không có khả năng hoạt động. Đối với người bản xứ, những người Pháp - mặc dầu họ là hạng người nào cũng đều là những kẻ bóc lột độc ác. Chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản không bỏ lỡ dịp lợi dụng sự nghi kỵ lẫn nhau đó và sự phân biệt đẳng hạng giả tạo về nòi giống đó để ngăn cản việc tuyên truyền và để chia rẽ những lực lượng đáng phải đoàn kết lại.

4. Prejudices

The mutual ignorance of the two proletariats gives rise to prejudices. The French workers look upon the native as an inferior and negligible human being, incapable of understanding and still less of taking action. The natives regard all the French as wicked exploiters. Imperialism and capitalism do not fail to take advantage of this mutual suspicion and this artificial racial hierarchy to frustrate propaganda and divide forces which ought to unite.

5. Đàn áp dã man. - Nếu bọn thực dân Pháp rất vụng về trong việc phát triển nền kinh tế ở thuộc địa, thì họ lại là những tay lão luyện trong nghề đàn áp dã man và trong việc chế tạo ra cái lòng trung thành bắt buộc. Những người như ông Găngđi và ông Đờ Valơra có lẽ đã lên thiên đàng từ lâu rồi nếu các ông ấy sinh ở một trong những thuộc địa của Pháp. Bị tất cả mọi thứ thủ đoạn thâm hiểm của các toà án quân sự và toà án đặc biệt vây xung quanh, một người chiến sĩ ở bản xứ khó lòng tiến hành việc giáo dục đồng bào bị áp bức và dốt nát của mình mà không sa vào nanh vuốt của các nhà đi khai hoá cho họ.

Trước những khó khăn ấy, Đảng phải làm gì?

Tăng cường công tác tuyên truyền của Đảng để khắc phục.

5. Fierceness of repression

If the French colonialists are unskillful in developing colonial resources, they are masters in the art of savage repression and the manufacture of loyalty made to measure. The Gandhis and the de Valeras would have long since entered heaven had they been born in one of the French colonies. Surrounded by all the refinements of courts martial and special courts, a native militant cannot educate his oppressed and ignorant brothers without the risk of falling into the clutches of his civilizers.

Faced with these difficulties, what must the Party do?

Intensify propaganda to overcome them.

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995

Source: Selected Works of Ho Chi Minh Vol. 1

Publisher: Foreign Languages Publishing House






No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn